TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
QUẢN LÝ BỆNH NHÂN NHIỄM HIV ĐỒNG NHIỄM LAO<br />
TẠI 9 PHÒNG KHÁM NGOẠI TRÚ TẠI TỈNH SƠN LA NĂM 2012<br />
Đào Thị Minh An1, Trần Minh Như Nguyện2, Phan Trọng Lân3, Bùi Hồng Ngọc1,<br />
Vũ Toàn Thịnh1, Keith Sabin2, Kato Masaya2, Nguyễn Thanh Long4<br />
<br />
¹Trường Đại học Y Hà Nội; ²Tổ chức Y tế Thế giới; 3Cục y tế dự phòng; 4Bộ Y tế<br />
Mô tả quy trình sàng lọc, phát hiện, chẩn đoán và chuyển tuyến điều trị lao cho bệnh nhân HIV tại các<br />
phòng khám ngoại trú (OPC) để cung cấp bằng chứng cho các nhà lập định chính sách trong việc tăng<br />
cường quản lý đồng nhiễm Lao/HIV. Trong 653 bệnh nhân HIV, có 11 (1,7%) bệnh nhân được phát hiện lao<br />
từ trước khi đăng ký tại OPC. Trong lần đầu đăng ký tại OPC, tỷ lệ bệnh nhân HIV được sàng lọc lâm sàng<br />
lao là cao (92,5%) và dao động từ 96,3% đến 100% qua các lần tái khám. Trong những người có sàng lọc<br />
lâm sàng (+) (có một trong bốn triệu chứng: đang ho, đang sốt, vã mồ hôi vào ban đêm, sụt cân), tỉ lệ được<br />
chỉ định xét nghiệm đờm hoặc chụp x - quang là thấp và không ổn định qua 15 lần tái khám, lần lượt dao<br />
động từ 0% đến 29,4% và 28,6% đến 100%. Trong 416 bệnh nhân có kết quả sàng lọc lâm sàng lao (+),<br />
29,1% được xét nghiệm đờm và 75,5% được chụp x - quang, 3,4% được chuyển đến các cơ sở lao nhưng<br />
tất cả các bệnh nhân này đều không có thông tin về điều trị lao. Đặc biệt có 52/416 (12,5%) bệnh nhân có<br />
sàng lọc lâm sàng lao (+) nhưng không được xét nghiệm đờm hoặc chụp x - quang hoặc chuyển tuyến và<br />
trong số 62 bệnh nhân có sàng lọc lâm sàng lao (+), xét nghiệm đờm (-) và chụp x - quang (-) cần được<br />
chuyển đến bệnh viện lao tỉnh Sơn La thì chỉ có 6 (9,7%) được chuyển tuyến thành công.<br />
Từ khóa: bệnh nhân Lao/HIV, quản lý Lao/HIV, Sơn La<br />
<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
<br />
năm 2011 khoảng 3,2 triệu người sống chung<br />
<br />
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới<br />
(WHO) giai đoạn 2008 - 2011, ít nhất 1/3 số<br />
<br />
với HIV được sàng lọc lao [4]. Tỷ lệ được<br />
sàng lọc lao ở bệnh nhân HIV tăng gấp 12 lần<br />
<br />
người nhiễm HIV có đồng nhiễm lao. Theo<br />
<br />
trong giai đoạn 2005 - 2010 từ 200 nghìn<br />
người lên 2,3 triệu và tính đến năm 2012, 910<br />
<br />
ước tính số người chết vì lao có liên quan đến<br />
HIV tăng đáng kể từ 350.000 người năm 2010<br />
<br />
nghìn người đồng nhiễm Lao/HIV đã được<br />
cứu sống [5]. Tuy nhiên, công tác sàng lọc<br />
<br />
lên 430.000 người năm 2011 [1]. Nguy cơ tiến<br />
triển lao từ thể ẩn sang thể hoạt động cao hơn<br />
<br />
lâm sàng lao, xét nghiệm đờm và chụp X-<br />
<br />
gấp nhiều lần trong nhóm người nhiễm HIV so<br />
với nhóm không nhiễm HIV (21 - 34 lần theo<br />
<br />
quang còn nhiều thiết sót đặc biệt trong nhóm<br />
bệnh nhân HIV/AIDS [6]. Theo nhận định của<br />
<br />
báo cáo của WHO 2011 [1] và từ 20 - 37 lần<br />
<br />
Bộ Y tế, sự phối hợp giữa hai chương trình<br />
quản lý lao và HIV còn nhiều hạn chế; hệ<br />
<br />
theo báo cáo của Bộ Y tế (MOH) 2012 [2]). Vì<br />
vậy WHO đã ra hướng dẫn về giám sát, đánh<br />
giá hoạt động phối hợp trong quản lý các<br />
trường hợp đồng nhiễm lao/HIV năm 2009 [3].<br />
<br />
thống văn bản hướng dẫn về chuyên môn và<br />
quản lý chưa hoàn thiện [2].<br />
Tại Việt Nam có tổng số 204,019 trường<br />
<br />
Theo báo cáo của tổ chức UNAIDS, trong<br />
<br />
hợp nhiễm HIV hiện đang còn sống tới thời<br />
điểm tháng 6/2012 [7]. Dịch HIV/AIDS hiện<br />
<br />
Địa chỉ liên hệ: Đào Thị Minh An, Viện Đào tạo Y học và Y<br />
tế Công cộng, trường Đại học Y Hà Nội<br />
Email: daothiminhan@yahoo.com<br />
Ngày nhận: 05/02/2013<br />
Ngày được chấp thuận: 20/6/2013<br />
<br />
nay còn đang ở mức cao và khó kiểm soát,<br />
nhất là các tỉnh miền núi phía bắc [8]. Tính<br />
<br />
TCNCYH 83 (3) - 2013<br />
<br />
đến 31/12/2005, cả nước đã có 55/64 tỉnh<br />
thành có bệnh nhân đồng nhiễm Lao/HIV. Tỷ<br />
179<br />
<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
lệ đồng nhiễm lao ở bệnh nhân HIV có sự khác<br />
<br />
3.2. Cỡ mẫu và chọn mẫu<br />
<br />
nhau giữa các tỉnh/thành phố: cao nhất là An<br />
Giang với 23,1%; Hải Phòng là 10,6%; Quảng<br />
<br />
Chọn mẫu toàn bộ các hồ sơ bệnh án của<br />
bệnh nhân HIV đăng ký khám và điều trị tại<br />
<br />
Ninh là 7,6%; Hà Nội là 7,1%; thành phố Hồ Chí<br />
Minh là 6,5% và Đồng Tháp là 5,5% [9].<br />
<br />
các phòng khám ngoại trú từ 01/01/2012 đến<br />
<br />
Sơn La là tỉnh đứng vị trí thứ 5 trong cả<br />
nước về số lượng người nhiễm HIV còn sống<br />
(6.294 trường hợp) [7]. Theo ước tính, có<br />
khoảng 10% bệnh nhân HIV có nhiễm Lao<br />
[10], trong khi đó theo số liệu báo cáo từ trung<br />
<br />
31/10/2012.<br />
3.3. Phương pháp và công cụ thu thập<br />
thông tin<br />
Toàn bộ các biến số nghiên cứu được phát<br />
triển dựa trên khảo sát thực tế hoạt động của<br />
các phòng phòng khám ngoại trú tại Sơn La và<br />
<br />
tâm AIDS tỉnh Sơn La thì tỷ lệ này được phát<br />
hiện rất thấp (2%). Vì vậy, câu hỏi được đặt ra<br />
<br />
theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới<br />
<br />
là số liệu báo cáo này đã ước tính đúng được<br />
tỷ lệ mắc lao trong HIV chưa và vấn đề này<br />
<br />
(2009) và Bộ Y tế (2007) về quy trình phối hợp<br />
trong chẩn đoán, điều trị và quản lý bệnh nhân<br />
<br />
liên quan trực tiếp đến quy trình sàng lọc, phát<br />
<br />
Lao/HIV. Các biến số và chỉ số sau khi phát<br />
triển đã được các chuyên gia của WHO góp ý<br />
<br />
hiện, chẩn đoán, chuyển tuyến và điều trị lao<br />
(quản lý lao) ở bệnh nhân HIV tại Sơn La như<br />
<br />
để chỉnh sửa hoàn thiện.<br />
<br />
thế nào? Vì vậy đề tài này nhằm mục tiêu:<br />
Mô tả công tác sàng lọc, phát hiện, chẩn<br />
<br />
Các biến số được đưa vào bảng thu thập<br />
thông tin được thiết kế trên phần mềm Epi info<br />
<br />
đoán, chuyển tuyến điều trị lao cho bệnh nhân<br />
HIV tại các cơ sở OPC tỉnh Sơn La năm 2012.<br />
<br />
7.0 và 9 điều tra viên đã trực tiếp nhập liệu từ<br />
<br />
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
<br />
hồ sơ bệnh án vào bảng thu thập thông tin<br />
trên phần mềm Epi info 7.0 tại thực địa.<br />
4. Biến số, chỉ số nghiên cứu<br />
<br />
1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu:<br />
Nghiên cứu được tiến hành tại 9 phòng khám<br />
ngoại trú thuộc 9 huyện/thành phố trên địa bàn<br />
tỉnh Sơn La trong khoảng thời gian từ tháng<br />
01/2012 đến tháng 12/2012.<br />
2. Đối tượng: Bệnh nhân đăng kí khám và<br />
điều trị tại phòng khám ngoại trú từ 01/01/2012<br />
đến 31/10/2012 trong đó hồ sơ bệnh án của<br />
các bệnh nhân này được lấy làm đơn vị mẫu.<br />
3. Phương pháp<br />
3.1. Thiết kế nghiên cứu<br />
Nghiên cứu điều tra cắt ngang sử dụng kỹ<br />
thuật hồi cứu thu thập thông tin từ bệnh án<br />
của bệnh nhân HIV đăng ký khám chữa bệnh<br />
tại các phòng khám ngoại trú Sơn La từ<br />
01/01/2012 đến 31/10/2012.<br />
<br />
180<br />
<br />
Thu thập số liệu theo các biến số về đặc<br />
điểm nhân khẩu học, đăng ký khám và điều trị<br />
tại phòng khám ngoại trú, sàng lọc và chẩn<br />
đoán lao, giới thiệu chuyển tuyến và điều trị.<br />
5. Phương pháp xử lý số liệu: Số liệu<br />
được nhập trên phần mềm Epi Info 7 sau đó<br />
được lọc sạch và phân tích trên phần mềm<br />
Stata/Se 10. Phân tích mô tả: tỷ lệ phần trăm.<br />
6. Đạo đức nghiên cứu<br />
Nghiên cứu đã được thông qua hội đồng<br />
đạo đức tại Trường Đại học Y tế Công cộng.<br />
<br />
III. KẾT QUẢ<br />
1. Đặc điểm chung của đối tượng<br />
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là nam<br />
71,3% (466/653), độ tuổi trung bình là 33 ± 8<br />
<br />
TCNCYH 83 (3) - 2013<br />
<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
(từ 1 đến 68); nghề nghiệp chính là nông dân<br />
<br />
đăng ký tại các OPC khá đồng đều giữa các<br />
<br />
96,52% (610/632). Số lượng bệnh nhân HIV<br />
<br />
tháng, thấp nhất là tháng 1 với 5,4% (35/650).<br />
<br />
2. Thực trạng quản lý bệnh nhân HIV nhiễm lao tại 9 phòng khám ngoại trú tỉnh Sơn La<br />
từ ngày 1/1/2012 đến ngày 31/10/2012<br />
Tổng số bệnh nhân đăng kí khám và điều trị tại phòng<br />
khám ngoại trú từ 1/1/2012 đến 31/10/2012<br />
(n = 653)<br />
<br />
Bệnh nhân được chẩn đoán lao (+) tại<br />
thời điểm đăng kí tại OPC<br />
(n = 11)<br />
<br />
Bệnh nhân chưa được chẩn đoán lao (+)<br />
tại thời điểm đăng kí tại OPC<br />
(n = 642)<br />
<br />
Được SLLSL<br />
(n = 11)<br />
<br />
Được SLLSL<br />
<br />
SLLSL (+)<br />
<br />
Không được SLLSL<br />
(n = 0)<br />
<br />
SLLSL(-)<br />
<br />
XNĐ<br />
n=4+121=125<br />
<br />
XNĐ(+)<br />
<br />
SLLSL(+)<br />
<br />
Không làm gì<br />
n = 1+ 52 = 53<br />
<br />
XNĐ(-)<br />
<br />
Không được SLLSL<br />
<br />
SLLSL(-)<br />
<br />
CXQ<br />
n = 6 + 314 = 320<br />
<br />
CXQ(-)<br />
<br />
CXQ(+)<br />
<br />
Số BN cần được chuyển tuyến tới bệnh viện Lao tỉnh Sơn La<br />
(SLLSL(+), CXQ(-), XNĐ(-))<br />
(n = 62)<br />
Số bệnh nhân không<br />
được chuyển tuyến<br />
(n = 48)<br />
<br />
Số bệnh nhân được giới<br />
thiệu chuyển tuyến<br />
(n=14)<br />
Số bệnh nhân được chuyển thành công<br />
(n = 6)<br />
<br />
Thông tin điều trị tại các cơ sở điều trị lao<br />
<br />
Sơ đồ 1. Thực trạng quản lý bệnh nhân HIV nhiễm lao tại 9 cơ sở phòng khám ngoại trú<br />
tỉnh Sơn La từ ngày 1/1/2012 đến ngày 31/10/2012<br />
TCNCYH 83 (3) - 2013<br />
<br />
181<br />
<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
* SLLSL: sàng lọc lâm sàng lao; XNĐ: xét nghiệm đờm; CXQ: chụp X-quang<br />
Sơ đồ 1 cho thấy công tác quản lý lao trên bệnh nhân HIV đăng ký tại OPC Sơn La đã được<br />
thực hiện qua 4 bước: sàng lọc lâm sàng lao phát hiện các bệnh nhân nghi ngờ; chỉ định xét<br />
nghiệm đờm và chụp X-quang; chuyển tuyến và điều trị. Tuy nhiên qui trình này chưa được thực<br />
hiện đồng bộ. Vẫn còn các trường hợp có sàng lọc lâm sàng lao (+) nhưng không được xét<br />
nghiệm đờm, chụp X-quang. Có những trường hợp có sàng lọc lâm sàng lao (+), xét nghiệm đờm<br />
(-) và chụp X-quang (-) nhưng không được chuyển tuyến tới bệnh viện lao tỉnh Sơn La để khẳng<br />
định lao. Một điểm đáng quan tâm là toàn bộ hồ sơ của bệnh nhân được chuyển tuyến hoặc<br />
chuyển tuyến thành công hoàn toàn không có thông tin về ngày điều trị và phác đồ điều trị lao.<br />
3. Sàng lọc lâm sàng, xét nghiệm đờm, chụp X-quang<br />
<br />
Biểu đồ 1. Tỷ lệ sàng lọc lâm sàng và tỉ lệ có dấu hiệu lâm sàng (+) trong 15 lần tái khám<br />
Tỷ lệ sàng lọc lâm sàng lao cao qua 15 lần tái khám dao động từ 92,5% đến 100%. Tuy nhiên<br />
tỷ lệ có sàng lọc lâm sàng lao (+) không cao từ 0% - 17,3% trừ lần đầu tiên là 64,1%.<br />
<br />
Biểu đồ 2. Tỷ lệ chụp X-quang và xét nghiệm đờm trong số bệnh nhân có kết quả<br />
sàng lọc lâm sàng lao (+)<br />
<br />
182<br />
<br />
TCNCYH 83 (3) - 2013<br />
<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
Tỷ lệ được chỉ định xét nghiệm đờm hoặc chụp X-quang trong số bệnh nhân có kết quả sàng<br />
lọc lâm sàng lao (+) là thấp và không ổn định ở 15 lần tái khám, dao động từ 0% đến 29,4% đối<br />
với xét nghiệm đờm và từ 78,7% đến 100% đối với chỉ định chụp X-quang.<br />
<br />
IV. BÀN LUẬN<br />
Tỷ lệ sàng lọc lâm sàng<br />
Công tác sàng lọc lâm sàng lao cho bệnh<br />
nhân HIV đã được thực hiện ở nhiều quốc gia<br />
trên thế giới. Tỷ lệ sàng lọc lâm sàng lao cho<br />
bệnh nhân HIV tại Ethiopia năm 2010 là 94%<br />
[11], tại Nam Phi năm 2001 là 40,8 % [12]. Tại<br />
Việt Nam, theo quyết định số 3116/QĐ-BYT,<br />
tất cả các bệnh nhân HIV phải được sàng lọc<br />
lâm sàng lao [13]. Theo báo cáo của thành<br />
phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ sàng lọc lâm sàng lao<br />
tại phòng khám ngoại trú quận 5 năm 2011 là<br />
42% [14]. Nghiên cứu này chỉ ra công tác<br />
<br />
tỉnh Sơn La (của dự án Life Gap và Quỹ toàn<br />
cầu) đều được Chương trình AIDS của Đại<br />
học Y Harvard tại Việt Nam (HAIVN) tập huấn<br />
về kỹ năng sàng lọc lao. Do đó tập huấn sàng<br />
lọc lao cho cán bộ điều trị tại các phòng khám<br />
ngoại trú theo mô hình của HAIVN hỗ trợ các<br />
phòng khám ngoại trú Sơn La cho các tỉnh<br />
chưa được hỗ trợ là cần thiết.<br />
Chỉ định xét nghiệm đờm, chụp X-quang<br />
và chuyển tuyến trong số bệnh nhân có kết<br />
quả sàng lọc lâm sàng lao dương tính<br />
Theo qui định của Bộ Y tế về quy trình phối<br />
<br />
sàng lọc lâm sàng lao tại các phòng khám<br />
<br />
hợp trong chẩn đoán, điều trị và quản lý bệnh<br />
nhân Lao/HIV năm 2007 [13], 100% trường<br />
<br />
ngoại trú tỉnh Sơn La được thực hiện khá tốt<br />
với tỷ lệ sàng lọc lâm sàng lao qua các lần tái<br />
<br />
hợp bệnh nhân có sàng lọc lâm sàng lao (+)<br />
cần được chỉ định chụp X-quang và xét<br />
<br />
khám từ 92,5% đến 100%.<br />
Tỷ lệ mắc lao trong nhóm người nhiễm HIV<br />
<br />
nghiệm đờm. Nhưng kết quả của nghiên cứu<br />
này cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có sàng lọc lâm<br />
<br />
tại Việt Nam theo các báo cáo từ các tỉnh dao<br />
động xung quanh mức 10% [10]. Tỷ lệ này ở<br />
<br />
sàng lao (+) được chỉ định xét nghiệm đờm<br />
<br />
Hải Phòng là 10,6%, thành phố Hồ Chí Minh<br />
<br />
hoặc chụp X-quang còn thấp và không ổn định<br />
giữa các lần tái khám. Tỷ lệ bệnh nhân có<br />
<br />
là 6,5%, Đồng Tháp là 5,5 %, Hà Nội là 7,1 %<br />
và An Giang là 23,1% [9]. Nghiên cứu này chỉ<br />
<br />
sàng lọc lâm sàng lao (+) được xét nghiệm<br />
đờm chỉ từ 0% đến 29,4% và tỷ lệ được chụp<br />
<br />
ra toàn bộ hồ sơ bệnh nhân HIV đăng ký tại<br />
các phòng khám ngoại trú Sơn La không ghi<br />
<br />
X-quang trong nhóm bệnh nhân này từ 28,6%<br />
đến 100%. Tỷ lệ chụp X-quang cao hơn hẳn<br />
<br />
nhận thông tin khẳng định chẩn đoán lao (+)<br />
nên không ước tính được tỷ lệ mắc lao trong<br />
<br />
xét nghiệm đờm có thể do chụp X-quang đơn<br />
<br />
nhóm HIV. Tuy nhiên dựa vào tỷ lệ 17,2%<br />
<br />
giản và dễ làm hơn xét nghiệm đờm. So sánh<br />
hoạt động này với một số nước trên thế giới<br />
<br />
bệnh nhân HIV được sàng lọc lâm sàng lao<br />
(+) tại các phòng khám ngoại trú Sơn La thì có<br />
<br />
phần nào cho thấy kỹ năng chỉ định chụp<br />
X-quang và xét nghiệm đờm tại các phòng<br />
<br />
thể thấy tỷ lệ này ở mức cao hơn so với tỷ lệ<br />
mắc lao trên nhóm người HIV ở hầu hết các<br />
<br />
khám ngoại trú tỉnh Sơn La là chưa tốt. Tại<br />
Kenya năm 2010 tỷ lệ bệnh nhân HIV có lâm<br />
<br />
tỉnh thành trừ An Giang. Điều này phần nào có<br />
thể gián tiếp nhận thấy rằng kỹ năng sàng lọc<br />
<br />
sàng lao (+) được chỉ định chụp X-quang là<br />
<br />
lâm sàng lao tại các phòng khám ngoại trú tỉnh<br />
<br />
68,4% trong khi đó tỉ lệ này ở phòng khám<br />
ngoại trú Sơn La là 66,4%; tỷ lệ chỉ định xét<br />
<br />
Sơn La là khá tốt. Trên thực tế, hiện nay các<br />
cán bộ làm việc tại các phòng khám ngoại trú<br />
<br />
nghiệm đờm tại Kenya là 55,3% so với 22,9%<br />
tại phòng khám ngoại trú Sơn La [15].<br />
<br />
TCNCYH 83 (3) - 2013<br />
<br />
183<br />
<br />