TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2014<br />
<br />
RÒ ĐỘNG TĨNH MẠCH MÀNG CỨNG TRONG SỌ ÁC TÍNH:<br />
BÁO CÁO 1 TRƯỜNG HỢP TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 175<br />
Bạch Thanh Thủy*; Tạ Vương Khoa*<br />
Phan Đình Văn*; Phí Ngọc Dương*<br />
TÓM TẮT<br />
Chúng tôi báo cáo 1 trường hợp rò động tĩnh mạch màng cứng (RĐTMMC) trong sọ ác tính,<br />
động mạch (ĐM) nuôi là các nhánh ĐM màng não sau xuất phát từ ĐM chẩm trái và ĐM đốt<br />
sống trái, dẫn lưu tĩnh mạch (TM) cùng một vị trí về xoang sigma cùng bên. Tổn thương gây<br />
trào ngược nặng nề TM vỏ não, biểu hiện bằng khiếm khuyết thần kinh tiến triển trên lâm sàng.<br />
Chúng tôi đã can thiệp nội mạch điều trị thành công. Ý thức bệnh nhân (BN) và một số triệu<br />
chứng khác hồi phục ngay sau thủ thuật. RĐTMMC trong sọ là bệnh lý tương đối hiếm gặp và<br />
khó chẩn đoán. Đây là trường hợp đầu tiên được điều trị bằng phương pháp can thiệp nội<br />
mạch tại Bệnh viện Quân y 175.<br />
* Từ khóa: Rò động tĩnh mạch màng cứng ác tính; Can thiệp nội mạch.<br />
<br />
Malignant Intracranial Dural Arteriovenous Fistula: A Case Report<br />
in 175 Hospital<br />
Summary<br />
We reported a case of malignant intracranial dural arteriovenous fistula in which the feeding<br />
arteries were posterior meningeal arteries originated in left occipital artery and left vertebral<br />
artery, the same draining vein was ipsilateral sigmoid sinus. The lesion resulted in severely<br />
retrograde flow into cortical veins correlative with clinical aggressive neurological symptoms. We<br />
did endovascular treatment successfully. His consciousness and some different symptoms were<br />
recovered immediately. Intracranial dural arteriovenous fistulas are relatively rare lesions and<br />
difficult to diagnose. This case was the first of intracranial dural arteriovenous fistulas cured by<br />
endovascular treatment in 175 Hospital.<br />
* Key words: Malignant dural arteriovenous fistula; Endovascular treatment.<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Rò động tĩnh mạch màng cứng (DAVF:<br />
dural arteriovenous fistula) trong sọ là sự<br />
thông nối bất thường (shunt) giữa ĐM và<br />
TM xảy ra tại lớp màng cứng của não.<br />
Hai thành phần chính của tổn thương là<br />
ĐM nuôi và TM dẫn lưu, có hoặc không<br />
có thành phần thứ ba là một búi các mạch<br />
máu nhỏ (nidus) xen ở giữa. ĐM nuôi trong<br />
<br />
hầu hết trường hợp là các nhánh màng<br />
não từ ĐM cảnh ngoài, ĐM cảnh trong hay<br />
ĐM sống nền, một số ít trường hợp có<br />
thêm các nhánh ĐM nuôi xương và da<br />
hộp sọ, hiếm gặp từ các nhánh ĐM trong<br />
khoang dưới nhện. TM dẫn lưu hầu hết là<br />
các xoang TM màng cứng, một số ít trường<br />
hợp dẫn lưu thẳng về TM dưới màng<br />
nhện. Xoang hang, xoang sigma và xoang<br />
ngang là những vị trí bị rò nhiều nhất.<br />
<br />
* Bệnh viện Quân y 175<br />
Người phản hồi (Corresponding): T¹ V-¬ng Khoa (drvuongkhoa@yahoo.com)<br />
Ngày nhận bài: 04/09/2014; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 12/11/2014<br />
Ngày bài báo được đăng: 26/12/2014<br />
<br />
204<br />
<br />
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2014<br />
<br />
Sachs và Tonnis là những tác giả đầu<br />
tiên mô tả về bệnh. Đây là bệnh lý tương<br />
đối hiếm gặp, chiếm khoảng 10 - 15%<br />
tổng số các trường hợp dị dạng mạch<br />
máu trong sọ.<br />
Bệnh có triệu chứng lâm sàng và cận<br />
lâm sàng rất đa dạng, chẩn đoán chính<br />
xác và điều trị hiệu quả là một trong<br />
những thách thức đối với bác sỹ. Chúng<br />
tôi thông báo 1 trường hợp RĐTMMC<br />
trong sọ ác tính được chẩn đoán đúng và<br />
điều trị can thiệp nội mạch thành công tại<br />
Bệnh viện Quân y 175.<br />
TRÌNH BÀY CA LÂM SÀNG<br />
Bệnh nhân Hà Trọng Đ., nam, 60 tuổi,<br />
nghề nghiệp công nhân (đã nghỉ hưu), địa<br />
chỉ tại Thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.<br />
Tiền sử không mắc bệnh nội khoa.<br />
Trước nhập viện gần 1 năm, BN bị tai<br />
nạn giao thông gây máu tụ ngoài màng<br />
cứng thùy chẩm phải và gãy xương cánh<br />
tay phải, được phẫu thuật lấy máu tụ và<br />
kết hợp xương tại Bệnh viện Chợ Rẫy.<br />
Kết quả điều trị tốt, BN xuất viện hoàn<br />
toàn khỏe mạnh.<br />
Trước nhập viện 1 tháng, BN xuất hiện<br />
yếu 2 chân tăng dần, đi lại khó khăn,<br />
không rối loạn cảm giác và cơ vòng.<br />
BN đến khám tại Bệnh viện Chợ Rẫy,<br />
<br />
A<br />
<br />
B<br />
<br />
được chụp CT sọ, điều trị ngoại trú<br />
(không rõ chẩn đoán và điều trị). Tình<br />
trạng yếu 2 chân ngày càng tăng, đi lại<br />
phải có người dìu. Khoảng 10 ngày trước<br />
nhập viện, BN xuất hiện thêm triệu chứng<br />
đau đầu liên tục và nói khó tăng dần,<br />
đồng thời trí tuệ sa sút nhanh chóng.<br />
Ngày 29 - 7 - 2014, BN nhập Bệnh<br />
viện Quân y 175 với 2 mục đích: phẫu<br />
thuật lấy phương tiện cố định xương cánh<br />
tay và khám chữa bệnh thần kinh. BN vào<br />
Khoa Chấn thương Chỉnh hình và được<br />
phẫu thuật, sau đó chuyển Khoa Nội<br />
Thần kinh trong tình trạng đau đầu âm ỉ<br />
liên tục, tỉnh táo, tiếp xúc được, nói khó,<br />
sa sút trí tuệ rõ, yếu 2 chân (sức cơ 4/5),<br />
có dấu hiệu tháp tứ chi. Các xét nghiệm<br />
thường quy trong giới hạn bình thường.<br />
BN được chụp CT sọ, ghi nhận tổn<br />
thương chất trắng dưới vỏ lan tỏa 2 bán<br />
cầu, mất các rãnh vỏ não, não thất bên<br />
2 bên bị chèn ép nhẹ. Chụp MRI sọ, ghi<br />
nhận hình ảnh tương tự CT, kèm nhiều<br />
tín hiệu dòng chảy trống mạch máu lan<br />
tỏa 2 bên (đặc biệt là bên phải) tại các<br />
rãnh vỏ não cả trên và dưới lều, không<br />
có tổn thương dạng búi mạch (nidus)<br />
trong sọ.<br />
<br />
C<br />
<br />
D<br />
<br />
Hình 1: CT sọ tại Bệnh viện Chợ Rẫy (A) và Bệnh viện Quân y 175 (B): tổn thương<br />
chất trắng dưới vỏ, mất các rãnh vỏ não, não thất bên bị chèn hẹp; MRI sọ tại Bệnh<br />
viện Quân y 175 (C, D): hiện diện nhiều dòng chảy trống bất thường tại các rãnh vỏ<br />
não (nhất là bên phải), ngoài các hình ảnh tương tự CT sọ.<br />
<br />
205<br />
<br />
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2014<br />
<br />
Phim DSA mạch não ghi nhận hình ảnh rò các nhánh ĐM màng não sau xuất<br />
phát từ ĐM chẩm trái và ĐM đốt sống trái với vận tốc dòng rất cao vào cùng một<br />
vị trí tại xoang sigma cùng bên. Nguồn từ ĐM chẩm rò trực tiếp, còn nguồn từ<br />
ĐM đốt sống qua trung gian một búi mạch tại bề mặt màng cứng. Có hiện tượng<br />
cướp máu ĐM đốt sống trái và hiện tượng dẫn lưu ngược dòng, gây trào ngược<br />
nặng nề máu từ xoang sigma vào TM vỏ não lan tỏa trên và dưới lều cả 2 bên, đặc<br />
biệt là bên phải.<br />
<br />
A<br />
<br />
B<br />
<br />
C<br />
<br />
D<br />
<br />
Hình 2: Chụp DSA, tư thế nghiêng: rò ĐM chẩm bên trái vào xoang sigma (A) gây<br />
trào ngược TM vỏ não (B); rò ĐM đốt sống bên trái vào xoang sigma, cùng vị trí rò của<br />
ĐM chẩm bên trái (C) gây trào ngược TM vỏ não (D).<br />
Đến ngày 7 - 8 - 2014, đã có đủ dữ<br />
<br />
lipiodol theo tỷ lệ 1:1 (đối với nhánh nuôi<br />
<br />
liệu khẳng định đây là trường hợp<br />
<br />
từ ĐM đốt sống). Sau gần 3 giờ làm thủ<br />
<br />
RĐTMMC trong sọ (Borden týp II). Chúng<br />
<br />
thuật, 90% shunt được nút, còn lại 10%<br />
<br />
tôi lên chương trình can thiệp nội mạch<br />
<br />
không nút được do các nhánh nuôi quá<br />
<br />
nút chỗ rò 2 - 3 ngày sau đó. Tuy nhiên,<br />
<br />
nhỏ từ ĐM đốt sống trái không thể luồn<br />
<br />
từ sáng 8 - 8 - 2014, bệnh chuyển biến<br />
<br />
được vi ống thông. Chụp DSA kiểm tra<br />
<br />
xấu rất nhanh, BN rối loạn ý thức, phù gai<br />
<br />
ngay sau thủ thuật ghi nhận hiện tượng<br />
<br />
thị lan tỏa, yếu 2 chân tăng, tê và yếu nhẹ<br />
<br />
trào ngược TM vỏ não đã bị cắt đứt.<br />
<br />
tay trái nên quyết định can thiệp cấp cứu<br />
<br />
Đánh giá 24 giờ sau can thiệp, BN hồi<br />
<br />
cùng ngày. Phương pháp lựa chọn là<br />
<br />
phục ý thức hoàn toàn, đỡ đau đầu, sức<br />
<br />
luồn vi ống thông theo đường ĐM đến nút<br />
<br />
cơ tay chân phục hồi như trước ngày<br />
<br />
chỗ rò bằng dung dịch keo histoacryl pha<br />
<br />
8 - 8 - 2014. Sau 5 ngày, cho BN xuất<br />
<br />
lipiodol theo tỷ lệ 1:1 (đối với nhánh nuôi<br />
<br />
viện điều trị ngoại trú, hẹn chụp DSA<br />
<br />
từ ĐM chẩm) và thả 2 coils trước để làm<br />
<br />
sau 6 tháng để đánh giá tiến triển của<br />
<br />
giảm vận tốc dòng máu, sau đó, nút chỗ<br />
<br />
chỗ rò còn lại nhằm có hướng giải quyết<br />
<br />
rò bằng dung dịch keo histoacryl pha<br />
<br />
tiếp theo.<br />
<br />
206<br />
<br />
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2014<br />
<br />
A<br />
<br />
B<br />
<br />
C<br />
<br />
D<br />
<br />
Hình 3: DSA sau can thiệp: chỗ rò ĐM chẩm bên trái được nút hoàn toàn bằng keo<br />
(A); trước tiên làm giảm dòng ĐM đốt sống bên trái đến chỗ rò bằng 2 coils (B), kế tiếp<br />
bơm keo nút chỗ rò, nút được 90% shunt, còn lại 10% do các nhánh ĐM nuôi nhỏ (C);<br />
chụp kiểm tra không còn trào ngược TM vỏ não, không tắc các nhánh ĐM lành quan<br />
trọng (D).<br />
BÀN LUẬN<br />
Thay đổi áp lực trong hệ thống TM dẫn<br />
Rò động tĩnh mạch màng cứng trong<br />
sọ thuộc nhóm bệnh lý dị dạng mạch máu<br />
não, tương đối hiếm gặp, tuổi khởi phát<br />
bệnh trung bình từ 50 - 60. Cơ chế bệnh<br />
sinh của RĐTMMC trong sọ đến nay vẫn<br />
chưa được hiểu cặn kẽ. Ban đầu, người<br />
ta cho rằng đây là bệnh bẩm sinh. Tuy<br />
nhiên hiện nay, yếu tố mắc phải được<br />
xem là cơ chế bệnh sinh chủ yếu. Người<br />
ta cho rằng việc mở các microshunt động<br />
TM vốn tồn tại sẵn tại lớp màng cứng do<br />
thay đổi gradient áp lực bình thường giữa<br />
ĐM và TM, có thể do tăng áp lực ĐM<br />
(tăng huyết áp) hoặc tăng áp lực TM (tắc<br />
nghẽn TM, thường do huyết khối xoang<br />
TM nội sọ) đã tạo ra các shunt có ý nghĩa<br />
về huyết động học, là một giả thuyết đáng<br />
tin cậy về sinh bệnh học. Hiện tượng tăng<br />
tân tạo mạch máu (angioneogenesis)<br />
thường do biến đổi hormon vốn hay gặp<br />
trong thai kỳ hoặc phụ nữ giai đoạn mãn<br />
kinh, dẫn đến việc tạo lập các shunt động<br />
TM mới tại lớp màng cứng cũng là một<br />
giả thuyết về sinh bệnh học.<br />
<br />
207<br />
<br />
lưu sau khi đón nhận shunt bất thường<br />
ảnh hưởng thế nào đến dòng dẫn lưu TM<br />
trong sọ, vẫn duy trì dẫn lưu xuôi dòng<br />
(antegrade) bình thường hay gây dẫn lưu<br />
ngược dòng (retrograde) bất thường, là<br />
cơ chế sinh lý chủ yếu giải thích mọi triệu<br />
chứng lâm sàng, cận lâm sàng cũng như<br />
có ý nghĩa tiên lượng và quyết định điều<br />
trị. Hiện tượng cướp máu ĐM cũng<br />
thường xảy ra, nhưng đa phần không gây<br />
hậu quả nặng. Borden (1995) đưa ra hệ<br />
thống phân loại RĐTMMC khá đơn giản,<br />
dễ hiểu nhưng phản ánh được toàn bộ<br />
bức tranh về huyết động học của bệnh.<br />
Tác giả chia RĐTMMC thành 3 týp: týp I:<br />
khi rò dẫn lưu về các xoang TM màng<br />
cứng, đồng thời các TM vỏ não cũng như<br />
TM dưới màng nhện vẫn dẫn lưu xuôi<br />
dòng bình thường; týp II: khi rò dẫn lưu<br />
về các xoang TM màng cứng kèm theo<br />
dẫn lưu ngược dòng gây trào ngược TM<br />
vỏ não và TM dưới màng nhện; týp III:<br />
khi rò dẫn lưu trực tiếp về các TM dưới<br />
màng nhện. Týp I được gọi là rò lành tính<br />
(benign), không có triệu chứng lâm sàng<br />
hoặc chỉ là các triệu chứng đơn giản,<br />
<br />
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 9-2014<br />
<br />
tùy vào vị trí xoang TM bị rò như: đỏ<br />
mắt, nhìn mờ (xoang hang), ù tai (xoang<br />
sigma, xoang ngang)…, trong khi týp II và<br />
III gọi là rò ác tính (malignant) hay rò tiến<br />
triển (aggressive), lâm sàng biểu hiện<br />
bằng các triệu chứng nặng của tăng áp<br />
lực TM trong sọ (sa sút trí tuệ, rối loạn ý<br />
thức, co giật, đau đầu, buồn nôn, nôn,<br />
phù gai, teo dây thần kinh thị…), nhồi<br />
máu TM não, đáng ngại hơn cả là xuất<br />
huyết TM trong sọ (xuất huyết dưới màng<br />
cứng, xuất huyết dưới nhện, xuất huyết<br />
não thất, xuất huyết nhu mô não) có thể<br />
dẫn đến tử vong. Ngoài ra, còn có các hệ<br />
thống phân loại khác của Djindjan và<br />
Merland (1978), Cognard (1995) cơ bản<br />
cũng dựa trên dòng dẫn lưu TM nhưng<br />
phức tạp hơn.<br />
Cùng với sự đa dạng trong triệu chứng<br />
khiến việc chẩn đoán lâm sàng rất khó<br />
khăn, chẩn đoán RĐTMMC trong sọ cũng<br />
là một thách thức đối với các nhà hình<br />
ảnh học. Trong rò lành tính, thường<br />
không có bất kỳ bất thường nào trên CT<br />
cũng như MRI sọ. Chỉ khi có ứ trệ TM vỏ<br />
não trong rò ác tính, CT và MRI sọ mới có<br />
thể ghi nhận một số hình ảnh gián tiếp<br />
như nhồi máu TM não, não úng thủy, teo<br />
vỏ não, hiệu ứng khối, xuất huyết trong<br />
sọ, huyết khối xoang TM (vốn hay gặp<br />
trong RĐTMMC). CT sọ cản quang có thể<br />
ghi nhận hình ảnh các TM dẫn lưu (xoang<br />
TM màng cứng, TM dưới màng nhện, TM<br />
vỏ não) giãn lớn và ứ đọng thuốc gợi ý<br />
chẩn đoán. Đặc biệt, hiện tượng trào<br />
ngược lưu lượng cao về các TM vỏ não<br />
tạo hình ảnh các tín hiệu dòng chảy trống<br />
bất thường tại các rãnh vỏ não, trong khi<br />
không có hình ảnh của búi mạch (như<br />
trong dị dạng động TM màng mềm não:<br />
AVM) trên MRI, gặp > 2/3 các trường hợp<br />
<br />
208<br />
<br />
RĐTMMC trong sọ có dẫn lưu TM ngược<br />
dòng, là dấu hiệu gợi ý cho chẩn đoán.<br />
Các xét nghiệm mạch não đồ như CTA,<br />
MRA, DSA đều có thể phát hiện hình ảnh<br />
trực tiếp của RĐTMMC (shunt động TM<br />
bất thường, ĐM nuôi, TM dẫn lưu), nhưng<br />
chỉ có DSA mới cung cấp đầy đủ thông<br />
tin, đặc biệt là thông tin về huyết động<br />
học, để quyết định phương pháp điều trị<br />
cũng như tiên lượng bệnh.<br />
BN của chúng tôi khởi bệnh lúc 60<br />
tuổi, phù hợp với tuổi thường gặp theo<br />
y văn. Tiền sử chấn thương và phẫu thuật<br />
sọ não trước đó gần 1 năm. Tuy không<br />
khẳng định chắc chắn nhưng có thể là<br />
yếu tố làm tăng nguy cơ mắc RĐTMMC,<br />
do hình thành các huyết khối trong hệ<br />
thống xoang TM màng cứng làm tăng áp<br />
lực trong xoang. Thời điểm trước nhập<br />
viện 1 tháng, khi bắt đầu xuất hiện yếu<br />
nhẹ 2 chân, trên phim CT sọ chụp tại<br />
Bệnh viện Chợ Rẫy, chúng tôi đã phát<br />
hiện hình ảnh tổn thương chất trắng lan<br />
tỏa 2 bán cầu, tập trung rõ nhất ở thùy<br />
đỉnh chính là tổn thương nhồi máu TM<br />
não do ứ trệ dẫn lưu TM vỏ não, giải thích<br />
được triệu chứng lâm sàng của BN.<br />
1 tháng sau đó, triệu chứng lâm sàng ban<br />
đầu nặng dần lên, xuất hiện thêm các<br />
triệu chứng mới tiến triển nhanh, phim CT<br />
và MRI sọ chụp tại Bệnh viện Quân y 175<br />
ghi nhận tổn thương nhồi máu TM não<br />
nặng hơn nhiều so với phim CT trước đó<br />
tại Bệnh viện Chợ Rẫy, kèm rất nhiều tín<br />
hiệu dòng chảy trống bất thường, do dẫn<br />
lưu ngược dòng nặng nề về các TM vỏ<br />
não như đã mô tả gây tăng áp lực trong<br />
sọ, giải thích được các biểu hiện lâm<br />
sàng yếu 2 chân và dấu hiệu tháp, nói<br />
khó, đau đầu, sa sút trí tuệ ở BN. Phim<br />
DSA ghi nhận hình ảnh trực tiếp của<br />
<br />