intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm " MỘT SỐ KINH NGHIỆM RA ĐỀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC VIÊN BTTHPT "

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

447
lượt xem
86
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Năm học 2006-2007, ngành Giáo dục và Đào tạo đã chọn nhiệm vụ trung tâm là: "Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong ngành giáo dục". Chủ trương này được toàn xã hội đồng tình ủng hộ. Nói không với tiêu cực trong thi cứ và bệnh thành tích trong giáo dục, có nghĩa là ngành đã thấy được những hạn chế trong dạy và học ở các cấp của ngành. Thực tế, đó là tình trạng học giả, thi giả nên chưa phản ánh đúng kết quả thực chất của quá trình...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm " MỘT SỐ KINH NGHIỆM RA ĐỀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC VIÊN BTTHPT "

  1. MỘT SỐ KINH NGHIỆM RA ĐỀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ K ẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC VIÊN BTTHPT GV. Trần Thị Ngọc Trung tâm GDTX-DN Như Xuân, Thanh Hoá I. MỞ ĐẦU Năm học 2006-2007, ngành Giáo dục và Đào tạo đã chọn nhiệm vụ trung tâm là: "Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong ngành giáo dục". Chủ trương này đư ợc toàn xã hội đồng tình ủng hộ. Nói không với tiêu cực trong thi cứ và b ệnh thành tích trong giáo dục, có nghĩa là ngành đã thấy đư ợc những hạn chế trong d ạy và học ở các cấp của ngành. Thực tế, đó là tình trạng học giả, thi giả nên chưa ph ản ánh đúng kết quả thực chất của quá trình giáo dục đ ào tạo. Khi kết quả chưa đúng th ực ch ất sẽ để lại những h ậu quả không tốt, ảnh hưởng đến uy tín của ngành giáo dục. Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích là phải tổ chức dạy thật, học thật và thi thật. Có dạy thật, học thật, thi thật thì mới đánh giá đúng năng lực,trình độ của người học. Người học đ ược đánh giá đúng thực chất mới nỗ lực cố gắng phấn đ ấu không ngừng để đạt kết quả cao hơn. Dạy thật, học thật, thi thật mới loại trừ đ ược tình trạng học giả, thi giả là cơ sở đ ể đẩy mạnh dạy tốt học tốt. Giáo dục thường xuyên (GDTX) là một n gành h ọc rất quan trọng và không thể thiếu được trong xã hội, là môi trường cho người học có điều kiện học tập, vươn lên, học không ngừng và học suốt đời nh ưng ngược lại thường hay bị đánh giá thấp về chất lượng dạy cũng như chất lư ợng học. 44
  2. Để thực hiện được chủ trương chung của ngành, tất cả các giáo viên của TTGDTX cũng đã hết sức nổ lực phấn đấu. Đổi mới cách dạy, đổi mới cách kiểm tra đ ánh giá, đổi mới cách ra đề kiểm tra để phù h ợp với đối tư ợng người học. Từ đó, n gười học cũng phải đổi mới cách học, đổi mới suy nghĩ, không ỷ lại, nỗ lực phấn đấu không ngừng hoàn thiện theo yêu cầu của thực tiễn. Là m ột giáo viên của TTGDTX, bản thân tôi nghĩ rằng trong việc đổi mới p hương pháp dạy học cũng có cả đổi mới cách ra đề kiểm tra. Trong quá trình giảng d ạy, tôi đ ã rút ra đ ược một vài kinh nghiệm trong việc ra đề sao cho phù h ợp với đối tượng học viên mà vẫn bảo đảm đánh giá đúng thực chất người học. Đó cũng là m ột việc làm đ ể ghóp phần vào việc thực hiện chủ chương ch ống tiêu cực trong thi cử m à Ngành giáo d ục đã đưa ra. II. NỘI DUNG Chương trình GDTX cấp THPT thực tế phải dùng chung SGK với THPT. Về cơ b ản mục tiêu giáo dục là như nhau, nhưng mỗi phương thức dạy học có những mục tiêu riêng. Vì thế GV là người có vai trò quyết định trong việc lựa chọn phương pháp đ ể thực hiện chương trình sao cho đạt được các mục tiêu đ ã xác định. Đổi mới phương pháp dạy học là ph ải chú trọng đến đối tượng người học, tức là phải nắm được điều kiện, ho àn cảnh, thực lực của người học, từ đó có những phương pháp d ạy thích ứng tạo điều kiện cho ngư ời học có nhiều cơ hội để chủ động tiếp thu kiến thức, vận dụng kiến thức và ứng xử tốt trước yêu cầu của thực tế. Mặt khác, đặc điểm cơ b ản của GDTX là đối tượng hết sức đa dạng, điều kiện và hoàn cảnh sống rất khác nhau, độ tuổi khác nhau, hơn nữa trong đó có một số vừa là người lao động lại là người đi học nên việc học trở nên bị gián đoạn qua nhiều năm, kiến thức đ ã b ị mai mọt nhiều không thể dùng nguyên SGK phổ thông để dạy cho hoc viên GDTX . Vì vậy, nội dung, h ình thức, phương tiện tổ chức kiểm tra đánh giá phải phù hợp với đối tượng HV. Đề kiểm tra phải có độ khó vừa phải, thời gian hợp lí, tránh những 45
  3. đ ề kiểm tra đánh đố học sinh, cũng không nên ra quá nhiều câu phải học thuộc lòng, học vẹt. Tuy rằng đối tư ợng học viên của GDTX có nhiều hạn chế về kiến thức trên sách vở nh ưng lại có nhiều hiểu biết trong thực tế nên GV cần phải coi trọng những câu hỏi có nội dung áp dụng cho thực tiễn và đưa một số câu hỏi này vào đề kiểm tra. Một phần tạo điều kiện để cho học viên làm bài tốt hơn, một phần gây hứng thú, và tạo tâm lí giảm bớt áp lực trong thi cử cho HV. Nếu so sánh đề kiểm tra của GDTX cấp THPT với đề kiểm tra của THPT ban cơ b ản thì cần đ ơn giản hơn nhiều nh ưng vẫn phải bao quát và đ ảm bảo được những mục tiêu cơ bản đ ã nêu trong chương trình, cũng không vì đối tượng HV mà hạ thấp độ khó của đề một cách tùy tiện, kết quả kiểm tra vẫn phải có đủ độ tin cậy để xét lên lớp, xét tốt nghiệp, đánh giá đúng thực chất người học. Đối với học viên học hệ 2 năm, thời gian học ít hơn, GV có thể cho HV làm một vài bài kiểm tra ở dạng đề mở, HV được sử dụng tài liệu ở nhà trả lời những câu hỏi m à học viên đà tích lũy được, tổng hợp được, vận dụng được. Với loại đề thi n ày, có th ể HV sẽ chịu khó học hơn và tích lũyđư ợc nhiều kiến thức hơn. Còn những b ài kiểm tra trên lớp, GV nên ra theo hình thức trắc nghiệm. Khi so ạn thảo một đề kiểm tra sao cho đạt yêu cầu, phù hợp với đối tượng HV.Chúng ta cần lên kế hoạch trước. Khi viết câu hỏi cho đề kiểm tra cũng không n ên đưa ra các câu hỏi quá khó, các b ài tập phức tạp có nhiều phép tính trung gian mà chúng ta chỉ cần đưa ra những nội dung thật đơn giản câu hỏi phải dùng từ thật dễ hiểu và ngắn gọn các bài tập định lượng th ì cần phải lựa chọn các số liệu hợp lí nhưng dễ tính toán, các biểu thứcđể tính cũng không được quá mức cồng kềnh. Số lượng câu hỏi vừa phải phù hợp với thời gian làm bài. Với đối tượng học viên của TTGDTX nếu GV ra đề vì quá tham kiến thức, không biết chắt lọc những vấn đề cơ b ản th ì ngược lại có thể đã biến điều tích cực thành cái tiêu cực trong kiểm tra. 1. Thời điểm soạn đề : Cần phải biên soạn đề kiểm tra và hoàn thành đề trước khi cho học viên kiểm tra nhiều ngày để có điều kiện suy nghĩ, sửa chữa và tham khảo ý kiến của đồng nghiệp. 46
  4. 2. Quy trình biên soạn đề kiểm tra: Vẫn phải tuân theo đúng quy trình mà GV đã làm. a) Xác định mục tiêu kiểm tra: Cần xác định rõ bài kiểm tra dùng để đánh giá kết quả học tập của HV sau những bài nào, chương nào, kiểm tra để xác nhận kết quả học tập, hay kiểm tra cuối kì, cuối năm… b)Xác đ ịnh nội dung kiểm tra: Việc xác định các nội dung về kiến thức, kĩ năng để đưa vào đề kiểm tra cần phải dựa vào các mục tiêu cụ thể đã đưa vào chương trình môn học . Đây là việc làm công phu, đòi hỏi GV phải nắm chắc được các yêu cầu cụ thể của từng bài, từng chương, của to àn bộ chương trình. Việc xác định nội dung kiểm tra có thể được thực h iện theo những bước cụ thể sau đây: - Liệt kê các lĩnh vực kiến thức và kĩ năng cần kiểm tra - Liệt kê các kiến thức và kĩ năng của từng lĩnh vực mà học viên ch ỉ cần nhớ và nhận ra được. Đây là mức độ nhận biết - Liệt kê các kiến thức và kĩ năng của từng lĩnh vực mà học viên ph ải giải thích so sánh….Đây là m ức độ cao hơn (mức độ thông hiểu). - Liệt kê các kiến thức và kĩ năng của từng lĩnh vực mà học viên phải vận dụng được vào các tình huống mới. Đây là m ức độ vận dụng. c) Lựa chọn các dạng trắc nghiệm tương ứng với từng yêu cầu kiểm tra: Trong một b ài kiểm tra có thể sử dụng trắc nghiệm tự luận (TNTL) và trắc n ghiệm khách quan (TNKQ) - TNKQ có thể dùng cho mọi yêu cầu ở mọi trình độ. Câu "đúng- sai" và câu ghép đôi đư ợc dùng để đánh giá trình độ "biết" và "hiểu". "Câu hỏi nhiều lựa chọn có 47
  5. th ể dùng để đánh giá cả ba trình độ cũng có thể dùng cho cả bài tập định tính và bài tập định lượng. - TNTL thường được dùng cho các yêu cầu về giải thích hiện tư ợng, khái niệm …, giải các bài tập định lư ợng . Do đó, TNTL thường đư ợc dùng cho những yêu cầu ở trình độ "vận dụng". d) Xây d ựng ma trận hai chiều của đề kiểm tra. - Xác định số lượng câu sẽ ra trong đề kiểm tra: Số lượng câu hỏi tùy thu ộc vào mức độ quan trọng của từng nội dung và mục tiêu, thời gian làm bài. Đối với học viên của TTGDTX, hầu hết đều có học lực từ trung bình trở xuống. Nh ư vậy, một đề kiểm tra 15 phút ra ở d ạng TNKQ không nên có quá 8 câu ; một đ ề kiểm tra 1 tiết ra ở dạng TNKQ không nên có quá 25 câu. Đề gồm cả TNTL và TNKQ thì số câu cho từng phần phụ thuộc vào số điểm dành cho mỗi phần. Nếu đề có 70% thời gian cho TNKQ, 30% cho TNTL thì điểm cho TNTL là 3đ còn TNKQ là 7 đ. Nếu mà ph ần TNKQ cần có 14 câu thì mỗi câu sẽ có 0,5 điểm. - Xác đ ịnh số điểm cho từng mạch kiến thức, chủ đề: Căn cứ vào số tiết quy đ ịnh trong phân phối chương trình, căn cứ vào mức độ quan trọng của từng chủ đề kiểm tra mà xác định số điểm tương ứng. - Xác định số điểm cho từng hình thức câu hỏi. Nếu kết hợp cả hai loại TNKQ và TNTL trong cùng một đề thi, cần xác định tỷ lệ cho phù hợp. Ví dụ: 6:4 hay 7:3 - Xác định số câu cho mỗi loại trắc nghiệm: Căn cứ vào số điểm mà định số câu hỏi tương ứng. Lưu ý các câu hỏi TNKQ là có số điểm như nhau. Ví dụ đề kiểm tra 15 phút có thể có: 6 câu TNKQ và 2 câu TNTL. - Hình thành ma trận: Lập bảng đặc trưng phân bố các câu hỏi một cách chi tiết. Đó là ma trận hai chiều. Một chiều là nội dung chương trình, chiều kia là mức độ nhận thức. Hàng ngang của ma trận ghi lĩnh vực kiến thức cần kiểm tra, hàng dọc ghi trình độ yêu cầu kiểm tra, trong các ô ghi số lượng các câu. Nếu số lĩnh vực kiến thức nhiều 48
  6. thì hàng dọc của ma trận d ành cho việc ghi lĩnh vực kiến thức, hàng ngang ghi trình độ yêu cầu kiểm tra. - Thiết kế câu hỏi theo ma trận: Căn cứ vào ma trận đã xác định ở trên mà thiết kế nội dung hình thức, lĩnh vực kiến thức và mức độ kiến thức cần đo ở học viên qua từng câu hỏi và toàn bộ đề kiểm tra. Để có một đề kiểm tra đạt yêu cầu, phù hợp với đối tư ợng học sinh Trung Tâm GDTX, khi so ạn thảo, chúng ta nên chú ý tuân thủ các điểm sau: Trước hết, ta lựa chọn các ý tưởng quan trọng , viết ra giấy nháp một cách rõ ràng làm căn bản cho việc soạn thảo. Sau đó, viết câu trắc nghiệm cho các ý tưởng trên và nên viết số câu nhiều hơn số yêu cầu của đề kiểm tra, để sau khi xem xét có thể loại bỏ những câu chưa đạt yêu cầu. 3. Trình bày đề kiểm tra: - Nếu có kết hợp TNKQ và TNTL trong một đề thì nên tách làm hai phần riêng biệt. - Nếu đề chỉ có TNKQ thì nên sắp xếp câu hỏi từ dễ đến khó hoặc theo từng nội dung, chủ đề. Thứ tự phương án đúng không theo một quy luật nào. Để tránh việc HV hỏi nhau khi làm bài, nên thay đổi thứ tự các câu để tạo ra các đề kiểm tra có nội dung như nhau, nhưng có cấu tạo khác nhau. - Sau đó cùng ph ần mềm hỗ trợ cho việc đảo đề để tránh tiêu cực trong kiểm tra. 4. Duy ệt lại đề kiểm tra: Sau khi so ạn đề, trình bày đề kiểm tra xong, cần phải duyệt lại, cân nhắc xem với số lư ợng câu hỏi và m ức độ câu hỏi như vậy thì th ời gian làm bài của Học viên đã phù hợp chưa? Ngoài ra, cũng cần phải đối chiếu đối với mục tiêu đ ề ra. Đây là một khâu vô cùng quan trọng mà GV chúng ta không thể bỏ qua. Nên tham khảo ý kiến đóng ghóp của đồng nghiệp sau đó chỉnh sữa để có một đề kiểm tra đạt yêu cầu và h ay, độ khó vừa phải, phù hợp với đối tư ợng học viên, không gây cho Học viên áp lực về tâm lý khi kiểm tra, đánh giá đúng thực chất người học. 49
  7. 5. Xây dựng đáp án và biểu điểm: Đối với đề gồm TNTL và TNKQ, điểm tối đa to àn bài là 10. Sự phân phối điểm cho ph ần TNKQ và TNTL tuân theo nguyên tắc: + Tỷ lệ thuận với thời gian dự kiến HV hoàn thành từng phần. + Mỗi câu TNKQ nếu trả lời đúng đều có số điểm như nhau. Ví dụ: Để đánh giá đ ư ợc kiến thức, kĩ năng của HV sau khi học xong ch ương: Dao đ ộng cơ c ủa Vật lí lớp 12 theo ch ương trình chu ẩn. Giáo viên cần phải ra một đề k iểm tra 1 tiết. Sau khi xác đ ịnh đ ư ợc mục tiêu kiểm tra, xác định nội dung kiểm tra, lựa chọn các dạng trắc nghiệm t ương ứng với yêu c ầu của đề kiểm tra. Trong đ ề sử dụng 70% cho TNKQ và 30% cho TNTL. Ph ần TNKQ có thể lựa chọn hai d ạng trắc nghiệm : Đó l à trắc nghiệm đối chiếu cặp đôi d ùng cho ph ần câu hỏi n h ận biết và trắc nghiệm nhiều lựa chọn cho phần câu hỏi ở mức độ thông hiểu v à v ận dụng . GV thiết lập một ma trận đề, trong ma trận đề, cần ghi rõ câu nào thuộc lĩnh vực kiến thức n ào có thể ra ở dạng câu hỏi vận dụng vào thực tế. Cần cố gắng suy nghĩ tìm tòi nhiều câu hỏi hay nhưng d ễ trả lời. Đề kiểm tra 15 phút có thể ra ở dạng trắc nghiệm dễ làm đó là trắc nghiệm đúng - sai, với số lượng câu không vượt quá 8 câu. Với đề kiểm tra 1 tiết, số lư ợng câu không nên vượt quá 15 câu, vì trong đó có cả câu tự luận. Sau khi lập xong ma trận , GV bắt đầu ra câu hỏi trắc nghiệm v à bài t ập tự lu ận sao cho ph ù h ợp với thời gian làm bài c ủa H V. Trong khi so ạn các câu hỏi TNKQ c ần phải có những ý tư ởng hay nh ưng đơn giản m à v ẫn phát huy đ ư ợc khả n ăng sáng tạo của HV. Sau đây là ví d ụ về ma trận của đề kiểm tra 1 tiết (các số chỉ số lượng câu hỏi) 50
  8. DAO ĐỘNG CƠ Lĩnh vực Con lắc lò Dao động Dao động tắt Fương pháp kiến thức, Cộng điều hòa xo, con lắc dần, dao động Fre-nen. Tổng mức độ CB. Cộng hợp DĐ điều đơn hòa hưởng 1 (thực tế) 2 1 1 5 Biết 2 1 1 1 5 H iểu 1 (tự luận ) 1 2 (thực tế) Vận dụng 1 5 4 5 3 3 15 Cộng III. K ẾT LUẬN Đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có cả đổi mới cách kiểm tra đánh giá, đổi mới cách ra đề cho phù hợp với đối tượng người học. Ra đề kiểm tra sao cho phù h ợp với đối tượng người học là một việc rất cần thiết đối với ngành học GDTX. Mặc dù lư ợng kiến thức thì ít hơn, mức độ th ì đơn giản hơn nhưng lại đòi hỏi tính thực tiễn cao hơn, nên GV cần phải tốn nhiều thời gian hơn, cần phải bỏ ra nhiều công sức hơn thì mới có thể có được một đề kiểm tra đạt yêu cầu phù hợp với đối tượng học sinh. Đây là một khâu quan trọng mà mỗi GV chúng ta cần cố gắng thực hiện tốt để ghóp một phần nhỏ vào việc dạy thật, học thật, thi thật thực hiện tốt nhiệm vụ m à ngành GD đ ã đ ề ra.  51
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0