Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 <br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
PHẪU THUẬT NỘI SOI SAU PHÚC MẠC VÀ MỔ MỞ CẮT THẬN <br />
ĐỂ GHÉP TỪ NGƯỜI CHO SỐNG TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY <br />
Châu Quý Thuận*, Trần Ngọc Sinh*, Chu Văn Nhuận*, Thái Minh Sâm*, Dư Thị Ngọc Thu*, <br />
<br />
<br />
<br />
Trần Trọng Trí*, Hoàng Khắc Chuẩn*, Nguyễn Thị Thái Hà* <br />
<br />
TÓM TẮT <br />
Đặt vấn đề và mục tiêu: Ghép thận là một trong những phương pháp điều trị thay thế hiệu quả nhất. Đối <br />
với người cho thận sống kỹ thuật mổ lấy thận để ghép có thể thực hiện bằng phẫu thuật mở hay phẫu thuật nội <br />
soi. Hiện nay trên thế giới tại các nước phát triển phẫu thuật nội soi chiếm ưu thế hơn và có xu hướng thay thế <br />
cho mổ mở kinh điển vì có nhiều ưu điểm, ít biến chứng và sự hồi phục nhanh sau mổ đối với người cho thận. <br />
Tại bệnh viện Chợ Rẫy (BVCR) ghép thận được thực hiện từ năm 1992, kỹ thuật mổ trong giai đoạn đầu là mổ <br />
mở, sau đó chuyển sang phẫu thuật nội soi sau phúc mạc hoàn toàn. Báo cáo này nhằm mục đích khảo sát đánh <br />
giá so sánh kết quả 2 kỹ thuật mổ của chúng tôi. <br />
Đối tượng ‐ phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả cắt ngang. Người được chọn mổ cho thận là những <br />
người có quan hệ gia đình với người nhận hoặc động cơ cho thận là nhân đạo. Tiêu chuẩn y học phải phù hợp với <br />
tiêu chuẩn cho ‐ nhận thận của Bộ Y tế quy định (thông qua Hội Đồng Ghép thận BVCR). Thời gian thực hiện <br />
từ tháng 12/1992 đến 12/2011.Tiêu chuẩn chọn bên để lấy thận là: 2 thận bình thường, chọn bên có chức năng <br />
(GFR: ước lượng qua độ thanh thải đồng vị phóng xạ) bằng hoặc kém hơn so với thận để lại hoặc chọn thận có sỏi <br />
nhỏ hay nang lành tính….Vị trí thận lấy và mạch máu thận đơn giản không phải là tiêu chuẩn ưu tiên. Kỹ thuật <br />
mổ thực hiện được chia thành 2 nhóm: mổ mở (MM) và nội soi sau phúc mạc (NSSPM). Khảo sát so sánh đối <br />
chiếu các biến số như: Thời gian mổ, thời gian thiếu máu nóng, biến chứng trong và sau mổ, thời gian dùng <br />
thuốc giảm đau, thời gian nằm viện, thời gian hồi phục chức năng thận ghép, biến chứng sau ghép, di chứng xa <br />
sau mổ. Đối với nội soi sau phúc mạc thực hiện với 3 trocar, lấy thận trực tiếp qua chỗ mở thành hông lưng giữa <br />
2 chân trocar (được tính toán trước cách 8cm). Rửa và bảo quản thận bằng dung dịch Euro‐Collins lạnh 40C. <br />
Sau đó, cho vào túi vô trùng bảo quản ở 40C chờ ghép. <br />
Kết quả: Có 219 trường hợp (TH) người cho được mổ lấy thận để ghép cho 218 người nhận (1 TH ghép 2 <br />
lần), gồm 99/219TH (45,20%) nam và 120/219TH (54,80%) nữ. Tuổi 43,4±8,89 tuổi (26‐63). BMI 22,23±3,0 <br />
kg/m2 (17,14 ‐ 35,41). Cùng huyết thống 214TH (97,7%). Máu mất không đáng kể trong cả 2 nhóm, không TH <br />
nào phải chuyển mổ mở hay mổ lại. Chức năng thận còn lại của người cho sau mổ: Creatinin‐huyết thanh <br />
1,10±0,22mg%. Chức năng thận ghép hoạt động tốt sau ghép. Creatinin‐huyết thanh của người nhận thận lúc <br />
ra viện: 1,18±0,21mg%. So sánh đối chiếu các biến số giữa 2 nhóm nội soi và mổ mở kết quả ghi nhận sau: Thời <br />
gian mổ: 165,35±50,34 phút (MM) so với 168,54±42,40 phút (NSSPM), p>0,05. Thời gian thiếu máu nóng: <br />
108,02±75,34 giây so với 273,90±84,81 giây, p