intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

quyền bào chữa trong pháp luật hình sự và thực tiễn tại việt nam - chương trình phát triển liên hợp quốc

Chia sẻ: Nguyen Lan | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:89

95
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

" quyền bào chữa trong pháp luật hình sự và thực tiễn tại việt nam" giúp các bạn nắm được những kiến thức về: khái quát tiêu chuẩn quốc tế về quyền bào chữa trong các vụ án hình sự, nghiên cứu so sánh về quyền bào chữa tại một số quốc gia, khái quát pháp luật việt nam về quyền bào chữa, so sánh quyền bào chữa trong các vụ án hình sự giữa chuẩn mực quốc tế với pháp luật và thực tiễn tại việt nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: quyền bào chữa trong pháp luật hình sự và thực tiễn tại việt nam - chương trình phát triển liên hợp quốc

  1. CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN LIÊN HỢP QUỐC QUYỀN BÀO CHỮA TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM Hà Nội, 02 tháng 8, năm 2010
  2. Nghiên cứu về quyền bào chữa trong pháp luật hình sự Việt Nam 2 Một số từ viết tắt Trong Báo cáo này, một số từ sau đây được viết tắt: - Bộ luật Hình sự BLHS - Bộ luật Tố tụng hình sự BLTTHS - Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc UNDP - Cơ quan điều tra CQĐT - Công ước quốc tế về Quyền chính trị và Dân sự ICCPR - Đoàn luật sư ĐLS - Giấy chứng nhận người bào chữa GCNNBC - Liên hiệp quốc LHQ - Mặt trận Tổ quốc MTTQ - Trợ giúp pháp lý TGPL - Trung tâm trợ giúp pháp lý TTTGPL - Viện kiểm sát VKS - Xã hội Chủ nghĩa XHCN Một số định nghĩa Ngoài những giải thích, phân tích đối với một số từ, cụm từ pháp lý ở trong Báo cáo, một số từ và cụm từ được sử dụng tại Báo cáo này có nghĩa như sau: - Bị can có nghĩa là người đã bị khởi tố về hình sự1. - Bị cáo có nghĩa là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử2. - Cán bộ tư pháp là những cán bộ của cơ quan tư pháp hoặc cán bộ của cơ quan tiến hành tố tụng - Cơ quan bổ trợ tư pháp là các cơ quan, tổ chức thực hiện các hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật, giám định, công chứng, lí lịch tư pháp3. - Cơ quan tiến hành tố tụng là những cơ quan được pháp luật xác định là chủ thể của các quan hệ tố tụng và được giao những quyền và nghĩa vụ tố tụng nhất định, bao gồm cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án trong vụ án hình sự, hoặc bao gồm tòa án, viện kiểm sát trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính4. - Cơ quan tư pháp là cơ quan nhà nước thực hiện quyền tư pháp, một trong 3 quyền của quyền lực nhà nước. Xét theo sự phân công, các cơ quan tư pháp có chức năng bảo vệ luật pháp hoặc giải quyết các tranh chấp về dân sự, kinh tế, lao động, hành chính giữa các thể nhân hoặc giữa các thể nhân và pháp nhân, nhân danh nhà nước đưa ra các phán xét, phán quyết đảm bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của thể nhân, pháp nhân5. Trong Nghiên cứu này đề cập đến Cơ quan tư pháp là nhằm đề cập đến bản chất “quyền tư pháp” của tòa án, viện kiểm sát và cơ quan điều tra. 1 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Điều 49, Khoản 1; 2 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Khoản 1 Điều 50,; 3 Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Tư pháp – Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa, 2006, tr. 72; 4 Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Tư pháp – Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa, 2006, tr. 201; 5 Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Tư pháp – Nhà xuất bản Từ điển Bách Khoa, 2006, tr. 201 và 202;
  3. Nghiên cứu về quyền bào chữa trong pháp luật hình sự Việt Nam 3 - Cơ sở hành nghề luật sư có nghĩa là nơi hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư bao gồm trụ sở, chi nhánh, văn phòng giao dịch của tổ chức hành nghề luật sư. - Giấy chứng nhận người bào chữa (GCNNBC) có nghĩa là văn bản do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án cấp cho cá nhân có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật để họ thực hiện việc bào chữa6. - Luật sư chỉ định có nghĩa là luật sư được Đoàn luật sư cử tham gia tố tụng trong các Vụ án chỉ định. - Luật sư cộng tác viên có nghĩa là luật sư tự nguyện tham gia trợ giúp pháp lý với tư cách cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước; có đủ tiêu chuẩn; được Giám đốc Sở Tư pháp xem xét, công nhận và cấp thẻ cộng tác viên7. - Luật sư mời có nghĩa là luật sư được các đương sự mời để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong các vụ án hình sự, vụ việc dân sự, vụ án hành chính hoặc được bị can, bị cáo, người bị tạm giữ hoặc người đại diện hợp pháp của họ mời để bào chữa cho họ trong vụ án hình sự8. - Người bào chữa có nghĩa là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo9. - Người bảo vệ quyền lợi của đương sự có thể bao gồm tất cả người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, người bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn dân sự, người bảo vệ quyền lợi của bị đơn dân sự hoặc từng người trong số họ. - Người bị tạm giam có nghĩa là bị can, bị cáo bị cơ quan tiến hành tố tụng ra lệnh tạm giam để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án10. - Người bị tạm giữ có nghĩa là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ11. - Người bị tình nghi có nghĩa là người bị bắt, người bị tạm giữ do bị nghi thực hiện tội phạm hoặc đang chuẩn bị thực hiện tội phạm12. - Người tham gia tố tụng bao gồm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người giám định; người phiên dịch trong vụ án hình sự; và nguyên đơn (người khởi kiện), bị đơn (người bị kiện), người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính13. 6 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Điều 56, Khoản 4; 7 Luật Trợ giúp pháp lý 2006, Điều 22, Khoản 1 và Điều 23; 8 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Khoản 1 Điều 56 và Khoản 1 Điều 59, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003; Khoản 2 Điều 63, Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 và Khoản 2 Điều 55, Luật tố tụng hành chính 2010; 9 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Điểm b Khoản 3 Điều 58, Bộ luật tố tụng hình sự 2003; 10 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Điều 80 và Điều 88, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003; 11 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Khoản 1 Điều 48, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003; 12 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Điều 71 và Điều 81; 13 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Chương IV, Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, Chương VI và Luật Tố tụng hành chính 2010, Điều 47;
  4. Nghiên cứu về quyền bào chữa trong pháp luật hình sự Việt Nam 4 - Người tiến hành tố tụng bao gồm Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án trong vụ án hình sự; và Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án; Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính14. - Tổ chức hành nghề luật sư có nghĩa là tổ chức có đăng ký hoạt động tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để cung cấp dịch vụ pháp lý15. Tổ chức hành nghề luật sư bao gồm văn phòng luật sư và công ty luật. - Trợ giúp viên pháp lý có nghĩa là viên chức nhà nước, làm việc tại Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh cấp thẻ Trợ giúp viên pháp lý theo đề nghị của Giám đốc Sở Tư pháp16. - Trung tâm trợ giúp pháp lý (TTTGPL) có nghĩa là Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước trực thuộc Sở Tư pháp và được Ủy ban nhân dân tỉnh thành lập để cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người nghèo; người có công với cách mạng; người già cô đơn, người tàn tật và trẻ em không nơi nương tựa; người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn17. - Trung tâm tư vấn pháp luật (TTTVPL) có nghĩa là tổ chức do tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu chuyên ngành luật thành lập, có đăng ký hoạt động với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để thực hiện hoạt động tư vấn pháp luật không nhằm mục đích thu lợi nhuận18. - Văn phòng luật sư có nghĩa là tổ chức do một luật sư thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân19. - Vụ án chỉ định có nghĩa là vụ án có bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình hoặc có bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất nhưng bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình20. 14 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Điều 33, Khoản 2; Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, Điều 39, Khoản 2; Luật Tố tụng hành chính 2010, Điều 34, Khoản 2; 15 Luật Luật sư 2006, Điều 32 và Điều 39, Khoản 1; 16 Luật Trợ giúp pháp lý 2006, Điều 22, Khoản 2; 17 Luật Trợ giúp pháp lý 2006, Điều 3; Điều 10 và Điều 14,; 18 Nghị định số 77/2008/NĐ-CP ngày 16/07/2008 của Chính Phủ về Tư vấn pháp luật, Điều 1 và Điều 3; 19 Luật Luật sư 2006, Khoản 1 Điều 33. 20 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Điều 57, Khoản 2.
  5. Nghiên cứu về quyền bào chữa trong pháp luật hình sự Việt Nam 5 MỤC LỤC CHƯƠNG I................................................................................................................................................ 8 KHÁI QUÁT VỀ TIÊU CHUẨN QUỐC TẾ VỀ QUYỀN BÀO CHỮA TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ ................................................................................................................................................... 8 1. Quyền bào chữa trong khuôn khổ luật pháp quốc tế ................................................................. 8 a. Quyền có đủ thời gian để chuẩn bị cho phiên toà, bao gồm cả việc tiếp xúc với người bào chữa .............................................................................................................................. 9 b. Quyền được thông tin bí mật với người bào chữa ....................................................... 9 c. Không có quyền tuyệt đối để chọn lựa người bào chữa. .......................................... 10 d. Quyền bào chữa thông qua trợ giúp pháp lý .............................................................. 11 e. Từ chối cung cấp người bào chữa trong thời gian ngắn ........................................... 11 g. Quyền bào chữa trong giai đoạn tố tụng trước khi xét xử ....................................... 11 2. Tiểu kết .............................................................................................................................................. 13 CHƯƠNG II ............................................................................................................................................ 15 NGHIÊN CỨU SO SÁNH VỀ QUYỀN BÀO CHỮA ..................................................................... 15 TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA ................................................................................................................... 15 1. Trung Quốc .......................................................................................................................................... 15 1.1 Cấu trúc của Hệ thống Tư pháp Hình sự Trung Quốc ........................................................ 15 1.2. Các nguồn luật tố tụng và hình sự Trung Quốc ................................................................... 15 1.3. Luật nội dung và áp dụng ........................................................................................................ 16 1.4. Tiểu kết......................................................................................................................................... 20 2. Nhật Bản ............................................................................................................................................... 20 2.1. Các nguồn luật tố tụng và hình sự Nhật Bản ........................................................................ 20 2.2. Luật nội dung và áp dụng ........................................................................................................ 20 2.3. Kết luận ........................................................................................................................................ 22 3. Cộng hòa Liên bang Đức ................................................................................................................... 22 3.1. Nguồn luật tố tụng và hình sự Đức ........................................................................................ 22 3.2. Luật nội dung và áp dụng ........................................................................................................ 23 3.3. Nghĩa vụ của thành viên Hội đồng Châu Âu ....................................................................... 24 3.4. Kết luận ........................................................................................................................................ 25 4. Australia ............................................................................................................................................... 25 4.1. Luật nội dung và áp dụng ........................................................................................................ 25 4.2. Pháp luật về nhân quyền .......................................................................................................... 26 4.3. Kết luận ........................................................................................................................................ 27 CHƯƠNG III .......................................................................................................................................... 28 KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN BÀO CHỮA ............................................. 28 1. Chính sách và pháp luật Việt Nam về quyền bào chữa............................................................ 28 a. Hiến pháp .......................................................................................................................... 29 b. Luật Tố tụng Hình sự ...................................................................................................... 30 c. Luật Tổ chức Toà án Nhân dân ..................................................................................... 31 d. Luật Tổ chức Viện kiểm sát Nhân dân ......................................................................... 32 e. Luật Luật sư ...................................................................................................................... 32 g. Luật Trợ giúp pháp lý ..................................................................................................... 33 h. Pháp lệnh về Tổ chức Điều tra Hình sự ....................................................................... 33 2. Tiểu kết .............................................................................................................................................. 33 CHƯƠNG IV .......................................................................................................................................... 34 SO SÁNH QUYỀN BÀO CHỮA TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ GIỮA .............................. 34 CHUẨN MỰC QUỐC TẾ VỚI ........................................................................................................... 34 PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM ............................................................................. 34 1. Quyền được có người bào chữa do mình lựa chọn ................................................................... 34
  6. Nghiên cứu về quyền bào chữa trong pháp luật hình sự Việt Nam 6 1.1. Tiêu chuẩn quốc tế................................................................................................................ 34 1.2. Luật Việt Nam ....................................................................................................................... 34 1.3. Thực tiễn Việt Nam .............................................................................................................. 34 a. Giai đoạn điều tra............................................................................................................. 34 b. Giai đoạn truy tố .............................................................................................................. 39 c. Giai đoạn xét xử................................................................................................................ 41 1.4 . Tiểu kết .............................................................................................................................................. 42 2. Quyền được có đủ thời gian để chuẩn bị cho phiên tòa, bao gồm tiếp xúc với người bào chữa ........................................................................................................................................................... 43 2.1. Các tiêu chuẩn quốc tế ......................................................................................................... 43 2.2. Pháp luật Việt Nam .............................................................................................................. 43 2.3. Thực tiễn Việt Nam .............................................................................................................. 44 2.4. Tiểu kết ................................................................................................................................... 49 3. Quyền được giao tiếp bí mật với luật sư ..................................................................................... 49 3.1. Tiêu chuẩn quốc tế................................................................................................................ 49 3.2. Luật Việt Nam ....................................................................................................................... 50 3.3. Thực tiễn Việt Nam .............................................................................................................. 50 3.4. Tiểu kết ................................................................................................................................... 52 4. Quyền bào chữa thông qua trợ giúp pháp lý ............................................................................. 52 4.1. Các tiêu chuẩn quốc tế ......................................................................................................... 52 4.2. Pháp luật Việt Nam .............................................................................................................. 52 4.3. Thực tiễn Việt Nam .............................................................................................................. 54 4.4. Tiểu kết ................................................................................................................................... 58 5. Quyền được tạm hoãn thủ tục tố tụng để được tham vấn luật sư ......................................... 58 5.1. Tiêu chuẩn quốc tế................................................................................................................ 58 5.2. Pháp luật Việt Nam .............................................................................................................. 58 5.3. Thực tiễn Việt Nam .............................................................................................................. 59 5.4. Tiểu kết ................................................................................................................................... 60 6. Quyền được tự bào chữa ................................................................................................................ 61 6.1. Tiêu chuẩn quốc tế................................................................................................................ 61 6.2. Luật Việt Nam ....................................................................................................................... 61 6.3. Thực tiễn Việt Nam .............................................................................................................. 62 6.4. Tiểu kết ................................................................................................................................... 63 7. Quyền bào chữa là hành vi bảo vệ quyền lợi của bị cáo........................................................... 63 7.1. Tiêu chuẩn quốc tế................................................................................................................ 63 7.2. Luật Việt Nam ....................................................................................................................... 63 7.3. Thực tiễn Việt Nam .............................................................................................................. 64 7.4. Tiểu kết ................................................................................................................................... 67 8. Quyền không phải tiến hành tố tụng với luật sư bào chữa là người không đủ năng lực hoặc thiếu cẩn thận trong khi bị can, bị cáo đã có luật sư phù hợp. .............................................. 67 8.1. Các tiêu chuẩn quốc tế ......................................................................................................... 67 8.2. Luật Việt Nam ....................................................................................................................... 67 8.3. Thực tiễn Việt Nam .............................................................................................................. 68 8.4. Tiểu kết ................................................................................................................................... 70 9. Quyền bào chữa trong tất cả các giai đoạn tố tụng đối với hình phạt tử hình. .................... 70 9.1. Tiêu chuẩn quốc tế................................................................................................................ 70 9.2. Luật Việt Nam ....................................................................................................................... 70 9.3. Thực tiễn Việt Nam .............................................................................................................. 70 9.4. Tiểu kết ................................................................................................................................... 72 10. Một số thông tin cơ bản về cuộc khảo sát ................................................................................... 74 CHƯƠNG V ............................................................................................................................................ 76
  7. Nghiên cứu về quyền bào chữa trong pháp luật hình sự Việt Nam 7 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT.................................................................................................................... 76 PHỤ LỤC 1 BẢNG THỐNG KÊ MỘT SỐ VỤ VIỆC ĐIỂN HÌNH VÀ PHẢN ÁNH QUA BÁO CHÍ LIÊN QUAN VIỆC MỚM CUNG, ÉP CUNG BỊ CAN, BỊ CÁO CỦA CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG............................................................................. 78 PHỤ LỤC 2 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................................... 87
  8. Nghiên cứu về quyền bào chữa trong pháp luật hình sự Việt Nam 8 BÁO CÁO NGHIÊN CỨU QUYỀN BÀO CHỮA TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VỀ TIÊU CHUẨN QUỐC TẾ VỀ QUYỀN BÀO CHỮA TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 1. Quyền bào chữa trong khuôn khổ luật pháp quốc tế Quyền bào chữa là một chuẩn mực bắt buộc (jus cogens)21 trong quyền được xét xử công bằng22. Tập hợp các quyền để có được chuẩn mực xét xử công bằng (thường được nhắc đến như những quyền căn bản hay sự bảo đảm tối thiểu về xét xử theo đúng pháp luật tố tụng) được nêu trong các quy định của Điều 14 Công ước quốc tế về Quyền chính trị và Dân sự (ICCPR).23 Những quyền cá nhân này, bao gồm cả quyền bào chữa, bản thân không phải là các chuẩn mực jus cogen vì chúng có thể được giải thích theo ngữ cảnh hoặc thậm chí bị làm giảm chuẩn nhằm đạt được mục tiêu xét xử công bằng24. Tuy nhiên, với mục đích của Nghiên cứu này, điều này đủ để thấy rằng thực trạng tập quán pháp quốc tế về quyền bào chữa25 và để xem xét quyền này cùng với các quyền con người và thực tiễn tư pháp hình sự quốc tế đã và đang tập trung vào vấn đề phủ nhận việc tiếp cận về tính hiệu quả của quyền bào chữa là thành phần của quyền được xét xử công bằng. Công ước Quốc tế về Các Quyền Chính trị và Dân sự (ICCPR) 21 Chuẩn mực jus cogens, hay chuẩn mực có tính bắt buộc của pháp luật quốc tế chung, được định nghĩa là ‘một chuẩn mực được chấp thuận và công nhận bởi cộng đồng quốc tế của các quốc gia như một chuẩn mực mà được phép vi phạm và có thể được sửa đổi chỉ bởi một chuẩn mực sau này của pháp luật quốc tế chung có tính chất tương tự’ (Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế, 1155 UNTS 331, có hiệu lực từ ngày 27 tháng 1 năm 1980, Điều 53). Xem thêm, R.Y. Jennings and A. Watts (eds.), Luật Quốc tế của Oppenheim (9th ed. 1992), 7-8; C.L. Rozakis, Khái niệm về Jus Cogens trong Luật Điều ước quốc tế (1976), trang 11. 22 Quyền được xét xử công bằng là một loại chuẩn mực thi thoảng được mô tả như một ‘chuẩn mực jus cogens phái sinh’, vì mặc dù chúng không xuất hiện trong các quy định không thể vi phạm của các điều ước nhiều bên hay các nguồn khác, các chuẩn mực này là cần thiết để bảo vệ những chuẩn mực jus cogens khác: xem, F.F. Martin và các tác giả khác, Luật Quyền con người và Nhân văn quốc tế: Điều ước quốc tế, Các vụ án, & Phân tích (2006), trang 36 (tuy nhiên, quan điểm bị phân chia không quan trọng đối với hiện trạng của một quyền như quyền được xét xử công bằng, mà giao phó cho hành vi xử sự của các Quốc gia và các thể chế khác phải tuân thủ theo các quy định đó). Xem qua, Theodor Meron, Các quy phạm về Quyền con người và Nhân văn như Luật Thông lệ quốc tế (1989); Antonio Cassese, Quyền con người trong một thế giới đang đổi thay (1990). 23 Những quyền này được phản ánh trong rất nhiều các văn kiện quyền con người và các khung hiến pháp của tòa án hình sự quốc tế và được quốc tế hóa và được đề cập dưới đây. Những văn kiện về quyền con người khác, mặc dù có liên quan rộng rãi tới quyền của con người liên hệ với hệ thống tư pháp hình sự (bao gồm Công ước Quốc tế về Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa, Công ước về Xóa bỏ Mọi hình thức phân biệt chủng tộc, Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, Công ước về Quyền trẻ em và Tuyên bố Bắc Kinh về các Nguyên tắc độc lập trong xét xử) không liên quan trực tiếp đến quyền bào chữa và do đó không được xem xét kĩ hơn trong Báo cáo này. 24 Một thảo luận chi tiết về vấn đề này có thể được tìm thấy trong, Gideon Boas, Phiên tòa xét xử Milošević: Bài học về tiến hành các thủ tục tố tụng hình sự quốc tế (2007), chương 1. 25 Xem Martin và các tác giả khác, chú thích 2 trên đây.
  9. Nghiên cứu về quyền bào chữa trong pháp luật hình sự Việt Nam 9 Điều 14(3) của ICCPR26 quy định rằng khi phán quyết của toà án về một trách nhiệm hình sự, thì mọi người đều có quyền tối thiểu là: … (b) Có đủ thời gian và phương tiện chuẩn bị cho việc bào chữa của mình và tiếp xúc với người bào chữa do mình lựa chọn; (d) … tự bào chữa… thông qua biện pháp trợ giúp pháp lý (“TGPL”) mà người đó lựa chọn; được thông báo về quyền này nếu người đó chưa có TGPL; và được chỉ định nhận TGPL trong mọi tình huống mà những lợi ích của công lý đòi hỏi, mà không phải trả tiền trong cho dù anh ta không có đủ tiền để trả ... Điều 14 của ICCPR đưa ra nội dung của mọi khía cạnh quan trọng của quy chuẩn của quyền được xét xử công bằng. Ủy ban Nhân quyền của Liên Hiệp quốc có lý do để xem xét những vi phạm về những quy định này trong nội dung của phần Nhận Định chung27 và khiếu kiện cá nhân.28 Do sự chồng chéo của Điều 14(3)(b) và 14(3)(d), chúng ta thường thấy sự vi phạm đồng thời hai quy định này. Những ví dụ về sự vi phạm quyền của luật sư do Ủy ban Nhân quyền nêu ra bao gồm cả những trường hợp một người bị giam giữ mà không có khả năng tiếp xúc với luật sư, xét xử bởi các toà án đặc biệt, và việc chỉ định người bào chữa của cơ quan nhà nước không đúng với mong muốn của bị can, bị cáo. a. Quyền có đủ thời gian để chuẩn bị cho phiên toà, bao gồm cả việc tiếp xúc với người bào chữa Trong phần Nhận Định chung 32, Ủy ban Nhân quyền lưu ý rằng “việc có hoặc không có TGPL thường xác định liệu một người có khả năng tiếp cận các thủ tục tố tụng liên quan hoặc tham gia vào các thủ tục tố tụng đó một cách có ý nghĩa hay không29. Quy định “đủ thời gian” trong Điều14(3)(b) được hiểu như thế nào sẽ phụ thuộc vào tình huống của từng vụ án cụ thể và người bào chữa nên tiếp cận đủ với bị can, bị cáo và có khả năng đưa ra yêu cầu hợp lý cho một toà án hay phiên toà nhằm hoãn xét xử.30 b. Quyền được thông tin bí mật với người bào chữa Một khía cạnh khác của Điều 14(3)(b) là thông tin bí mật giữa người bào chữa và khách hàng của họ. Ủy ban Nhân quyền đã tuyên bố rằng việc trao đổi đó nên được diễn ra "trong điều kiện hoàn toàn tôn trọng tính bí mật trong việc trao đổi của họ".31 Những vấn đề cần được quan tâm đặt ra khi bị can, bị cáo không được có người bào chữa hoặc bị can, bị cáo không có khả năng bào chữa và hoặc không được chỉ định người bào chữa hoặc người bào chữa được chỉ định là không đáp ứng hoặc không thích hợp, hoặc việc trao 26 GA Res 2200A (XXI) 21 UN GAOR Suptrang (No. 16) at 52, UN Doc A/6316 (1966), có hiệu lực từ 23 tháng 3 năm 1976. 27 Ủy ban về Quyền con người đưa ra Nhận định chung về các vấn đề riêng liên quan tới Quyền con người theo ICCPR. 28 Nghị định thư tự nguyện thứ nhất của ICCPR quy định các cá nhân từ các quốc gia đã phê chuẩn Nghị định thư này khiếu kiện trực tiếp với Ủy ban về Quyền Con người. 29 Nhận định chung số 32, ‘Điều 14: Quyền bình đẳng trước tòa án và và được xét xử công bằng’, 27 tháng 7 năm 2007, đoạn 10. 30 Sđd, đoạn 32. 31 Sđd, đoạn 34.
  10. Nghiên cứu về quyền bào chữa trong pháp luật hình sự Việt Nam 10 đổi riêng tư với người bào chữa bị từ chối. Những vấn đề này được phản ánh trong các ví dụ sau đây của Ủy ban Nhân quyền: Ví dụ về sự vi phạm quyền bào chữa Trong vụ Kelly v Jamaica (537/1993), Ủy ban Nhân quyền đã phát hiện sự vi phạm Điều 14(3)(b) khi bị can không được phép tiếp xúc với một luật sư do anh ta chọn trong 5 ngày sau khi bị bắt giữ. Trong vụ Gridin v. Russian Federation (770/77), Điều 14(3)(b) bị vi phạm sau khi người khởi kiện bị từ chối mời luật sư trong 5 ngày đầu tiên sau khi bắt giam và sau khi được phép tiếp cận với người bào chữa, anh ta không được có cơ hội trao đổi riêng với người bào chữa. Trong vụ Estrella v Uruguay (74/80), Ủy ban Nhân quyền đã tìm thấy có sự vi phạm vì việc lựa chọn người bào chữa của bị cáo bị giới hạn trong một hoặc hai luật sư bào chữa chính thức mà bị cáo chỉ gặp 4 lần trong hơn hai năm. Trong vụ Lopez Burgós v Uruguay (52/79), Uỷ ban này đã tìm thấy sự vi phạm Điều 14(3)(d) của luật vì bị cáo bị buộc phải chấp nhận người bào chữa hợp pháp là người có liên hệ với chính quyền. Trong vụ Pinto v Trinidad and Tobago (232/87), Uỷ ban này thấy rằng người khởi kiện lẽ ra không bị buộc phải chấp nhận một luật sư do Toà án chỉ định - luật sư này đã thể hiện sự kém cỏi trong phiên toà sơ thẩm, khi bị cáo đã có những thu xếp cần thiết để có một luật sư khác đại diện cho anh ta trước Toà phúc thẩm. Trong vụ Khomidova v Tajikistan (1117/02), con trai của bị can bị tạm giữ trong khoảng thời gian dài mà không được tiếp xúc với người bào chữa và sau đó được bào chữa bởi người của cơ quan điều tra (“CQĐT”). Người bào chữa này không được bị can tin tưởng và cũng không có khả năng tiếp xúc riêng. Trong vụ Siragev v Uzbekistan (907/00), bị can bị từ chối quyền được tiếp xúc riêng với người bào chữa, hơn nữa, người bào chữa của anh ta chỉ được tiếp cận với tài liệu có liên quan không lâu trước khi xử và bị từ chối một yêu cầu hoãn phiên toà một cách hợp lý mà không có lý do. c. Không có quyền tuyệt đối để chọn lựa người bào chữa. Quyết định của Ủy ban Nhân quyền xác nhận rằng trong khi bị can, bị cáo nên có quyền tiếp xúc với người bào chữa hợp pháp liên quan đến tố tụng hình sự (quyền này không dành cho tố tụng dân sự), điều đó không mang lại quyền lựa chọn người bào chữa theo ý mình khi người bào chữa đó đang hoạt động nhờ nguồn tài chính của TGPL. Trong trường hợp này, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và tính phức tạp của thủ tục tố tụng sẽ được xem xét (xem vụ án O.F. v Norway (158/83) và vụ án Lindon v Australia (646/95))32. Người bào chữa phải được cung cấp thông qua TGPL trong tất cả các giai đoạn tố tụng trong trường hợp liên quan đến hình phạt tử hình33. Hiệp định Châu Âu về Bảo vệ Quyền con người và Sự Tự do cơ bản của Con người34 Điều 6.3 của Hiệp định Châu Âu về Bảo vệ Quyền con người và Sự Tự do cơ bản (ECHR) quy định rằng: Bất kỳ ai khi bị cáo buộc phạm tội hình sự có các quyền tối thiểu sau: 32 Xem thêm, Nhận định chung số 32, đoạn 10. 33 Sđd, đoạn 38 và các vụ án được trích dẫn tại n79. 34 Quyền con người điều ước quốc tế khu vực khác quy định các điều khoản tương tự và phản ánh địa vị tương tự liên quan tới quyền tiếp cận luật sư bào chữa: xem, Điều 7.1 Hiến chương châu Phi về Quyền con người và dân tộc (ETS No. 5, được mở để kí vào 4 tháng 11 năm 1950, có hiệu lực từ 3 tháng 9 năm 1953); Điều 8.2 Công ước Châu Mỹ về Quyền con người (OAS, Treaty Series, No. 36, được thông qua ngày 22 tháng 11 năm 1969, có hiệu lực từ 18 tháng 7 năm 1978).
  11. Nghiên cứu về quyền bào chữa trong pháp luật hình sự Việt Nam 11 … (c) Tự bào chữa cho chính mình… thông qua sự TGPL do chính người đó lựa chọn hoặc nếu người đó không có đủ khả năng chi trả cho TGPL thì được nhận TGPL miễn phí khi cần thiết đạt được các mục tiêu công lý; … Mặc dù toà án khu vực về quyền con người, Toà án Châu Âu về Quyền Con người, thường đưa ra những quan điểm luật học có căn cứ xác đáng và có thể dựa vào đó để xem xét sự giải thích và sự ảnh hưởng của những điều khoản tương tự trong ICCPR và đôi khi lại phù hợp hơn với các quyền được xem xét trong ngành luật học nghiên cứu. Từ điểm sơ khai của nguyên tắc, Toà án Châu Âu về Quyền Con người đã chỉ ra rằng Hiệp định Châu Âu nhằm mục đích “đảm bảo những quyền không mang tính chất lý thuyết hoặc phi thực tế mà phải mang tính thực tiễn và có hiệu quả” và điều này đặc biệt đúng “trong cách nhìn nhận về vị trí nổi bật trong một xã hội dân chủ bằng quyền được xét xử công bằng”35. d. Quyền bào chữa thông qua trợ giúp pháp lý Như với các quyết định của Ủy ban Nhân quyền, Tòa án Châu Âu về Quyền Con người đã xử lý một trường hợp cơ quan nhà nước từ chối cho phép bị can, bị cáo tiếp cận với luật sư bào chữa và trường hợp không thể cung cấp luật sư bào chữa cho những bị can, bị cáo không có tiền. Như các quy định tương tự của ICCPR 36, khía cạnh sau của quyền này đòi hỏi phải có một cuộc kiểm tra cặp phạm trù của quyền được bào chữa theo Điều 6.3(c): (1) người bị buộc tội hình sự không có đủ khả năng vật chất, và (2) lợi ích của công lý đòi hỏi phải có sự tham gia của người bào chữa37. Về nguyên tắc, lợi ích của công lý đòi hỏi phải có đại diện pháp lý khi có “đe doạ tước đoạt quyền tự do”38. e. Từ chối cung cấp người bào chữa trong thời gian ngắn Mặc dù các vụ án đã được Ủy ban Nhân quyền xác định có xu hướng giải quyết việc từ chối được bào chữa chỉ có vài ngày. Trong hai vụ án từ Vương quốc Anh, Ủy ban Nhân quyền Châu Âu đã xác định việc từ chối có người bào chữa trong thời gian ngắn có thể coi như một hành vi vi phạm.39 Trong vụ Whitfield and Ors v United Kingdom (46387/99, 48906/99, 57410/00 và 57419/00), ba đương đơn khiếu nại về sự vi phạm Điều 6(3) do sự từ chối đại diện pháp lý. Đối với mỗi đương đơn, cơ quan xét xử đã cho rằng đại diện pháp lý là không cần thiết cho việc xét xử và thậm chí một đương đơn đã không cần tham vấn luật sư của mình trước phiên tòa. Toà án Châu Âu về Quyền Con người đã kết luận rằng những đương đơn đó bị từ chối quyền được đại diện pháp lý do việc vi phạm sự bảo đảm của quyền đó trong đoạn 2 của Điều 6.3(c) của Công ước. g. Quyền bào chữa trong giai đoạn tố tụng trước khi xét xử 35 Artico v Italy A.37 (1980) 3 EHRR 1, đoạn 33. 36 Xem, Nhận định chung số 32, đoạn 38; Z.TRANG v. Canada (341/88), đoạn 5.4. 37 Sđd, đoạn 34. 38 Benham v United Kingdom (1996) 22 EHRR 293, 61. 39 Xem, John Murray v United Kingdom (1996) 22 EHRR 29 (48 hours); Averill v United Kingdom (2000) 31 EHRR 36.
  12. Nghiên cứu về quyền bào chữa trong pháp luật hình sự Việt Nam 12 Tòa án Châu Âu về Quyền Con người đã cho rằng trong khi quyền bào chữa phải được áp dụng cho thủ tục tố tụng tại toà án và cũng được áp dụng cho giai đoạn trước khi xét xử một vụ án. Thực chất, như tác giả Mowbray đã nêu, “những nguy cơ thiệt hại đối với việc bào chữa cho một nghi can ở giai đoạn trước khi xét xử càng lớn thì nghi can đó càng cần có sự giúp pháp lý miễn phí theo quy định này”40. Trong vụ Öçalan v. Turkey, một người khởi kiện ra Tòa án Châu Âu về Quyền Con người về việc người đó đã bị tạm giam tại cơ quan cảnh sát Thổ Nhĩ Kỳ trong gần bảy ngày, bị thẩm vấn bởi cơ quan an ninh, công tố viên và thẩm phán của Toà án An ninh Quốc gia, nhưng người đó không hề nhận được sự TGPL nào trong suốt quá trình này và phải đưa ra rất nhiều lời khai tự buộc tội mà những lời khai này sau đó trở thành những thành phần quan trọng trong cáo trạng và trong bằng chứng của công tố viên. Đồng thời, những lời khai đó là yếu tố chính trong việc kết tội anh ta. Toà án Châu Âu về Quyền Con người đã ghi nhận rằng Điều 6 có thể áp dụng trước khi một vụ việc được đem ra xét xử nếu và chừng nào sự công bằng của phiên toà có khả năng bị vi phạm nghiêm trọng do không tuân thủ quy định ngay từ đầu. Nhưng “trong mỗi vụ án liệu vi phạm đó có tước đoạt của bị cáo quyền được xét xử công bằng xét trong bối cảnh của toàn bộ quá trình tố tụng “.41 Toà án và Hội đồng Xét xử Hình sự Quốc tế Các quyền của bị can, bị cáo quy định trong Điều 14(3) của ICCPR cũng được phản ánh trong khuôn khổ mang tính lập hiến của các toà án và hội đồng xét xử hình sự quốc tế.42 Quyền được xét xử công bằng được các toà án quốc tế coi là những tiền đề cơ bản để tiến hành thủ tục tố tụng quốc tế. Trong nhiều khía cạnh sự thành công hay thất bại của những thủ tục tố tụng này được đánh giá dựa trên chuẩn mực xét xử công bằng.43 Những quy định liên quan đến quyền bào chữa trong những toà án này được phản ánh trong Điều 14(3)(b) và (d) của ICCPR. Việc áp dụng quyền được tiến hành tố tụng đúng đắn như quyền bào chữa về nguyên tắc được giải thích phụ thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể. Ví dụ, Tòa án Hình sự Quốc tế đối với Những Nhà lãnh đạo Nam Tư cũ đã tuyên bố rằng cội nguồn các quyền con người đã ảnh hưởng nặng nề đến sự giải thích của Toà án về việc áp dụng quyền (thực tế, phần lớn các phán quyết liên quan tới các quyền đó luôn tham chiếu tới các quyết định của Ủy ban Nhân quyền hoặc Tòa án Châu Âu về Quyền Con người vì tính thuyết phục cao). Tuy nhiên, Tòa án Hình sự Quốc tế đối với Những Nhà lãnh đạo Nam Tư cũ lưu ý là luật hình sự quốc tế là một hệ thống luật đặc biệt trong đó các quyền con người có thể được diễn giải hoặc xây dựng theo cách phù hợp với những đặc thù của hệ thống đó44. 40 Alastair Mowbray, Các vụ án và Tài liệu về Công ước Châu Âu về Quyền con người (2nd ed., 2007), 457. Xem thêm, Berlinski v Poland 27715/95;30209/96 [2002] ECHR 505 (20 tháng 6 năm 2002) đoạn 75, 77. 41 Öçalan v. Turkey (46221/99), đoạn 133, 42 Xem, Điều 67 của Quy chế Rome về Tòa án Hình sự quốc tế (‘ICC’) (ICC-ASP/1/3, được thông qua bởi Hội đồng các quốc gia thành viên; Phiên họp đầu tiên; New York, 3-10 tháng 9 năm 2002); Điều 21 của Quy chế Tòa án hình sự quốc tế đối với Yugoslavia trước đây (‘ICTY’) (32 ILM 1159 (1993), được sửa đổi bởi Nghị quyết của Hội đồng Bảo an 1660 ngày 28 tháng 2 năm 2006); Điều 20.4 của Quy chế Tòa án hình sự quốc tế đối với Rwanda (ICTR) ((1994) 33 ILM 1602, được sửa đổi bởi Nghị quyết của Hội đồng Bảo an 1534 ngày 26 tháng 3 năm 2004). 43 Xem, Boas, chú thích 24 trên đây, cụ thể là chương một và năm. 44 Xem, Boas, chú thích 24 trên đây, trang 69-78; Patrick L. Robinson, ‘Đảm bảo xét xử công bằng và nhanh chóng tại Tòa án hình sự quốc tế đối với Yugoslavia trước đây’ (2000) Vol. 11 no. 3 Chuyên san về Luật quốc tế của Châu Âu, 569 at 572-3. Cf Salvatore Zappalà, Quyền con người trong Tố tụng hình sự quốc tế (2003), trang 5; Christoph Safferling, Hướng tới một Thủ tục tố tụng hình sự quốc tế (2001), trang 36. Contra
  13. Nghiên cứu về quyền bào chữa trong pháp luật hình sự Việt Nam 13 Mặc dù đã lưu ý rằng luật hình sự quốc tế là một hệ thống luật pháp đặc biệt, quyền của bị can, bị cáo được có người bào chữa và có người bào chữa cho những bị can, bị cáo không thể thu xếp được người bào chữa cho mình đã không được giải thích theo cách thức nhất quán với chế độ quyền con người. Thực chất, yếu tố lợi ích của công lí quy định trong Điều 14(3)(d) không bao giờ được đề cập trong hệ thống này bởi vì tính nghiêm trọng bất biến của các hành vi tội phạm quốc tế đang bị truy cứu (như tội diệt chủng, tội ác chống lại loài người và tội phạm chiến tranh). Có nhiều cách thức để xem xét chuẩn mực của việc xét xử công bằng tại các toà án này có liên quan đến quyền bào chữa đang nghiên cứu trong Báo cáo này. Trước hết, những tòa án này áp dụng quyền được xét xử công bằng trên bình diện quốc tế. Khi áp dụng, các tòa án này phải giải thích tình trạng pháp lý của luật nội dung và tố tụng, bao gồm cả quyền bào chữa và các quyền liên quan. Đôi lúc, các tòa án nhận định các quyền này theo tập quán pháp và họ rút ra từ thực tiễn tại hệ thống pháp luật xét xử của các quốc gia để bổ sung cho những thiếu hụt, và có thể thừa nhận rằng thực tiễn này phù hợp với đặc điểm của các nguyên tắc pháp luật quốc tế.45 Các văn kiện của các hội đồng xét xử hình sự quốc tế nêu chi tiết về quyền bào chữa để làm rõ thêm các quyền con người, việc giải thích các quyền này và bảo đảm hơn nữa cho các quyền này.46 2. Tiểu kết Quyền bào chữa là một quyền được xét xử đúng đắn có tính chất quan trọng được luật pháp nhân quyền quốc tế và tập quán quốc tế bảo vệ. Quyền này là một phần trong chuẩn mực jus cogens của quyền được xét xử công bằng. Quyền được có người người bào chữa trong giai đoạn trước khi xét xử, và trong giai đoạn xét xử trong các vụ án nghiêm trọng hoặc phức tạp đã được Ủy ban Nhân quyền Quốc tế và Tòa án Châu Âu về Quyền Con người củng cố và được ghi vào trong hệ thống tư pháp hình sự quốc tế. Quyền bào chữa cũng bao gồm cả việc cung cấp tư vấn pháp luật miễn phí cho những bị can, bị cáo không có đủ khả năng chi trả. Tuy nhiên vẫn tồn tại một ranh giới đánh giá để các quốc gia thực hiện việc cung cấp này trong những tình huống liên quan tới mức độ nghiêm trọng của tội phạm và ngân sách hiện có. Như đã ghi trong ICCPR và phản ánh trong các văn kiện về quyền con người của khu vực, các văn kiện luật hình sự quốc tế, cuộc kiểm tra cặp phạm trù đã nêu ở trên sẽ là một trong những biện pháp và lợi ích của công lý. Có 9 quyền cấu thành Quyền Bào chữa trong luật pháp về nhân quyền quốc tế và tập quán quốc tế, bao gồm: Gabrielle McIntyre, ‘Định nghĩa Quyền con người trên vũ đài Luật nhân văn quốc tế: Quyền con người trong khoa học về luật của ICTY’, trong Gideon Boas and William A. Schabas (eds.), Các bước phát triển của Luật Hình sự Quốc tế trong án lệ của ICTY (2002), 193. 45 Xem, Điều 38(1)(c) của Đạo luật ICJ. Các nguyên tắc chung của luật không xuất phát từ cách ứng xử liên ứng (có ý thức hoặc không) của các quốc gia; đúng hơn, họ quen với việc điền vào các khoảng trống trong các quy tắc pháp luật quốc tế hay, một cách khác đi, làm rõ một tình huống non liquet (không rõ ràng) trong pháp luật quốc tế: Xem, Malcolm Shaw, Pháp luật quốc tế (6th ed., 2008), 98. Ví dụ như ICTY đã sử dụng nguồn này để xác định các thành tố của tội cưỡng dâm trong luật pháp quốc tế: Prosecutor v. Furundžija, Vụ án số IT-95-17/1-T, Bản án, 10 tháng 12 năm 1998, đoạn 175. 46 Xem qua, ICTY, Đạo luật và Quy tắc về Thủ tục tố tụng và Bằng chứng của ICTR và ICC; Hướng dẫn về chỉ định Luật sư bào chữa của ICTY và ICTR; và, các quy chế của ICC
  14. Nghiên cứu về quyền bào chữa trong pháp luật hình sự Việt Nam 14 (i) Quyền được có người bào chữa do mình lựa chọn; (ii) Quyền được có đủ thời gian để chuẩn bị cho phiên tòa, bao gồm tiếp xúc với người bào chữa; (iii) Quyền được giao tiếp bí mật với luật sư; (iv) Quyền bào chữa thông qua trợ giúp pháp lý; (v) Quyền được tạm hoãn thủ tục tố tụng để được tham vấn luật sư; (vi) Quyền được tự bào chữa; (vii) Quyền bào chữa là hành vi bảo vệ quyền lợi của bị cáo; (viii) Quyền không phải tiến hành tố tụng với luật sư bào chữa là người không đủ năng lực hoặc thiếu cẩn thận trong khi bị can, bị cáo đã có luật sư phù hợp; (ix) Quyền bào chữa trong tất cả các giai đoạn tố tụng đối với hình phạt án tử hình. Nghiên cứu dưới đây về Quyền bào chữa tại 5 (năm quốc gia) và khảo sát thực tiễn tại Việt Nam sẽ dựa trên 9 quyền cấu thành nêu trên.
  15. Nghiên cứu về quyền bào chữa trong pháp luật hình sự Việt Nam 15 CHƯƠNG II NGHIÊN CỨU SO SÁNH VỀ QUYỀN BÀO CHỮA TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA Bốn hệ thống tư pháp hình sự ở các nước đã được khảo sát về quyền bào chữa. Những hệ thống này được lựa chọn vì tính đa dạng của chúng. Nếu hệ thống của Australia phản ánh hệ thống tư pháp hình sự theo hướng tranh tụng thì ba hệ thống còn lại (Trung Quốc, Nhật Bản và Đức) phản ánh mô hình tư pháp hình sự theo hệ thống dân luật có nhiều liên hệ với Việt Nam. Những hệ thống được chọn cũng mang tính đại diện về mặt địa-pháp lý rộng lớn, từ Châu Á, Châu Âu và châu Đại Dương (Australia đại diện cho mô hình Anglo-America có tầm quan trọng quốc tế). 1. Trung Quốc 1.1 Cấu trúc của Hệ thống Tư pháp Hình sự Trung Quốc Trong cấu trúc của hệ thống tư pháp hình sự Trung Quốc, quyền bào chữa hợp pháp tăng dần theo cấp độ bậc thang vì một vụ án được tiến hành từ quá trình điều tra tiền xét xử, đến luận tội, đến xác định có tội hay vô tội trước tòa. Mỗi giai đoạn này nằm trong phạm vi hoạt động của mỗi tổ chức thể chế riêng biệt. Các cuộc điều tra hoàn toàn do cơ quan công an kiểm soát, giai đoạn luận tội được các kiểm sát viên thực hiện và các phiên tòa được tiến hành bởi tòa án.47 Không có cơ quan nào trong số này phải chịu sự kiểm soát lẫn nhau, với cơ chế ‘kiểm tra và cân bằng’ (‘checks and balances’) không đáng kể. Khi không có sự giám sát chéo giữa các cơ quan, mỗi cơ quan có quyền quản lí hoàn toàn trong lĩnh vực mình phụ trách, và chỉ tuân theo quyền lực chính trị bao trùm của Đảng Cộng sản Trung Quốc và các cơ quan ban hành chính sách của Đảng, Nghị viện Nhân dân Toàn quốc. Sự cố hữu của hệ thống tư pháp trong hệ thống chính trị Trung Quốc đã làm mất đi tính độc lập của tòa án: Tòa án chịu trách nhiệm trước các ủy ban chính trị nhất định.48 Việc thiếu sự giám sát chéo giữa các cơ quan đã làm mất đi trách nhiệm giải trình của tòa án 1.2. Các nguồn luật tố tụng và hình sự Trung Quốc Không có khái niệm đơn lẻ nào khái quát toàn bộ quyền bào chữa trong pháp luật hình sự Trung Quốc, mặc dù Hiến pháp có quy định sự đảm bảo về quyền tố tụng hợp lí một cách hạn chế, về cơ bản dẫn tới một quy định hẹp cấm giam giữ trái pháp luật. Hiến pháp không trao quyền bào chữa, cũng không đưa ra bất kỳ quyền nội dung nào khác trong tố tụng tư pháp hình sự49. Hơn nữa, Hiến pháp không thể tự thực thi và các tòa án thiếu thẩm quyền để viện dẫn Hiến pháp trong các quyết định của mình50. Thiếu đi sự bảo vệ về mặt hiến pháp, quyền bào chữa trước mỗi tổ chức 47 Ira Belkin, 'China' in Craig M. Bradley (ed.), Thủ tục tố tụng hình sự - Một nghiên cứu trên toàn thế giới (2nd ed., 2007), trang 91. 48 Sđd, trang 92. 49 Hiến pháp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, được thông qua tại Kì họp thứ 5 Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc lần thứ 5 ngày 4 tháng 12 năm 1982, được thông qua tại Kì họp thứ 1 Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc lần thứ 8 ngày 29 tháng 3 năm 1993), điều 37. 50 Sđd, trang 93.
  16. Nghiên cứu về quyền bào chữa trong pháp luật hình sự Việt Nam 16 cấu thành của bộ máy tư pháp hình sự Trung Quốc được điều chỉnh bởi nguồn quy định của pháp luật, và phần còn lại dựa trên cơ sở đa dạng của quyền thực thi. 1.3. Luật nội dung và áp dụng Ở Trung Quốc, các tội danh và các hình phạt liên quan được quy định tại Luật Hình sự, được sửa đổi năm 1997, được biết đến bởi rất nhiều sửa đổi sau này của Nghị viện Nhân dân Toàn quốc. Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự được xác định chủ yếu bởi Luật Tố tụng Hình sự, được sửa đổi phần lớn vào tháng ba năm 2012,51 cũng như bởi Luật Luật sư và Đại diện pháp luật năm 1996, được sửa đổi năm 1998.52 Điều tra Đối với quyền bào chữa ở giai đoạn điều tra trong tố tụng hình sự, Luật Tố tụng Hình sự sửa đổi yêu cầu cơ quan an ninh công cộng bảo vệ quyền bào chữa và các quyền tố tụng khác của người bị tình nghi hình sự.53 Một người bị tình nghi hình sự có quyền chỉ định một ‘người bào chữa’ như luật sư bào chữa vào bất kì thời điểm nào kể từ thời điểm bị cơ quan điều tra thẩm vấn lần đầu hay thời điểm phải chịu các biện pháp bắt buộc.54 Cơ quan điều tra có nghĩa vụ thông báo cho người bị tình nghi hình sự rằng họ có quyền này.55 Những người được chỉ định làm người bào chữa phải là luật sư.56 Trong trường hợp người bị tình nghi hình sự đang bị giam giữ, luật sư bào chữa có thể do ‘người chăm sóc/người giám hộ’ hay người thân chỉ định đại diện cho họ.57 Sau khi người bị tình nghi hình sự yêu cầu luật sư bào chữa, cơ quan điều tra phải ‘khẩn trương truyền đạt yêu cầu’.58 Trường hợp những khó khăn về tài chính hay các lí do khác cản trở người bị tình nghi hình sự chỉ định luật sư bào chữa, người bị tình nghi hay người thân của họ có thể yêu cầu tổ chức trợ giúp pháp lí để được trợ giúp pháp lí miễn phí.59 Nếu đáp ứng được các điều kiện để cung cấp trợ giúp pháp lí, bên cung cấp dịch vụ liên quan buộc phải cử luật sư đủ tiêu chuẩn làm luật sư bào chữa cho người bị tình nghi.60 Yêu 51 Quyết định của Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc về việc sửa đổi Luật Tố tụng Hình sự của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Lệnh của Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa số 55, được thông qua tại phiên họp thứ 5 Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc lần thứ 11 ngày 14 tháng 3 năm 2012. Quyết định sẽ có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2013. 52 Luật Luật sư và Đại diện pháp luật, được ban hành bởi kì họp thứ 19 của Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc lần thứ 8 ngày 15 tháng 5 năm 1996 và sửa đổi sau đó vào tháng 4 năm 1998. 53 Luật Tố tụng Hình sự của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, mục 14(1), được sửa đổi ngày 14 tháng 3 năm 2012, với những sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2013. 54 Luật Tố tụng Hình sự, mục 33. 55 Luật Tố tụng Hình sự, mục 33. 56 Luật Tố tụng Hình sự, mục 33. 57 Luật Tố tụng Hình sự, mục 33. Ngôn ngữ của luật vẫn chưa rõ ràng, không rõ quy định này làm tăng thêm hay làm giảm đi quyền của người bị tình nghi trong việc chỉ định luật sư bào chữa theo lựa chọn của mình. Tức là, liệu việc giam giữ thực tế hủy bỏ quyền của người bị tình nghi hay bị can, hay khả năng hiệu lực, được chỉ định luật sư bào chữa theo lựa chọn của mình. 58 Luật Tố tụng Hình sự, mục 33. 59 Luật Tố tụng Hình sự, mục 34. 60 Luật Tố tụng Hình sự, mục 34.
  17. Nghiên cứu về quyền bào chữa trong pháp luật hình sự Việt Nam 17 cầu cơ bản để được trợ giúp pháp lí là người bị tình nghi hình sự chưa thuê luật sư do 'khó khăn tài chính', tiêu chuẩn địa phương về khó khăn tài chính do chính quyền các tỉnh, khu vực tự trị, và thành phố trực thuộc trung ương xác định.61 Cơ quan điều tra không có nghĩa vụ chung phải yêu cầu trợ giúp pháp lí thay mặt bị can. Tuy nhiên, trong trường hợp người bị tình nghi hình sự đang bị điều tra về các tội mà, nếu bị tuyên, có thể dẫn tới án tù chung thân hay tử hình, và người bị tình nghi chưa chỉ định luật sư bào chữa của chính họ, thì cơ quan công quyền có liên quan (công an, viện kiểm sát hay tòa án, tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng) có nghĩa vụ thu xếp một cơ quan trợ giúp pháp lí chỉ định luật sư bào chữa cho người bị tình nghi,62 bất kể hoàn cảnh kinh tế của người bị tình nghi.63 Trong quá trình điều tra, một luật sư bào chữa được chỉ định có thể cung cấp những hỗ trợ về mặt pháp lí cho người bị tình nghi, bao gồm cả các ý kiến; thay mặt họ làm đơn kiện hay cáo trạng; yêu cầu thay đổi các biện pháp bắt buộc; và yêu cầu cơ quan điều tra cung cấp thông tin về tội danh bị tình nghi và các thông tin có liên quan khác về vụ án.64 Trước khi kết thúc điều tra, theo yêu cầu, cơ quan điều tra phải lắng nghe và ghi chép lại ý kiến của luật sư bào chữa của người bị tình nghi.65 Vào bất kì giai đoạn nào trong tố tụng nếu luật sư bào chữa thấy rằng cơ quan công quyền hay cán bộ của các cơ quan đó gây trở ngại cho việc thực hiện quyền tố tụng, họ có quyền khiếu nại lên cơ quan kiểm sát, hay cơ quan cao nhất tiếp theo, cơ quan này sau đó có nghĩa vụ phải khẩn trương xem xét đơn kiện và, nếu đã xác minh, phải xử lí hành vi cản trở đó.66 Một người bị tình nghi hình sự hay một bị can bị giam giữ hay bị giám sát tại nơi cư trú có quyền trao đổi thư từ, và gặp gỡ luật sư bào chữa của họ.67 Trong trường hợp luật sư bào chữa yêu cầu trao đổi thư từ hay gặp gỡ người bị tình nghi hình sự hay bị can bị giam giữ, cơ sở giam giữ phải thu xếp cuộc gặp đó trong vòng 48 giờ.68 Mặc dù pháp luật không quy định sự đảm bảo chung về liên lạc bí mật giữa người bị tình nghi hay bị can và luật sư bào chữa, luật cũng cấm việc giám sát cuộc gặp giữa luật sư bào chữa và người bị tình nghi hay bị can đang bị giam giữ,69 và quy định cấm này cũng mở rộng đối với giám sát tại nơi cư trú.70 ‘Người bào chữa’ bổ sung cũng có thể gặp riêng hay trao đổi thư từ với người bị tình nghi hình sự hay bị can đang bị giam giữ, nhưng chỉ khi được phép của tòa án hay của kiểm sát viên.71 Truy tố 61 Quy định về Trợ giúp pháp lí, được thông qua ngày 16/7/2003 tại hội nghị chấp hành lần thứ 15 của Hội đồng Nhà nước, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 9 năm 2003, điều 11 và 13. 62 Luật Tố tụng Hình sự, mục 34. 63 Quy định về Trợ giúp pháp lí điều 12. 64 Luật Tố tụng Hình sự, mục 36. 65 Luật Tố tụng Hình sự, mục 159. 66 Luật Tố tụng Hình sự, mục 47. 67 Luật Tố tụng Hình sự, mục 37. 68 Luật Tố tụng Hình sự, mục 37. 69 Luật Tố tụng Hình sự, mục 37. 70 Luật Tố tụng Hình sự, mục 37. 71 Luật Tố tụng Hình sự, mục 37.
  18. Nghiên cứu về quyền bào chữa trong pháp luật hình sự Việt Nam 18 Khi giai đoạn điều tra đã hoàn thành, vụ án được chuyển sang cho Viện kiểm sát Quốc gia (‘procuratorate’) để xem xét và truy tố. Trong giai đoạn này, quyền bào chữa của người bị tình nghi được mở rộng ở một số khía cạnh. Bắt đầu từ ngày xem xét vụ án bởi viện kiểm sát, luật sư bào chữa có thể tiếp cận, trích và sao tài liệu được thu thập trong vụ án,72 và có thể xác minh bằng chứng với người bị tình nghi.73 Viện kiểm sát có nghĩa vụ thông báo cho người bị tình nghi hình sự quyền được chỉ định luật sư bào chữa của họ trong vòng 3 ngày kể từ khi nhận được hồ sơ vụ án được chuyển để xem xét.74 Tố tụng tại tòa Sau khi quyết định đưa vụ án ra tòa, tòa án có nghĩa vụ riêng biệt phải thông báo cho bị cáo về quyền được chỉ định luật sư bào chữa trong vòng ba ngày.75 Trong suốt phiên tòa, luật sư bào chữa có thể trình bày các tài liệu và ý kiến chứng minh cho sự vô tội của bị cáo, những tiểu tiết của tội danh bị cáo buộc, hay cho nhu cầu giảm nhẹ hình phạt hay miễn trách nhiệm hình sự, và có thể hành động để bảo vệ các quyền tố tụng và ‘các quyền và lợi ích hợp pháp khác’ của bị can. 76 Luật sư bào chữa có thể đề nghị tòa hay viện kiểm sát yêu cầu đưa đến trước tòa những bằng chứng có thể chứng minh sự vô tội của bị cáo.77 Ý kiến của luật sư bào chữa phải được Tòa án Nhân dân Tối cao lắng nghe, trong trường hợp Tòa đang xem xét vụ án có thể dẫn tới án tử hình.78 Áp dụng trong thực tiễn Mặc dù sửa đổi gần đây của Luật Tố tụng Hình sự đưa ra một số tiến bộ về quyền bào chữa ở Trung Quốc, vẫn cần phải xem những cải tiến này sẽ được thực thi nhanh chóng và hiệu quả đến đâu trên thực tế. Hiện nay, phần lớn bị cáo hình sự bị xét xử ở Trung Quốc không được đại diện bởi luật sư, với các nguồn chính thức cho thấy rằng chỉ có 30% các vụ hình sự có bào chữa pháp lí dưới một hình thức nào đó, con số này do một nghiên cứu độc lập.79 Lần sửa đổi năm 1996 của Luật Tố tụng Hình sự dẫn tới sự sụt giảm mạnh số vụ án hình sự có đại diện pháp luật,80 hơn là tăng, mặc dù có 72 Luật Tố tụng Hình sự, mục 38. 73 Luật Tố tụng Hình sự, mục 37. Những người bào chữa khác có thể tiếp cận, trích, và sao chụp những tài liệu đó, nhưng chỉ khi được phép của tòa án hay cơ quan kiểm sát, mục 38. 74 Luật Tố tụng Hình sự, mục 33. 75 Luật Tố tụng Hình sự, mục 33. Nghĩa vụ này tách rời khỏi, và bổ sung cho, nghĩa vụ của cơ quan điều tra (ví dụ công an) phải thông báo sau khi bắt đầu điều tra hay những biện pháp bắt buộc. và phải chuyển bản cáo trạng cho bị can không dưới 10 ngày trước ngày xét xử, mục 182. 76 Luật Tố tụng Hình sự, mục 35. 77 Luật Tố tụng Hình sự, mục 39. 78 Luật Tố tụng Hình sự, mục 240. 79 Như tham chiếu trong Những lời hứa suông, chú thích trên đây, trang 25: Liu Jinxing, ‘Tại sao các luật sư không sẵn sàng bào chữa các vụ án hình sự?’ (lüshi weihe buyuan zuo xingshi bianhu?), Procuratorate Daily (jiancha ribao) 7 tháng 4 năm 1999, trang 4; Gao Qiong, ‘Luật sư và Bào chữa hình sự’ (lüshi yu xingshi bianhu), in Fan Chongyi và đồng sự, Bình luận đặc biệt về Luật Tố tụng Hình sự (xingshi susong fa zhuanlun) (1998), trang 168; Zhang Gen và đồng sự, ‘Những chi tiết và tính phức tạp của Hệ thống trợ giúp pháp lí đang hình thành ở Trung Quốc’ (zhongguo falü yuanzhu zhidu dangsheng de qianqian houhou) (1998), trang 36. Tất cả ba bài viết trên kết luận những con số tương đồng về đại diện bào chữa. 80 Chú thích trên đây, trang 25.
  19. Nghiên cứu về quyền bào chữa trong pháp luật hình sự Việt Nam 19 một số cải tiến luật án lệ đối với quyền bào chữa. Đối với những người bị tình nghi và bị can có đại diện pháp luật, tiếp cận khách hàng một cách chính thức trong quá trình giam giữ thường bị hạn chế.81 Những sửa đổi gần đây của Luật Tố tụng Hình sự nhìn chung đã cải thiện việc tiếp cận luật sư bào chữa, so với những quy định được thay thế. Pháp luật Trung Quốc, tuy nhiên, vẫn duy trì những hình phạt hình sự nghiêm khắc đối với luật sư, có thể quy định lên tới bảy năm tù giam đối với luật sư lôi kéo nhân chứng thay đổi lời khai bất chấp sự thực’, những hình phạt này có thể hạn chế hiệu lực của quyền bào chữa của bị cáo.82 Những quy định như vậy đã được các cơ quan chính quyền sử dụng để cản trở hơn 500 luật sư từ năm 1997 đến 2002.83 Những loại hình phạt như thế này hạn chế một cách hiệu quả quyền bào chữa hợp pháp của những người đang bị điều tra, bị buộc tội, hay bị kết tội, phạm tội hình sự ở Trung Quốc.84 Việc tiếp cận quyền bào chữa càng bị hạn chế hơn trong những trường hợp liên quan tới người bị tình nghi có tội danh gây nguy hiểm cho an ninh quốc gia, tội danh khủng bố, tội danh đặc biệt nghiêm trọng về tham nhũng và các tội danh liên quan tới ‘bí mật quốc gia’.85 Trong những trường hợp này, luật sư bào chữa phải nhận được sự cho phép của cơ quan điều tra, hơn là cơ sở giam giữ, để gặp người bị tình nghi hay bị can. 86 Bằng chứng không chính thức cho thấy các quy định về ‘bí mật nhà nước’ thường được sử dụng để từ chối quyền tiếp cận thân chủ, thậm chí ngay cả khi có đơn xin được tiếp xúc.87 Căn cứ vào tính chất độc lập của các cơ quan pháp luật Trung Quốc và sự kiểm soát hoàn toàn của cơ quan công an đối với giai đoạn điều tra một vụ án, thì quyết định không cho tiếp cận luật sư bào chữa trên cơ sở ”đảm bảo bí mật nhà nước” là không phải bàn cãi, và do đó xiết chặt việc hưởng quyền một cách hiệu quả 81 Như đưa ra trong cuộc phỏng vấn Giáo sư Xu Jingcun, Phó giám đốc một dự án nghiên cứu của Bộ Tư pháp Trung Quốc về sửa đổi hơn nữa Luật tố tụng hình sự ở Trường đại học Chính trị và pháp luật Trung ương phía nam: 'Một chuyên gia giải thích và phân tích với Bộ Tư pháp những điểm chính trong Dự thảo sửa đổi của Luật tố tụng hình sự' (2005) Xem tại (tiếng Trung Quốc): http://www.czdlaw.com/News/show.asp?id=3&typeid=2. 82 Tom Kellogg, 'Một vụ án để bào chữa' (2003) 2 Diễn đàn về quyền ở Trung Quốc 31. 83 Bill Savadove, ‘Công lí được duy trì trong các tòa án pháp lý của thành phố; sự hăm dọa và bạo lực chống lại luật sư đang gia tăng, và có được một phiên xử công bằng là điều khó được đảm bảo’, Tờ Bưu điện Hoa Nam buổi sáng, 7 tháng 2 năm 2006. 84 Biddulph, chú thích trên đây, trang 119. 85 Việc xác định những gì cấu thành bí mật quốc gia là tương đối mơ hồ. Điều 9 của Những quy định liên quan tới một số vấn đề về thi hành CPL định nghĩa một vụ án có yếu tố bí mật quốc gia là ‘vụ án có tình tiết hay bản chất liên quan tới các bí mật quốc gia’’ (Belkin, chú thích Error! Bookmark not defined. trên đây, trang 101). Belkin đưa ra đưa ra hai ví dụ minh họa cho sự linh hoạt của khái niệm này: ‘trong một vụ, Rabiya Kadeer -một nữ thương gia ở Tân Cương bị kết tội tiết lộ bí mật quốc gia khi bà ta gửi thư những bài báo đã xuất bản về phong trào li khai Tân Cương cho người chồng bất đồng chính kiến của mình ở Mỹ. Trong một vụ án khác, Song Yongyi, một cư dân của Mỹ, một nhà nghiên cứu và thủ thư ở Đại học Dickinson, bị buộc tội tiết lộ bí mật quốc gia khi anh ta thu thập tài liệu liên quan tới Cách mạng văn hóa cho bài nghiên cứu của mình’. 86 Luật Tố tụng Hình sự, mục 37. 87 'Những lời hứa suông: bảo vệ quyền con người và Luật Tố tụng Hình sự của Trung Quốc trên thực tế' (Quyền con người ở Trung Quốc, 2001).
  20. Nghiên cứu về quyền bào chữa trong pháp luật hình sự Việt Nam 20 1.4. Tiểu kết Mặc dù đã có quy định bảo vệ tối thiểu về quyền bào chữa trong Luật Tố tụng Hình sự sửa đổi gần đây, cụ thể là việc mở rộng các quyền cấu thành trong giai đoạn điều tra và xem xét truy tố, nhưng trên thực tế việc áp dụng bị hạn chế do bản chất không chịu trách nhiệm của các cơ quan bao gồm bộ máy tư pháp hình sự Trung Quốc, việc pháp luật không quy định hình phạt cho việc không thực thi nghĩa vụ công, và biện pháp pháp lí đối với việc ngăn cản việc tiếp cận pháp lí, đặc biệt là khi có cáo buộc liên quan tới ‘bí mật nhà nước’ hay an ninh quốc gia, khủng bố, hay tham nhũng nghiêm trọng. 2. Nhật Bản 2.1. Các nguồn luật tố tụng và hình sự Nhật Bản Hiến pháp Nhật Bản là đạo luật tối cao của quốc gia này, được ưu tiên áp dụng so với tất cả các luật và bộ luật khác của chính phủ.88 Hiến pháp thời hậu chiến, có hiệu lực từ năm 1947, được phát triển chủ yếu từ các hệ tư tưởng Anglo-America và có hẳn một chương về việc đảm bảo các quyền cơ bản của con người.8990 Bộ luật Tố tụng Hình sự Nhật Bản quy định các vấn đề về tố tụng hình sự tại Nhật Bản bao gồm những điều khoản cụ thể liên quan tới các quyền khác nhau trao cho người bị tình nghi và bị cáo.91 2.2. Luật nội dung và áp dụng Điều 11 của Hiến pháp giải thích mục đích của chương này; quy định không được phép ngăn cản người Nhật Bản hưởng bất kì quyền cơ bản nào của con người. Hơn nữa, những quyền này được đảm bảo, được hưởng vĩnh viễn và bất khả xâm phạm. Chương này của Hiến pháp cũng khái quát và xác định quyền bào chữa theo pháp luật Nhật Bản. Điều 34 quy định không ai bị bắt hay giam giữ mà không có ngay đặc quyền được bào chữa. Ngoài ra, Điều 37(3) cũng quy định rằng “vào mọi thời điểm bị can, bị cáo phải được luật sư bào chữa có đủ năng lực trợ giúp - người có thể được nhà nước chỉ định sử dụng nếu bị cáo không thể tự bào chữa,”.92 Mặc dù quy định có tính hiến định này dường như tôn trọng các quyền đối với người bị tình nghi của pháp luật Hoa Kỳ theo phán quyết Miranda, nhưng trên thực tế quyền này được giải thích hẹp hơn do việc chuyển ngữ (dịch thuật) không được chắc chắn.93 Bản tiếng Anh của Hiến pháp Nhật Bản được giới khoa học pháp lý coi là bán chính thức và chỉ có bản tiếng Nhật mới được coi là văn bản chính thống. Việc sử dụng từ “accused” (bị cáo) trong bản tiếng Anh thực ra để chỉ quyền có luật sư bào chữa do nhà nước chỉ định nhưng không áp dụng đối với người bị tình nghi, người chưa phải là “accused” (bị 88Điều 98, Hiến pháp Nhật Bản (Bản dịch tiếng Anh): http://www.solon.org/Constitutions/Japan/English/english-Constitution.html, 15 tháng 4 năm 2009. 89 Hiroyuki Hata và Go Nakagawa, Pháp luật Hiến pháp Nhật Bản (1997), trang 19. 90 Chương III: ‘Quyền và bổn phận của con người’, Hiến pháp Nhật Bản. 91Bộ luật Tố tụng Hình sự (bản dịch tiếng Anh): http://www.cas.go.jp/jp/seisaku/hourei/data/COCP_1- 2.pdf, 15 tháng 4 năm 2009. 92 Điều 37, Hiếp pháp Nhật Bản (Bản dịch tiếng Anh): http://www.solon.org/Constitutions/Japan/English/english-Constitution.html, 15 tháng 4 năm 2009. 93 Carl F. Goodman, Nguyên tắc của pháp luật ở Nhật Bản: Một phân tích so sánh (2003), trang 307.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2