Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp tư nhân hiện nay: Phần 1
lượt xem 5
download
Phần 1 cuốn sách "Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân hiện nay" trình bày một số vấn đề lý luận về doanh nghiệp; kinh tế tư nhân và các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam; lý luận cơ bản và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp thuộc khu lực kinh tế tư nhân ở Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp tư nhân hiện nay: Phần 1
- Chịu trách nhiệm xuất bản GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN Chịu trách nhiệm nội dung PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP TS. ĐỖ QUANG DŨNG Biên tập nội dung: ThS. PHẠM THỊ KIM HUẾ TS. HOÀNG MẠNH THẮNG TRẦN THỊ THANH PHIỆT ThS. NGUYỄN VIỆT HÀ Trình bày bìa: PHẠM DUY THÁI Chế bản vi tính: NGUYỄN THỊ HẰNG Đọc sách mẫu: TRẦN THỊ THANH PHIỆT BÍCH LIỄU Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 1459-2021/CXBIPH/6-12/CTQG. Số quyết định xuất bản: 302-QĐ/NXBCTQG, ngày 11/5/2021. Nộp lưu chiểu: tháng 5 năm 2021. Mã ISBN: 978-604-57-6779-5.
- TẬP THỂ TÁC GIẢ TS. NINH THỊ MINH TÂM (Chủ biên) TS. HỒ SỸ NGỌC TS. VŨ ĐỨC OAI TS. NGUYỄN THỊ THANH CHI ThS. NGUYỄN THÀNH TUÂN ThS. NINH HIẾU NGỌC CN. NGUYỄN VIẾT VỊNH
- 5 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Trước năm 1986, kinh tế tư nhân được coi là kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, không có vai trò, động lực thúc đẩy nền kinh tế, là đối tượng bị cải tạo và xóa bỏ, không được khuyến khích phát triển. Nhưng từ tháng 12/1986, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, nhận thức về kinh tế tư nhân đã dần được thay đổi. Đảng ta đã khởi xướng công cuộc Đổi mới, bắt đầu bằng việc đổi mới tư duy kinh tế và luôn kiên định, nhất quán đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta khẳng định: kinh tế tư nhân là “một động lực quan trọng của nền kinh tế”. Tiếp sau đó, Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII tiếp tục khẳng định: phải phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân cả về số lượng và chất lượng, để thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Với chủ trương này của Đảng, kinh tế tư nhân đã phục hồi và không ngừng phát triển và đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế, góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước. Nhằm cung cấp thêm tài liệu nghiên cứu, tham khảo về vấn đề trên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất
- 6 LỜI NHÀ XUẤT BẢN bản cuốn sách Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay. Nội dung cuốn sách đề cập khái quát về tình hình kinh tế tư nhân và các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân; lý luận cơ bản và thực tiễn, thực trạng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân; cuối cùng đưa ra mục tiêu, phương hướng và giải pháp tiếp tục tăng cường quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Chủ đề cuốn sách có nội dung rộng và luôn có xu hướng vận động, hoàn thiện, nên trong phạm vi cuốn sách này khó có thể bao quát và cập nhật đầy đủ. Nhà xuất bản và các tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để hoàn thiện nội dung cuốn sách trong lần xuất bản sau. Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Tháng 9 năm 2020 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
- 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP I. KHÁI NIỆM DOANH NGHIỆP Trên phương diện lý thuyết có khá nhiều cách hiểu về doanh nghiệp, tùy theo cách tiếp cận doanh nghiệp ở góc độ nào thì sẽ có khái niệm doanh nghiệp ở góc độ tương ứng bởi vì khái niệm doanh nghiệp, cũng như các khái niệm khác, được nghiên cứu và xem xét dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Có quan điểm cho rằng, doanh nghiệp là một đơn vị tổ chức sản xuất mà tại đó người ta kết hợp các yếu tố sản xuất (có sự quan tâm giá cả của các yếu tố) khác nhau do các nhân viên của tổ chức thực hiện nhằm bán ra trên thị trường những sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ để nhận được khoản tiền chênh lệch giữa giá bán sản phẩm với giá thành của sản phẩm ấy. Quan điểm khác lại cho rằng, doanh nghiệp là một cộng đồng người sản xuất ra những của cải. Nó sinh ra, phát triển, có những thất bại, có những thành công, và thậm chí có lúc phải ngừng sản xuất, đôi khi tiêu vong do gặp phải những khó khăn không vượt qua được. Có quan điểm tiếp cận doanh nghiệp dưới góc độ phạm trù xí nghiệp. Theo đó, xí nghiệp là một đơn vị kinh tế được tổ chức một cách có kế hoạch để sản xuất và tiêu thụ sản
- 8 QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP THUỘC KHU VỰC... phẩm (dịch vụ). Xí nghiệp được coi là một hệ thống có các đặc trưng cơ bản vừa phụ thuộc, lại vừa không phụ thuộc vào cơ chế kinh tế. Với tư cách là hệ thống không phụ thuộc vào cơ chế kinh tế cụ thể, xí nghiệp mang các đặc trưng cơ bản là: (i) Sự kết hợp các yếu tố sản xuất để tạo ra các hàng hóa, dịch vụ; (ii) Tuân thủ nguyên tắc cân bằng tài chính; và (iii) Tuân thủ nguyên tắc hiệu quả. Với tư cách là hệ thống phụ thuộc vào cơ chế kinh tế cụ thể sẽ có xí nghiệp hoạt động trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung và có xí nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường, theo đó doanh nghiệp là một xí nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường. Mỗi doanh nghiệp đều là xí nghiệp nhưng không phải mọi xí nghiệp đều là doanh nghiệp1. Cách tiếp cận khác xuất phát từ định nghĩa tổ chức, đó là một nhóm có tối thiểu hai người, cùng hoạt động với nhau theo những nguyên tắc, thể chế và các tiêu chuẩn (văn hóa) nhất định nhằm đặt ra và thực hiện các mục tiêu chung. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp được hiểu là một tổ chức kinh tế hoạt động trong cơ chế thị trường nhằm mục tiêu sinh lợi. Thực chất thì doanh nghiệp là khái niệm chung nhất để chỉ các loại hình doanh nghiệp, trong đó công ty là một loại hình doanh nghiệp và nó rất phổ biến. Trên thế giới, so với các loại hình doanh nghiệp khác, thì công ty xuất hiện muộn hơn, vào khoảng giữa thế kỷ XIX. Trước đó, các hoạt động kinh doanh thực hiện dưới hình thức hợp danh hoặc doanh nghiệp tư nhân. Cũng kể từ thế kỷ XIX và đặc biệt trong nửa đầu thế kỷ XX, công ty là loại hình kinh doanh phát triển mạnh mẽ nhất. Nhiều nước trên thế giới hiện nay, thay vì __________ 1. Nguyễn Thành Độ, Nguyễn Ngọc Huyền: Giáo trình Quản trị kinh doanh, Nxb. Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2012, tr.7-8.
- Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP 9 thiết lập luật doanh nghiệp, đã thiên về quy định tổ chức và hoạt động của các loại hình công ty. Theo quan điểm của các nước tư bản, công ty là một tổ chức kinh tế được thành lập theo vốn, thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của công ty trong phạm vi số vốn mà thành viên đó góp vào công ty. Công ty được thành lập dựa trên một thỏa thuận về quản lý điều hành, thường gọi là điều lệ, có thể phát hành các loại chứng khoán để huy động vốn và được thừa nhận là pháp nhân ở hầu hết các nước. Như vậy, dù định nghĩa ở góc độ mở rộng là doanh nghiệp hoặc xem xét ở góc độ hẹp là công ty, thì hình thức thể hiện phổ biến nhất của doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế và mục đích chủ yếu nhất của nó là sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp là các tổ chức kinh tế độc lập, hoạt động sản xuất và cung ứng hàng hóa, dịch vụ với mục tiêu lợi nhuận. Ở Việt Nam, doanh nghiệp là một khái niệm rộng, tùy theo góc độ tiếp cận mà có những giới hạn và cách hiểu rộng, hẹp khác nhau. Theo nghĩa hẹp, tại Điều 4, Luật Doanh nghiệp năm 2014 xác định: doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh. Cũng tại Điều 4, Luật Doanh nghiệp năm 2020 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021), doanh nghiệp được hiểu là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh. Như vậy, theo nghĩa này, khái niệm doanh nghiệp chỉ bao gồm các doanh nghiệp chính thức thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
- 10 QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP THUỘC KHU VỰC... Theo nghĩa rộng, doanh nghiệp là các tổ chức, hộ gia đình kinh doanh, có chức năng sản xuất - kinh doanh hàng hóa, dịch vụ một cách hợp pháp nhằm đạt lợi nhuận hoặc mục tiêu hiệu quả kinh tế - xã hội tối đa. Như vậy, theo nghĩa rộng, khái niệm doanh nghiệp bao hàm cả các tổ chức kinh tế như hợp tác xã, các tổ chức sự nghiệp có hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp công ích hoạt động không phải kinh doanh, các hộ gia đình kinh doanh chưa đủ điều kiện thành lập doanh nghiệp theo luật. Từ các cách tiếp cận trên, có thể hiểu: doanh nghiệp là một tổ chức có chức năng sản xuất - kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; có tư cách pháp lý trong giao dịch - được pháp luật thừa nhận về sự tồn tại hợp pháp trong nền kinh tế trên cơ sở thực hiện đầy đủ các thủ tục đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký thành lập theo quy định; và hoạt động nhằm mục tiêu sinh lợi. Để nhận diện doanh nghiệp, phân biệt với các loại hình tổ chức khác, thông thường có thể căn cứ theo các tiêu chí sau: Thứ nhất, tính độc lập: Doanh nghiệp phải là đơn vị kinh tế cơ sở, phải là một thể nhân hoặc pháp nhân có tư cách pháp lý độc lập, có các quyền và nghĩa vụ độc lập, có năng lực pháp lý và năng lực hành vi tham gia các hoạt động kinh tế và pháp lý liên quan. Tiêu chí này giúp phân biệt doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức sự nghiệp, các đơn vị kinh tế phụ thuộc của bản thân doanh nghiệp. Thứ hai, tính hợp pháp: Doanh nghiệp phải được đăng ký kinh doanh chính thức, được phép hoạt động và tiến hành các hoạt động theo thể chế và thủ tục pháp lý của một quốc gia cụ thể. Tiêu chí này giúp phân biệt doanh nghiệp với các tổ chức hoạt động bất hợp pháp trong xã hội.
- Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP 11 Thứ ba, tính vị lợi: Hoạt động của doanh nghiệp là hoạt động sản xuất kinh doanh. Tính mục đích của doanh nghiệp là thu lợi nhuận (đối với các doanh nghiệp kinh doanh) hoặc đạt mục tiêu hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất (đối với một số doanh nghiệp đặc biệt dạng công ích hoặc dạng đặc thù do chính phủ chỉ định), hoặc là doanh nghiệp phi lợi nhuận (doanh nghiệp xã hội). Tiêu chí này giúp phân biệt doanh nghiệp với các tổ chức xã hội phi lợi nhuận, các cơ quan hành chính công quyền, các tổ chức tôn giáo... II. PHÂN LOẠI DOANH NGHIỆP Các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân rất đa dạng về hình thức, quy mô, tính chất, ngành nghề hoạt động... Do vậy, cần có sự phân loại làm cơ sở để xác định và giải quyết các vấn đề tổ chức, quản lý cả trên giác độ quản trị doanh nghiệp và quản lý nhà nước. Tùy theo từng góc độ nghiên cứu, có thể có các cách phân loại doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau. 1. Căn cứ vào hình thức pháp lý của doanh nghiệp Doanh nghiệp không tồn tại chung chung mà luôn tồn tại dưới hình thức pháp lý cụ thể. Ở mỗi giai đoạn phát triển, mỗi quốc gia đều xác định các hình thức pháp lý cụ thể của doanh nghiệp. Ở Việt Nam, theo quy định hiện hành (Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2020, Luật Hợp tác xã số 23/2012/QH13, Luật Đầu tư năm 2020 và các văn bản pháp quy kèm theo) có các hình thức pháp lý của doanh nghiệp như sau: hợp tác xã, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
- 12 QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP THUỘC KHU VỰC... cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhóm công ty. Hợp tác xã: Hợp tác xã là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, thành lập, tổ chức theo Luật Hợp tác xã, theo đó, tại Điều 3 quy định: Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 7 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã. Hợp tác xã có thể liên minh với nhau thành liên minh hợp tác xã và có quyền thành lập doanh nghiệp trực thuộc hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Như vậy, hợp tác xã là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, thích hợp với một số ngành và lĩnh vực sản xuất - kinh doanh như sản xuất nông nghiệp, vận tải, dịch vụ bán hàng... Các hợp tác xã ở nước ta hiện nay đang phát triển rất đa dạng về quy mô và tính chất, thường đảm nhận một số khâu dịch vụ sản xuất trên cơ sở tôn trọng quyền tự chủ của các hộ gia đình xã viên. Loại hình này đang được khuyến khích phát triển ở Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Doanh nghiệp nhà nước: Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ (theo giới hạn của Luật Doanh nghiệp năm 2014) hoặc sở hữu cổ phần, vốn góp chi phối từ 51% trở lên (theo các văn bản pháp quy hiện hành), được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần nhà nước và công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước. Theo khoản 11, Điều 4, Luật Doanh nghiệp năm 2020, doanh nghiệp nhà nước bao gồm các doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần
- Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP 13 có quyền biểu quyết theo quy định tại Điều 88. Về nguyên tắc, doanh nghiệp nhà nước là một loại hình doanh nghiệp đặc thù nhưng hoạt động bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, vì chủ sở hữu là nhà nước nên trên thực tế doanh nghiệp nhà nước thường được nhà nước có những biện pháp quản lý, đặc biệt là về chính sách, khác biệt gây tranh luận. Trước năm 2005 các doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo một luật riêng (Luật Doanh nghiệp nhà nước). Từ năm 2005 đến nay, các doanh nghiệp nhà nước hoạt động bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác theo Luật Doanh nghiệp thống nhất. Trong điều kiện phát triển các hình thức đa sở hữu hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước hoạt động không biệt lập mà ở những lĩnh vực cần thiết, chủ động đảm nhận những vị trí trọng yếu, độc quyền, hợp tác và liên kết với các loại hình doanh nghiệp khác, do vậy có rất nhiều doanh nghiệp có sở hữu hỗn hợp giữa Nhà nước và tư nhân. Doanh nghiệp tư nhân: Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp (theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Doanh nghiệp năm 2020). Chủ doanh nghiệp tư nhân có trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp. Hiện nay, ở nước ta, doanh nghiệp tư nhân được kinh doanh không hạn chế về quy mô, địa bàn và hoạt động trong các ngành mà pháp luật không cấm. Nhà nước công nhận vai trò và tác động tích cực của doanh nghiệp tư nhân cũng như những loại hình doanh nghiệp sở hữu tư nhân, bảo đảm sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp luật, bảo hộ sự làm ăn chính đáng
- 14 QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP THUỘC KHU VỰC... và thu nhập hợp pháp cũng như các quyền lợi khác của các chủ doanh nghiệp tư nhân. Công ty trách nhiệm hữu hạn (hai thành viên trở lên) là doanh nghiệp gồm ít nhất hai thành viên, nhiều nhất không quá 50 thành viên là thể nhân hoặc pháp nhân góp vốn thành lập và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp (theo khoản 1, Điều 46, Luật Doanh nghiệp năm 2014). Theo Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì: Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là doanh nghiệp có từ 02 đến 50 thành viên là tổ chức, cá nhân. Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 47 của Luật này. Trong điều kiện cơ chế thị trường, công ty trách nhiệm hữu hạn là một hình thức kinh doanh rất thích hợp, được ưa thích của các doanh nhân. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một thành viên (là cá nhân hoặc tổ chức) làm chủ sở hữu và chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty (theo Luật Doanh nghiệp năm 2014). Theo Điều 74, Luật Doanh nghiệp năm 2020, thì: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu (sau đây gọi là chủ sở hữu công ty). Chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Đây cũng là loại hình mới áp dụng ở Việt Nam. Loại hình này được áp dụng rộng rãi đối với các doanh nghiệp “đoàn thể” và doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa.
- Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP 15 Công ty cổ phần là doanh nghiệp có các đặc điểm giống với công ty trách nhiệm hữu hạn nhưng có một số đặc thù riêng: số lượng thành viên (gọi là cổ đông) tối thiểu phải đủ lớn (Luật Doanh nghiệp năm 2014 của Việt Nam quy định là phải từ 3 người trở lên, không có mức tối đa); vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau được gọi là cổ phần và chủ sở hữu các cổ phần được gọi là cổ đông. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác theo quy định. Với những điều kiện nhất định, công ty cổ phần được phép phát hành cổ phiếu, trái phiếu (được gọi chung là chứng khoán) bán rộng rãi cho dân chúng để huy động vốn đầu tư kinh doanh, trở thành công ty cổ phần đại chúng. Theo khoản 1, Điều 111, Luật Doanh nghiệp năm 2020: Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó: Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 03 và không hạn chế số lượng tối đa. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 120 và khoản 1 Điều 127 của Luật này. Nhà nước ta khuyến khích phát triển loại hình công ty cổ phần, cổ phần đại chúng, đã và đang cổ phần hóa hàng loạt doanh nghiệp nhà nước trở thành công ty cổ phần, đồng thời xúc tiến tạo lập những điều kiện kinh tế, kỹ thuật cơ bản cho công ty cổ phần hoạt động như phát triển thị trường chứng khoán,
- 16 QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP THUỘC KHU VỰC... triển khai các nghiệp vụ quản lý nhà nước đối với công ty cổ phần và thị trường chứng khoán... Công ty hợp danh là loại hình doanh nghiệp đặc biệt, trong đó: phải có ít nhất 02 thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh). Ngoài các thành viên hợp danh, công ty có thể có thêm thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty (theo Luật Doanh nghiệp năm 2014). Đến Luật Doanh nghiệp năm 2020, khái niệm này cơ bản giữ nguyên, chỉ bổ sung thêm về thành viên góp vốn như sau: Thành viên góp vốn là tổ chức, cá nhân chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty. Đây là loại hình mới áp dụng từ khi thi hành Luật Doanh nghiệp năm 2005 và tiếp tục khẳng định trong Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2020. Loại hình này thích hợp cho các ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh cần có sự bảo đảm về trách nhiệm và uy tín của chủ doanh nghiệp như y tế, giáo dục, tư vấn... Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Về mặt quản lý, những doanh nghiệp có vốn góp của bên đầu tư nước ngoài với tỷ lệ vốn góp không thấp hơn 30% vốn pháp định (vốn điều lệ) của doanh nghiệp được gọi là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Những doanh nghiệp này hoạt động theo Luật Doanh nghiệp chung, thống nhất của Việt Nam, hiện nay đó là Luật Doanh nghiệp năm 2014 và từ tháng 01/2021 là Luật Doanh nghiệp năm 2020 và Luật Đầu tư năm 2020,
- Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP 17 nhưng về quản lý của Nhà nước cũng như trong quản trị doanh nghiệp có những quy định đặc thù và được hưởng một số chính sách riêng, nhất là đối với các doanh nghiệp quy mô lớn, công nghệ cao hoặc hoạt động trong những lĩnh vực Nhà nước đang đặc biệt khuyến khích đầu tư. Theo quy định hiện hành, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta có hình thức là những công ty trách nhiệm hữu hạn, thể hiện dưới 3 dạng: (1) Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp có sự góp vốn của cả bên Việt Nam và bên nước ngoài, trong đó phần vốn góp của mỗi bên thường không thấp hơn 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp; (2) Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại Việt Nam; (3) Doanh nghiệp PPP (hợp tác công tư) và BOT (xây dựng - kinh doanh - chuyển giao) và các biến thể khác như BTO, BT. Đây là các loại hình doanh nghiệp đặc biệt hình thành trên cơ sở “hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao” ký kết giữa chủ sở hữu doanh nghiệp và cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nhóm công ty là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác. Nhóm công ty thường bao gồm các hình thức như: tập đoàn kinh tế, tổng công ty, công ty mẹ - công ty con). Theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 và sắp tới là Luật Doanh nghiệp năm 2020 (được thi hành từ ngày 01/01/2021), cùng hệ thống luật pháp hiện hành của Việt Nam, tập đoàn kinh tế và tổng công ty có thể hình thành ở các thành phần kinh tế, không được coi là một loại hình doanh nghiệp mà là các hình thức phái sinh được gọi là “nhóm công ty”, có mối liên kết với nhau thông qua sở hữu cổ phần, phần vốn góp hoặc liên kết khác. Các nhóm công ty
- 18 QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP THUỘC KHU VỰC... (tập đoàn kinh tế, tổng công ty) thường có cấu trúc công ty mẹ (là chủ sở hữu trên 50% vốn điều lệ hoặc có quyền quyết định các vấn đề quan trọng đối với các công ty con) và các công ty con (do công ty mẹ sở hữu). Tập đoàn kinh tế là nhóm công ty có quy mô lớn. Theo quy định hiện hành ở Việt Nam, Chính phủ quy định hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của các tập đoàn kinh tế. Hình thức tổng công ty chủ yếu phát triển ở các doanh nghiệp nhà nước quy mô toàn ngành hoặc theo lãnh thổ, thường có quy mô lớn với cấu trúc công ty mẹ - công ty con. Với công ty mẹ - công ty con, quyền và trách nhiệm của công ty mẹ đối với công ty con tùy thuộc vào loại hình pháp lý của công ty con; hợp đồng, giao dịch và quan hệ khác giữa công ty mẹ và công ty con đều phải được thiết lập và thực hiện độc lập, bình đẳng. 2. Căn cứ vào mục tiêu hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp Xét theo mục tiêu lâu dài, ổn định mà các doanh nghiệp phải theo đuổi, thường có các loại hình doanh nghiệp sau: Doanh nghiệp kinh doanh: Là doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế nhằm mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hóa lợi nhuận ròng. Chỉ trên cơ sở tối đa hóa lợi nhuận ròng thu được thì doanh nghiệp mới có thể đứng vững trong cạnh tranh, có điều kiện để thực hiện tái sản xuất với quy mô ngày càng lớn, áp dụng khoa học - công nghệ hiện đại, cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao lợi ích của người lao động trong doanh nghiệp và thực hiện tốt các nghĩa vụ đối với xã hội. Đối với doanh nghiệp kinh doanh, mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận ròng chi phối hoạt động của doanh nghiệp và từng bộ
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình Quản lý nhà nước về kinh tế - GSTS.Lê Sỹ Thiệp
90 p | 672 | 241
-
Vai trò quản lý nhà nước đối với sự hình thành và phát triển thị trường Bất động sản ở việt nam.
6 p | 147 | 23
-
Báo cáo tổng hợp: Quản lý nhà nước đối với tổ chức đại diện người lao động bên cạnh Công đoàn
107 p | 79 | 14
-
Quản lý nhà nước đối với tổ chức phi chính phủ: Phần 2 - TS. Phạm Kiên Cường
45 p | 27 | 10
-
Quản lý nhà nước đối với cung ứng dịch vụ công: Phần 2 (Sách chuyên khảo)
169 p | 15 | 10
-
Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, thực trạng và giải pháp - Hội thảo khoa học quốc gia: Phần 2
145 p | 20 | 10
-
Quản lý nhà nước đối với tổ chức phi chính phủ: Phần 1 - TS. Phạm Kiên Cường
69 p | 31 | 10
-
Quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học: Kinh nghiệm Trung Quốc và khuyến nghị đối với Việt Nam - Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc gia
366 p | 25 | 10
-
Tách bạch giữa chức năng chủ sở hữu với chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước
8 p | 142 | 9
-
Quản lý Nhà nước đối với hoạt động của ngân hàng thương mại ở Việt Nam - Nhìn lại hơn 15 năm qua và giải pháp
7 p | 84 | 9
-
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp FDI trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên: Hiện trạng và những vấn đề đặt ra
6 p | 120 | 9
-
Bài giảng Quản lý nhà nước về kinh tế - Chương 3: Quản lý nhà nước đối với một số lĩnh vực kinh tế chủ yếu
35 p | 33 | 8
-
Bài giảng Quản lý nhà nước về kinh tế - Chương 4: Quản lý nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp
26 p | 25 | 7
-
Một số vấn đề về quản lý nhà nước đối với nhập khẩu ở nước ta hiện nay - ThS. Bùi Xuân Diệu
4 p | 93 | 7
-
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa khu vực kinh tế tư nhân cấp tỉnh trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
10 p | 10 | 6
-
Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp ngoài nhà nước tại thành phố Đà Nẵng
5 p | 8 | 3
-
Tăng cường quản lý nhà nước đối với đội ngũ chấp hành viên trong thi hành án dân sự ở Việt Nam
6 p | 46 | 2
-
Một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với đội ngũ giáo viên dạy nghề trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
6 p | 58 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn