intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Để học sinh hứng thú hơn trong giờ học và kiểm tra môn ngữ văn

Chia sẻ: Thành Thành | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:21

65
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm này là đưa ra một số giải pháp đơn giản tích cực, có thể áp dụng với bất kỳ đối tượng học sinh trong mọi hoàn cảnh để làm tăng khả năng yêu thích môn văn cho học sinh và người dạy.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Để học sinh hứng thú hơn trong giờ học và kiểm tra môn ngữ văn

1<br /> <br /> ĐỂ HỌC SINH HỨNG THÚ HƠN<br /> TRONG GIỜ HỌC VÀ KIỂM TRA MÔN NGỮ VĂN<br /> A – Phần mở đầu<br /> 1. Lý do chọn đề tài<br /> Mỗi môn học trong nhà trường phổ thông đều có tầm quan trọng riêng của nó.<br /> Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận một điều rằng: môn văn không chỉ là một<br /> môn học đáp ứng về kiến thức phổ thông mà nó còn là môn học có thể vận dụng<br /> triệt để vào đời sống thực tế lẫn tâm tư tình cảm của con người. Về mặt lý thuyết<br /> là như thế nhưng thật chất hiện nay tầm quan trọng ấy của môn ngữ văn ngày càng<br /> bị lãng quên bởi cả những nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan.<br /> Thứ nhất là phương pháp dạy văn. Đi kèm với sự phát triển của công nghệ<br /> thông tin là việc ứng dụng nó một cách rập khuôn sáo rỗng của giáo viên. Giáo<br /> viên chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp theo hướng tích cực để học sinh tự<br /> khám phá và làm chủ kiến thức. Giáo viên không thể là một đạo diễn tài ba khi tự<br /> mình đảm nhận thêm vai trò là diễn viên trên bụt giảng, và lúc đó học sinh sẽ là<br /> những khán giả ngoan ngoãn xem hết chương trình nhưng không có quyền nhận<br /> xét kịch bản cũng như diễn xuất của diễn viên. Những việc như thế cứ lặp đi lặp từ<br /> năm này sang năm khác dẫn đến một hệ lụy là học sinh ngày càng ngán ngẫm dẫn<br /> đến chán ghét môn văn. Nếu những diễn viên – giáo viên phát hiện ra thái độ tiêu<br /> cực của những khán giả - học sinh như thế sẽ không còn hứng thú với việc soạn và<br /> chuẩn bị những giáo án và tiết dạy cho thật hấp dẫn. Từ đó, tầm quan trọng cốt lỗi<br /> của môn ngữ văn dần bị lãng quên bởi những con người từng yêu tha thiết môn<br /> học này. Với việc chọn đề tài nghiên cứu “Để học sinh hứng thú hơn trong giờ học<br /> và kiểm tra môn ngữ văn”, tôi hy vọng rằng sẽ có những khám phá mới mẽ có thể<br /> áp dụng vào thực tiễn để người học lẫn người dạy thêm yêu thích môn văn.<br /> 2. Phạm vi đề tài<br /> Đối tượng chủ yếu mà đề tài này nghiên cứu là các phương pháp giảng<br /> dạy tích cực nhằm phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong dạy học văn.<br /> Phạm vi nghiên cứu chủ yếu là chương trình Ngữ văn lớp 10 và 11 – THPT.<br /> <br /> 2<br /> <br /> 3. Lịch sử vấn đề<br /> Có thể nói qua từng chặng đường phát triển của lịch sử nước nhà, kèm theo<br /> những đổi mới về kinh tế,chính trị thì việc đổi mới giáo dục, phương pháp giảng<br /> dạy luôn được đặt ra hàng đầu. Nhưng việc tiến hành đổi mới còn nhiều bất cập,<br /> thiếu sót, chưa thật sự đi vào quỹ đạo chung của sự phát triển đất nước. Có nhiều<br /> công trình nghiên cứu vạch ra nguyên nhân của việc sa sút trong giảng dạy như<br /> trong quyển “Văn chương nhìn từ góc sân trường” của tác giả Nguyễn Minh Hùng<br /> đã khẳng định “thầy giáo dạy văn chưa thu hút học sinh vào bài học là một trong<br /> những nguyên nhân chủ yếu biến tiết học văn thành nhàm chán”. Và cũng có<br /> nhiều công trình nghiên cứu đề ra phương án giải quyết nhưng cuối cùng các vấn<br /> đề đó vẫn còn nằm ở tình trạng lý thuyết khó có thể áp dụng sâu sắc và “phải đến<br /> cuối thập 60 lại đây những công trình chuyên ngành mới được nâng lên một bước<br /> về chất lượng, nhiều chuyên luận lần lượt ra đời: Rèn luyện tư duy học sinh qua<br /> giảng dạy văn học (1969) của Phan Trọng Luận; Vấn đề giảng dạy văn học theo<br /> thể loại (1970) của Trần Thanh Đạm, Hoàng Như Mai, Phan Sĩ Tấn, Huỳnh Lý,<br /> Đàm Gia Cẩn; Phân tích tác phẩm văn chương trong nhà trường (1977) của Phan<br /> Trọng Luận; Con đường nâng cao hiệu quả dạy văn (1978) của Phan Trọng Luận;<br /> Tu từ học với vấn đề giảng dạy Ngữ văn (1979) của Đinh Trọng Lạc; Dạy văn dạy<br /> cái hay cái đẹp (1983) của Nguyễn Duy Bình; Cảm thụ văn học, giảng dạy văn<br /> của Phan Trọng Luận…; Giảng văn dưới ánh sáng ngôn ngữ học hiện đại (1979)<br /> của Đái Xuân Ninh”. Bắt tay vào viết quyển “Xã hội văn học nhà trường” tác giả<br /> Phan Trọng Luận đã nhận định rằng “thầy giáo ngày nay không phải như trước,<br /> chỉ biết gõ đầu trẻ, miễn là có bài cho học trò, cuối tháng bỏ lương vào túi. Bây<br /> giờ thầy giáo có trách nhiệm với nội dung, đào tạo cán bộ ra phục vụ nhân dân”<br /> và chúng ta thấy rõ ràng một việc “tình trạng học sinh học văn một cách ít hứng<br /> thú đã trở thành khá phổ biến. Tiếng phàn nàn về việc giảng văn trong nhà trường<br /> từ các giới xã hội đến nay hầu như đã trở thành một dư luận, một nhận định tương<br /> đối phổ biến và nhất trí”. Ngay trong quyển “Con đường nâng cao hiệu quả dạy<br /> văn” của tác giả Phan Trọng luận đã khẳng định “Phương pháp dạy của thầy, có<br /> <br /> 3<br /> <br /> buộc học sinh suy nghĩ, có tạo điều kiện phát triển trí tuệ học sinh hay không là<br /> tiêu chuẩn cơ bản phân biệt phương pháp tích cực hay thụ động, tiến bộ hay lạc<br /> hậu”. Ngay từ đầu chúng ta thấy cần phải đặt ra tiêu chí “giáo viên không cảm thụ<br /> hộ mà là người đứng ra tổ chức quá trình học sinh tiếp nhận, chiếm lĩnh kiến<br /> thức” và trong quyển “Phương pháp dạy học văn” tác giả đã cho ý kiến “chất<br /> lượng học văn trong nhà trường phổ thông đang giảm sút nghiêm trọng. Nhiều<br /> vấn đề có ý nghĩa thời sự đang đặt ra cho các nhà nghiên cứu phương pháp cũng<br /> như đông đảo anh chị em giáo viên Ngữ văn cùng giải đáp”. Vậy chúng ta - người<br /> thầy văn sẽ giải đáp như thế nào cho hợp lý ?<br /> 4. Mục đích thực hiện<br /> Khi bắt tay vào nghiên cứu đề tài “Để học sinh hứng thú hơn trong giờ học và<br /> kiểm tra môn ngữ văn”, mục đích của người viết là đưa ra một số giải pháp đơn<br /> giản tích cực, có thể áp dụng với bất kỳ đối tượng học sinh trong mọi hoàn cảnh để<br /> làm tăng khả năng yêu thích môn văn cho học sinh và người dạy.<br /> 5. Tính mới mẽ<br /> Đề tài đã được ứng dụng qua năm học 2013 – 2014 với các lớp mà người viết<br /> trực tiếp giảng dạy (11A10, 11A12 và 11A15) và năm học 2014 – 2015 (10A11,<br /> 11A7 và 11A9). Tuy nhiên, đề tài vẫn có thể áp dụng vào những năm học sau với<br /> các lớp và hoàn cảnh khác nhau. Như thế, qua các đối tượng học sinh khác nhau<br /> thì người vận dụng đề tài có thể tạo thêm nhiều biện pháp hay để thu hút học sinh<br /> thêm yêu môn văn.<br /> <br /> 4<br /> <br /> B – Phần nội dung<br /> 1. Cơ sở lý luận của đề tài<br /> Nghiên cứu về hứng thú, các nhà tâm lí học cho rằng, đây là thái độ đặc<br /> biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống vừa có<br /> khả năng mang lại khoái cảm cá nhân trong quá trình hoạt động. Nó được biểu<br /> hiện trước hết ở sự tập trung chú ý cao độ, sự say mê hấp dẫn bởi nội dung hoạt<br /> động. Mặt khác, hứng thú bao giờ cũng dẫn đến một đối tượng cụ thể hấp dẫn, nó<br /> gắn liền với tình cảm con người. Trong bất cứ một công việc gì nếu có hứng thú<br /> làm việc con người sẽ có cảm giác dễ chịu với hoạt động, làm nảy sinh khát vọng<br /> hành động và hành động có sáng tạo. Ngược lại nếu hứng thú không được thỏa<br /> mãn sẽ dẫn đến cảm xúc tiêu cực.<br /> Theo các nhà nghiên cứu giáo dục thì hiệu quả trong việc gây hứng thú<br /> cho học sinh trong giờ dạy Ngữ văn nói lên trình độ giáo dục văn học của nhà<br /> trường nói chung và của từng giáo viên nói riêng. Văn học dễ làm say mê người<br /> học nếu người dạy tạo được sự hứng thú tự thân nơi người học. Người học văn<br /> cảm thụ được cái hay, cái đẹp trong từ ngữ, bố cục, vần điệu và môn văn còn hấp<br /> dẫn người học bởi nội dung đề kiểm tra mang tính gợi mở, nâng cao với nhiều câu<br /> hỏi đa dạng phù hợp với tất cả các đối tượng học sinh.. . khi đó giờ văn sẽ đạt<br /> được sự hứng thú tìm hiểu và đưa đến cảm xúc đến với người học. Cái khó của<br /> người dạy là làm thế nào truyền được sự hứng thú đó đến với người học. Trong<br /> nhà trường phổ thông với từng đối tượng học sinh do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi<br /> thích tìm hiểu và sáng tạo nhưng chưa có phương pháp đúng để cảm thụ văn học,<br /> chưa hiểu rõ cái hay, cái đẹp ẩn chứa trong từng câu thơ, câu văn, chưa có cảm<br /> xúc thực sự đồng điệu với cảm xúc của tác giả. . . Chính những thiếu sót trên, học<br /> sinh thường không thích học và đọc văn. Nhiệm vụ của giáo viên dạy văn là phải<br /> tạo sự hứng thú, phải khiến cho những từ ngữ khô khan biết nhảy múa, biết vẽ ra<br /> những khung cảnh lúc yên bình, lúc dữ dội; phải đi vào tâm hồn các em những<br /> tình cảm yêu, ghét, nhớ nhung, mơ mộng; phải mở ra những cánh cửa từ lâu được<br /> khúa chặt bằng sinh hoạt đời thường ngoài ra, giáo viên còn phải biết đưa ra<br /> <br /> 5<br /> <br /> phương pháp đánh giá về mức độ hứng thú cũng như sự hiểu biết về môn văn của<br /> học sinh một cách hợp lý và đúng đắn hơn.<br /> Trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy các môn học nói chung và<br /> môn ngữ văn nói riêng, việc lấy học sinh làm trung tâm thúc đẩy tư duy học sinh,<br /> mở cho các em hướng nghiên cứu và tự mình giải quyết những thắc mắc, những<br /> khó khăn trong việc tìm hiểu phân tích. Người giáo viên không còn giảng giải một<br /> cách say sưa khi không có phản hồi từ học sinh, các em được làm quen với những<br /> câu hỏi gợi mở, những gợi ý cho một đề tài thảo luận, các em có quyền nêu những<br /> nhận xét, những cảm nhận cá nhân về đề tài, về nhân vật, về tác giả. . . Từ những<br /> cảm nhận đôi khi chưa chính xác, gây tranh cãi góp phần rất lớn trong việc điều<br /> chỉnh nhận thức, gây hứng thú cho các em và văn học không xa lạ, không “đóng<br /> khung trong tháp ngà” mà thật sự gần gũi biết bao...<br /> Điều 24, Luật giáo dục (do Quốc hội khúa X thông qua) cũng đã chỉ rõ:<br /> “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động<br /> sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng<br /> phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động<br /> đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Đây là định<br /> hướng cơ bản thiết thực đối với mỗi giáo viên trong đó có giáo viên dạy bộ môn<br /> Ngữ văn.<br /> Từ nhiều năm nay, phương pháp dạy văn đổi mới đã chú trọng phát triển<br /> hứng thú học văn của học sinh. Một trong những mục đích của giờ văn là làm sao<br /> gây được rung động thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh. Ai đó đã nói rằng:<br /> “Dù đã dắt ngựa đến bờ sông cũng không thể bắt nó uống nước được”. Vấn đề học<br /> tập của trẻ cũng vậy. Dù có bắt được chúng ngồi ngay ngắn học tập nhưng nếu<br /> không thích thú, trẻ không thể học tốt được. Từ thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn<br /> lớp 11 tôi nhận thấy, muốn giờ dạy đạt hiệu quả cao, ngoài việc truyền đạt kiến<br /> thức, tôi nghĩ rằng mình cần phải biết gây hứng thú học tập cho học sinh để tiết<br /> học thực sự nhẹ nhàng, sinh động; học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên,<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2