intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quản lý nhà nước đối với đầu tư từ ngân sách nhà nước trong kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ khu vực đồng bằng sông Hồng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:16

15
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Quản lý nhà nước đối với đầu tư từ ngân sách nhà nước trong kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ khu vực đồng bằng sông Hồng được nghiên cứu nhằm phân tích và đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN) trong kết cấu hạ tầng (KCHT) giao thông đường bộ khu vực Đồng bằng Sông Hồng trong giai đoạn 2012 - 2021, đặc biệt là vấn đề chậm tiến độ đầu tư.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quản lý nhà nước đối với đầu tư từ ngân sách nhà nước trong kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ khu vực đồng bằng sông Hồng

  1. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 49. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG KẾT CẤU HẠ TẦNG GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG NCS.ThS. Trần Minh Quang* Mai Đức Dương**, Tạ Mạnh Hùng**, Hoàng Khánh Huyền**, Mai Hà Vy** Tóm tắt Nghiên cứu thực hiện nhằm phân tích và đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN) trong kết cấu hạ tầng (KCHT) giao thông đường bộ khu vực Đồng bằng Sông Hồng trong giai đoạn 2012 - 2021, đặc biệt là vấn đề chậm tiến độ đầu tư. Số liệu thu thập được trong nghiên cứu là ý kiến của các cá nhân thuộc các cơ quản quản lý nhà nước, các đơn vị chủ đầu tư, nhà thầu và tư vấn các dự án. Thông qua mô hình định lượng, kết quả nghiên cứu chỉ ra 5 yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng chậm tiến độ thực hiện đầu tư từ NSNN trong KCHT giao thông đường bộ khu vực Đồng bằng Sông Hồng, bao gồm: “Môi trường bên ngoài”, “Chính sách pháp lý”, “Năng lực của chủ đầu tư”, “Năng lực của nhà thầu thi công” và “Năng lực của đơn vị tư vấn.” Kết quả nghiên cứu làm cơ sở cho việc đề xuất một số hàm ý chính sách góp phần giảm thiểu tình trạng nói trên. Từ khóa: Đồng bằng Sông Hồng, chậm tiến độ, kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, ngân sách nhà nước, quản lý nhà nước 1. ĐẶT VẤN ĐỀ “Hệ thống giao thông vận tải (GTVT) được ví như mạch máu trong cơ thể, nền kinh tế của mỗi quốc gia muốn phát triển ổn định thì vấn đề phát triển mạng lưới GTVT có ý nghĩa quan trọng” (Hoàng Cao Liêm, 2018). Mở rộng ra, hạ tầng GTVT tốt sẽ không chỉ tạo ra nhiều thuận * Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh ** Trường Đại học Kinh tế Quốc dân 642
  2. KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022: ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 lợi thúc đẩy giao lưu, hợp tác kinh tế giữa các địa phương, khu vực, giảm bất bình đẳng về thu nhập trong xã hội, mà còn gia tăng chia sẻ, phát triển văn hóa, xã hội, gắn kết cộng đồng. “Xây dựng hệ thống KCHT đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn” chính là quan điểm phát triển KCHT giao thông được Đảng đặt ra trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011). Đại hội XIII (2021) vẫn kiên định với nhiệm vụ tiếp tục xây dựng hệ thống KCHT đồng bộ, trong đó, giao thông cần đi trước một bước để tạo nên đột phá chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đầu tư vào kết cấu hạ tầng GTVT, đặc biệt là giao thông đường bộ – loại hình giao thông phổ biến nhất ở nước ta được nâng lên thành hoạt động ưu tiên chú trọng, đặt ra các bài toán lớn về quản lý hoạt động đầu tư này, nhất là quản lý nhà nước đối với đầu tư từ NSNN tại các vùng. Đồng bằng Sông Hồng (Đồng bằng Bắc Bộ) là khu vực có điều kiện địa lý tự nhiên vô cùng thuận lợi để phát triển loại hình giao thông đường bộ, cũng địa bàn chiến lược về kinh tế - chính trị - xã hội của quốc gia, đã và đang nhận được nhiều sự quan tâm nhất về vấn đề phát triển KCHT giao thông đường bộ. Tính đến cuối năm 2020, diện tích và dân số của Đồng bằng Sông Hồng lần lượt là 21260,8 km2 và 22920,2 nghìn người (Tổng cục Thống kê, 2021), có nghĩa là khu vực này có diện tích nhỏ nhất, song lại là vùng đông dân cư nhất, tạo áp lực rất lớn về đất ở. Những đặc điểm nổi bật trên là căn cứ để việc đầu tư phát triển KCHT giao thông đường bộ cần được chú trọng, vừa giúp ổn định chính trị, thực hiện hiệu quả các chính sách quốc phòng - an ninh, vừa giúp kết nối lưu thông, giao lưu và phát triển kinh tế, vừa giải quyết bài toán khó từ xã hội. Những năm gần đây, hàng loạt dự án xây dựng KCHT giao thông đường bộ trọng điểm đã được triển khai thực hiện, nhiều công trình đã hoàn thành và đưa vào khai thác sử dụng, phát huy được tác dụng và ý nghĩa to lớn ở cả ba phương diện được liệt kê bên trên như: cao tốc Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, cao tốc từ Hà Nội toả ra các tỉnh Trung du và miền núi Bắc Bộ… Tuy nhiên, thực trạng đầu tư tại Đồng bằng Sông Hồng vẫn gặp nhiều hạn chế: bất cập của hệ thống pháp luật; áp lực gia tăng dân số tự nhiên và sự chuyển dịch của dân số từ nông thôn lên thành thị khiến cho giao thông đường bộ đô thị ngày càng quá tải; trình độ yếu kém của cán bộ quản lý; các tiêu cực xuất phát từ lợi ích nhóm, tham nhũng... Những nguyên nhân trên khiến nhiều dự án chậm tiến độ, không ít dự án có chất lượng thấp, nhanh xuống cấp, gây thất thoát, lãng phí nguồn lực. Bên cạnh đó, hạn chế chung của nhiều dự án là sự kết hợp quản lý đầu tư giữa các địa phương chưa có hiệu quả, phân bổ nguồn vốn gặp nhiều khó khăn, gây ra thực trạng “cha chung không ai khóc” đáng báo động…, cuối cùng dẫn đến hình ảnh giao thông đường bộ tại vùng Đồng bằng Sông Hồng vẫn chưa thực sự đẹp, thiếu tính đồng bộ, thống nhất. Từ những yêu cầu khách quan của thực tiễn, nội dung “Quản lý nhà nước đối với đầu tư từ ngân sách nhà nước trong kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ khu vực Đồng bằng Sông Hồng” đã được lựa chọn để nghiên cứu. 643
  3. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 2.1. Quản lý nhà nước với đầu tư từ ngân sách nhà nước trong kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ Quản lý nhà nước về đầu tư từ NSNN trong KCHT giao thông đường bộ là hoạt động quản lý nhà nước về đầu tư công trong một lĩnh vực cụ thể. Hoàng Cao Liêm (2018) định nghĩa quản lý nhà nước đối với đầu tư từ NSNN trong KCHT giao thông đường bộ khu vực là “việc các cơ quan nhà nước có chức năng, thẩm quyền sử dụng các công cụ chính sách và biện pháp quản lý thích hợp tác động một cách liên tục, có tổ chức, định hướng và mang tính pháp quyền vào các đơn vị và cá nhân thực hiện có liên quan, nhằm thực hiện mục tiêu của các dự án KCHT giao thông đường bộ khu vực, đáp ứng định hướng phát triển kinh tế - xã hội mà Nhà nước đã xác định trong từng thời kỳ”. Để quản lý hiệu quả cần phải có cơ chế quản lý phù hợp. Một cơ chế quản lý thông thường bao gồm những quy định về nội dung, trình tự công việc cần làm; tổ chức bộ máy để thực thi công việc và những quy định về trách nhiệm khi thực hiện các quy định đó (Ngô Thị Hương Lan, 2019). Love (2002) cho rằng, sự vắng mặt của tổ chức quản lý và hệ thống thông tin chất lượng có thể hỗ trợ về hoạt động quản lý trong các dự án xây dựng là rất nghiêm trọng. Tại Việt Nam, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư từ NSNN trong KCHT giao thông đường bộ đang ngày càng được chú trọng hơn, được nâng cấp và điều chỉnh để phù hợp với bối cảnh kinh tế, chính trị và xã hội của quốc gia (Nguyễn Thị Bình, 2013). Bên cạnh những ưu điểm, công tác này vẫn tồn tại không ít hạn chế, dẫn đến nhiều bất cập như: tình trạng chậm tiến độ hay thất thoát vốn nhà nước. Nguồn vốn đầu tư KCHT giao thông đường bộ thì ít nhưng lại được phân bổ vào quá nhiều dự án, do đó các dự án thường bị thiếu vốn dẫn đến phải điều chỉnh tiến độ, làm chi phí cũng phải điều chỉnh gia tăng, cuối cùng các dự án này chậm tiến độ đưa vào khai thác sử dụng và sử dụng hiệu quả không cao, do vậy đã gây ra nhiều tác động tiêu cực như: quản lý đầu tư công hiệu quả thấp, gia tăng sức ép của lạm phát trong nước, các cân đối vĩ mô khó thực hiện, làm gia tăng chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng, giữa các bộ phận dân cư trong xã hội; dẫn đến nguy cơ xuất hiện hiện tượng tiêu cực tham nhũng, làm méo mó cơ chế thị trường, hao hụt các nguồn lực của đất nước và làm suy giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế (Trần Văn Hồng, 2002). Có thể nói, nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng trên là công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư từ NSNN chưa thực sự mang lại hiệu quả cao và quá trình chuẩn bị đầu tư không kỹ lưỡng, bài bản; không lường trước được các vướng mắc phát sinh. Hệ quả tất yếu là phát sinh tranh chấp, lãng phí nguồn lực, đội vốn, tăng chi phí rất lớn (Trần Văn Hồng, 2002). Câu chuyện chậm tiến độ dự án, đội vốn hàng nghìn tỷ đồng ở các dự án xây dựng 644
  4. KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022: ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 KCHT giao thông đường bộ vừa qua là những bài học đắt giá, cần phải được nghiêm túc nhìn nhận, mổ xẻ để không tái lặp ở những dự án tiếp theo. 2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tiến độ đầu tư 2.2.1. Nhóm yếu tố về môi trường bên ngoài Yếu tố môi trường bên ngoài là “nhóm yếu tố không phát sinh từ những người tham gia vào quá trình đầu tư dự án công để làm chậm tiến độ và vượt dự toán mà hoàn toàn xuất phát từ nguyên nhân khách quan” (Vũ Quang Lãm, 2015). Nghiên cứu của Kaming và cộng sự (1997), Odeyinka và Oladapo (1997) đều chỉ ra các hạn chế từ môi trường như: điều kiện thời tiết không lường trước, thiếu hụt trang thiết bị… gây ảnh hưởng tiêu cực cho tiến độ của dự án. Đồng tình với quan điểm trên, trong bối cảnh nghiên cứu các dự án đầu tư được tài trợ bởi NSNN ở Việt Nam là công trình của Dương Quốc Bảo và Trần Quang Phú (2015), Lê Khánh Linh (2020). Tuy nhiên, Assaf và Hejji (2006), Vũ Quang Lãm (2015) lại cho rằng, các yếu tố môi trường bên ngoài không có mối tương quan với tiến độ của dự án. 2.2.2. Nhóm yếu tố về hệ thống thông tin quản lý Hệ thống thông tin quản lý có thể hiểu là hệ thống chứa đựng các thành tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng thực hiện việc tổng hợp, xử lý, lưu trữ và phân phối các thông tin, dữ liệu quan trọng trong hoạt động quản lý của một tổ chức. Sự chậm trễ trong cập nhật, phổ biến các thông tin thiết kế là một trong năm nguyên nhân quan trọng nhất gây ra những trì hoãn trong xây dựng tại Hồng Kông (Chan và Kumaraswamy, 1996). Owolabi và cộng sự (2014) cho rằng, việc thiếu trao đổi thông tin giữa các bên tham gia dự án là nhân tố có mức ảnh hưởng nhiều thứ 3/15 nhân tố gây chậm tiến độ dự án, trong khi thông tin từ tư vấn viên không đầy đủ là yếu tố xếp thứ 4/15. Trong đầu tư KCHT giao thông đường bộ từ NSNN, Dương Quốc Bảo và Trần Quang Phú (2015) đã xây dựng nhóm yếu tố về yếu kém trong hệ thống thông tin quản lý, bao gồm: việc phổ biến các quy định về quản lý đầu tư và xây dựng không được thực hiện kịp thời khi có sự thay đổi chính sách, thông tin về quy hoạch khu vực dự án không được phổ biến rộng rãi, thiếu trao đổi thông tin giữa các bên tham gia dự án và chỉ ra tác động thuận chiều giữa những yếu kém trên đối với chậm tiến độ đầu tư. 2.2.3. Nhóm yếu tố về chính sách pháp lý Nhóm yếu tố về chính sách pháp lý được đề cập trong nhiều nghiên cứu dưới dạng những rào cản từ luật pháp hoặc chính quyền. Dương Quốc Bảo và Trần Quang Phú (2015) cho rằng, các chính sách về đầu tư, đấu thầu và hợp đồng vẫn còn nhiều hạn chế có tác động thuận chiều đáng kể đến sự chậm trễ trong tiến độ thực hiện các dự án dùng NSNN trong giao thông đường bộ. Sharma (2019) cũng xác nhận thay đổi trong chính sách và pháp luật là yếu tố quan trọng thứ hai dẫn đến tình trạng chậm tiến độ đầu tư, chỉ ngay sau những yêu 645
  5. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA cầu thay đổi về công nghệ đến từ chủ đầu tư. Tuy nhiên, theo Assaf và Hejji (2006), những thay đổi trong quy định của Chính phủ, luật pháp và sự cấp phép chậm trễ của chính quyền địa phương ít gây ra ảnh hưởng tới tiến độ dự án. Đồng tình với quan điểm này, Vũ Quang Lãm (2015) khẳng định các yếu tố pháp lý dù không ổn định hay phức tạp, rườm ra không hề gây ra tác động nào đến tiến độ dự án. 2.2.4. Nhóm yếu tố về năng lực của chủ đầu tư Chủ đầu tư là tổ chức sở hữu vốn hoặc tổ chức được giao thay mặt chủ sở hữu vốn, tổ chức vay vốn trực tiếp quản lý quá trình thực hiện dự án (Luật Đấu thầu 2013 số 43/2013/QH13). Đây được xem là người có trách nhiệm lớn trước pháp luật về việc đảm bảo chất lượng và tiến độ thi công của dự án, giải trình chi phí về vốn đầu tư theo quy định. Theo Ngacho (2013), năng lực của chủ đầu tư bao gồm kiến thức, sự tự tin và kinh nghiệm với các loại dự án khác nhau. Chủ đầu tư có đủ năng lực tốt sẽ giúp công tác quản lý dự án và giám sát công trình trở nên tốt hơn, tăng khả năng hoàn thành đúng tiến độ của dự án. Một yếu tố quyết định đáng kể sự chậm trễ của dự án là sự yếu kém phối hợp giữa các bên, trong hầu hết các trường hợp bao gồm chủ sở hữu, nhà thầu và tư vấn (Al-Emad và cộng sự, 2017). Nghiên cứu của Shahsavand và cộng sự (2018), Arantes và Ferreira (2020) đều cho rằng, các nhân tố liên quan đến quyết định của chủ đầu tư, điển hình là ra quyết định chậm trễ và thay đổi các yêu cầu trong quá trình xây dựng sẽ làm cho các dự án trở nên chậm hơn. 2.2.5. Nhóm yếu tố về năng lực của nhà thầu thi công Năng lực của nhà thầu thi công được xem xét trên các khía cạnh như: năng lực về tài chính; công tác quản lý, tổ chức thi công; phương pháp, thiết bị thi công; đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề; việc phối hợp với chủ đầu tư và tư vấn (Vũ Quang Lãm, 2015). Năng lực của nhà thầu thi công cần được đánh giá và quan tâm, bởi đây là nhân tố có thể kiểm soát ngay từ ban đầu khi dự án chưa thực hiện (Lê Khánh Linh, 2020). Theo Alzahrani và Emsley (2013), nhà thầu có vai trò quyết định trong việc hoàn thành công trình theo kế hoạch, đảm bảo về khối lượng, chất lượng và tiến độ trong hợp đồng bởi họ sẽ trực tiếp quản lý, điều hành và xây dựng công trình. Các vật liệu, vật tư, máy móc, trang thiết bị thi công và nhân lực thi công sẽ được nhà thầu cung cấp trong suốt quá trình xây dựng. Al-Emad và cộng sự (2017) báo cáo rằng, các vấn đề tài chính của các nhà thầu gây ra sự chậm trễ theo nhiều cách khác nhau bao gồm sự chậm trễ trong việc thanh toán của các nhà thầu phụ và chậm khởi công dự án ngay sau khi nó được trao. Các nhà thầu thiếu lực lượng lao động tay nghề cao, áp dụng phương pháp thi công lạc hậu, không còn phù hợp hay gặp khó khăn về tài chính, trang thiết bị thi công quá cũ kỹ, vận hành kém sẽ làm giảm chất lượng, hiệu quả của dự án đầu tư. 646
  6. KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022: ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 2.2.6. Nhóm yếu tố về năng lực của đơn vị tư vấn Lực lượng tư vấn – những người có kinh nghiệm và trình độ chuyên sâu về thiết kế – sẽ tích cực tham gia giúp chủ đầu tư trong các dự án, từ khâu lập dự án đến khảo sát, thiết kế công trình, giám sát nhà thầu thực hiện dự án, mua sắm trang thiết bị và nghiệm thu bàn giao công trình vào sử dụng. Theo ALwaer và Clements-Croome (2010), Kaming và cộng sự (1997), các vấn đề như sự phức tạp của các thiết kế, thay đổi thiết kế ban đầu có thể dẫn đến sự thay đổi về mặt thời gian và chi phí hoàn thành dự án. Khó khăn trong cuộc khảo sát địa điểm trước thiết kế, sự thiếu đồng nhất giữa các cán bộ tư vấn hay các các tình huống không thể đoán trước trong quá trình xây dựng sẽ khiến cho năng lực của tư vấn bị hạn chế, dẫn đến quá trình thực hiện dự án bị chậm trễ. Hahsavand và cộng sự (2018) cũng cho rằng, chính sự chủ quan, thiếu chủ động trong hành động của đơn vị tư vấn sẽ kéo theo sự chậm trễ của việc thực hiện các dự án. 3. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Dữ liệu nghiên cứu Tổng số phiếu khảo sát phát cho các chủ thể có liên quan là 500 phiếu nhưng chỉ có 424 phiếu được kiểm tra hợp lệ. Trong đó, phiếu khảo sát được trả lời bởi chủ đầu tư (12,5%), nhà thầu thi công (34,7%), đơn vị tư vấn (35,1%), cán bộ quản lý nhà nước (17,7%). Nhóm tác giả sử dụng thang đo Likert 5 thứ bậc để lượng hóa và sử dụng phần mềm SPSS 20 và AMOS 20 để phân tích số liệu. 3.2. Mô hình và giả thuyết nghiên cứu Nhóm tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu bao gồm 01 biến phụ thuộc và 06 biến độc lập. Trong đó, biến phụ thuộc là “Tình trạng chậm tiến độ thực hiện đầu tư từ NSNN trong KCHT giao thông đường bộ”; biến độc lập là các nhân tố gồm (1) “Môi trường bên ngoài”; (2) “Hệ thống thông tin quản lý”; (3) “Chính sách pháp lý”; (4) “Chủ đầu tư”; (5) “Nhà thầu thi công”; và (6) “Đơn vị tư vấn”. 647
  7. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA Hình 1. Mô hình nghiên cứu đề xuất Nguồn: Nhóm nghiên cứu xây dựng Bảng 1. Các giả thuyết nghiên cứu Giả Nội dung thuyết Có mối quan hệ cùng chiều giữa các yếu tố tiêu cực từ môi trường bên ngoài và tình trạng chậm tiến độ thực hiện đầu tư H1 từ NSNN trong KCHT giao thông đường bộ. Có mối quan hệ cùng chiều giữa hệ thống thông tin quản lý kém hiệu quả và tình trạng chậm tiến độ thực hiện đầu tư từ H2 NSNN trong KCHT giao thông đường bộ. Có mối quan hệ cùng chiều giữa chính sách, thủ tục pháp lý không ổn định, thuận tiện và tình trạng tiến độ thực hiện đầu H3 tư từ NSNN trong KCHT giao thông đường bộ. Có mối quan hệ cùng chiều giữa năng lực yếu kém của chủ đầu tư và tình trạng chậm tiến độ thực hiện đầu tư từ NSNN H4 trong KCHT giao thông đường bộ. Có mối quan hệ cùng chiều giữa năng lực yếu kém của nhà thầu thi công và tình trạng chậm tiến độ thực hiện đầu tư từ H5 NSNN trong KCHT giao thông đường bộ. Có mối quan hệ cùng chiều giữa năng lực yếu kém của đơn vị tư vấn thiết kế và tình trạng chậm tiến độ thực hiện đầu tư H6 từ NSNN trong KCHT giao thông đường bộ. Nguồn: Nhóm nghiên cứu xây dựng 648
  8. KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022: ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1. Kết quả nghiên cứu định lượng 4.1.1. Đánh giá độ tin cậy của thang đo Bảng 2. Kết quả phân tích độ tin cậy qua hệ số Cronbach’s Alpha Biến quan sát Mã hóa Số biến Mức giá trị hệ số Cronbach’s Alpha Môi trường bên ngoài ENV 7 0,927 Hệ thống thông tin quản lý INF 3 0,788 Chính sách pháp lý POL 4 0,826 Chủ đầu tư INV 7 0,936 Nhà thầu thi công CONT 7 0,905 Đơn vị tư vấn CONS 8 0,862 Tình trạng chậm tiến độ DEL 3 0,797 Nguồn: Kết quả khảo sát (2022) Kết quả phân tích Cronbach’s Alpha (Bảng 2) cho thấy các thang đo đều đạt độ tin cậy (hệ số Cronbach’s Alpha lớn hơn 0,6; hệ số tương quan với biến-tổng đều lớn hơn 0,3). Như vậy, 6 thành phần: ENV, INF, POL, INV, CONT, CONS trong thang đo tình trạng chậm tiến độ thực hiện đầu tư từ NSNN trong KCHT giao thông đường bộ với 36 biến quan sát đạt độ tin cậy Cronbach’s Alpha được đưa vào phân tích nhân tố khám phá EFA. Kết quả phân tích EFA (Bảng 3) cho thấy hệ số KMO > 0,5, mức ý nghĩa 1% (sig. = 0,000), tổng phương sai trích lớn hơn 50% (66,014%) cho biết 6 yếu tố này giải thích được 66,014% biến thiên của dữ liệu. Hệ số tải nhân tố của các biến quan sát đều > 0,5 cho thấy biến quan sát có ý nghĩa thống kê tốt. 649
  9. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 4.1.2. Kết quả phân tích nhân tố khẳng định Hình 2. Kết quả phân tích nhân tố khẳng định CFA Nguồn: Kết quả khảo sát (2022) Kết quả phân tích CFA các chỉ tiêu đo lường độ phù hợp của mô hình cho thấy, giá trị Chi-square/df = 2,143 < 3; GFI = 0,849 lớn hơn 0,8 và nhỏ hơn 0,9; TLI = 0,913; CFI = 0,920 đều lớn hơn 0,9, hệ số RMSEA = 0,052 < 0,06 và PCLOSE = 0,186 > 0,05. Các chỉ số đều đạt mức độ phù hợp, vì thế mô hình có sự phù hợp với thị trường. 650
  10. KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022: ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 4.1.3. Kiểm định mô hình lý thuyết Hình 3. Kết quả SEM của mô hình lý thuyết Nguồn: Kết quả khảo sát (2022) Để đánh giá chất lượng biến quan sát trong SEM, nhóm đã đánh giá dựa vào dựa vào hai bảng kết quả là Regression Weights và Squared Multiple Correlations. Bảng 4. Bảng chỉ số Regression Weights Estimate S.E. C.R. P Label DEL
  11. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA Sử dụng tiêu chuẩn độ tin cậy 95%, giá trị P-value của biến INF tác động lên biến DEL là 0,712 > 0,05  biến INF không có sự tác động lên DEL. Các biến còn lại đều có giá trị P-value < 0,05, do đó, các mối quan hệ này đều có ý nghĩa. Như vậy, có 5 biến còn lại có tác động lên DEL. Bảng 5. Squared Multiple Correlations Estimate DEL 0,489 Nguồn: Kết quả khảo sát, (2022) Giá trị R2 hiệu chỉnh phản ánh mức độ ảnh hưởng của các biến độc lập lên biến phụ thuộc. Cụ thể, trong trường hợp này 6 biến độc lập đưa vào ảnh hưởng 48,9% sự thay đổi của biến phụ thuộc, còn lại 51,1% là do các biến ngoài mô hình và sai số ngẫu nhiên. 4.2. Thảo luận kết quả nghiên cứu Nhóm yếu tố về năng lực yếu kém của đơn vị tư vấn có ảnh hưởng thuận chiều mạnh nhất đến sự chậm trễ trong thực hiện đầu tư. Điều này có nghĩa là đơn vị tư vấn thiết kế trong vai trò những người đưa ra ý kiến tham khảo cho các chủ thể tham gia thực hiện đầu tư có hành vi chủ quan, bị động, có năng lực chuyên môn không cao dễ kéo theo sự chậm trễ của việc thực hiện các dự án. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu trước của Kaming và cộng sự (1997); ALwaer và Clements-Croome (2010), Shahsavand và cộng sự (2018). Tháng 7/2021, Bộ GTVT đã thừa nhận vẫn còn tình trạng chậm khởi công chủ yếu do tư vấn thiết kế chậm hoàn thành hồ sơ thiết kế, dự toán; chậm hoàn thành tại một số dự án, điển hình là Dự án kết nối giao thông phía Bắc có liên quan đến tuyến cao tốc Nội Bài - Lào Cai. Mới đây nhất, Bộ GTVT tiếp tục chi ra hạn chế của Dự án kết nối giao thông này là sự phối hợp giữa Ban Quản lý dự án 2 và các đơn vị tư vấn chưa tốt, chưa thể hiện hết vai trò, trách nhiệm của các chủ thể, năng lực nhân sự của đơn vị tư vấn còn hạn chế… Tại các tỉnh thành trong khu vực Đồng bằng Sông Hồng, hiện tượng phải thay đổi thiết kế do không phù hợp cũng thường xuyên phát sinh, khiến nhiều công trình đường bộ không thể hoàn thành đúng với kế hoạch. Yếu tố có ảnh hưởng thuận chiều đến tình trạng chậm trễ tiếp theo là nhóm yếu tố về chính sách pháp lý. Các chính sách, thủ tục pháp lý rườm rà cản trở việc các bên tham gia tiếp cận các dự án. Trong quá trình thực hiện đầu tư, các chính sách về đầu tư, đấu thầu, hợp đồng không rõ ràng sẽ làm mất thời gian của đôi bên khi giải quyết vấn đề. Điều này phù hợp với các nghiên cứu trước đây của Assaf và Hejji (2006), Dương Quốc Bảo và Trần Quang Phú (2015), Vũ Quang Lãm (2015), Sharma (2019). Trong thực tế, bất kỳ loại hình đầu tư nào, trong lĩnh vực nào cũng đều phải trải qua rất nhiều thủ tục hành chính phức tạp, gây tốn kém rất nhiều thời gian để một bộ hồ sơ hoàn chỉnh có thể chính thức được cấp phép có hiệu lực. 652
  12. KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022: ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 Cùng với đó, hệ thống chính sách tại Việt Nam đang không ngừng được cải thiện do vẫn tồn tại hạn chế, do đó, chậm trễ trong quá trình đầu tư là khó tránh khỏi. Nhóm yếu tố về năng lực của nhà thầu thi công cũng có ảnh hưởng tới trình trạng chậm trễ thực hiện đầu tư. Kết quả này có sự tương đồng với nghiên cứu của Alzahrani và Emsley (2013), Vũ Quang Lãm (2015), Al-Emad và cộng sự (2017). Nhà thầu chính là đơn vị trực tiếp tạo ra sản phẩm là các công trình hoàn thiện. Việc áp dụng phương pháp thi công, công nghệ thi công không phù hợp kết hợp với máy móc thiết bị cũ kỹ sẽ làm chậm quá trình thực hiện dự án, ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình đầu tư. Sự thiếu liên kết của nhà thầu thi công và các bên liên quan cũng làm quá trình thi công diễn ra chậm trễ khi phải mất thời gian giải quyết các vấn đề khúc mắc. Trên thực tế, những năm qua, không ít dự án bị chậm tiến độ còn xuất phát từ sự thiếu hụt về tài chính của nhà thầu, tiêu biểu là các dự án tại Nam Định, sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ là chủ yếu, do đó, khi việc huy động gặp khó khăn, nhà thầu cũng dễ trở nên bị động về tài chính hơn, làm cho nhiều dự án phải giãn tiến độ tới hơn hai năm. Nhóm yếu tố về môi trường bên ngoài như: thời tiết, điều kiện tự nhiên, giá cả, lạm phát, dịch bệnh… là yếu tố mà các bên tham gia khó có thể dự đoán được. Tuy đa số yếu tố này thường xuất hiện trong thời gian ngắn nhưng lại để quả rất nhiều hệ lụy lâu dài đến tiến độ thực hiện đầu tư. Nghiên cứu của Odeyinka và Oladapo (1997), Dương Quốc Bảo và Trần Quang Phú (2015), Lê Khánh Linh (2020) cũng cho thấy sự tương quan này. Với đặc thù của các công trình giao thông, phần lớn các công tác trên công trường đều diễn ra ngoài trời thì sự thay đổi bất lợi về thời tiết có ảnh hưởng rất lớn đến việc thi công: không thể làm việc, năng suất lao động giảm sút, sức khỏe công nhân bị giảm sút…. Điều này dẫn đến công tác xử lý gặp phức tạp, gây tốn kém nhiều tiền của, thời gian thi công kéo dài mà chất lượng công trình thì khó được đảm bảo. Yếu tố giá cả, lạm phát có thể ảnh hưởng đến tiến độ thông qua việc đền bù giải phóng mặt bằng không thỏa mãn người dân, giá thành nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị nhập vào cũng như cước phí vận chuyển tăng cao. Trong hai năm (2020 - 2021), sự xuất hiện của đại dịch COVID-19 tại Việt Nam gây ra những xáo trộn mới trong phương thức làm việc, nhiều dự án cũng phải đóng băng, nằm đắp chiếu do không thể đảm bảo số lượng nhân sự để hoạt động. Yếu tố cuối cùng có ảnh hưởng đến sự chậm trễ trong quá trình thực hiện đầu tư là nhóm yếu tố về năng lực của chủ đầu tư. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu của Ngacho (2013), Shahsavand và cộng sự (2018). Qua đây, ta có thể thấy chủ đầu tư có đủ năng lực tốt sẽ giúp công tác quản lý dự án và giám sát công trình trở nên tốt hơn, tăng khả năng hoàn thành đúng tiến độ của dự án. Đối với những dự án đầu tư công, chủ đầu tư thường được lựa chọn rất kỹ lưỡng và chủ yếu có liên quan đến các cơ quan nhà nước để việc kiểm soát được thực hiện một cách dễ dàng. Do đó, mối tương quan này là không cao. Tuy nhiên, nó vẫn có 653
  13. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA ý nghĩa do trong quá trình đầu tư, không thể tránh khỏi những sai lầm đến từ đơn vị này, một khi đã xảy ra, nó sẽ để lại hậu quả khá nghiêm trọng với tiến độ đầu tư. Nhóm nhân tố liên quan đến hệ thống thông tin quản lý không có ý nghĩa thống kê trong mô hình nghiên cứu. Kết quả này không tương đồng với một số nghiên cứu trước đây như nghiên cứu của Dương Quốc Bảo và Trần Quang Phú (2015), Chan và Kumaraswamy (1996). Điều này có thể rút ra rằng, với sự phát triển của công nghệ thông tin, người dân và các bên tham gia có thể nắm bắt kịp thời thông tin được sửa đổi, bổ sung. Ngoài ra, trong các dự án đầu tư công đều có sự tham gia của ít nhất một cơ quan nhà nước, do đó, họ sẽ là người chịu trách nhiệm cho việc phổ biến quy định đến mọi người. 5. HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Đối với nhóm yếu tố về môi trường bên ngoài Để củng cố và nâng cao tiến độ thực hiện đầu tư từ NSNN trong KCHT giao thông đường bộ, các cơ quan nhà nước cần lưu ý, giải quyết về yếu tố thời tiết một phần nếu khắc phục không tốt có thể gây nên những sự cố trong thi công. Bên cạnh đó, cần đưa ra mức đầu tư, tổng dự toán dành cho dự phòng để xử lý các phát sinh do tình trạng lạm phát và giá cả vật liệu tăng ngoài tầm kiểm soát xảy ra. Đối với nhóm yếu tố về chính sách pháp lý Mọi công tác thực hiện trong quá trình đầu tư từ NSNN trong KCHT giao thông đường bộ khu vực Đồng bằng Sông Hồng cần được quy định rõ ràng để bảo đảm việc tuân thủ nghiêm kỷ luật đầu tư theo kế hoạch, quy hoạch của Nhà nước, hạn chế việc bổ sung, thay đổi danh mục dự án một cách tuỳ tiện. Đặc biệt, trong quá trình triển khai thực hiện chính sách, cần đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện các nguyên tắc của đầu tư công. Đồng thời, các cơ quan nhà nước cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong việc xử lý thủ tục về đầu tư công. Đối với nhóm yếu tố liên quan đến chủ đầu tư Các dự án đầu tư chậm tiến độ thường do các chủ đầu tư kém năng lực trong quản lý dự án. Do đó, đầu tiên, cần phải tổ chức đào tạo, bồi dưỡng mang tính bắt buộc cho các lãnh đạo đơn vị được giao làm chủ đầu tư, các bộ phận giúp việc của chủ đầu tư, và các cá nhân tham gia ban quản lý dự án đầu tư công. Ngoài ra, cần nâng cao trách nhiệm của chủ đầu tư thông qua cơ chế đãi ngộ hoặc chế tài về tài chính. Trách nhiệm của chủ đầu tư rất lớn nhưng thu nhập của các chủ đầu tư thì không tương xứng với trách nhiệm được giao, dẫn đến hiệu quả quản lý kém. 654
  14. KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022: ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 Đối với nhóm yếu tố liên quan đến nhà thầu thi công Ngay từ khi lựa chọn nhà thầu thi công, cần có công tác thẩm định chặt chẽ trong việc lựa chọn, đặc biệt trong quá trình đấu thầu cần tránh tình trạng lựa chọn nhà thầu giá rẻ nhưng năng lực thi công còn nhiều hạn chế khiến nhiều công trình bị chậm tiến độ, không đảm bảo chất lượng. Ngoài ra, cần có những chế tài về việc vi phạm về tiến độ công trình đối với nhà thầu. Theo đó, cần phải quy định rõ về mức phạt khi hoàn thành chậm tiến độ do lỗi chủ quan của nhà thầu. Trong trường hợp chậm tiến độ vì lý do khách quan, các nhà thầu cần phải được thanh toán bổ sung các chi phí phát sinh do đình trệ thi công công trình. Đối với nhóm yếu tố liên quan đến đơn vị tư vấn Để bảo đảm chất lượng, trước hết, chủ đầu tư phải tổ chức lựa chọn được đơn vị tư vấn thật sự có năng lực, kinh nghiệm phù hợp với từng loại dự án theo đúng quy định của Luật Đấu thầu. Đồng thời, có biện pháp chế tài nghiêm khắc dành cho đơn vị tư vấn để tránh xảy ra các sai sót, ảnh hưởng đến quá trình thực hiện đầu tư. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Al-Emad, N., Abdul Rahman, I., Nagapan, S., & Gamil, Y. (2017), “Ranking of delay factors for Makkah’s construction industry”, MATEC web of conferences, 103, 03001. 2. ALwaer, H., & Clements-Croome, D. J. (2010), “Key performance indicators (KPIs) and priority setting in using the multi-attribute approach for assessing sustainable intelligent buildings”, Building and Environment, 45(4), 799 - 807. 3. Alzahrani, J. I., & Emsley, M. W. (2013), “The impact of contractors’ attributes on construction project success: A post construction evaluation”, International Journal of Project Management, 31(2), 313 - 322. 4. Anand Rajaram, Tuan Minh Le, Tuan Minh Le, Nataliya Biletska, & Jim Brumby (2010), “A diagnostic framework for assessing public investment management”. 5. Anderson, E., De Renzio, P., Levy, S., & Overseas Development Institute London, E. (2006), “The role of public investment in poverty reduction: Theories, evidence and methods”, Overseas Development Institute. 6. Arantes, A., & Ferreira, L. M. D. F. (2020), “Underlying causes and mitigation measures of delays in construction projects: An empirical study”, Journal of Financial Management of Property and Construction, 25(2), 165 - 181. 7. Assaf, S. A., & Al-Hejji, S. (2006), “Causes of delay in large construction projects”, International Journal of Project Management, 24(4), 349 - 357. 655
  15. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA 8. Chan, D. W. M., & Kumaraswamy, M. M. (1996), “An evaluation of construction time performance in the building industry”, Building and Environment, 31(6), 569 - 578. 9. Dương Quốc Bảo và Trần Quang Phú (2015), “Các nhân tố ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện các dự án giao thông đường bộ sử dụng vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn các tỉnh Nam Trung Bộ”, Báo Xây dựng, tr. 132 - 134. 10. Giang, D. T. H., & Pheng, L. S. (2015), “Critical factors affecting the efficient use of public investments in infrastructure in Vietnam”, Journal of Infrastructure systems. 11. Hoàng Cao Liêm (2018), “Quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ từ ngân sách nhà nước tại tỉnh Hà Nam”, Luận án Tiến sĩ Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 12. Huỳnh Phạm Khánh Ngọc (2017), “Quản lý nhà nước về đầu tư công tại Thành phố Hồ Chí Minh”, Luận văn Thạc sĩ Quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia. 13. Jaejoon Woo. (2006), “Economic, political, and institutional determinants of public deficits”, The political economy of fiscal policy: Public deficits, volatility, and growth Vol 570, pp. 77 - 116. Springer-Verlag. 14. Kaming, P. F., Olomolaiye, P. O., Holt, G. D., & Harris, F. C. (1997), “Factors influencing construction time and cost overruns on high-rise projects in Indonesia”. 15. Lê Khánh Linh (2020), “Các nhân tố ảnh hưởng đến tiến độ hoàn thành dự án xây dựng sử dụng vốn ngân sách nhà nước tại tỉnh Cà Mau”, Báo Camautech. 16. Love, P. E. (2002), “Xây dựng nghiên cứu về ảnh hưởng của loại hình dự án và phương thức hoạt động về chi phí sửa chữa trong việc xây dựng các dự án xây dựng”, Tạp chí Quản lý và Kỹ thuật. 17. Ngacho, C. (2013), “An assessment of the performance of public sector construction projects: An empirical study of projects funded under constituency 147 development fund (Cdf) in western province, Kenya”. pp. 218. 18. Ngô Thị Hương Lan (2019), “Quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Hà Nam”, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Thương mại. 19. Nguyễn Quang Đức (2020), “Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả mô hình hợp tác công -tư (PPP) trong đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông vận tải ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. 656
  16. KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2021 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2022: ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ LÀNH MẠNH TÀI CHÍNH TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH COVID-19 20. Nguyễn Thị Bình (2013), “Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với đầu tư xây dựng cơ bản từ vốn ngân sách trong ngành giao thông vận tải Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. 21. Nguyễn Thị Hồng Minh (2016), “Quản lý nhà nước đối với dự án đầu tư theo hình thức đối tác công - tư trong xây dựng hạ tầng giao thông đường bộ Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. 22. Odeyinka, H., & Oladapo, A. (1997), “The causes and effects of construction delays on completion cost of housing project in Nigeria”, Journal of Financial Management of Property and Construction, 2. 23. Owolabi James, D., Olusanya, O., & Tunji-Olayeni, P. (2014), “Causes and effect of delay on project construction delivery time”. 24. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2013), Luật Đấu thầu, Luật số 43/2013/QH13. 25. S. Chiavo-Campo & P.S.A. Sundaram. (2003), Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính công trong một thế giới cạnh tranh, NXB Chính trị Quốc gia. 26. Shahsavand, P., Marefat, A., & Parchamijalal, M. (2018), “Causes of delays in construction industry and comparative delay analysis techniques with SCL protocol”, Engineering, Construction and Architectural Management, 25(4), 497 - 533. 27. Sharma, M. (2019), “Addressing construction delays in construction projects in Gwalior”, International Journal for research in applied science and engineering technology, 7(3), 272 - 279. 28. Straub, S. (2008), Infrastructure and growth in developing countries: Recent advances and research challenges. 29. Tổng cục Thống kê (2021), Niêm giám thống kê tóm tắt năm 2020. 30. Trần Văn Hồng (2002), “Đổi mới cơ chế quản lý sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước”, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Tài chính. 31. Vũ Quang Lãm (2015), “Các yếu tố ảnh hưởng đến chậm tiến độ và vượt dự toán dự án đầu tư công tại Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. 657
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1