Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp học sinh xây dựng các cách mở bài, kết bài tập làm văn lớp 4
lượt xem 658
download
Phân môn Tập làm văn của môn Tiếng Việt luôn chiếm một vị thế rất quan trọng vì nó tích hợp nhiều mảng kiến thức một cách toàn diện về văn học, khoa học, xã hội và vốn sống, vốn hiểu biết của người học nên đây là một môn khó nhất trong chương trình học, đòi hỏi người học phải biết biến tấu mảng kiến thức thành kĩ năng kĩ xảo để tạo thành một văn bản thực thụ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp học sinh xây dựng các cách mở bài, kết bài tập làm văn lớp 4
- Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh xây dựng các cách mở bài, kết bài tập làm văn lớp 4 1
- I. ĐẶT VẤN ĐỀ Với chương trình GDPT mới của cấp Tiểu học, các môn học nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng được xây dựng một cách hợp lí, khoa học, đáp ứng mục tiêu đào tạo và được đông đảo giáo viên, học sinh đón nhận một cách hào hứng, phù hợp với xu thế hội nhập. Trong đó, phân môn Tập làm văn của môn Tiếng Việt luôn chiếm một vị thế rất quan trọng vì nó tích hợp nhiều mảng kiến thức một cách toàn diện về văn học, khoa học, xã hội và vốn sống, vốn hiểu biết của người học nên đây là một phân môn có thể nói là khó nhất trong chương trình học, đòi hỏi người học phải biết biến tấu những mảng kiến thức đó thành những kĩ năng kĩ xảo như việc dùng từ đặt câu, cách dựng đoạn, cách liên kết các đoạn với nhau để tạo thành một văn bản thực thụ. Muốn làm được điều này học sinh cần phải chăm chỉ khổ luyện và sáng tạo. Trong một bài văn, mở bài, kết bài có một vị trí hết sức quan trọng . Mở bài là lời giới thiệu với bạn đọc đến thăm vườn văn của mình thì kết bài là lời nhắn gửi, lưu lại ý tưởng của bài văn, mang theo cảm xúc sâu sắc, trong lòng còn giữ lại những kí ức đẹp đẽ. Trong giảng dạy, không ít giáo viên còn băn khoăn một số công đoạn để hoàn thiện bài văn, đó là phần mở bài, kết bài ; mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp; kết bài mở rộng hoặc không mở rộng. Đây là một nội dung hoàn toàn mới mẻ đối với giáo viên. Trong khi đó, sách giáo khoa và các tài liệu dạy học chỉ cung cấp cho giáo viên một số kiến thức sơ đẳng về khái niệm các cách mở bài, kết bài nên khi lên lớp giáo viên còn lúng túng, gặp nhiều vướng 2
- mắc. Vậy làm thế nào để mở bài, kết bài đảm bảo yêu cầu đề ra, không sơ sài, không quá dài so với bố cục bài văn, không xa đề, không hời hợt nhàm chán khuôn mẫu. Làm thế nào để khi lên lớp giáo viên có thể đủ khả năng tổ chức cho học sinh học tập, để phân dịnh, diễn giải, minh hoạ một cách thấu đáo những nội dung nói trên. Là một giáo viên giảng dạy nhiều năm, bản thân tôi luôn suy nghĩ, tìm tòi các biện pháp để giúp học sinh xây dựng có hiệu quả phần mở bài, kết bài cho các bài tập làm văn lớp 4, 5 nhằm nâng cao chất lượng bài viết của các em và của môn Tiếng Việt. Đó cũng chính là lí do tôi chọn đề tài này để trao đổi kinh nghiệm dạy học với các đồng chí. II. THỰC TRẠNG 1. Thuận lợi Chương trình phân môn Tập làm văn trước đây, cả giáo viên và học sinh phải tự mò mẫm từng bước đi để đến với bài văn. Song cấu trúc chương trình Tiểu học mới đã xây dựng theo cấu trúc từ nắm khái niệm thể loại, xây dựng đoạn văn (mở bài, thân bài, kết bài ), sau đó mới hoàn chỉnh một đề bài. Vì thế, các em không chỉ nắm được những yêu cầu cơ bản của từng dạng đề bài mà còn tích lũy được nhiều kiến thức bổ trợ khác nhau. Chất lượng bài làm của học sinh cũng nâng lên rõ rệt, các em biết viết nhiều cách vào bài, kết bài khác nhau còn giáo 3
- viên có nhiều thời gian để định hướng cụ thể cho các em viết các phần của bài văn, đồng thời tự tin hơn khi dạy các tiết tập làm văn. 2. Khó khăn a. Về phía giáo viên - Giáo viên Tiểu học là “ông thầy tổng thể”, phải dạy nhiều môn học, không chuyên sâu dạy môn văn nên chất lượng dạy phân môn Tập làm văn còn nhiều bất cập. Giáo viên còn lúng túng khi tổ chức hướng dẫn cho học sinh hoàn thiện các công đoạn để tạo ra một bài văn hoàn chỉnh sao cho vừa đảm bảo yêu cầu đề ra, vừa đảm bảo tính chất của văn học. Trong một tiết dạy, giáo viên mới chỉ tập trung vào các bước lên lớp, còn ngôn từ diễn giải, minh họa, khúc chiết câu, từ của giáo viên khô khan, “bí” từ ngữ, chưa khơi dậy ở học sinh sự hứng thú, đam mê học văn, chưa dẫn dắt được các em vào “thế giới văn”. Khi học sinh làm bài theo yêu cầu kết bài mở rộng nhưng học sinh chỉ dừng lại kết bài không mở rộng, giáo viên chưa chỉ rõ cho học sinh đi đến yêu cầu bài tập, chỉ nói loa qua vài câu vì thực tế giáo viên chưa tự tin để xây dựng các kiểu mở bài gián tiếp, kết bài mở rộng … - Trình độ và năng lực của giáo viên chưa đồng đều; một số giáo viên chưa nắm vững được yêu cầu cần đạt của phần mở bài, kết bài nên chưa phân định rạch ròi kiến thức của các kiểu mở bài, kết bài (đặc biệt là mở bài gián tiếp và kết bài mở rộng). Đa số giáo viên mới cung cấp cho học sinh nắm một cách máy móc các khái niệm trong sách giáo khoa về các kiểu mở bài, kết bài những chưa lí giải cụ 4
- thể để học sinh hiểu một cách thấu đáo làm thế nào để có một mở bài gián tiếp và kiểu bài mở rộng. Hay nói cách khác, giáo viên chưa hướng dẫn cho học sinh nắm được các phương thức để vào bài, kết bài. - Sự chuẩn bị của giáo viên cho tiết dạy Tập làm văn chưa chu đáo, chưa cụ thể nên hiệu quả tiết học chưa cao. - Phương pháp dạy học ở phân môn này còn đơn điệu, chủ yếu là thầy hỏi – trò trả lời nên các em nhàm chán, chưa gây hứng thú học tập cho học sinh. - Ý thức tự học, nghiên cứu tài liệu của giáo viên chưa cao nên khả năng vốn văn còn nhiều hạn chế. b. Về phía học sinh - Xu thế hiện nay, phần lớn các em thích học toán, ngại học tiếng việt, nhất là phân môn Tập làm văn. Vì thế, học sinh chưa hứng thú học tập, nhất là đối với những bài rèn luyện kĩ năng mở bài, kết bài; không khí lớp học rất trầm, chỉ một số ít học sinh tham gia học tập. - Vốn từ các em còn ít, ý còn nghèo nên chất lượng bài viết chưa cao: nội dung sơ sài, diễn đạt lủng củng, khô khan, thiếu tính sáng tạo, thiếu sự hồn nhiên ngây thơ hoặc máy móc, rập khuôn các bài văn mẫu; viết chủ yếu là mở bài kiểu trực tiếp và kết bài kiểu không mở rộng, không biết liên kết câu và lồng cảm xúc của bản thân vào bài viết. 5
- - Một số học sinh chưa xác định được trọng tâm của đề bài nên đoạn viết của các em không biết viết bắt đầu từ đâu, phải viết những gì, viết như thế nào, thậm chí viết còn sai đề, xa đề. III. CƠ SỞ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở nghiên cứu - Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở Tiểu học lớp 4, 5. - Dạy và học môn Tiếng Việt ở Tiểu học theo chương trình mới – NXB Giáo dục. - Bồi dưỡng văn Tiểu học của Nguyễn Quốc Siêu- Nhà xuất bản ĐH Quốc gia Hà Nội. - Những bài văn chọn lọc lớp 4,5,6 - Nhà xuất bản Giáo dục. - Các tập san, chuyên đề Tiểu học. - Sách giáo khoa, hướng dẫn, bài soạn lớp 4 (tập 1& 2 ) – Nhà xuất bản Giáo dục. - Cảm thụ văn Tiểu học lớp 4,5 của Tạ Đức Hiền, Nguyễn Việt Nga, Phạm Đức Minh. - Phương pháp dạy học các môn Tiểu học – Nhà xuất bản Giáo dục. 2. Đối tượng nghiên cứu 6
- - Học sinh khối lớp 4 trong các năm học từ năm 2009 đến nay và học sinh lớp 4A, 4B năm học 2010 – 2011 của trường Tiểu học Krông Ana. - Thông qua các tiết chuyên đề tổ, trường; dự giờ đồng chí đồng nghiệp và kinh nghiệm giảng dạy của bản thân trong nhiều năm công tác. IV. CÁC GIẢI PHÁP VÀ CÁCH THỰC HIỆN 1. Cho học sinh nắm vững yêu cầu và khái niệm về các cách mở bài, kết bài. 1.1. Yêu cầu về mở bài, kết bài : a) Mở bài : Tục ngữ có câu : “ Vạn sự khởi đầu nan” Bước mở đầu tốt là đã thành công một nửa. Công việc là vậy, làm văn cũng vậy. Mở bài là một phần quan trọng trong cấu trúc bài văn, là đoạn mở đầu trong một sự tương quan với bộ phận chủ thể ( thân bài) và bộ phận kết bài của bài văn. Nó có thể là một câu, cũng có thể là một đoạn hay nhiều đoạn. Mở bài hay - dở sẽ trực tiếp ảnh hưởng tới sự biểu đạt của chủ đề, sự thành bại của bài viết và cả hiệu quả trình bày, khiến độc giả khi tiếp xúc với cả bài văn sẽ có được cái cảm hứng thực tình. Chính vì thế, phần mở bài cần: - Phải đề cập tới chủ đề của đề bài. - Phải tạo được sự mới mẻ, lí thú hấp dẫn, gây ấn tượng mạnh và quyến rũ người đọc. Ví dụ : Tả cái bàn học của em 7
- - Cho học sinh xác định yêu cầu đề bài. + Đề bài thuộc thể loại gì? (Văn miêu tả : tả đồ vật) + Đồ vật đó là cái gì ? ( Cái bàn học) - Giúp học sinh biết “cái bàn học” là chủ đề của đề bài và khi viết mở bài cần phải giới thiệu về “cái bàn học”. + Cái bàn đó do đâu mà có? Có từ bao giờ? Ví dụ: cái bàn do bố mua đầu năm học hoặc cái bàn là phần thưởng của bà dành cho em cuối năm học lớp Ba, ... - Hướng dẫn học sinh diễn đạt thành các câu văn mạch lạc, đầy đủ ý để gây sự chú ý cao cho người đọc và nhắc các em không được viết theo cách trả lời các câu hỏi như gợi ý. Ví dụ: Trong nhà em có rất nhiểu cái bàn song em thích nhất là cái bàn học đặt trong phòng em. Đó là phần thưởng của bà ngoại tặng cho em cuối năm học lớp Ba. Không nên diễn đạt là: Nhà em có một cái bàn. Cái bàn này do ba em mua, mua đầu năm học. b) Kết bài : Một bài văn nếu chỉ có mở bài hay và thân bài phong phú, hấp dẫn không thôi thì vẫn chưa đủ, còn phải có kết bài đẹp. Kết bài viết hay sẽ có tác dụng làm sâu sắc chủ đề, tạo nên dư âm dư vị cho cả bài viết. Kết bài không đơn thuần chỉ là một đoạn cuối của bài văn, nó còn là bộ phận kết thúc trong một tương quan 8
- chủ thể (thân bài) và mở bài của bài văn. Kết bài có thể là một câu, cũng có thể là một đoạn tự nhiên. Vậy trong đoạn kết bài cần đạt các yêu cầu sau : - Một là, phải hoàn thành chủ đề. Nghĩa là kết bài phải tỏ rõ ý tưởng của người viết muốn gửi gắm đến người đọc. - Hai là, phải để lại dư vị cho người đọc. Nghĩa là sau khi đọc xong bài văn, kết bài đó phải khiến cho người đọc, người nghe bao vấn vương, suy tư, sự nuối tiếc và tưởng chừng tất cả vẫn còn ở trước mắt. Ví dụ : Hãy viết kết bài cho câu chuyện “Rùa và thỏ” (Tiết luyện Tiếng Việt-tuần 12) + Kết thúc câu chuyện Rùa và thỏ như thế nào? ( Rùa thắng thỏ) Cho học sinh biết được chi tiết “Rùa thắng thỏ” là đã hoàn thành chủ đề. + Câu chuyện muốn khuyên chúng ta điều gì? + Em có suy nghĩ gì sau khi đọc xong câu chuyện? Từ đó hướng dẫn các em viết kết bài với các nội dung: nêu những lời bình luận về chú thỏ hợm hỉnh; hoặc bình luận về bài học cho người chủ quan để sau khi đọc xong bài văn, người đọc vẫn cảm thấy sự nuối tiếc, vấn vương và cảm giác thích đọc nữa. 1.2. Nắm được khái niệm về các cách mở bài, kết bài. a, Mở bài : Theo quan điểm của chương trình giáo dục phổ thông mới bậc Tiểu học, có hai cách mở bài : 9
- - Mở bài trực tiếp : kể ngay vào việc (bài văn kể chuyện) hoặc giới thiệu ngay đối tượng được tả (bài văn miêu tả) Ví dụ : Tả một cây bóng mát mà em thích “ Trường em có nhiều cây bóng mát nhưng em thích nhất là cây bàng” - Mở bài gián tiếp : nói chuyện khác để dẫn vào chuyện (hoặc vào đối tượng) định kể hoặc tả. Ví dụ : Tả một cây hoa mà em thích “Mùa xuân đến, hoa trong vườn nhà em đua nhau khoe sắc. Hoa nào cũng đẹp, nhưng đẹp hơn cả là cây hoa hồng nhung. Cây hoa này ông em trồng từ lúc nào em cũng không nhớ rõ, nhưng nó là cây hoa mà em yêu quý.” b, Kết bài : gồm có hai cách - Kết bài không mở rộng : cho biết kết cục của câu chuyện không bình luận gì thêm (bài văn kể chuyện); nêu nhận xét chung hoặc nói lên tình cảm của người viết đối với đối tượng được tả (bài văn miêu tả ). - Kết bài mở rộng: nêu ý nghĩa hoặc đưa ra lời bình luận về câu chuyện (văn kể chuyện ) ; Từ đối tượng được tả suy rộng ra các vấn đề khác ( bài văn miêu tả ) Ví dụ : Tả cây bàng ở sân trường em (Sách Tiếng Việt tập 2, trang 82) + Kết bài không mở rộng: Cây bàng trường em là thế đó. Em rất thích nó. + Kết bài mở rộng: Rồi đây, đến ngày xa mái trường thân yêu, em sẽ mang theo nhiều kỉ niệm của thời thơ ấu bên gốc bàng thân thuộc của em. 10
- 2. Hướng dẫn học sinh phân loại các cách mở bài, kết bài. 2.1. Mở bài : Ví dụ : Khi dạy bài “Luyện tập xây dựng mở bài trong bài văn kể chuyện” (tuần 11, tiết 22) Sau khi hướng dẫn học sinh khai thác xong phần nhận xét và rút ra được khái niệm về mở bài trực tiếp, mở bài gián tiếp trong văn kể chuyện. Để kiểm tra lại việc nắm kiến thức từ khái niệm trên một cách chắc chắn, tôi cho các em thực hành bài tập 1 (phần luyện tập) Bước 1 : Gọi HS đọc yêu cầu bài tập Bước 2 : Cho các em làm việc theo nhóm 4, yêu cầu trao đổi về các sự việc được nói tới trong từng đoạn văn, sau đó cho biết đó là cách mở bài nào. Bước 3 : Gọi học sinh trình bày; Nhóm khác dưới lớp nhận xét, bổ sung. Bước 4 : Nhận xét và kết luận : Đoạn Sự việc được nêu trong đoạn văn Cách mở bài a Kể ngay vào sự việc mở đầu chuyện : rùa tập chạy Trực tiếp b Nói chuyện người chủ quan sẽ thất bại rồi bắt vào Gián tiếp chuyện c Nói chuyện học sinh chủ quan nên cô giáo kể Gián tiếp chuyện để khuyên răn. 11
- d Nêu nỗi đau ê chề của thỏ chủ quan để dẫn dắt vào Gián tiếp chuyện. Từ đó hướng dẫn học sinh cách xác định các kiểu mở bài là : - Trước hết phải xác định câu chuyện đó nói về sự việc gì. - Nếu mở bài đó đi thẳng vào đề, trực tiếp nêu ra cái đề bằng cách này khiến người đọc vừa tiếp xúc bài văn đã thấy ngay chủ đề, thấy rõ sự vật tác giả sẽ kể, sẽ tả thì đó là mở bài trực tiếp. - Nếu mở bài đó bằng cách thông qua các sự vật, sự việc có liên quan ( như: gặp người, cảnh, cây cối, đồ vật, con vật trong hoàn cảnh nào? ở đâu? nguồn gốc ra sao? Vì sao chọn đồ vật, con vật, cây cối này để tả ? ... ) , bằng xúc cảm của người viết để dẫn dắt vào đề bài, nghĩa là vào bài bằng hình thức “bắc cầu” thì đó là mở bài gián tiếp. Ngoài các tiết học chính khóa, để giúp cho các em viết thành thạo các cách mở bài, tôi sẽ luyện thêm cho các em vào tiết luyện Tiếng Việt (buổi chiều) để các em có kĩ năng viết đoạn mở bài đúng theo yêu cầu cần đạt. Ví dụ : Dựa vào bài thơ “Gọi bạn” của nhà thơ Định Hải (TV3), hãy viết mở bài gián tiếp kể câu chuyện về tình bạn giữa Bê vàng và Dê trắng. Tôi tiến hành như sau : + Trước hết, cho các em đọc lại bài thơ “Gọi bạn” + Yêu cầu học sinh nêu nội dung và sự việc chính trong bài thơ. + Đề bài yêu cầu gì ? 12
- (Viết mở bài gián tiếp kể về tình bạn giữa Bê vàng và Dê trắng ) + Để viết được mở bài theo cách gián tiếp, em cần nêu những gì ? (giới thiệu nhân vật, thời gian, địa điểm để dẫn dắt trực tiếp các tình tiết câu chuyện) Từ đó các em có thể viết như sau : Ngày xưa, trong một khu rừng xanh đại ngàn, có một đôi bạn thân bên nhau, đó là Bê vàng và Dê trắng. Riêng ở cách mở bài gián tiếp, tôi có thể phân thành 2 loại sau : a) Mở bài gián tiếp theo cảm khoái trữ tình : nghĩa là thông qua những cách thức khác nhau để bày tỏ tình cảm yêu ghét, cảm thông, vui sướng của người đọc đối với sự vật, sự việc trong tác phẩm nhằm lôi cuốn người đọc ngay từ phút ban đầu, từ đó mà tạo nên sự cộng hưởng về mặt tình cảm giữa tác giả và người đọc, tăng thêm sức hấp dẫn cho văn chương. Loại mở bài này được biểu hiện qua 3 hình thức: * Trữ tình trực tiếp : nghĩa là không dựa vào bất cứ sự vật nào, trực tiếp bày tỏ tình cảm của mình hoặc của nhận vật trong tác phẩm . Ví dụ: Hướng dẫn HS kể lại phần mở đầu câu chuyện “Hai bàn tay” theo cách mở bài gián tiếp. Tôi sẽ hướng dẫn các em mở bài bắt đầu từ lời của bác Lê trong truyện để dẫn vào câu chuyện. Các em dựa vào xúc cảm của bác Lê (bác Lê không thể nào quên được câu nói của người bạn thân và đó cũng là câu nói thấm thía, đúng với trong thực tế cuộc sống). Vì thế, khi vào bài muốn gây được sự chú ý cho người đọc ngay từ giờ phút đầu tiên, các em nên thể hiện được sự thổ lộ 13
- tình cảm trực tiếp chân thật của bác Lê, điều đó khiến người đọc cùng rung cảm mãnh liệt. Từ đó các em có thể viết: Từ hai bàn tay, một người yêu nước có thể làm nên tất cả. Điều đó thật là thấm thía đối với tôi. Tôi mãi mãi không thể nào quên buổi trò chuyện giữa tôi và Bác Hồ ngày chúng tôi ở Sài Gòn ấy. Câu chuyện là thế này : * Trữ tình gián tiếp : (còn gọi là mượn vật trữ tình) Nghĩa là thông qua miêu tả cảnh vật để bày tỏ tư tưởng tình cảm của mình . Ví dụ : Tả con chim công múa (TV4, tập2 - trang 141) Mở đầu cho bài văn tác giả viết: “Mùa xuân trăm hoa đua nở, ngàn lá khoe sức sống mơn mởn. Mùa xuân là mùa công múa.” Với cách miêu tả cảnh sắc mùa xuân tươi đẹp từ cỏ cây, hoa lá, mang xúc cảm của người viết để dẫn dắt người đọc đến với đối tượng cần tả (con chim công múa) . * Bộc lộ cảm xúc qua đoạn văn, đoạn thơ, lời hát : đó là cách vào bài mượn xúc cảm của các nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ để liên tưởng đến sự vật, sự việc định tả, định kể. Cụ thể với đề bài : Viết mở bài gián tiếp bằng lời của người kể chuyện từ câu chuyện “Hai bàn tay”. Tôi đã hướng dẫn các em có thể mượn những câu thơ có liên quan đến sự việc “Đôi bàn tay” để vào bài. Ví dụ các em có thể vào bài như sau : Bàn tay ta làm nên tất cả Có sức người sỏi đá cũng thành cơm. 14
- Nhà thơ Hoàng Trung Thông trong câu thơ trên đã nói được sức mạnh to lớn của bàn tay trong công việc lao động cải tạo thiên nhiên, đất đai. Trước đó, hàng nửa thế kỉ, Bác Hồ của chúng ta đã nhận ra sức mạnh to lớn của bàn tay con người trong sự nghiệp cứu nước. Cách vào bài như trên đã bộc lộ cảm xúc gián tiếp trước sự vật, sự việc có liên quan đến đối tượng được tả (đôi bàn tay) dưới ngòi bút trữ tình, tạo sự êm ái, nhẹ nhàng, đồng cảm và đi vào lòng người đọc. b) Mở bài gián tiếp bằng cách so sánh hình ảnh : Tức là ngay mở bài đã dùng sự vật, hình ảnh cụ thể để thuyết minh sự vật, sự việc phức tạp, trừu tượng hơn. Cách mở bài này sẽ biến cái trừu tượng thành cái cụ thể, đơn giản và cho ta một cảm giác mới mẻ, sinh động, tăng thêm vẻ sống động của bài văn . Ví dụ : Bài tập đọc “Mùa thu ở làng quê” của Nguyễn Trọng Tạo đã vào bài như sau: Mùa thu, trời như một chiếc dù xanh bay mãi lên cao . Các hồ nước quanh làng như mỗi lúc một sâu hơn. Chúng không còn là hồ nước nữa , chúng là những cái giếng không đáy, ở đó ta có thể nhìn thấy bầu trời bên kia trái đất. - Yêu cầu học sinh tìm hiểu nội dung của mở bài trên: + Những sự vật nào được nêu trong đoạn văn ? (bầu trời, các hồ nước, cái giếng) + Tìm hình ảnh so sánh có trong đoạn văn. (các hồ nước – cái giếng không đáy) 15
- Qua đó cho HS biết được một kiểu vào bài gián tiếp bằng cách so sánh các hình ảnh để tạo thành đoạn mở bài. 2.2. Kết bài : a) Kết bài không mở rộng : được phân thành 3 loại sau * Kết bài kiểu tổng kết : Đây là cách kết bài rất thường gặp. Phần cuối bài nêu ra kết luận có tính tổng kết, quy nạp về nội dung các mặt đã nói ở các phần trên. Ví dụ : Tả con mèo nhà em. Cho học sinh nhận xét về các đặc điểm của con mèo: + Mèo nhà em có đặc điểm gì? ( rất tinh nhanh, thông minh, rất tình cảm,..) + Em có thích con mèo nhà em không ? Vì sao? Từ những đặc điểm trên, các em có thể viết: Mi mi của em rất tinh nhanh, thông minh mà cũng rất tình cảm. Em rất thích nó. Với kết bài này, người viết đã tổng kết lại những đặc điểm của con mèo và bày tỏ tình cảm của người viết . * Kết bài kiểu trữ tình : là người viết thông qua cảm xúc của bản thân để nói ra lời khen ngợi hay mượn vật để bày tỏ nỗi giận dữ, đau thương khiến cho người đọc có được sự truyền cảm mà chủ đề sẽ thăng hoa. Ví dụ : Tả con mèo nhà em. 16
- + Gọi học sinh nêu các đặc điểm, tính cách, hình thức bên ngoài,.. của con mèo (như: nó rất tinh khôn, hoạt bát, rất tình cảm, có bộ lông và vóc dáng rất đẹp) + Yêu cầu các em nói lời nhận xét tổng quát về con mèo của em. Từ cảm xúc đó, các em có thể kết bài ngắn gọn : Mi mi của em thật tuyệt ! * Kết bài kiểu điểm đề : (tức là nhắc lại đề bài ) Ví dụ : Trong câu chuyện “Bài học quý” ( Mi-khai-in Pia-côp-xki ), kết bài tác giả viết : Sẻ cầm năm hạt kê Chích đưa, ngượng nghịu nói : “Mình rất cảm ơn cậu, cậu đã cho mình những hạt kê ngon lành này, còn cho mình một bài học quý về tình bạn. + Trong đoạn kết bài trên có chi tiết nào lí thú và tô đậm chủ đề câu chuyện? (những hạt kê Chích tìm được và chia sẽ với bạn cũng chính là những hạt kê Sẻ đã quăng đi sau khi ăn một mình no nê, chán chê) + Điều đó khiến cho Sẻ có thái độ ra sao ? (xấu hổ, ngượng nghịu và biết nhận thấy bài học quý giá về tình bạn) Từ đó giúp HS hiểu rằng: câu chuyện mở ra bằng tình bạn, khép lại cũng là tình bạn. Đầu và cuối đều chốt lại một điểm, cách sắp xếp chi tiết đó khiến câu chuyện chặt chẽ, ý tứ phát triển mỗi lúc một thêm rõ để cuối cùng đọng lại chủ đề “Tình bạn”. Đây cũng là một kiểu kết bài không mở rộng theo kiểu điểm đề. b/ Kết bài kiểu mở rộng: gồm có 3 loại 17
- * Kết bài kiểu miêu tả: là phương thức kết bài thông qua việc miêu tả hình thái nhân vật, cảnh tượng, hoàn cảnh để sâu sắc chủ đề, tạo không khí và làm tăng tính chân thực, sức truyền cảm nghệ thuật của nội dung. Ví dụ: Khi tả cây phượng trên sân trường có em đã viết : Mở trang sách, ôi! đúng bài “Hoa học trò”, mấy giọt nắng tinh nghịch rơi vào. Rồi những cánh hoa đỏ cũng đậu vào, trang sách rực rỡ hẳn lên. Lòng em mơn man cảm xúc. Phượng ơi! Phượng tô điểm cho vẻ đẹp sân trường bằng những mùa hoa tươi thắm, tỏa bóng mát những giờ ra chơi. Nếu phải xa cây phượng chắc nhớ lắm! Yêu cầu các em nhận xét đoạn kết bài trên có gì hay ? (đã khéo léo diễn tả cảm xúc qua việc miêu tả những cánh hoa phượng đậu vào trang sách ) Qua đó giúp các em hiểu rằng: đây cũng là một kết bài mở rộng theo cách miêu tả. Người tả mượn hình ảnh miêu tả trang sách rực lên khi những cánh hoa phượng vô tình đậu vào để diễn tả tình cảm gắn bó sâu sắc gửi gắm với cây phượng sân trường. * Kết bài kiểu ý niệm : ý niệm ở đây là quan điểm, cách nghĩ. Ở chỗ cuối bài, tác giả đã ló ra cái ý thức ẩn chứa của mình, khiến cho chủ đề được thăng hoa. Như thế sẽ có lợi cho việc tìm hiểu tư tưởng của tác giả, ý tưởng của người viết để lại sự suy tư cho người đọc. Ví dụ : Với đề bài “Tả cây tre quê hương” có học sinh đã viết kết bài “Thời gian trôi đi, bao đổi thay lại đến, tre vẫn thủy chung gắn bó với làng quê em. Dù 18
- ai đi xa vẫn luôn mang theo nỗi nhớ, nhớ hình bóng cây tre quê hương. Tre là bến đậu của bao niềm thương, nỗi nhớ. Tre nâng bước những người con xa xứ” + Đoạn viết của trên có gì hayv? ( Đoạn văn trên có nhiều từ ngữ gợi tả, gợi cảm, hình ảnh đẹp ) + Nêu các từ ngữ gợi tả, gợi cảm và hình ảnh nhân hóa có trong đoạn viết. (hình bóng, thủy chung, bến đậu; tre thủy chung, nâng bước; điệp từ “nỗi nhớ”) + Các từ ngữ gợi tả, gợi cảm và hình ảnh nhân hóa đó có tác dụng gì ? (Các từ ngữ gợi tả, gợi cảm để diễn tả cảm xúc mãnh liệt gắn bó với cây tre; các hình ảnh nhân hóa làm cho bài văn sinh động, hấp dẫn hơn) Với kết bài trên, hình ảnh cây tre không dừng lại ở cây cho ta bóng mát, mà tre đã trở thành biểu tượng của quê hương, tre là hình bóng của người đi xa khi nhớ về quê hương. Nỗi nhớ cây tre đồng nghĩa với nỗi nhớ quê hương. - Hoặc cũng với đề bài trên ta có thể kết bài mở rộng : Em yêu cây tre quê hương, không chỉ bốn mùa xanh mát, mà tre đâu sợ cái giá rét của mùa đông, cái nắng gắt của mùa hè. Dù trên đất cằn sỏi đá, tre vẫn cần mẫn xanh tươi, hiên ngang, ưỡn tấm ngực đón phong ba bão táp, hiến dâng cho con người tất cả . Ôi ! Cây tre đẹp biết chừng nào ! + Kết bài trên có gì sáng tạo ? (dùng hình ảnh nhân hóa, ca ngợi cây tre cũng là ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của con người) Đây là một kết bài mở rộng theo cách gửi gắm ý niệm, có ý tưởng độc đáo, với hàm ý sâu xa, ngợi ca cây tre cũng chính là ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của con 19
- người, một lời nhắn nhủ thật sâu sắc. Kết bài bạn đã gửi gắm điều mình muốn nói về cây tre cũng kiên cường như con người Việt Nam. Tre là biểu tượng của quê hương. * Kết bài kiểu bày tỏ, giới thiệu : Ví dụ : Dựa vào câu chuyện “Rùa và thỏ” để viết kết bài mở rộng. - Cho học sinh nhận xét về hai nhân vật “Rùa” và “Thỏ” + Thái độ của em trước cử chỉ, hành động của Rùa? + Em rút ra được điều gì cho bản thân ? Từ đó gợi cho học sinh viết kết bài bằng cách bày tỏ lòng tôn kính, thán phục của em trước hành động dũng cảm của “Rùa” và nêu lời nhắn nhủ với bản thân. Cụ thể các em có thể viết: Nghe xong câu chuyện cô giáo kể, lòng tôi đầy thán phục Rùa, kính cẩn nghiêng mình trước chú “Rùa” bé nhỏ, chậm chạp, dũng cảm và tự nhủ : không bao giờ được lơ là trong học tập và rèn luyện bản thân. Tóm lại : Với các cách mở bài, kết bài nói trên giúp cho người viết cụ thể hóa, đa dạng hóa phần mở bài, kết bài, biết lựa chọn và tạo cảm xúc khi viết. Khi dạy, tôi không dùng các từ ngữ trừu tượng như trên để nói với học sinh mà tôi sẽ dùng những từ ngữ gần gũi, dễ hiểu để các em xác định, lựa chọn các cách mở bài, kết bài phù hợp. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm khi soạn câu hỏi trắc nghiệm Vật lý
13 p | 3112 | 1746
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm nâng cao công tác chủ nhiệm học sinh lớp 5
14 p | 2593 | 686
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 viết đúng chính tả
55 p | 2376 | 450
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt môn tập làm văn
10 p | 2123 | 376
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giáo dục lễ giáo cho trẻ 5 tuổi thông qua các câu truyện cổ tích Việt Nam
10 p | 1801 | 336
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn làm quen văn học
24 p | 1887 | 327
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp luyện đọc khi dạy tập đọc lớp 2
9 p | 1564 | 305
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một vài kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 học tốt môn học vấn
27 p | 769 | 114
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy và học môn Tiếng Việt lớp 2 phân môn kể chuyện
20 p | 589 | 112
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm rèn kỹ năng kể chuyện cho học sinh lớp 2 trong phân môn Tiếng Việt
11 p | 595 | 100
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số giải pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức học sinh trường tiểu học
9 p | 436 | 80
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm giúp giáo viên khối 1 nâng cao chất lượng dạy môn Tiếng Việt
15 p | 612 | 74
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm khai thác triệt để mô hình để giảng dạy môn Sinh học lớp 7
17 p | 384 | 69
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp rèn kỹ năng học tốt môn tập làm văn ở lớp 5
13 p | 360 | 66
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 học tốt phân môn vẽ tranh môn Mĩ thuật
23 p | 363 | 59
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số phương pháp giải phương trình mũ – phương trình Logarit
29 p | 352 | 42
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số sai lầm thường gặp của học sinh khi giải phương trình lượng giác cơ bản
13 p | 297 | 29
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao công tác nữ công trong trường Tiểu học
17 p | 22 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn