Quan Niệm Chung Về Hệ Thống Chính Trị Của Nước Ta<br />
<br />
1. Quan niệm chung về hệ thống chính trị xã hội<br />
Có thể nói rằng, nếu không tiếp cận khái niệm hệ thống chính trị xã hội, không thể <br />
nhận thức được một cách đầy đủ và sâu sắc về vị trí, vai trò của các thiết chế xã hội <br />
hiện đại.<br />
<br />
Trong thực tế đời sống chính trị xã hội ở nước ta, thời gian qua có một số tổ chức xã <br />
hội nghề nghiệp đã phát triển thành tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp. Nhưng <br />
cho đến nay, giới khoa học pháp lí và chính trị nước ta mới chỉ đề cập tới hệ thống <br />
chính trị với ý nghĩa là hệ thống các thiết chế chính trị và chính trị xã hội gồm Đảng, <br />
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn thể quần chúng chứ chưa <br />
nghiên cứu hệ thống chính trị xã hội với ý nghĩa là một hệ thống rộng lớn hơn, trong <br />
đó không chỉ có các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội mà còn có cả một số tổ <br />
chức chính trị xã hội nghề nghiệp và các tổ chức xã hội khác.<br />
<br />
Quan niệm về hệ thống chính trị xã hội như vậy có ý nghĩa rất quan trọng trong điều <br />
kiện xây dựng và phát huy nền dân chủ, xây dựng nền kinh tế thị trường và nhà nước <br />
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Bởi lẽ, quyền lực chính trị trong điều kiện <br />
hiện nay không chỉ thể hiện vai trò của các thiết chế chính trị, chính trị xã hội mà nó <br />
còn có xu hướng chịu ảnh hưởng ngày càng lớn bởi các thiết chế xã hội. Sự tác động <br />
trực tiếp, mạnh mẽ và nhiều chiều của các yếu tố kinh tế xã hội đến kiến trúc <br />
thượng tầng chính trị là một sự tác động mang tính quy luật trong các xã hội hiện đại. <br />
Điều này có ảnh hưởng lớn đối với quá trình xây dựng và củng cố nền dân chủ, muốn <br />
hay không, chúng ta cần phải nhận thức được một cách đầy đủ.<br />
<br />
Từ suy nghĩ trên, trong phạm vi bài viết này, tôi xin nêu quan niệm của mình về hệ <br />
thống chính trị xã hội Việt Nam hiện nay như sau: Hệ thống chính trị xã hội Việt <br />
Nam là hệ thống các thiết chế chính trị, chính trị xã hội và các thiết chế xã hội khác <br />
gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể quần chúng và các <br />
tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội rộng lớn của nhân dân; cơ chế vận hành các <br />
thiết chế đó dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, <br />
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Quan niệm về hệ thống chính trị <br />
xã hội như thế được hình thành trên cơ sở gắn kết giữa hai hệ thống thiết chế xã hội <br />
là hệ thống chính trị (hệ thống thiết chế trực tiếp thực hiện quyền lực chính trị) và hệ <br />
thống xã hội. Trong điều kiện xây dựng cơ chế thực hiện và đảm bảo quyền lực nhân <br />
dân ở nước ta hiện nay, sự gắn kết của hai hệ thống ấy thành một hệ thống lớn là <br />
điều có ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc và cần được chú trọng nghiên cứu cả về lí <br />
luận và thực tiễn.<br />
<br />
Từ trước, chúng ta vẫn nhận thức chung rằng đặc điểm của hệ thống chính trị nước ta <br />
là tính thống nhất cao dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Hệ thống <br />
chính trị nước ta không phải là hệ thống của các thiết chế đối lập nhau về lợi ích. <br />
Đảng là một thành viên của hệ thống đó nhưng Đảng giữ vai trò lãnh đạo. Vai trò lãnh <br />
đạo của Đảng là một tất yếu lịch sử không thể phủ nhận... Trong điều kiện hiện nay, <br />
nhận thức đó vẫn không sai nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ. Sự tham gia của các lực <br />
lượng xã hội vào hoạt động chung của hệ thống chính trị xã hội đã làm thay đổi tính <br />
chất thuần nhất của hệ thống chính trị truyền thống. Kết quả hoạt động của cả hệ <br />
thống này là sản phẩm của sự tương tác (tác động qua lại) về chính trị xã hội rất đa <br />
dạng. Trong tính thống nhất của lợi ích quốc gia, dân tộc vẫn có sự đa dạng và phong <br />
phú về lợi ích của những nhóm xã hội khác nhau. Nền chính trị hiện đại không thể là <br />
sản phẩm của riêng hệ thống chính trị như quan niệm truyền thống mà tất yếu phải là <br />
kết quả của cả hệ thống chính trị xã hội, trong đó lợi ích vẫn là động lực chính quy <br />
định và thúc đẩy hoạt động của mỗi nhóm xã hội. Như thế, để phát huy vai trò lãnh <br />
đạo của Đảng, cần đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt động của Đảng đồng thời <br />
nêu cao vai trò của tất cả các thiết chế trong toàn bộ hệ thống chính trị xã hội đó.<br />
<br />
Đặc trưng của hệ thống chính trị xã hội Việt Nam như vừa nêu phản ánh tính riêng <br />
biệt và cả tính phổ biến của hệ thống chính trị xã hội nước ta trong mối liên hệ so <br />
sánh với hệ thống chính trị xã hội các nước trên thế giới. So với hệ thống chính trị <br />
trước đây, chúng ta đã ghi nhận sự hiện diện của các thiết chế xã hội, của quyền lực <br />
xã hội trong một hệ thống chung là hệ thống chính trị xã hội (Việc khẳng định mối <br />
liên hệ thống nhất hữu cơ giữa các thiết chế chính trị, chính trị xã hội với các thiết <br />
chế xã hội trong cùng một hệ thống như vậy có thể được coi là điểm mới trong nhận <br />
thức về chính trị của chúng ta ở giai đoạn hiện nay hay không, tác giả xin được tiếp <br />
tục trao đổi cùng bạn đọc trong những nghiên cứu ở một phạm vi khác).<br />
<br />
Với cách nhận thức thống nhất giữa quyền lực chính trị và xã hội, chúng ta có thể xác <br />
định được cấu trúc của hệ thống chính trị xã hội Việt Nam. Hệ thống đó gồm Đảng, <br />
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức xã hội rộng lớn <br />
của nhân dân.<br />
Trong hệ thống chính trị xã hội ngày nay, điểm mới đáng chú ý so với cấu trúc của <br />
hệ thống chính trị như trước đây là sự hiện diện của các tổ chức xã hội rộng lớn của <br />
nhân dân, đặc biệt là các hội đoàn trong lĩnh vực kinh tế xã hội, các tổ chức hiệp hội <br />
nghề nghiệp, kinh doanh, dịch vụ xã hội... Tuy không trực tiếp thực hiện các nhiệm <br />
vụ chính trị của Đảng và Nhà nước nhưng trong điều kiện của nền dân chủ XHCN, <br />
để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên, các tổ chức này có tác động <br />
ngày càng to lớn đến đời sống kinh tế chính trị của đất nước. Đảng, Nhà nước không <br />
quản lí trực tiếp đối với các tổ chức này nhưng có mối liên hệ mật thiết với các tổ <br />
chức đó. Đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước có được xây dựng và <br />
thực thi tốt hay không, nhất là các vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích <br />
của các thành viên tổ chức hiệp hội, không thể không tính đến vai trò và sự tác động <br />
tích cực của các tổ chức xã hội. Với ý nghĩa đó thì có thể quan niệm, các tổ chức xã <br />
hội được coi là hệ thống phản biện của hệ thống chính trị. Hoạt động tư vấn, giám <br />
định và phản biện xã hội đối với đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của <br />
Đảng và Nhà nước phải được coi là hoạt động cơ bản và thể hiện sinh động nhất vai <br />
trò mới, rất tích cực của các tổ chức hiệp hội kinh tế xã hội. Do vậy, cơ chế chính trị <br />
pháp lí để vận hành mối liên hệ giữa hệ thống chính trị và hệ thống xã hội như đã <br />
nêu cũng được xác định là thành tố cơ bản trong cấu trúc của hệ thống chính trị xã <br />
hội Việt Nam hiện nay.<br />
<br />
2. Hệ thống chính trị là gì? Hệ thống chính trị ở Việt Nam <br />
bao gồm những tổ chức nào?<br />
Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền được thực hiện bằng <br />
một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó là hệ thống chính trị.<br />
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm các <br />
đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội hợp pháp được liên kết với <br />
nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội, <br />
để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi ích của chủ thể <br />
giai cấp cầm quyền.<br />
Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự thống trị của giai cấp, Nhà nước và thực <br />
hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền, do đó hệ thống chính trị mang bản <br />
chất giai cấp của giai cấp cầm quyền.<br />
Trong chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể thực sự <br />
của quyền lực, tự mình tổ chức và quản lý xã hội, quyết định nội dung hoạt động của <br />
hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.<br />
ở nước ta, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể chân chính của quyền <br />
lực. Bởi vậy, hệ thống chính trị ở nước ta là cơ chế, là công cụ thực hiện quyền làm <br />
chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hệ thống chính trị ở nước ta <br />
hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa <br />
Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội <br />
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt <br />
Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ chức chính trịxã hội hợp pháp khác của <br />
nhân dân được thành lập, hoạt động trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với <br />
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng <br />
sản Việt Nam, thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.<br />
<br />
3.Bản chất và các thiết chế trong hệ thống chính trị xã hội Việt Nam – Đặc điểm, <br />
vai trò<br />
<br />
a. Bản chất:<br />
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công <br />
nhân Việt Nam, nhân dân ta đã đứng lên làm cách mạng, giành lấy quyền lực và tổ <br />
chức ra hệ thống chính trị của mình. Vì vậy, hệ thống chính trị ở nước ta có những <br />
bản chất sau:<br />
Một là, hệ thống chính trị ở nước ta mang bản chất của giai cấp công nhân, nghĩa là <br />
các tổ chức trong hệ thống chính trị đều đứng vững trên lập trường quan điểm của <br />
giai cấp công nhân. Từ đó đã quy định chức năng, nhiệm vụ, phương hướng hoạt động <br />
của toàn bộ hệ thống chính trị, đảm bảo quyền làm chủ của giai cấp công nhân và <br />
nhân dân lao động.<br />
Hai là, bản chất dân chủ của hệ thống chính trị ở nước ta thể hiện trước hết ở chỗ: <br />
Quyền lực thuộc về nhân dân với việc Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân <br />
dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu <br />
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, thiết <br />
lập sự thống trị của đa số nhân dân với thiểu số bóc lột.<br />
Ba là, bản chất thống nhất không đối kháng của hệ thống chính trị ở nước ta. Bản <br />
chất đó dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, về sự thống <br />
nhất giữa những lợi ích căn bản của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể <br />
dân tộc.<br />
<br />
<br />
b. Các thiết chế trong hệ thống chính trị xã hội Việt Nam – Đặc điểm, vai trò<br />
<br />
Trong cấu trúc của hệ thống chính trị xã hội Việt Nam hiện nay có thể phân biệt ba <br />
loại thiết chế là:<br />
<br />
Tổ chức chính trị (Đảng cộng sản Việt Nam), Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam;<br />
Tổ chức chính trị xã hội: Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng như Đoàn <br />
thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ, Công đoàn, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh; và <br />
một số tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp như Liên hiệp các hội khoa học, kĩ <br />
thuật Việt Nam, Liên hiệp các hội hữu nghị Việt Nam, Hội nhà báo Việt Nam...<br />
<br />
Tổ chức xã hội: Các hiệp hội kinh tế, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và các tổ chức <br />
xã hội khác...<br />
<br />
Các tổ chức chính trị xã hội thống nhất giữa hai mặt chính trị và xã hội. Điều này thể <br />
hiện sự tập hợp đoàn kết các lực lượng quần chúng đông đảo để thực hiện các nhiệm <br />
vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. Phương thức tổ chức và hoạt động của các tổ <br />
chức này tuy khác với tổ chức Đảng và các cơ quan nhà nước nhưng đều gắn chặt với <br />
việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng và Nhà nước giao phó. Các tổ chức <br />
chính trị xã hội là hình thức tổ chức động viên, triển khai nguồn lực con người cho <br />
các mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong công cuộc do Đảng lãnh <br />
đạo, Nhà nước thống nhất quản lí. Cùng với Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị <br />
xã hội hợp thành hệ thống chính trị Việt Nam, trong đó Đảng giữ vai trò và trọng trách <br />
là người lãnh đạo trực tiếp. Trong hệ thống chính trị xã hội Việt Nam, với tính chất <br />
chính trị và tính chất xã hội rộng lớn, các tổ chức chính trị xã hội đóng vai trò là <br />
người tổ chức, vận động đông đảo quần chúng nhân dân thực hiện các nhiệm vụ đặt <br />
ra đối với cách mạng Việt Nam thông qua những hình thức phù hợp.<br />
<br />
Mỗi loại tổ chức chính trị xã hội lại có vai trò riêng, chẳng hạn Mặt trận Tổ quốc <br />
Việt Nam là liên minh chính trị tổ chức liên hiệp tự nguyện của các đoàn thể nhân <br />
dân và các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo; <br />
là tổ chức đại diện cho ý chí đại đoàn kết và nguyện vọng chân chính của nhân dân; <br />
nơi tập hợp trí tuệ của con người Việt Nam yêu nước, nơi thống nhất hành động giữa <br />
các tổ chức thành viên, phối hợp với chính quyền thực hiện nền dân chủ, chăm lo bảo <br />
vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân; giám sát, bảo vệ, tham gia xây dựng <br />
nhà nước, quản lí xã hội. Mặt trận Tổ quốc có chức năng tham chính, tham nghị và <br />
giám sát; đoàn kết nhân dân, chăm lo đời sống, lợi ích của các thành viên, thực hiện <br />
dân chủ và đổi mới xã hội, thực thi quyền và nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối liên hệ <br />
giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.<br />
<br />
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam là tổ chức chính trị xã hội rộng lớn của giai cấp <br />
công nhân, đội ngũ trí thức và những người lao động tự nguyện lập ra nhằm mục đích <br />
tập hợp, đoàn kết lực lượng, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh về mọi <br />
mặt; đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, <br />
phấn đấu xây dựng nước Việt Nam độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.<br />
<br />
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam có tính chất quần chúng và tính chất giai cấp công <br />
nhân, có chức năng: Đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của <br />
công nhân viên chức lao động; tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế xã hội, <br />
tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo <br />
dục, động viên công nhân viên chức lao động phát huy quyền làm chủ đất nước, thực <br />
hiện nghĩa vụ công dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.<br />
<br />
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị xã hội tập hợp tầng lớp <br />
thanh niên, là đoàn thể của các thanh niên ưu tú, đội hậu bị của Đảng. Tổ chức Đoàn <br />
được thành lập trên phạm vi cả nước, có mặt ở hầu hết các cơ quan, đơn vị, tổ chức <br />
từ trung ương đến cơ sở nhằm thu hút thế hệ trẻ vào những hoạt động xã hội bổ ích, <br />
lành mạnh, qua đó giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật cho đoàn viên thanh niên.<br />
<br />
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị xã hội của giới nữ, có chức năng <br />
đại diện cho quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ, <br />
tham gia quản lý Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng. Hội đoàn kết, vận động, tổ <br />
chức, hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của <br />
Nhà nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.<br />
<br />
Hội Nông dân Việt Nam là tổ chức chính trị xã hội của giai cấp nông dân do Đảng <br />
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ sở <br />
chính trị của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hội nông dân Việt Nam <br />
vận động giáo dục hội viên, nông dân phát huy quyền làm chủ, tích cực học tập nâng <br />
cao trình độ, năng lực về mọi mặt; đại diện giai cấp nông dân tham gia xây dựng <br />
Đảng và Nhà nước; chăm lo bảo vệ các quyền và lợi ích của nông dân Việt Nam.<br />
<br />
Hội Cựu chiến binh Việt Nam là đoàn thể chính trị xã hội, thành viên của Mặt trận <br />
Tổ quốc Việt Nam, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, một tổ chức trong hệ <br />
thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, hoạt động theo đường lối, chủ <br />
trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và Điều lệ của Hội. <br />
Mục đích của Hội là tập hợp, đoàn kết, tổ chức, động viên các thế hệ cựu chiến binh <br />
giữ gìn và phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tích cực tham gia xây <br />
dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng và bảo vệ Đảng, <br />
chính quyền, chế độ, bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của cựu chiến binh, <br />
chăm lo giúp đỡ nhau về tinh thần và vật chất trong cuộc sống, gắn bó tình bạn chiến <br />
đấu.<br />
<br />
Ngoài các tổ chức trên đây, nhiều tổ chức xã hội khác cũng được coi là tổ chức chính <br />
trị xã hội như Liên hiệp các hội khoa học kĩ thuật Việt Nam (VUSTA), Hội Nhà báo <br />
Việt Nam, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam... <br />
Đây là điểm có ý nghĩa rất quan trọng đồng thời cũng là một xu hướng phát triển của <br />
các thiết chế xã hội trong thời kì đổi mới, nhất là ở giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp <br />
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một số hội nghề nghiệp, hội của các nhà trí <br />
thức, các nhà khoa học, không chỉ đơn thuần mang tính chất đoàn thể xã hội mà các tổ <br />
chức này cũng đóng vai trò to lớn trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đất <br />
nước. Hơn bao giờ hết, hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang động viên và phát huy <br />
cao độ vai trò của đội ngũ trí thức, các nhà khoa học, các doanh nhân trong việc hoạch <br />
định và thực thi đường lối, chính sách phát triển đất nước. Có thể nói rằng đó là xu <br />
hướng tất yếu trong quá trình xây dựng và củng cố nền dân chủ XHCN ở Việt Nam <br />
mà một trong những biểu hiện có tính đặc trưng là sự tác động tương hỗ dẫn đến sự <br />
hài hòa hóa giữa các yếu tố chính trị và kinh tế xã hội.<br />
<br />
Như vậy, có thể nhận thấy rõ rằng trong hệ thống chính trị xã hội Việt Nam, các tổ <br />
chức chính trị xã hội đóng vai trò vừa là trung tâm đoàn kết, tập hợp đông đảo các lực <br />
lượng quần chúng nhân dân (tính chất xã hội), đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp <br />
pháp, chính đáng của các thành viên vừa thực hiện vai trò nền tảng chính trị của chính <br />
quyền nhân dân, tổ chức động viên nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính <br />
trị của Đảng và Nhà nước. So với các tổ chức xã hội khác, vai trò này của các tổ chức <br />
chính trị xã hội có tính trực tiếp hơn trong việc phục vụ sự nghiệp cách mạng theo <br />
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.<br />
<br />
Bên cạnh các tổ chức chính trị, chính trị xã hội truyền thống và những tổ chức xã hội <br />
đã và đang phát triển thành tổ chức chính trị xã hội như nêu trên, trong hệ thống chính <br />
trị xã hội Việt Nam còn có hàng trăm tổ chức xã hội khác. Các tổ chức xã hội loại <br />
này đang ngày càng nhiều và gồm các hình thức tổ chức phong phú như các hiệp hội <br />
kinh tế, hội nghề nghiệp, các hội quần chúng tập hợp theo sở thích, ý nguyện, các tổ <br />
chức hoạt động tương trợ xã hội không nhằm mục đích lợi nhuận... Đặc điểm chung <br />
của các tổ chức xã hội là tính phi chính trị và phi lợi nhuận. Điều này có nghĩa, các tổ <br />
chức này hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, bảo vệ và phát <br />
triển lợi ích chung của các thành viên. Các tổ chức này về bản chất sinh ra không phải <br />
để trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước.<br />
Bên cạnh tính phong phú, đa dạng là đặc điểm lớn của các tổ chức xã hội, các tổ chức <br />
xã hội còn có một đặc điểm khác là ngày càng xuất hiện sự liên kết, tập hợp các lực <br />
lượng lớn hơn trên cơ sở những sự tương đồng về lợi ích và ý nguyện. Đó cũng là xu <br />
thế khách quan của xã hội dân sự mà chúng ta cần biết phát huy điểm tích cực và hạn <br />
chế mặt tiêu cực.<br />
<br />
Ngày nay, vai trò của các tổ chức xã hội đang dần được xác định một cách đúng đắn <br />
hơn trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền xã hội <br />
chủ nghĩa và một xã hội dân sự. Không phải chỉ bây giờ mà từ rất xa xưa, việc quản lí <br />
xã hội trước hết và phần lớn vốn thuộc về chức năng của các tổ chức xã hội (trong đó <br />
có cả gia đình). Trong xã hội hiện đại cũng cần phải như vậy, với tư duy “nhà nước <br />
nhỏ, xã hội lớn” thì vị trí của các tổ chức xã hội được mô hình hoá như một “cái bệ <br />
đỡ” lớn, vững chắc cho sự tồn tại của các thiết chế chính trị là Đảng, Nhà nước. Gốc <br />
có to, cây mới vững bền, đó là một triết lí đơn giản nhưng đầy ý nghĩa đối với hệ <br />
thống chính trị xã hội Việt Nam.<br />
<br />
Trong điều kiện hiện nay, điều đáng chú ý là các hội nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế <br />
ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng. Và theo nguyên lí về mối liên hệ giữa kinh tế <br />
với chính trị thì các tổ chức hội đoàn kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ đến đời sống chính <br />
trị, luật pháp của nước ta theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Đó cũng là xu <br />
hướng có tính khách quan trong sự phát triển của nền dân chủ hiện nay. Điều này dù <br />
không trực tiếp quyết định thể chế chính trị, luật pháp nhưng việc ban hành và thực thi <br />
chính sách, pháp luật không thể không tính đến nhu cầu, lợi ích cũng như vai trò tư <br />
vấn, phản biện, giám định xã hội hay sự tham gia tích cực của các tổ chức xã hội nghề <br />
nghiệp, các hiệp hội kinh tế vào quá trình đó.<br />
<br />
Như vậy, trong hệ thống chính trị xã hội ngày nay, các tổ chức xã hội đóng vai trò <br />
năng động tích cực hơn so với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Các tổ chức xã hội <br />
không phải là kênh biệt lập với hệ thống chính trị mà ngày càng tham gia mạnh mẽ, <br />
tác động lớn lao đến kết quả hoạt động của hệ thống chính trị. Vì thế có thể quan <br />
niệm rằng hệ thống xã hội là hệ thống phản hồi với hệ thống chính trị, giám sát hoạt <br />
động của hệ thống chính trị. Nếu nhìn từ góc độ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thì cả <br />
hai hệ thống chính trị và hệ thống các tổ chức xã hội đều là những kênh thực hiện <br />
quyền lực nhân dân. Hệ thống chính trị tác động đến xã hội trên cơ sở quyền lực giai <br />
cấp xã hội, đảm bảo sự định hướng và dẫn dắt, điều hành sự phát triển của cả xã <br />
hội. Do đó, hệ thống chính trị đảm bảo tính thống nhất của ý chí, nguyện vọng và <br />
quyền lực nhân dân. Hệ thống xã hội đảm bảo tính nhân bản và tính đa dạng của đời <br />
sống xã hội. Hệ thống xã hội không phải là hệ thống thụ động chịu sự tác động của <br />
hệ thống chính trị, phụ thuộc hoàn toàn vào hệ thống chính trị mà cũng có vai trò, trách <br />
nhiệm chung với sự phát triển toàn diện của đất nước. Cả hai hệ thống đó không thể <br />
thiếu vắng và thay thế vai trò cho nhau. Nếu hệ thống này không tốt thì tất yếu dẫn <br />
đến sự bấp cập của hệ thống kia và ngược lại. Vì vậy, cả hai hệ thống chính trị và hệ <br />
thống xã hội hòa hợp thành thể thống nhất được gọi là hệ thống chính trị xã hội. Tuy <br />
nhiên, điểm cần chú ý trong mối liên hệ biện chứng giữa hai hệ thống này là nếu hệ <br />
thống chính trị không có mục đích tự thân thì ngược lại hệ thống xã hội trong khi hoạt <br />
động vì mục tiêu cho chính hệ thống mình (mang tính xã hội) có nhu cầu và mong <br />
muốn tác động đến hệ thống chính trị một cách tự nhiên. Thành ra, dù khác nhau về <br />
phương thức, nguyên tắc tổ chức và hoạt động nhưng nhìn tổng thể mục tiêu của cả <br />
hai hệ thống cuối cùng đều thống nhất ở chỗ vì con người, vì một xã hội tốt đẹp.<br />
<br />
Điều có ý nghĩa quan trọng có thể rút ra qua những phân tích trên đây là vai trò của các <br />
tổ chức chính trị xã hội và các tổ chức xã hội đối với sự hình thành và phát triển của <br />
toàn bộ hệ thống chính trị xã hội của đất nước đã tạo cơ sở khách quan cho các hoạt <br />
động tham gia hay phản hồi của các tổ chức này đến hệ thống chính trị: Đảng và Nhà <br />
nước. Đó có thể là các loại hoạt động khác nhau như tư vấn, giám định, phản biện xã <br />
hội...<br />
<br />
<br />