intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quá trình hình thành và phát triển của thành phố Tây Ninh – tỉnh Tây Ninh

Chia sẻ: Liễu Yêu Yêu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

18
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Quá trình hình thành và phát triển của thành phố Tây Ninh – tỉnh Tây Ninh" giới thiệu những nét cơ bản về quá trình hình thành và những biến đổi về hành chính của thành phố Tây Ninh qua các giai đoạn lịch sử, đồng thời khái quát một số đặc điểm đô thị của thành phố Tây Ninh. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quá trình hình thành và phát triển của thành phố Tây Ninh – tỉnh Tây Ninh

  1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THÀNH PHỐ TÂY NINH – TỈNH TÂY NINH Nguyễn Xuân Thắng1 1. Lớp CH20LS01. Email: xuanthang0@gmail.com TÓM TẮT Tây Ninh là vùng đất phiên dậu phía Tây Nam của Tổ quốc, có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng,nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, quá trình hình thành, phát triển đô thị ở Tây Ninh được xem là vấn đề mang tính thiết yếu trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam của đất nước. Nội dung bài viết giới thiệu những nét cơ bản về quá trình hình thành và những biến đối về hành chính của thành phố Tây Ninh qua các giai đoạn lịch sử, đồng thời khái quát một số đặc điểm đô thị của thành phố Tây Ninh. Từ đó, mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị phát triển và quản lý đô thị ở Tây Ninh thời gian tới. Từ khóa: Đô thị, hình thành, thành phố Tây Ninh, Tây Ninh. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Tây Ninh là cửa ngõ Tây Bắc của Thành phố Hồ Chí Minh, nằm ở vị trí cầu nối giữa Thành phố Hồ Chí Minh với thủ đô PhnômPênh (vương quốc Campuchia) và là một trong những tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có đường biên giới với Campuchia dài khoảng 220 km, có rừng rậm rộng lớn, liên hoàn với tỉnh Svay riêng, Kông pông chàm của Campuchia. Với vị trí chiến lược cực kì quan trọng đó, sự hình thành, phát triển của thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh có tác động rất lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, sự ổn định an ninh – chính trị không chỉ riêng với vùng đất Tây Ninh mà còn cả vùng đất Nam Bộ nói chung. Tuy nhiên, đến nay, các công trình nghiên cứu về quá trình hình thành, phát triển của thành phố Tây Ninh cùng với những đặc điểm của nó vẫn còn tương đối hạn chế. Với mong muốn khỏa lấp một phần vào khoảng trống đó, cũng như mong muốn thông qua bài viết, hy vọng đọc giả, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu tiếp tục có những công trình khoa học cụ thể, sâu sắc hơn về lĩnh vực này, tác giả chọn vấn đề “Quá trình hình thành và phát triển của Thành phố Tây Ninh – tỉnh Tây Ninh” để tìm hiểu và nghiên cứu. Bằng phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp logic kết hợp với phương pháp liên ngành, phân tích và tổng hợp, nguồn dữ liệu, thông qua bài viết, tác giả sẽ khái quát một cách cơ bản về quá trình hình thành và những đặc điểm của sự phát triển đô thị ở Thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh – một vùng đất ở biên giới phía Tây Nam của Tổ quốc. Trên cơ sở đó, bài viết sẽ mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị phát triển và quản lý đô thị ở Tây Ninh thời gian tới. 2. NỘI DUNG 2.1. Quá trình hình thành và những biến đổi về hành chính của thành phố Tây Ninh qua các giai đoạn lịch sử Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Minh: “Tây Ninh vốn là một vùng đất hoang vu, với tên gọi 51
  2. là Romdum Ray (Chuồng Voi). Nơi này vốn xưa kia chỉ có rừng rậm là nơi cư ngụ của các loài thú dữ như: voi, cọp, hổ, rắn….” (Huỳnh Minh, 2001). Trước thế kỷ XVII, Tây Ninh cũng như các vùng đất khác của Nam Bộ chưa được khai thác nhiều, dân cư còn rất thưa thớt, thậm chí là hoang vắng bóng người. Mùa xuân năm Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn cử Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý vùng đất phương Nam. Nguyễn Hữu Cảnh đã “lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh Trấn Biên (lỵ sở nay là thôn Phước Lư), lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn (quận sở nay gần Tân Đồn). Mỗi dinh lập ra một chức lưu thủ, cai bạ và ký lục để cai trị” (Trịnh Hoài Đức, 2005). Phủ Gia Định bấy giờ rất rộng chỉ riêng huyện Tân Bình đã bao gồm phần lớn thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Long An, tỉnh Tiền Giang và tỉnh Tây Ninh hiện nay. Như vậy, cùng với sự kiện năm Mậu Dần (1698), Tây Ninh đã chính thức được tích hợp về với Đại Việt và trực thuộc huyện Tân Bình, phủ Gia Định. Năm 1808, thời Gia Long, trấn Gia Định được đổi là Gia Định thành. Tại vùng đất Tây Ninh, vua Gia Long cho thiết lập các đạo Quang Hóa, Quang Phong, Thuận Thành đặt trực thuộc trấn Phiên An. Đến năm Minh Mạng thứ 13 (1832), vua Minh Mạng chia toàn Nam kỳ làm sáu tỉnh, với tổng cộng 18 phủ, 43 huyện. Vùng đất Tây Ninh thuộc trấn Phiên An và triều đình cho “đặt đạo Quang Hóa và các thủ sở Thuận Thành, Quang Phong, Quang Phục, Quang Uy, Kiên Uy để coi giữ; các trại Phiêm, Chàm quy phụ kể có hàng ngàn....”. Năm Minh Mạng thứ 17 (Bính Thân, 1836), chuẩn tấu lời tâu của đình thần Trương Minh Giảng và Trương Đăng Quế, vua Minh Mạng cho “đổi tên tỉnh Phiên An thành tỉnh Gia Định. Đổi An-Biên tổng đốc làm Định - Biên Tổng Đốc…đặt thêm phủ Tây Ninh, lãnh 2 huyện Tân Ninh và Quang Hóa”(Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006). Như vậy, năm Minh Mạng thứ 17 (năm 1836), phủ Tây Ninh chính thức được thành lập, gồm hai huyện Tân Ninh và Quang Hóa trực thuộc tỉnh Gia Định. Địa danh Tây Ninh với tư cách là một đơn vị hành chính cấp phủ lần đầu tiên có tên trên bản đồ hành chính Việt Nam. Sau khi tách 2 đạo Quang Phong Quang Hóa và đặt phủ Tây Ninh, 2 năm sau (1838), vua Minh Mạng đã cho xây dựng phủ thành Tây Ninh trên địa phận thôn Khương Ninh, huyện Tân Ninh (thành phố Tây Ninh ngày nay). Sách Đại Nam nhất thống chí miêu tả: “Tây Ninh phủ thành chu vi 188 trượng 8 thước 4 tấc, cao 7 thước, hào rộng 4 trượng, sâu 5 thước có 3 cửa, ở địa phận thôn Khương Ninh, huyện Tân Ninh. Năm Minh Mệnh thứ 19 (1838) xây đắp phủ thành” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006). Dựa vào mô tả này có thể thấy phủ thành Tây Ninh đã được xây dựng rất kiên cố, vị trí nằm ở trung tâm của thành phố Tây Ninh hiện nay. Với sự kiện phủ Tây Ninh được thành lập, lần đầu tiên địa danh “Tây Ninh” xuất hiện. Cái tên “Tây Ninh” ra đời mang theo khát vọng về một vùng biên giới phía Tây được an ninh mãi mãi. Điều này cho thấy vị thế quan trọng của vùng đất này trong chiến lược giữ vững biên giới, cũng như khẳng định quyền lực trong khu vực dưới thời hoàng đế Minh Mạng (cầm quyền 1820-1841). Ngày 20/12/1899, chính quyền thực dân Pháp ban hành nghị định đổi các hạt, tiểu khu trong các khu hành chính ở Nam kỳ và tại các vùng thuộc sở hữu của Pháp ở Đông Dương thành tỉnh, bắt đầu từ ngày 01/01/1900. Theo nghị định này, tiểu khu Tây Ninh được đổi thành tỉnh Tây Ninh. Qua gần 40 năm dưới thời Pháp thuộc, sau nhiều lần thay đổi, từ ngày 01/01/1900, Tây Ninh trở thành đơn vị hành chính cấp tỉnh. 52
  3. Ngày 9 tháng 12 năm 1942, Thống đốc Nam kỳ ban hành Nghị định 8345 ấn định ranh giới Tây Ninh. Sau Cách mạng Tháng Tám tỉnh Tây Ninh vẫn giữ nguyên ranh giới cũ. Năm 1950, cắt một phần đất của Thái Hiệp Thạnh cũ thành lập thị xã Tây Ninh, nhưng do chưa đủ điều kiện hoạt động nên sau đó giải thể. Sau hiệp định Giơnevơ năm 1954, thành lập lại Thị xã Tây Ninh trên địa bàn cũ. Theo sách lịch sử địa phương “Thị xã - 30 năm đấu tranh cách mạng” (do Ban Tuyên giáo Thị uỷ sưu tầm, biên soạn sơ thảo, xuất bản năm 1991), ngay từ xa xưa, vùng đất thành phố Tây Ninh là trung tâm của đạo Quang Phong, sau đó thuộc phủ Tây Ninh, tỉnh Gia Định. Ngày 1.1.1950, chính quyền Thị xã được thành lập, do đồng chí Võ Văn Truyện là Bí thư Đảng bộ kiêm Chủ tịch Uỷ ban Hành chính. Thị xã lúc này chỉ giới hạn trong phạm vi xã Thái Hiệp Thạnh, bao gồm phần thị tứ của 3 xã Thái Bình, Hiệp Ninh và Ninh Thạnh (BTNO, 2016). Tháng 5/1951, Trung ương Cục miền Nam chia toàn Nam bộ thành hai Phân Liên khu: Phân Liên khu miền Tây và Phân Liên khu miền Đông, đồng thời sáp nhập một số tỉnh. Tây Ninh cùng hai huyện Hóc Môn, Gò Vấp (tỉnh Gia Định) và hai huyện Đức Hoà Thành, Trung Huyện (tỉnh Chợ Lớn) sáp nhập thành tỉnh Gia Định Ninh. Cũng trong năm này, huyện Dương Minh Châu được thành lập thuộc tỉnh Gia Định Ninh, gồm 5 xã: Ninh Thạnh, Thạnh Bình, Chơn Bà Đen, Định Thành và Phước Ninh. Sau Hiệp định Genève, tháng 8/1954, tỉnh Tây Ninh được tái lập lại như trước. Cùng với đó, Thị xã Tây Ninh cũng được thành lập trên phần đất xã Thái Hiệp Thạnh. Huyện Toà Thánh, nay là huyện Hoà Thành cũng ra đời. Năm 1960, huyện Toà Thánh sáp nhập về huyện Dương Minh Châu, rồi tái lập sau vài tháng. Sau ngày 30/4/1975, Tây Ninh có 07 huyện, 01 thị xã với 73 xã, gồm: Trảng Bàng, Gò Dầu, Bến Cầu, Phú Khương (Toà Thánh), Châu Thành, Dương Minh Châu, Tân Biên và Thị xã Tây Ninh. Riêng thị xã Tây Ninh chỉ có ba phường 1, 2, 3 và xã Bình Minh, với diện tích 3.408 ha, dân số khoảng 37.000 người. Năm 1989, thành lập thêm huyện Tân Châu trên phần đất của 02 huyện: Tân Biên và Dương Minh Châu. Năm 2001, theo Nghị định số 49/2001/NĐ-CP của Chính phủ mở rộng địa giới hành chính thị xã Tây Ninh, các xã phía bắc của huyện Hòa Thành (Tân Bình, Ninh Sơn, Ninh Thạnh, Thạnh Tân, Hiệp Ninh) và một phần của xã Hiệp Tân (với 7.815 nhân khẩu của 02 ấp Hiệp Định và Hiệp An) tách khỏi Hoà Thành, sáp nhập về Thị xã Tây Ninh. Năm 2012, Bộ Xây dựng có Quyết định số 1112/QĐ-BXD, công nhận thị xã Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh, là đô thị loại III. Năm 2013, Chính phủ ra Nghị quyết 135/NQ-CP chuyển 2 xã Ninh Sơn và Ninh Thạnh thành 2 phường có tên tương ứng và chuyển thị xã Tây Ninh thành thành phố Tây Ninh. Ngày 21 tháng 04 năm 2016, khu vực thị trấn Hòa Thành mở rộng được công nhận là đô thị loại IV. Ngày 17 tháng 5 năm 2016, Bộ Xây dựng đã ban hành Quyết định số 432/QĐ-BXD về việc công nhận thị trấn Trảng Bàng là đô thị loại IV. Ngày 27 tháng 12 năm 2018, toàn bộ huyện Hòa Thành (gồm thị trấn Hòa Thành và 7 xã) được công nhận là đô thị loại IV. 53
  4. Ngày 28 tháng 12 năm 2018, Bộ Xây dựng đã ban hành quyết định số 1709/QĐ-BXD về việc công nhận huyện Trảng Bàng là đô thị loại IV. Ngày 10 tháng 1 năm 2020, thành lập thị xã Hòa Thành và thị xã Trảng Bàng trên cơ sở 2 huyện có tên tương ứng. Hiện tại, tỉnh Tây Ninh có 08 huyện và 01 thành phố thuộc tỉnh, gồm: Trảng Bàng, Gò Dầu, Bến Cầu, Hoà Thành, Châu Thành, Dương Minh Châu, Tân Biên, Tân Châu và Thành phố Tây Ninh, với 7 phường, 8 thị trấn và 80 xã. 2.2. Đặc điểm đô thị của thành phố Tây Ninh 2.2.1. Sơ lược không gian đô thị của thành phố Tây Ninh 2.2.1.1. Vị trí địa lý Là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội quan trọng nhất của tỉnh Tây Ninh, Thành phố Tây Ninh cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh khoảng 100 km về phía Tây Bắc, có vị trí chiến lược quan trọng cả về kinh tế lẫn chính trị - xã hội, là nơi giao nhau giữa các quốc lộ 22B, đường đi đến cửa khẩu Mộc Bài và Xa Mát. Thành phố Tây Ninh (Thành phố trực thuộc tỉnh) nằm ở trung tâm tỉnh Tây Ninh, có vị trí địa lý: • Phía đông giáp huyện Dương Minh Châu • Phía tây giáp huyện Châu Thành • Phía nam giáp thị xã Hòa Thành • Phía bắc giáp huyện Tân Biên và Tân Châu. Thành phố Tây Ninh có 10 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 7 phường: 1, 2, 3, 4, Hiệp Ninh, Ninh Sơn, Ninh Thạnh và 3 xã: Bình Minh, Tân Bình, Thạnh Tân. Trên địa bàn thành phố hiện có 50 ấp, khu phố. Hiện nay 3/3 xã của thành phố đều đạt chuẩn xã nông thôn mới. 2.2.1.2. Địa hình, khí hậu Tây Ninh có dáng địa hình nghiêng dần theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, dộ cao trung bình từ 8-10m, với đặc trưng ở phía bắc có núi Bà Đen cao 986m, còn lại địa hình tương đối bằng phẳng, thuận lợi cho phát triển công nghiệp, cơ sở hạ tầng cũng như phát triển sản xuất nông nghiệp. Thành phố Tây Ninh có khí hậu đặc trưng vùng Đông Nam Bộ, thời tiết tương đối ôn hoà, có 2 mùa gió chính là gió Đông Bắc và gió Tây Nam, đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo ẩm. Mùa khô bắt đầu tháng 11 đến tháng 4 năm sau, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10 năm sau, tháng 12 nhiệt độ có thể giảm dưới 20 °C và thường duy trì ở mức 17 đến 23 °C vào ban đêm nhưng vào ban ngày có thể lên 30 đến 33 °C làm cho biên độ nhiệt ngày và đêm cao và nhiệt độ cao nhất tháng 4 lên đến 39 °C . Khí hậu Tây Ninh tương đối ôn hòa, chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp đa dạng, đặc biệt là các loại cây công nghiệp, ăn quả, dược liệu và chăn nuôi gia súc gia cầm trên quy mô lớn. 2.2.1.3. Thủy văn: Thành phố có rạch Tây Ninh chảy qua với nguồn nước được cung cấp chủ yếu từ hệ thống các suối Trà Phí, Lâm Vồ, suối Đà và một phần nhỏ từ hệ thống sông Vàm 54
  5. Cỏ Đông, chế độ nước phân hóa theo mùa, dồi dào về mùa mưa, cạn kệt về mùa khô, gây nên tình trạng ngập úng và khô hạn, nhất là khu vực phía bắc Thị xã, ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống của nhân dân các xã Bình Minh, Tân Bình, Thạnh Tân…. 2.2.1.4. Cấu trúc một số khu vực đô thị ở Tây Ninh và chức năng Cấu trúc một số khu vực * Trung tâm Thành phố (lõi thương mại) Trung tâm thành phố là chức năng chính trong khu vực đô thị Tây Ninh, lõi trung tâm thương mại gồm hai phần chủ yếu như sau: + Phía Đông của rạch Tây Ninh: sẽ điều tiết các khu thương mại chính trên đất còn trống của các khu chức năng hành chính tỉnh. + Phía Tây rạch Tây Ninh: nơi có sẵn đặc thù đô thị sẽ được giữ lại và được củng cố các hoạt động liên quan du lịch như nhà hàng, quán café, đồ lưu niệm, khách sạn nhỏ, khu này được nối với khu ưu tiên cho người đi bộ. * Trung tâm hành chính tỉnh và Thành phố: Phát triển một trung tâm hành chính mới nằm gần đại lộ Bời Lời và kênh Tây, và kéo dài đến tỉnh lộ 784. Khu trung tâm hành chính sẽ hình thành khu phát triển đô thị hiện đại kết hợp với các dịch vụ giáo dục, giải trí, xã hội, thương mại và cư trú. * Không gian xanh - Các khu bảo vệ cảnh quan là một yếu tố quan trọng trong việc tạo ra hình ảnh “ốc đảo đô thị” mạnh mẽ và đặc trưng cho Thành phố Tây Ninh, gồm chức năng sau: + Chức năng vành đai xanh phi đô thị tách khỏi chức năng đô thị. + Chức năng giải trí, đi dạo và khu vực vui chơi giải trí. - Rừng đô thị và các khu giải trí: một hệ thống công viên rừng đô thị thông với khu vực vui chơi giải trí. - Khu du lịch sinh thái và khu nông nghiệp chuyên canh: có chức năng là một phần mở rộng của các khu vực bảo vệ cảnh quan, cho phép lưu giữ và bảo vệ các khu vực được sử dụng mục đích chuyên nông như trồng mãng cầu. - Các khu vực nông nghiệp hiện hữu: chức năng cảnh quan của Thành phố, cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến thực phẩm. * Trung tâm du lịch: Du lịch là một trong những cơ hội phát triển kinh tế cho Thành phố như: núi Bà Đen, các di tích chiến tranh cách mạng, các khu vực bờ rạch Tây Ninh, khu du lịch Ma Thiên Lãnh, khu du lịch Long Điền Sơn, khu du lịch sinh thái Bến Trường Đổi, các vùng đất mặt nước phía Bắc và phía Nam được kết nối với trung tâm thành phố bởi các tuyến đường đô thị và hệ thống giao thông công cộng. Chức năng đô thị Là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội quan trọng nhất của tỉnh Tây Ninh, Thành phố Tây Ninh cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh khoảng 100 km về phía Tây Bắc, có vị trí chiến lược quan trọng cả về kinh tế lẫn chính trị - xã hội, là nơi giao nhau giữa các quốc lộ 22B, đường đi đến cửa khẩu Mộc Bài và Xa Mát, có có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của Tây Ninh nói riêng và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói chung. 55
  6. Tây Ninh còn nằm trên cửa ngõ đường bộ rất quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam sang Campuchia và khu vực ASEAN. Một thuận lợi nữa là tỉnh có địa hình, địa chất thuận lợi để phát triển hạ tầng giao thông đường bộ (chi phí đầu tư thấp). 2.2.2. Kinh tế đô thị Sau 10 năm được công nhận đô thị loại III theo Quyết định số 1112/QĐ-BXD ngày 12/12/2012 của Bộ Xây dựng, thành phố Tây Ninh đã có bước chuyển mình mạnh mẽ, vươn lên gặt hái nhiều thành tựu kinh tế - xã hội quan trọng và ngày càng khẳng định vị thế trung tâm chính trị - hành chính, kinh tế, văn hóa của tỉnh. Đây cũng chính là nền tảng vững chắc để toàn hệ thống chính trị thành phố nỗ lực phấn đấu đạt chuẩn đô thị loại II và hướng tới đô thị loại I trong tương lai. Những năm qua, Thành phố cùng các sở, ngành của tỉnh tăng cường xúc tiến kêu gọi đầu tư đối với các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, đồng thời quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, hộ kinh doanh hoạt động. Tính đến năm 2015, trên địa bàn Thành phố có gần 700 doanh nghiệp, 171 tổ hợp tác liên kết sản xuất, 11 hợp tác xã và 4 quỹ tín dụng nhân dân; tạo việc làm cho hàng ngàn lao động và đóng góp quan trọng vào nguồn thu ngân sách của địa phương. Trong 5 năm (2010-2015), có 41 nhà đầu tư đến thành phố Tây Ninh tìm hiểu và đăng ký đầu tư vào các dự án trên địa bàn, trong đó có 21 nhà đầu tư được tỉnh đồng ý chủ trương, cấp giấy chứng nhận đầu tư và đã có 10 dự án triển khai, đi vào hoạt động với tổng vốn đăng ký 2.700.000 USD và 456,73 tỷ đồng. Giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng tăng bình quân hằng năm 14,28%. Công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng, nhất là công nghiệp chế biến nông sản, mía, mì, cao su, hạt điều. Các nghề truyền thống tiếp tục duy trì và phát triển. Năm 2014, UBND tỉnh công nhận 3 nghề truyền thống trên địa bàn thành phố Tây Ninh gồm nghề gò nhôm ở phường Hiệp Ninh, nghề mộc gia dụng ở phường IV và nghề chằm nón lá ở phường Ninh Sơn. Nghề truyền thống không chỉ tạo việc làm cho người dân, mà còn là nét đẹp văn hóa truyền thống của địa phương. Thương mại - dịch vụ tiếp tục phát triển, nhiều siêu thị, chợ được hình thành như Siêu thị Co.opMart, Siêu thị điện máy Chợ Lớn… góp phần cung ứng đầy đủ hàng hóa cho người tiêu dùng, bình ổn giá cả thị trường và thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển. Dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải, bưu chính - viễn thông phát triển nhanh về số lượng và chất lượng (BTNO, 2016). Năm 2018, lao động có việc làm ở thành thị là 143,9 nghìn lao động, chiếm khoảng 77,15% tổng dân số thành phố. Trong đó, với lợi thế về phát triển du lịch, thương mại dịch vụ và công nghiệp, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp toàn thành phố đạt 82,77%. Xét theo vị thế việc làm, thị trường lao động Tây Ninh có nhiều chuyển biến tích cực. Tỷ trọng lao động làm công hưởng lương và chủ cơ sở tăng, trong khi tỷ trọng lao động tự làm và lao động hộ gia đình giảm trong 5 năm qua. Số lao động làm công hưởng lương và chủ cơ sở đã tăng từ 311,1 nghìn người (2014) lên 363,8 nghìn người (2018), tăng 4,6%. Số lao động tự làm và lao động hộ gia đình giảm từ 320,3 nghìn người (2014) xuống còn 312,1 nghìn người (2018), giảm 4,6 điểm %. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nghề nghiệp theo hướng ngày một tiến bộ hơn. Tỷ trọng lao động giản đơn đã giảm nhanh, từ 39,9% năm 2017 xuống 35,4% năm 2018, giảm 4,42 điểm %. Nhóm lao động có kỹ thuật trong Nông – Lâm – Thủy sản cũng giảm từ 5,4% năm 2017 xuống còn 2,2% năm 2018, giảm 3,2 điểm %. Ngược lại, lao 56
  7. động có chuyên môn kĩ thuật bậc trung trở lên tăng từ 7% năm 2017 lên 7,3% năm 2018, tăng 0,3 điểm %. Lao động ở các nhóm nghề còn lại cũng có xu hướng tăng. Trong những năm qua, chuyển dịch cơ cấu việc làm của ở thành phố Tây Ninh khá tích cực theo hướng giảm mạnh tỷ trọng việc làm trong ngành nông nghiệp và tăng tỷ trọng việc làm ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Năm 2014, tỷ trọng việc làm trong ngành Nông – Lâm – Thủy sản là 42,2% đã giảm xuống còn 29% năm 2018. Ngược lại, tỷ trọng việc làm trong ngành công nghiệp đã tăng từ 27,1% năm 2014 lên 34,7% năm 2018 và ngành dịch vụ tăng từ 30,6% năm 2014 lên 36,3% năm 2018. Những năm gần đây, kinh tế Tây Ninh phát triển nhanh với tốc độ tăng trưởng khá tốt. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2011 – 2020 khoảng 15,0 – 15,5%. Trong đó nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng bình quân 5,5 – 6,0%, công nghiệp và xây dựng tăng bình quân khoảng 20,0 – 21,0%, khu vực dịch vụ khoảng 14,7 – 15,2%. Theo định hướng phát triển đô thị Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050, thành phố Tây Ninh là đô thị quan trọng nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, một cực tăng trưởng chủ đạo trong hệ thống đô thị việt Nam với Thành phố Hồ Chí Minh, là đô thị động lực chính. Đô thị này còn nằm trong vùng đối trọng phát triển kinh tế phía Bắc, định hướng đến năm 2025 sẽ nâng lên đô thị loại II. 2.2.3. Xã hội và văn hóa đô thị 2.2.3.1. Dân số, đặc điểm dân số Theo Tổng cục thống kê, Thành phố Tây Ninh có diện tích khoảng 139,92 km² được tổ chức thành 7 phường và 3 xã với tổng dân số cuối năm 2019 là 257.076 người, trong đó dân số thường trú là 193.740 người, dân số quy đổi là 63.370 người. Dân số khu vực nội thành là 212.799 người. Mật độ dân số trung bình toàn đô thị đạt 1.837 người/ km². Phân bố dân cư không đồng đều giữa các vùng, theo thống kê từ năm 2011, dân cư phần lớn tập trung ở khu vực nội thị ở các phường IV (5476 người/ km²), phường Hiệp Ninh (5.427 người/km²), phường III (3.209 người/km²). Các xã có mật độ dân cư rất thấp là Thạnh Tân (213 người/km²), Tân Bình (308 người/km²). Chênh lệch mật độ dân số tới 25 lần. Trên địa bàn Thành phố hiện có 08 dân tộc anh em cùng chung sống, bao gồm dân tộc Kinh, Khơme, Chăm, Hoa, Tàmun, Mường, Tày, Nùng. Trong đó, chủ yếu là đồng bào dân tộc Kinh. 2.2.3.2. Văn hóa đô thị Cùng với quá trình phát triển và hội nhập kinh tế toàn cầu của đất nước, xây dựng văn hóa đô thị ở các đô thị nước ta nói chung và thành phố Tây Ninh nói riêng trở thành một trong những nội dung cơ bản của sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa đã và đang làm thay đổi tập quán kinh doanh, sản xuất của người dân đô thị theo hướng công nghiệp hóa, đa thành phần, đa dạng dịch vụ theo kinh tế thị trường. Sự biến đổi văn hóa sản xuất, kinh doanh đang thúc đẩy nhanh quá trình dân chủ trong lĩnh vực văn hóa, xác lập ngày càng đầy đủ hơn các quyền và nghĩa vụ của cư dân và các nhóm dân cư đô thị trong sáng tạo, phát huy, bảo tồn và hưởng thụ văn hóa, giá trị văn hóa. Người dân đô thị ngày càng chú trọng đến chất lượng các loại hình dịch vụ văn hóa, có nhiều điều kiện để chọn lựa cách thức hưởng thụ giá trị văn hóa khác nhau. 57
  8. Ở thành phố Tây Ninh, trong tổ chức đời sống văn hóa, cộng đồng cư dân đô thị đã cơ bản khắc phục được tác phong sản xuất nhỏ, trì trệ, luộm thuộm, manh mún; hình thành nên tác phong công nghiệp hiện đại; xây dựng được ý thức chấp hành pháp luật, ý thức công dân và ý thức cá nhân. Tuy nhiên, sự tác động của phương thức sản xuất kinh doanh trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề về văn hóa không phù hợp với văn hóa dân tộc như các loại hình văn hóa “trái luồng”, độc hại: sách báo, băng đĩa, vũ trường, internet, báo chí, xuất bản lậu…. Tình trạng văn hóa đọc, viết đang bị mai một là một ví dụ tiêu biểu về phong cách sống của cư dân đô thị hiện đại, đặc biệt đối với một bộ phận không nhỏ của thế hệ thanh thiếu niên hiện nay. Đối với cư dân đô thị, kinh tế thị trường thậm chí đã làm thay đổi thế giới quan, nhân sinh quan, tình cảm và tâm lý của họ. Về mặt tích cực, kinh tế thị trường làm thay đổi thái độ đối với lao động của người thành thị: tất cả phải vươn ra thị trường, tất cả phải kiếm được việc làm, phải có thu nhập, không trông chờ, ỷ lại vào sự bao cấp của nhà nước và sự bố thí của xã hội. Thái độ đối với gia đình, bạn bè, xã hội cũng có sự thay đổi theo hướng hiện đại, đó là sự thông cảm, sẻ chia và tôn trọng tự do cá nhân. Đối mặt với những thách thức cùng với những cám dỗ, người dân thành phố Tây Ninh đã vượt qua được tính ích kỷ, tự ti của người nông dân và tiểu thương trước kia, vượt qua được các ràng buộc bởi lễ giáo phong kiến, phong tục cổ hủ…. Nhân cách văn hóa của người dân đô thị trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập đã và sẽ tiếp tục được hình thành theo hướng tích cực nhiều hơn, có nhiều đặc trưng khác với nhân cách văn hóa truyền thống của người Việt Nam. Những giá trị cơ bản và những biểu hiện của văn hóa đô thị đang chiếm một vị trí ưu thế trong đời sống văn hóa đô thị ở thành phố Tây Ninh hiện nay. Những giá trị đó vẫn hiện diện trong cuộc sống đô thị hàng ngày, và là cái đích để người dân Tây Ninh hướng đến để hoàn thiện, để biến chúng thành động lực phát triển của toàn xã hội nói chung và xã hội đô thị ở Tây Ninh nói riêng. Việc xây dựng văn hóa đô thị sẽ góp phần quan trọng cho sự phát triển văn hóa xã hội đất nước nói chung và thành phố Tây Ninh được bền vững. 2.2.4. Hạ tầng đô thị 2.2.4.1. Hạ tầng giao thông Trên địa bàn Thành phố quản lý hiện nay có 35 tuyến đường chính có tổng chiều dài khoảng 65,95km, với kết cấu chủ yếu là bê tông nhựa và cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh. Trên địa bàn Thành phố có các tuyến đường Quốc lộ, Tỉnh lộ chạy ngang qua như: QL22B, ĐT785, ĐT784, ĐT793, Đường Trần Văn Trà,…bên cạnh đó còn các tuyến đường hẻm nối liền các tuyến đường chính nói trên với kết cấu chủ yếu là sỏi đỏ. Hệ thống đường bộ ở thành phố Tây Ninh hội tụ nhiều tuyến đường liên tỉnh quan trọng nối kết các trung tâm kinh tế, văn hóa, du lịch thuận lợi cho thành phố Tây Ninh trong giao lưu liên kết phát triển nhiều mặt. Đặc biệt tuyến xe bus Thành phố đi Gò Dầu; Cửa khẩu Mộc Bài, Núi Bà, Khu Kinh tế cửa khẩu Xa-Mát - Tân Biên… đã góp phần phát triển giao thông công cộng, văn minh đô thị. Bên cạnh các tuyến đường, ở Thành phố Tây Ninh hiện có 07 cây cầu chính có tổng chiều dài là 381m gồm: cầu Trà phí, cầu Gió, cầu Quan, cầu Mới, cầu K21, cầu Thái Hòa, cầu Yết Kiêu, với kết cấu chủ yếu là bê tông cốt thép. 58
  9. Hầu hết các tuyến đường chính của Thành phố đều có đèn chiếu sáng công cộng phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân về đêm. Bên cạnh đó Thành phố cũng đang quản lý vận hành các hệ thống đèn tín hiệu giao thông, đèn cảnh báo giao thông nằm trên địa bàn. Ngoài ra, hệ thống giao thông của tỉnh còn có các trục hướng tâm kết nối các huyện với thành phố Tây Ninh, các trục kết nối các vùng nguyên liệu với nhà máy, các khu công nghiệp... Bên cạnh đó, giao thông đường thuỷ nội địa của tỉnh cũng tương đối thuận lợi với 2 tuyến sông Sài Gòn và Vàm Cỏ Ðông kết nối trực tiếp với thành phố Hồ Chí Minh đến các cảng Sài Gòn, cảng Hiệp Phước và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, sông Vàm Cỏ Ðông chạy dọc tỉnh từ Bắc xuống Nam và có thể khai thác vận tải với phương tiện sà lan khoảng 2.000 tấn. 2.2.4.2. Hạ tầng viễn thông Hạ tầng mạng viễn thông có độ phủ tương đối tốt, công nghệ tiên tiến, hiện đại, đảm bảo thông tin liên lạc trong nước và quốc tế, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị địa phương, đáp ứng được nhu cầu phát triển thị trường; đảm bảo cung cấp các dịch vụ với chi phí phù hợp và độ tin cậy cao như mạng lưới dữ liệu thông tin tốc độ cao, hạ tầng mạng lưới băng thông rộng (MAN) cho thành phố theo mô hình đa dịch vụ…; hạ tầng mạng viễn thông có khả năng nâng cấp, cung cấp các dịch vụ mới. Hạ tầng mạng thông tin di động phát triển tương đối hoàn thiện, phủ sóng tới hầu hết các khu vực dân cư trên địa bàn tỉnh với tổng số 1.168 vị trí cột ăng ten thu phát sóng, bán kính phục vụ bình quân 1,33 km/cột. Hạ tầng mạng cáp trên địa bàn tỉnh phát triển cơ bản đã đáp ứng được đầy đủ các nhu cầu về sử dụng dịch vụ của người dân. Cáp quang hóa mạng cáp viễn thông bước đầu được triển khai, đáp ứng nhu cầu phát triển trong tương lai. Mạng di động có tỷ lệ sử dụng chung cơ sở hạ tầng giữa các doanh nghiệp khá cao đạt khoảng 25%. Sử dụng chung cơ sở hạ tầng sẽ tiết kiệm được chi phí đầu tư và tài nguyên đất xây dựng hạ tầng. Tỷ lệ ngầm hóa mạng cáp viễn thông đạt 22% cao so với các tỉnh trên cả nước. 2.2.4.3. Các cơ sở hạ tầng khác - Từ năm 2008, Sở Xây dựng bàn giao cho Thành phố quản lý mảng cây xanh, công viên trên địa bàn. Thành phố hiện có 1.928 cây viết với tuổi thọ từ 7-10 năm. 1.787 cây dầu có tuổi thọ trung bình từ 6-8 năm. 494 cây sao. 140 cây xà cừ tuổi thọ trung bình từ 35-40 năm. Bên cạnh đó còn có các loại cây như: Bằng lăng, phượng vĩ, giá tỵ, bạch đàn, móng bò, hoàng nam, liêm, cây xanh và cỏ kiểng các loại... Các loại cây trên hiện được duy trì và phát triển tốt tạo cảnh quan, bóng mát cho Thị xã. Chính những thay đổi đột phá về hạ tầng đã thúc đẩy sự tăng tốc và đột phá về mặt bằng giá mới của bất động sản Tây Ninh, thu hút sự chú ý của những ông lớn bất động sản như Vingroup, Sungroup và một số công ty khác như Công ty TNHH Vm Toàn Cầu… Những lợi thế về hạ tầng đô thị ở trên giúp thành phố Tây Ninh phát huy cao nhất tiềm năng, lợi thế của tỉnh, nhất là lợi thế tiếp giáp Thành phố Hồ Chí Minh và nằm trên trục đường xuyên Á, phát triển theo hướng đón đầu quá trình chuyển dịch công nghiệp từ các địa phương khác trong vùng, thiết lập khu công nghiệp và dân cư hỗ trợ cho Thành phố Hồ Chí Minh. Đẩy mạnh phát triển kinh tế biên mậu. Xây dựng đồng bộ các khu kinh tế cửa khẩu, bao gồm cả hệ 59
  10. thống kho ngoại quan, cụm kho lưu hàng tạm nhập tái xuất, bãi kiểm hóa... nhằm phát triển mạnh quan hệ buôn bán, xuất nhập khẩu với Cam-pu-chia và các nước khác trong khu vực. 2.3. Một số kiến nghị và giải pháp phát triển, quản lý đô thị ở Tây Ninh thời gian tới 2.3.1. Một số kiến nghị Thứ nhất, cần xây dựng được chiến lược quản lý đô thị phù hợp với mục tiêu quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở Tây Ninh. Tầm nhìn phải được mở rộng và gắn với tầm nhìn của khu vực và quốc tế, hướng tới tương lai, hiện đại nhưng vẫn giữ gìn và phát huy được bản sắc độc đáo của văn hóa dân tộc, vùng miền. chống xu hướng lai căng, lắp ghép xô bồ, thiếu định hướng về quy hoạch và thẩm mỹ. Cần giáo dục ý thức trân trọng, bảo vệ, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa hiện có do lịch sử để lại, kế thừa và xây dựng các giá trị văn hóa mới đáp ứng cho yêu cầu phát triển ngày càng mạnh mẽ của từng đô thị. Thứ hai, chiến lược phát triển và quản lý đô thị phải tạo ra sự thống nhất và đồng thuận giữa các cơ quan có chức năng quản lý cùng với tính kỷ luật, tính chủ động của người dân tham gia vào thực hành chức năng xã hội của mình. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý, sự hợp tác mang tính liên ngành sẽ tạo nên hợp lực để thực hiện mục tiêu quản lý một cách có hiệu quả. Thứ ba, đổi mới công tác tuyển dụng, đề bạt và sử dụng cán bộ lãnh đạo, quản lý. Cần công khai hóa và dân chủ hóa trong đánh giá, đề bạt và sử dụng cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt và các đoàn thể chính trị - xã hội. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý phải là đại diện về trí tuệ, tài năng và đạo đức của nhân dân đô thị trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đô thị ở Tây Ninh. Điều quan trọng hiện nay là thu hút tài năng và sử dụng tài năng trong lãnh đạo quản lý các cấp ở đô thị. Công tác đào tạo và quy hoạch phải đi trước và có sự chuẩn bị trước để nâng cao tầm nhìn, nâng cao trình độ tư duy khoa học cũng như kỹ năng quản lý. Cần thường xuyên tổ chức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, bồi dưỡng kiến thức mới, trao đổi kinh nghiệm quốc tế để nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành của đô thị. Thứ tư, tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển ở các đô thị phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phát triển bền vững, giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc. Xây dựng và hoàn thiện thiết chế quản lý có vai trò quan trọng, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý. Mô hình quản lý phải đảm bảo sự thống nhất khoa học và tính thực tiễn, tính hệ thống và tính toàn diện, tính năng động và hiệu qủa đáp ứng tốt nhiệm vụ xây dựng và phát triển đô thị văn minh, hiện đại. 2.3.2. Một số giải pháp Thứ nhất, chú trọng xây dựng và phát triển nền giáo dục - đào tạo phát triển theo hướng xã hội hoá, chuẩn hóa và hiện đại hóa tạo ra một xã hội học tập mà ở đó trình độ dân trí, trình độ học vấn, trình độ khoa học, trình độ thẩm mĩ phải đạt tới trình độ cao. Xây dựng khoa học - công nghệ ngang tầm sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và phát triển công nghệ thông tin trở thành ngành mũi nhọn, trong đó việc xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao, có tay nghề giỏi cho các ngành trọng điểm, lĩnh vực công nghệ cao với các chuyên gia đầu đàn, giỏi về quản lý và chuyển giao công nghệ cũng như những nhà quản lý khoa học tầm cỡ có ý nghĩa quyết định, đóng vai trò vừa là nền tảng, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đô thị ở Tây Ninh. 60
  11. Thứ hai, gắn quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội với hoàn thiện quy hoạch không gian đô thị đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của cư dân đô thị trên cơ sở xây dựng được các thiết chế văn hóa đô thị phù hợp. Đồng thời, xây dựng lối sống, nếp sống văn hóa đô thị văn minh trên cơ sở kế thừa lối sống, nếp sống tốt đẹp của văn hóa truyền thống dân tộc, tiếp thu có chọn lọc lối sống văn minh nhân loại, khắc phục xu hướng đoạn tuyệt với giá trị truyền thống và xu hướng “Tây hoá” trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Cần rà soát các quy hoạch chi tiết các khu vực nội đô lịch sử, khu đô thị cũ trong đó phân tích, đánh giá và làm rõ hệ số sử dụng đất, mật độ cư trú, quỹ nhà ở… tương ứng với cung cấp dịch vụ hạ tầng đô thị. Rà soát, sửa đổi bổ sung và sớm ban hành quy chuẩn kỹ thuật quy hoạch xây dựng trong quy định cụ thể về cải tạo các khu đô thị cũ, đô thị trung tâm. Quy hoạch bền vững nên được ưu tiên đi trước một bước để định hướng và đảm bảo tính đồng bộ trong quá trình xây dựng phát triển cũng như cải tạo chỉnh trang đô thị ở Tây Ninh. Bên cạnh đó, quy hoạch phải không gây lãng phí tài nguyên đất và các tài nguyên khác, xây dựng hệ thống giao thông tiết kiệm, lấy giao thông công cộng là chính, nâng cao hệ số sử dụng đất. Quy hoạch cũng phải duy trì sự cân bằng trong hệ sinh thái, đảm bảo các hoạt động sản xuất và sinh hoạt của đô thị trong giới hạn phạm vi dung lượng cho phép của môi trường, không để ô nhiễm rồi mới xử lý. Việc quy hoạch thiết kế cần phải tính tới địa hình, khí hậu, thủy văn, sinh vật của khu vực quy hoạch để Thủ đô có thế mạnh phát huy thế mạnh, đặc thì riêng của mình. Quy hoạch theo hướng lâu dài phải có không gian dự trữ cho phát triển đô thị sau này, hạn chế khai thác các nguồn tài nguyên không thể tái sinh. Việc phát triển đô thị phải coi trọng bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa, các công trình kiến trúc và danh lam thắng cảnh, phát triển đô thị theo kiến trúc hiện đại kết hợp với kiến trúc truyền thống. Thứ ba, tăng cường công tác truyền thông, tuyên truyền, vận động, để nâng cao nhận thức về thực hiện Nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước về hoạt động văn hóa nhất là giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, nếp sống văn minh đô thị, phát huy tính cần cù sáng tạo, tinh thần hiếu học, tinh thần thi đua yêu nước trong nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ nhằm nâng cao nguồn lực lao động, với tác phong công nghiệp, có đầy đủ năng lực, trí tuệ và thanh lịch để đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội, đủ sức đảm đương sứ mệnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thành phố Tây Ninh. Thứ tư, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề đáng lo ngại về văn hóa. Nó làm cho các giá trị văn hóa truyền thống dễ bị mai một dần, các sản phẩm văn hóa “độc hại”, lai căng, đồi trụy nằm ngoài tầm kiểm soát đang làm vẩn đục tâm hồn, cốt cách dân tộc. Internet, trò chơi điện tử, máy tính, các trò chơi giải trí được thưởng bằng tiền.v.v. thường là sự lựa chọn chủ yếu của giới trẻ, văn hóa đọc, văn hóa lịch sử ít được quan tâm, lối sống lạnh lùng trong giới trẻ xuất hiện ngày càng nhiều. Đây là hiện tượng tương đối phổ biến ở các đô thị nước ta hiện nay. Vì vậy cần phải giải quyết đồng thời đồng bộ hai vấn đề: giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống, nâng niu quý trọng những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam, loại bỏ những phong tục tập quán xấu, lối sống, nếp sống lạc hậu, đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa thế giới để xây dựng lối sống, nếp sống đô thị văn minh. Vì vậy, cần chú ý đến sự đổi mới sự lãnh đạo, quản lý của các cấp chính quyền đô thị từ cách nhìn văn hóa đến chủ trương, chính sách và đặc biệt là đổi mới phong cách lãnh đạo, quản 61
  12. lý văn hóa đô thị: dân chủ không độc quyền, đưa ra chân lý nghệ thuật; gần gũi bao dung, cởi mở chân thành, tôn trọng cá tính sáng tạo… là những nét ứng xử, có văn hóa và trong chừng mực nhất định có thể gọi là văn hóa quản lý. Thứ năm, phát triển và mở rộng đô thị cần chú ý các tác động rủi ro môi trường. Đối với các khu công nghiệp cần tính toán kỹ các giải pháp thoát nước cho mỗi khu và xây dựng hệ thống thoát riêng đối với nước thải và nước mưa. Cần quan tâm, xác định đầy đủ hơn, rõ hơn về tiềm năng, lợi thế của tỉnh, nhất là lợi thế so sánh với các tỉnh, thành phố lân cận; nhận diện rõ hơn những bất cập, điểm nghẽn, thách thức lớn mà Tây Ninh đã, đang và sẽ phải đối mặt trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội để có giải pháp; tiếp tục nghiên cứu để xác định đúng định hướng trụ cột phát triển mang tính đột phá của địa phương; nghiên cứu, đề xuất phương thức huy động nguồn lực để hiện thực hoá quy hoạch. Trên cơ sở tiềm năng lợi thế, cơ hội, thách thức trong thời kỳ lập quy hoạch, hoàn thiện, đề xuất cho tỉnh các kịch bản tăng trưởng ở các cấp độ khác nhau, kèm theo đó là các giải pháp để thuận lợi cho công tác lãnh đạo, điều hành, nhưng tuyệt đối không thấp hơn mức bình quân chung của cả nước. Thứ sáu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh theo hướng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, tập trung ưu tiên đầu tư các ngành có tiềm năng, lợi thế, có năng suất lao động và hàm lượng tri thức cao, gắn liền với việc đẩy mạnh liên kết giữa các ngành, thành phần kinh tế và giữa các địa phương trong vùng. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài theo hướng phối hợp gắn kết giữa các địa phương trong và ngoài vùng, trong đó tập trung vào các ngành, lĩnh vực có thế mạnh của vùng. 3. KẾT LUẬN Với vị trí địa lý và chiến lược vô cùng quan trọng, Thành phố Tây Ninh có vai trò và vị trí rất lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị không chỉ riêng đối với tỉnh Tây Ninh mà còn đối với cả vùng kinh tế trọng điểm phía Nam của đất nước. Cùng lợi thế về điều kiện kết nối giữa Đông Nam Bộ với nước bạn Cam-pu-chia và các nước trong khu vực ASEAN, có nhiều di tích và danh thắng, Thành phố Tây Ninh sẽ liên kết với các tỉnh, thành phố bạn, xây dựng các chương trình, tuyến du lịch liên tỉnh, liên vùng; phấn đấu có đột phá về phát triển du lịch, đưa du lịch thật sự trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh, góp phần xây dựng hình ảnh vùng kinh tế trọng điểm phía nam như một điểm đến an toàn, thân thiện. Bên cạnh đó, tỉnh sẽ đầu tư xây dựng, nâng cấp, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, đồng bộ, hiện đại và đi trước một bước, nhất là giao thông, thủy lợi, tạo sự liên kết giữa Tây Ninh và các tỉnh trong vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía nam; đồng thời tập trung đầu tư các công trình hạ tầng trọng điểm, chiến lược, làm động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tỉnh sẽ phối hợp với các bộ, ngành, các tỉnh, thành phố tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư, tuyên truyền, quảng bá, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước và các thành phần kinh tế tham gia thực hiện quy hoạch vùng. Tóm lại, cùng với quá trình phát triển và hội nhập quốc tế hiện nay của đất nước, những yêu cầu mới của xây dựng văn hóa đô thị và văn hóa quản lý đô thị đặt ra là rất cấp thiết, cần phải được nghiên cứu trên nhiều khía cạnh khác nhau để xây dựng và nâng cao chất lượng văn 62
  13. hóa đô thị và văn hóa quản lý. Hiệu quả cuối cùng của văn hóa đô thị và văn hóa quản lý chính là chất lượng của mô hình tổ chức, quản lý văn hóa và văn hóa quản lý. Chất lượng bền vững quản lý của văn hóa đô thị và văn hóa quản lý chính là hướng vào mục tiêu phục vụ con người, nâng cao chất lượng cuộc sống của cư dân đô thị, chống các phản văn hóa và phi văn hóa làm ô nhiễm đời sống của cư dân đô thị. Vì vậy mọi hoạt động quản lý kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đô thị phải đặt con người, đặt nhân dân lao động vào trọng tâm của quá trình phát triển, phấn đấu để con người thực sự là mục tiêu, là động lực của sự phát triển của đô thị. Để làm được điều đó, nhất thiết phải đề cao vấn đề xây dựng văn hóa đô thị và vai trò của văn hóa quản lý đô thị. Đó chính là hiệu quả của kiểu lựa chọn về xây dựng văn hóa và văn hóa quản lý đô thị mang tính nhân văn: vì con người, vì nhân dân, vì dân tộc và vì nhân loại tiến bộ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. BTNO (06/09/2016). Thành phố Tây Ninh - Những chặng đường đã qua. Quân khu 7 online. https://baoquankhu7.vn/thanh-pho-tay-ninh-nhung-chang-duong-da-qua--1475530756- 001330s37110gs?AspxAutoDetectCookieSupport=1. 28/4/2022. 2. Dương Công Đức (2019). Tây Ninh bên dòng lịch sử miền Nam. Hà Nội: Nxb Văn hóa Dân tộc. 3. Nguyễn Ngọc Dũng – Cb (2011). Tài liệu dạy – học lịch sử địa phương Tây Ninh. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Giáo dục Việt Nam. 4. Trịnh Hoài Đức (2005). Gia Định thành thống chí. Lý Việt Dũng dịch. Biên Hòa: Nxb Tổng hợp Đồng Nai. 5. Huỳnh Minh (2001). Tây Ninh xưa và nay. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Thanh Niên. 6. Nhiều tác giả (2020). Tây Ninh đất và người. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Thanh Niên. 7. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002). Đại Nam thực lục (tập 1). Hà Nội: Nxb Giáo dục. 8. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007). Đại Nam thực lục (tập 4). Hà Nội: Nxb Giáo dục. 9. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006). Đại Nam nhất thống chí (tập 5). Hà Nội: Nxb Giáo dục. 10. Thiên Tâm (13/10/2020). Đô thị Tây Ninh với nhiều bước đột phá mạnh mẽ. Tây Ninh Online. https://baotayninh.vn/do-thi-tay-ninh-voi-nhieu-buoc-dot-pha-manh-me-a127548.html. 28/3/2022. 11. Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh (2006). Địa chí tỉnh Tây Ninh. Tây Ninh: Nxb Sở Văn hóa thông tin Tây Ninh. 63
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2