Quản trị công ty và

kiểm soát xung đột

Quản trị công ty tốt (chứ không phải cơ cấu sở hữu tốt) là

nền tảng cho sự phát triển lâu dài của các doanh nghiệp lớn.

Các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp gia đình ở

nhiều nước trên thế giới đã đạt được thành công lớn trong

dài hạn nhờ hệ thống quản trị công ty tốt. Đồng thời, quản trị

công ty kém, thiếu minh bạch đã là nguyên do dẫn tới phá

sản của nhiều công ty cổ phần lớn ở Hoa Kỳ và Tây Âu. Bài

viết dưới đây đưa ra một cái nhìn tổng quan về quản trị công

ty.

Những nghiên cứu mới đây của McKinsey & Company, Credit

Lyonnais Securities Asia, và Ngân hàng Thế giới cho thấy có sự

tương quan chặt chẽ giữa việc thực hiện quản trị công ty với giá

cổ phiếu và kết quả hoạt động của công ty nói chung. Theo đó,

quản trị tốt sẽ mang lại hiệu quả cao cho nhà đầu tư, hiều lợi ích

hơn cho các thành viên khác trong công ty.

Ngược lại, quản trị không tốt thường dẫn đến những hậu quả

xấu, thậm chí phá sản công ty. Sự sụp đổ của một số công ty lớn

trên thế giới như Enron, Tyco International, Daewoo, WorldCom

hay những vụ bê bối ở các Tổng công ty nhà nước lớn của Việt

Nam đều có nguyên nhân sâu xa từ việc thực hiện quản trị doanh

nghiệp không tốt.

Tại Việt Nam, tuy đang ngày càng thu hút sự quan tâm từ nhiều

phía, khái niệm “quản trị công ty” còn rất mới mẻ. Theo một cuộc

điều tra dành cho lãnh đạo 85 doanh nghiệp lớn ở Việt Nam do

IFCMPDF thực hiện, chỉ có 23% số người được hỏi đã hiểu khái

niệm và nguyên tắc cơ bản của “quản trị công ty”. Nhiều giám đốc

được phỏng vấn vẫn còn lẫn lộn giữa quản trị công ty với quản lý

tác nghiệp (bao gồm điều hành sản xuất, quản lý marketing, quản

lý nhân sự, v.v...)

Sự khác biệt giữa "Quản trị công ty" và "Quản trị kinh doanh"?

Cần phân biệt rõ khái niệm quản trị công ty (corporate

governance) và quản trị kinh doanh (business management).

Quản trị kinh doanh là điều hành quản lý hoạt động sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp do Ban giám đốc thực hiện. Quản trị

công ty (QTCT) là một quá trình giám sát

và kiểm soát được thực hiện để bảo đảm cho việc thực thi quản

trị kinh doanh phù hợp với lợi

ích của các cổ đông. QTCT ở nghĩa rộng còn hướng đến đảm

bảo quyền lợi của những người liên quan (stakeholders) không

chỉ là cổ đông mà còn bao gồm cả các nhân viên, khách hàng,

nhà cung cấp, môi trường và các cơ quan nhà nước.

QTCT được đặt trên cơ cở của sự tách biệt giữa quản lý và sở

hữu doanh nghiệp. Công ty là của chủ sở hữu (nhà đầu tư, cổ

đông…), nhưng để công ty tồn tại và phát triển phải có sự dẫn dắt

của HĐQT, sự điều hành của ban giám đốc và sự đóng góp của

người lao động, mà những người này không phải lúc nào cũng có

chung ý chí và quyền lợi. Rõ ràng, cần phải có một cơ chế để

điều hành và kiểm soát để nhà đầu tư, cổ đông có thể kiểm soát

việc điều hành công ty nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.

QTCT tập trung xử lý các vấn đề thường phát sinh trong mối

quan hệ ủy quyền (principle-agent)

trong công ty, ngăn ngừa, hạn chế những người quản lý lạm

dụng quyền và nhiệm vụ được giao

sử dụng tài sản, cơ hội kinh doanh của công ty phục vụ cho lợi

ích riêng của bản thân hoặc của

người khác hoặc làm thất thoát nguồn lực do công ty kiểm soát.

Các quy định của QTCT chủ yếu liên quan đến HĐQT, các thành

viên HĐQT và ban giám đốc,

chứ không liên quan đến việc điều hành công việc hàng ngày của

công ty. QTCT tốt sẽ có tác

dụng làm cho các quyết định và hành động của ban giám đốc thể

hiện đúng ý chí và đảm bảo lợi

ích của nhà đầu tư, cổ đông và những người có lợi ích liên quan.

Nói gọn lại, QTCT là mô hình cân bằng và kiềm chế quyền lực

giữa các bên liên quan của công

ty, nhằm vào sự phát triển dài hạn của công ty.

Các chủ đề chính trong QTCT bao gồm:

• Công khai và minh bạch thông tin;

• Mâu thuẫn quyền lợi giữa người quản lý doanh nghiệp, hội đồng

quản trị và cổ đông khác;

• Mâu thuẫn giữa cổ đông lớn và cổ đông thiểu số

• Vai trò của quản trị viên độc lập, các tổ chức kiểm toán độc lập.

• Chính sách đãi ngộ với các nhà quản lý.

• Thủ tục phá sản doanh nghiệp;

• Quyền tư hữu;

• Việc thực thi các điều khoản luật và hợp đồng

So sánh hai mô hình quản trị công ty phổ biến trên thế giới: Quản

trị công ty hoạt động thông qua cơ chế bên trong và cơ chế bên

ngoài.

Cơ chế bên trong bao bồm: (i) Cổ đông và Đại hội đồng cổ đông,

(ii) Hội đồng quản trị và các nhà quản lý công ty, (iii) Các hệ thống

kiểm soát nội bộ và (iv) Chế độ lương, thưởng và khuyến khích

khác.

Cơ chế bên ngoài bao gồm: (i) các loại thị trường (thị trường vốn,

nhà cung cấp, nhân viên, khách hàng, chủ nợ) và (ii) pháp luật và

sự điều tiết của nhà nước.

Quản trị công ty cần phối hợp hài hoà cơ chế bên trong và bên

ngoài, trong đó, có thể nhấn mạnh nhiều hơn đến cơ chế nội bộ

hơn là cơ chế thị trường để quản trị công ty có hiệu quả. Trên cơ

sở 2 cơ chế này, nhiều mô hình quản trị doanh nghiệp đã được

áp dụng trên thế giới, tuy nhiên có thể xếp vào hai nhóm chính:

- Mô hình định hướng cổ đông. Mô hình thiên về cổ đông, phổ

biến ở các nước Anh, Mỹ coi công ty là công cụ để các cổ đông

tối đa hoá lợi ích của mình.

- Mô hình quản trị đa bên. Mô hình này thường thấy ở các nước

Châu Âu lục địa và Nhật Bản, tuy nhiên cũng xuất hiện ở nhiều

công ty thành công của Hoa Kỳ. Mô hình này thừa nhận quyền lợi

của công nhân, người quản lý, nhà cung cấp, khách hàng và

cộng đồng. Ủng hộ mô hình quản trị đa bên, giáo sư Bill Goerge,

Trường Kinh doanh Harvard, đã có bài viết nổi tiếng:

“Shareholders come third” -Quyền lợi của cổ đông chỉ đứng thứ

ba, sau quyền lợi của khách hàng và người lao động.

Quản trị công ty tại Việt Nam

Các doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam đa số là các công ty đã

niêm yết và bởi vậy đa phần chịu sự điều chỉnh của các quy định

về quản trị công ty theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật

Chứng khoán năm 2006 và Quyết định 12 /2007/QĐ-BTC ngày

13 tháng 3 năm 2007 về việc ban hành Quy chế quản trị công ty

áp dụng cho các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng

khoán/ Trung tâm Giao dịch Chứng khoán (“Quyết định 12”) và

Quyết định 15/2007/QĐ-BTC ngày 19 tháng 3 năm 2007 về việc

ban hành Điều lệ mẫu áp dụng cho các công ty niêm yết trên Sở

Giao dịch Chứng khoán/ Trung tâm Giao dịch Chứng khoán

(“Quyết định 15”).

Theo chúng tôi, các doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam chưa phải

là công ty niêm yết cũng nên bắt đầu nghiên cứu áp dụng những

nguyên tắc quản trị công ty để góp phần làm tăng hiệu quả hoạt

động, tăng giá trị phần vốn góp và nâng cao uy tín đối với nhà

đầu tư.

Các nguyên tắc quản trị công ty theo quy định của pháp luật Việt

Nam bao gồm: Đảm bảo một cơ cấu quản trị hiệu quả; Đảm bảo

quyền lợi của cổ đông; Đối xử công bằng giữa các cổ đông; Đảm

bảo vai trò của những người có quyền lợi liên quan đến công ty;

Minh bạch trong hoạt động của công ty; Hội đồng quản trị

(“HĐQT”) và Ban kiểm soát (“BKS”) lãnh đạo và kiểm soát công ty

có hiệu quả.

Theo đó, cơ cấu tổ chức quản lý của công ty cổ phần gồm có: (i)

Đại hội đồng cổ đông, (ii) Hội đồng quản trị, (iii) giám đốc (tổng

giám đốc), và Ban kiểm soát (bắt buộc đối với công ty cổ phần có

trên 11 cổ đông là cá nhân hoặc công ty cổ phần có cổ đông là tổ

chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty).

Khung trách nhiệm và mối quan hệ giữa HĐQT, BKS với cổ đông

và ban điều hành được pháp luật quy định như sau:

- Ban điều hành (bao gồm Tổng giám đốc và các cán bộ điều

hành) chịu trách nhiệm trước HĐQT về hoạt động của mình và có

nghĩa vụ cung cấp thông tin và giải trình cho BKS.

- HĐQT là đại diện cho cổ đông, chịu trách nhiệm trước các cổ

đông về hoạt động của công ty, có trách nhiệm giải trình trước

BKS về tình hình tài chính và tính hợp pháp trong các hành động

của mình;

- Thành viên BKS được cổ đông bầu ra trong Đại hội đồng cổ

đông hàng năm, chịu trách nhiệm

báo cáo cho cổ đông về kết quả thực hiện các nhiệm vụ được

giao bao gồm giám sát HĐQT và

Ban điều hành.

Các thông lệ quản trị công ty tốt nhất cho thấy HĐQT nên đảm

nhận và công khai rõ 6 trách nhiệm chủ yếu sau đây:

- Xem xét và thông qua chiến lược, kế hoạch kinh doanh;

- Giám sát tình hình kinh doanh của công ty;

- Nhận diện các rủi ro chủ yếu;

- Quy hoạch cán bộ quản lý cấp cao;

- Thực hiện chương trình quan hệ với nhà đầu tư và chính sách

minh bạch thông tin;

- Đảm bảo thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm quy định

về hệ thống thông tin quản lý và đảm bảo việc tuân thủ quy định

này.

Ở các doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam, việc xây dựng chiến

lược, kế hoạch kinh doanh có thể vẫn thuộc bộ máy nắm vững

công việc kinh doanh nhất là Ban điều hành nhưng HĐQT phải

thể hiện rõ vai trò của mình trong rà soát, thảo luận, phản biện

chiến lược, kế hoạch kinh doanh. HĐQT các doanh nghiệp hàng

đầu Việt Nam cũng cần nêu cao trách nhiệm trong quản trị rủi ro

bao gồm: nhận diện và đánh giá các loại rủi ro, hoạch định chính

sách quản trị rủi ro và thiết lập các thủ tục theo dõi và báo cáo

định kỳ về các quy trình quản trị rủi ro.

Kiểm soát xung đột trong công ty là việc xác định và thực hiện cơ

chế trong đó những người trực tiếp tham gia quản trị và điều

hành được thúc đẩy làm việc vì lợi ích của công ty. Điều 23

Quyết định 12 nhấn mạnh về xung đột quyền lợi với nguyên tắc

cơ bản là thành viên HĐQT, Tổng giám đốc và những người có

liên quan không được phép sử dụng những cơ hội kinh doanh để

giành lấy cho bản thân những lợi ích lẽ ra là của công ty, không

được sử dụng thông tin có được nhờ chức vụ của mình để tư lợi

cá nhân hay phục vụ lợi ích của tổ chức hoặc cá nhân khác.

Phần lớn các doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam đã triển khai xây

dựng hệ thống và các quy trình

quản trị công ty ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên chắc chắn

có nội dung trong hệ thống quản

trị công ty cần được cải thiện vì các hệ thống và quy trình luôn có

xu hướng lạc hậu so với sự tăng trưởng và những thay đổi về

quy mô và phương thức hoạt động của công ty.

Các doanh nghiệp có thể thực hiện việc đánh giá hệ thống quản

trị công ty một cách tổng quát để xác định những bất cập và

những nội dung cần hoàn thiện để đạt đến sự tuân thủ đầy đủ

các

chuẩn mực quốc tế.

Các lĩnh vực cần tập trung xem xét bao gồm: việc xây dựng, thẩm

định chiến lược của công ty; quy trình đề cử thành viên HĐQT;

quy trình hoạt động và đánh giá kết quả hoạt động của HĐQT;

chương trình minh bạch thông tin với cổ đông và kết quả của

chương trình này; việc thực hiện chức năng quản trị rủi ro và

kiểm toán nội bộ; quy trình báo cáo tài chính.