intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn kĩ năng so sánh trong cảm thụ tác phẩm văn học cho học sinh lớp 9

Chia sẻ: Sinh Sinh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:22

70
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong cảm thụ văn học, kĩ năng so sánh không phải là một kĩ năng mới lạ. Song trên thực tế trong khung kiến thức chương trình, kĩ năng này lại không được hệ thống thành kiến thức riêng biệt, bài bản. Kĩ năng này chỉ được thực hiện khi học sinh phải trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa ở phần Đọc - hiểu văn bản hoặc phần Luyện tập.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn kĩ năng so sánh trong cảm thụ tác phẩm văn học cho học sinh lớp 9

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ­ MÔN NGỮ VĂN RÈN KĨ NĂNG SO SÁNH TRONG CẢM THỤ TÁC PHẨM VĂN  HỌC CHO HỌC SINH LỚP 9 Tác giả:  Bùi Thị Nga          Chức vụ: Giáo viên  Đơn vị:   THCS Tây Hồ  Môn:      Ngữ Văn A. PHẦN MỞ ĐẦU Ngữ văn là môn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự  phát triển tư  duy của con người. Là môn học thuộc nhóm khoa học xã hội,  Ngữ  văn có  vị  trí   đặc biệt  trong việc thực hiện mục tiêu chung của nhà   trường THCS. Học Ngữ  văn vừa giúp người học hình thành từng bước về  trình độ học vấn phổ thông tạo tiền đề cho các em học ở bậc cao hơn; đồng  thời giúp người học phát triển và hoàn thiện về  mặt nhân cách, giúp các em  biết yêu cái hay cái đẹp, ghét cái xấu, biết cách ăn nói, giao tiếp ... trong cuộc   sống hàng ngày. Vậy làm sao để cảm nhận hết cái hay cái đẹp của tác phẩm   văn học? Làm sao để từ những nội dung vấn đề của tác phẩm các em có thể  bộc lộ những đánh giá, suy nghĩ riêng của cá nhân mình qua các bài viết một  cách sâu sắc, toàn diện ? Từ  đó, ta thấy trong học Ngữ  văn con đường tiếp  cận tác phẩm văn học có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, với học sinh,   khi học và cảm thụ  văn học các em còn khá nhiều lúng túng và bỡ  ngỡ, đặc   biệt  khi  các em  vận dụng, tích hợp kiến  thức  để  khám phá thế  giới văn  chương. Điều này đã trở  thành một vấn đề  khiến người giáo viên dạy Ngữ  văn luôn trăn trở, tìm tòi những con đường vừa quen vừa dễ để học sinh vận  dụng được tối ưu nhằm đem lại hiệu quả cảm thụ cao.  Thực tế để hướng dẫn học sinh cảm thụ tác phẩm văn học người giáo  viên luôn hướng dẫn các em cần bám vào đặc trưng thể loại để khai thác. Ví  dụ như với các văn bản thơ thì khai thác cần bám vào hình ảnh, ngôn từ, nhịp   điệu,… Với các tác phẩm văn xuôi thì cần cảm thụ   ở  các phương diện như  cốt truyện, nhân vật, sự việc,… Song làm sao để các em nhớ lâu, cảm thụ sâu  sắc thì một thao tác không thể  thiếu trong cảm thụ  tác phẩm văn học là kĩ  năng so sánh. ĐỀ TÀI 1 RÈN KĨ NĂNG SO SÁNH TRONG CẢM THỤ TÁC PHẨM VĂN HỌC   CHO HỌC SINH LỚP 9
  2. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ­ MÔN NGỮ VĂN Trong cảm thụ văn học, kĩ năng so sánh không phải là một kĩ năng mới   lạ. Song trên thực tế  trong khung kiến thức chương trình, kĩ năng này lại   không được hệ  thống thành kiến thức riêng biệt, bài bản. Kĩ năng này chỉ  được thực hiện khi học sinh phải trả  lời các câu hỏi trong sách giáo khoa  ở  phần Đọc ­ hiểu văn bản hoặc phần Luyện tập. Tuy nhiên, trong phân bố số  lượng câu hỏi về yêu cầu kĩ năng này không phải là ít, đặc biệt là ở Sách giáo   khoa Ngữ văn 9. Chính vì vậy, khi gặp dạng bài tập yêu cầu sử dụng kĩ năng  so sánh học sinh thường không làm được, nếu có thì hiệu quả đạt được chưa   cao. Bởi vậy, với học sinh khối 9, để  thực hiện mục tiêu nâng cao hơn nữa   chất lượng đại trà và chất lượng mũi nhọn thì việc hướng dẫn học sinh cảm   thụ văn học bằng kĩ năng so sánh là một nhu cầu bức thiết đối với HS và cả  với người dạy.  Là một giáo viên giảng dạy bộ  môn Ngữ  văn trong nhà trường THCS,  bản thân thấy được vai trò ý nghĩa lớn của đổi mới phương pháp trong dạy và   học hiện nay. Để góp phần nho nhỏ trong cuộc đó, tôi xin góp một cách hiểu,  cách rèn luyện HS cảm thụ tác phẩm văn học qua đề tài: Rèn kĩ năng so sánh   trong cảm thụ  tác phẩm văn học cho học sinh lớp 9.   Với đề  tài này, bản  thân tôi  mong muốn đưa lại hiệu quả  cao trong dạy và học Ngữ  văn THCS .   Vì vậy rất mong được sự ủng hộ và chia sẻ của các đồng nghiệp!  B. PHẦN NỘI DUNG  I. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1. Thực trạng: So sánh là một thao tác tư duy. Trong quá trình nhận thức thế giới khách  quan, kĩ năng so sánh bao giờ cũng giúp phát hiện cái mới, cái khác biệt. Đối  với việc phân tích văn học, so sánh thường hướng vào hai mục đích chính: ­ So sánh để chỉ ra những nét riêng, nét độc đáo, sáng tạo; phát hiện những vẻ  đẹp văn học không lặp lại, những đóng góp của nhà văn … ­ So sánh còn để  phát hiện những quy luật chung giữa các tác phẩm, các tác  giả, hoặc các giai đoạn văn học. Việc rút ra những quy luật chung giúp cho  nhận thức của người phân tích về  một vấn đề  văn học sẽ  trở  nên sâu sắc   hơn, vững vàng hơn. Đây cũng là cơ sở là nền móng cho những phát hiện mới  mẻ khác.  ĐỀ TÀI 2 RÈN KĨ NĂNG SO SÁNH TRONG CẢM THỤ TÁC PHẨM VĂN HỌC   CHO HỌC SINH LỚP 9
  3. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ­ MÔN NGỮ VĂN Từ đó so sánh còn là cơ sở để thực hiện thao tác tư duy có mức độ  cao  hơn như  sự  tổng hợp, hệ  thống hoá các vấn đề  giữa tác phẩm này với tác  phẩm văn học  khác hay chính trong một tác phẩm văn học. Đối với học sinh Trung học cơ sở (THCS) các em được học khái niệm   so sánh  ở  phạm vi là một phép tu từ  từ  vựng  ở  phần kiến thức Tiếng Việt  trong chương trình Ngữ văn 6 tập 2. Song từ tư duy về khái niệm so sánh: so  sánh là đối chiếu sự  vật, sự  việc này với sự  vật, sự  việc khác có nét tương   đồng để  làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự  diễn đạt (Ngữ  văn 6, tập 2,  bài 19, trang 24) chủ yếu giúp các em phát hiện ra các phép so sánh có trong   tác phẩm văn học. Từ đó học sinh tìm ra tác dụng của biện pháp so sánh trong  khả năng biểu đạt nội dung của văn bản cũng như tài năng sử dụng ngôn ngữ  của tác giả. Tuy nhiên, trên thực tế  từ  phép so sánh để  các em hiểu và vận   dụng thành kĩ năng so sánh trong quá trình cảm thụ tác phẩm văn học là chưa  có một bài dạy riêng mà chỉ  là vận dụng thực hành qua các câu hỏi nhỏ  lẻ ở  một số bài. Ví dụ: Lớp 6: Hai bài “Sông nước Cà Mau” và “Vượt thác” đều miêu tả  cảnh sông nước.  Em hãy nêu nhưng nét đặc sắc của phong cảnh thiên nhiên được miêu tả   ở  mỗi bài và nghệ thuật miêu tả của mỗi tác giả.  (Ngữ văn 6, tập 2, bài 21, trang 41) Lớp 7: 1. Cách biểu ý và biểu cảm của bài “Phò giá về kinh” và bài “Sông núi nước  Nam” có gì giống nhau?  (Ngữ văn 7, tập 1, bài 5, trang 68) 2. Cách ví von tiếng suối của Nguyễn Trãi trong hai câu thơ  “Côn Sơn suối  chảy rì rầm, Ta nghe như  tiếng đàn cầm bên tai” và của Hồ  Chí Minh trong  câu thơ “Tiếng suối trong như tiếng hát xa” (Cảnh khuya) có gì giống và khác  nhau ? (Ngữ văn 7, tập 1, bài 6, trang 81) 3. Hai bài thơ (“Cảnh khuya” và “Rằm tháng giêng” ) đều miêu tả cảnh trăng  ở chiến khu Việt Bắc. Em hãy nhận xét cảnh trăng trong mỗi bài có nét đẹp   riêng như thế nào ?  (Ngữ văn 7, tập 1, bài 12, trang 142) Lớp 8: 1. Qua đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” và truyện ngắn “Lão Hạc”, em hiểu  ĐỀ TÀI 3 RÈN KĨ NĂNG SO SÁNH TRONG CẢM THỤ TÁC PHẨM VĂN HỌC   CHO HỌC SINH LỚP 9
  4. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ­ MÔN NGỮ VĂN thế nào về cuộc đời và tính cách người nông dân trong xã hội cũ. (Ngữ văn 8, tập 1, bài 4, trang 48) 2. Đối chiếu Đôn­ki­hô­tê và Xan­chô Pan­xa về các mặt : dáng vẻ bên ngoài,   nguồn gốc xuất thân, suy nghĩ, hành động, … để thấy rõ nhà văn đã xây dựng   một cặp nhân vật tương phản. (Ngữ văn 8, tập 1, bài 7, trang 79) 3.    Qua bài thơ  (“Tức cảnh Pác Bó”), có thể  thấy rõ Bác Hồ  cảm thấy vui  thích, thoải mái khi sống giữa thiên nhiên. Nguyễn Trãi cũng từng ca ngợi “thú  lâm tuyền” (niềm vui thú được sống với rừng, suối) trong bài “ Côn Sơn ca”.  Hãy cho biết “thú lâm tuyền”  ở Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh có gì giống và  khác nhau ? (Ngữ văn 8, tập 2, bài 20, trang 29) Lớp 9:  1. Phân tích, so sánh cảnh mùa xuân trong câu thơ cổ trung Quốc: “Phương  thảo liên thiên bích – Lê chi sổ điểm hoa” (Cỏ thơm liền với trời xanh – Trên   cành lê có mấy bông hoa) với cảnh mùa xuân trong câu thơ: “Cỏ non xanh tận   chân trời – Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” để thấy được sự tiếp thu và  sáng tạo của Nguyễn Du.  (Ngữ văn 9, tập 1, bài 6, trang 87) 2. Cảm nghĩ của em về  thế  hệ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ qua hình ảnh  người lính trong bài thơ  “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến  Duật ? So sánh hình  ảnh người lính  ở  bài thơ  này và  ở  bài “Đồng chí” của  Chính Hữu. (Ngữ   văn   9,   tập   1,   bài10,  trang 133) 3. Em có nhớ  truyện ngắn hay bài thơ  nào cũng viết về tình cảm quê hương  đất nước ? Hãy nêu nét riêng của truyện “Làng” so với những tác phẩm ấy. (Ngữ văn 9, tập 1, bài 13, trang 174) 4. Cảm nhận của em về hình  ảnh người lính trong hai bài thơ  : “Đồng chí”   (Chính Hữu), “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” (Phạm Tiến Duật). (Ngữ văn 9, tập 1, bài 15, trang 204) 5. Đọc lại bài “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa  Điềm (Ngữ  văn 9, tập 1, bài 12). Đối chiếu với bài “Con cò” và chỉ  ra cách  vận dụng lời ru ở mỗi bài thơ. (Ngữ văn 9, tập 2, bài 22, trang 48) ĐỀ TÀI 4 RÈN KĨ NĂNG SO SÁNH TRONG CẢM THỤ TÁC PHẨM VĂN HỌC   CHO HỌC SINH LỚP 9
  5. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ­ MÔN NGỮ VĂN 6. Nhận xét về  những điểm chung và nét riêng trong nội dung và cách biểu   hiện tình mẹ  con trong các bài thơ: “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng   mẹ”, “Con cò”, “Mây và sóng”. (Ngữ văn 9, tập 2, bài 25, trang 90) 7. Phân tích nét riêng trong cách biểu hiện cảm xúc và sáng tạo hình ảnh của   các bài thơ : “Con cò”, “Mùa xuân nho nhỏ”, “Nói với con”. (Ngữ văn 9, tập 2, bài 25, trang 97) Như  vậy kĩ năng so sánh trong cảm thụ tác phẩm văn học đóng một vai   trò vô cùng quan trọng. Việc nắm được cách so sánh là một chìa khóa quan   trọng góp phần không nhỏ  cho thành công của việc bước vào khám phá thế  giới phong phú, kì diệu của văn học. Nhưng trên thực tế  cách hiểu biết và  vận dụng kĩ năng so sánh vào cảm thụ văn học cả ở người dạy và người học  chưa thực sự  được chú trọng. Tôi đã tiến hành làm phiếu điều tra về  việc  hiểu biết và vận dụng kĩ năng so sánh trong tác phẩm văn học  ở  học sinh   (khối 8, 9) và giáo viên tổ chuyên môn của đơn vị tôi đang trực tiếp giảng dạy  thì thu nhận được kết quả như sau : Đối với giáo viên: Số giáo viên được hỏi : 6 đồng chí. ­ Hiểu được vai trò của kĩ năng so sánh trong cảm thụ tác phẩm văn học là 6/6   (tỉ lệ 100%). ­ Hướng dẫn học sinh vận dụng kĩ năng so sánh trong cảm thụ tác phẩm văn  học ở mức độ nhiều là 2/6 (tỉ lệ 33.3%), mức độ ít là 4/6 (tỉ lệ 66.7%) ­ Hướng dẫn học sinh vận dụng kĩ năng so sánh trong cảm thụ tác phẩm văn  học có tính bài bản, hệ thống là 0/6 (0%) Đối với học sinh : Số học sinh được hỏi : 89 em. ­ Đã sử dụng kĩ năng so sánh trong cảm thụ tác phẩm văn học là 89/89 (tỉ  lệ  100%). Chưa sử dụng kĩ năng so sánh trong cảm thụ tác phẩm văn học là 0/89   (tỉ lệ  0%). ­ Hiểu được vai trò của kĩ năng so sánh trong cảm thụ  tác phẩm văn học là   20/89 (tỉ lệ 22.5%). Chưa hiểu được vai trò của kĩ năng so sánh trong cảm thụ  tác phẩm văn học là 69/89 (tỉ lệ 77.5%). ­ Kết quả  bài tập về  cảm thụ  văn học có sử  dụng kĩ năng so đạt trên trung   bình là 25/89 (tỉ lệ 28.8%); dưới trung bình là 64/89 (tỉ lệ 71.2%). Qua điều tra và thực tế trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy : Với giáo viên dạy Ngữ văn, rèn kĩ năng so sánh cho học sinh thật sự rất   cần thiết và quan trọng. Tuy nhiên thực tế việc hướng dẫn học sinh kĩ năng   ĐỀ TÀI 5 RÈN KĨ NĂNG SO SÁNH TRONG CẢM THỤ TÁC PHẨM VĂN HỌC   CHO HỌC SINH LỚP 9
  6. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ­ MÔN NGỮ VĂN này còn mang tính chủ  quan tìm kiếm, mày mò từ  kính nghiệm cá nhân nên  một số giáo viên còn e ngại và chưa rèn học sinh vận dụng kĩ năng này nhiều. Về  phía học sinh  ở  bậc trung học cơ  sở  nói chung và học sinh khối 9  nói riêng khả năng cảm thụ tác phẩm bằng kĩ năng so sánh chưa tốt. Phần lớn   các em chỉ  cảm nhận bằng cảm tính vai trò của kĩ năng này và vận dụng nó   còn tùy tiện mà chưa có bài bản, khoa học. Hơn nữa trong xu thế xã hội hiện   nay, việc hứng thú với văn học và tạo nên những sản phẩm cảm thụ văn học  của học sinh có giá trị  thật sự  chưa nhiều ... Vì vậy tôi chọn đề  tài  Rèn kĩ   năng so sánh trong cảm thụ tác phẩm văn học cho học sinh lớp 9 để nghiên  cứu, tìm tòi cách dạy hữu hiệu và có tính khả  thi với mong muốn cải tiến   phương pháp dạy học môn Ngữ  văn theo hướng tích cực, đưa lại hiệu quả  cao trong dạy và học Ngữ văn. Từ đó góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ  trọng tâm mà toàn ngành đã đề  ra trong suốt thời gian qua :   nâng cao chất   lượng giáo dục toàn diện, hướng dẫn học sinh học tập tích cực, … 2.  Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên:         Thực trạng về  vận dụng kĩ năng so sánh trong cảm thụ  tác phẩm văn  học còn tồn tại như  trên đã phần nào hạn chế  khả  năng tiếp thu, cảm nhận  tác phẩm văn học khi các em vận dụng  vào làm bài tập. Bởi vậy, trên thực tế  hàng năm khả  năng lĩnh hội cũng như  kĩ năng làm bài văn  ở  các em đạt kết   quả chưa cao như mong muốn của người dạy. Trong các bài kiểm tra văn về  phần thơ, truyện hay các bài viết nghị  luận về  đoạn thơ, bài thơ  hoặc nghị  luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) trong chương trình Ngữ văn 9, xa  hơn là kì thi vào PTTH chất lượng bài làm chưa cao, nhiều em bài thi môn   Ngữ  văn chỉ  đạt dưới 5. Thậm chí một số  em đi thi học sinh giỏi khi gặp   dạng bài có sự  so sánh giữa các tác phẩm văn học thì luôn lúng túng và gần   như  viết không đạt yêu cầu. Một phần là do các em chưa chịu tích luỹ  kiến  thức giữa các tác phẩm văn học với nhau, chưa có ý thức tự  học, tự  tìm tòi   sáng tạo mà còn mang thói quen ỷ lại, thụ động vào sự  hướng dẫn của thầy   cô, hoặc tài liệu tham khảo. Ngoài ra còn nguyên nhân chính khác là các em   chưa hiểu so sánh giữa các tác phẩm là phải so sánh cái gì, so sánh như  thế  nào?              Khi được phân công giảng dạy môn Ngữ  văn 9 trong năm học 2008 ­  2009, kết quả  bài kiểm tra cảm thụ  về  các tác phẩm văn học của HS lớp 9   chưa được cao. Cụ thể : ĐỀ TÀI 6 RÈN KĨ NĂNG SO SÁNH TRONG CẢM THỤ TÁC PHẨM VĂN HỌC   CHO HỌC SINH LỚP 9
  7. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ­ MÔN NGỮ VĂN Bài kiểm tra viết là tiết 75,76 (Kiểm tra thơ và truyện hiện đại ­ học kỳ  I) với đề bài có một câu yêu cầu sự  cảm thụ  tác phẩm thơ  của học sinh là :  Cảm nhận của em về khổ  cuối bài thơ  “Bài thơ  về  tiểu đội xe không kính”  (Phạm Tiến Duật). Và tiết kiểm tra 134,135 ( Viết bài tập làm văn số  7­ học  kỳ II) với đề bài có một yêu cầu: Cảm nhận của em về hình ảnh người lính  trong hai bài thơ : “Đồng chí” (Chính Hữu) và “Bài thơ về tiểu đội xe không   kính” (Phạm Tiến Duật).   Kết quả trung bình hai bài kiểm tra như sau :  Điểm  Điểm  Điểm  Điểm Điểm dưới  dưới 9  dưới 6  dưới 5  Sĩ   9 ­ 10 3 Lớp đến 6.5 đến 5 đến 3 số Tổng  Tổng Tổng  Tổng  Tổng  % % % % % số số số số số 9A 35 0 0 4 11.4 15 42.9 15 42.9 1 2.8 9B 33 0 0 4 12.1 15 45.5 14 42.4 0 0 Ngoài kết quả chưa cao từ các đề  kiểm tra trên thì khi kiểm tra vở  bài  tập của học sinh, tôi nhận thấy các bài tập trong SGK có vận dụng kĩ năng so   sánh các em đều làm chưa đạt yêu cầu. Bên cạnh kết quả chưa mấy khả quan   trên của học sinh đại trà, thì chất lượng học sinh giỏi cũng đạt chưa cao. Từ  thực trạng trên, để  giúp HS lớp 9 nâng cao hơn nữa khả  năng cảm  thụ các tác phẩm văn học, với mong muốn học sinh lĩnh hội và tiếp thu kiến   thức bài học có chất lượng cao hơn, trong năm học 2009 ­ 2010 và học kì I   năm học 2010 ­ 2011, tôi đã mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp dạy   học qua đề  tài: Rèn kĩ năng so sánh trong cảm thụ tác phẩm văn học cho   học sinh lớp 9. II. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN Kĩ năng so sánh có thể thực hiện trên nhiều cấp độ: nhỏ thì ở cách dùng  từ, hình  ảnh, hình tượng … lớn hơn thì là đề  tài, tác phẩm, tư  tưởng, phong  cách … Thậm chí có thể so sánh giữa các giai đoạn, thời kì, những đặc điểm   của các nền Văn học. Tuy nhiên, căn cứ  vào yêu cầu cảm thụ  văn bản trong  chương trình Sách giáo khoa Ngữ  văn 9, từ  thực tế  giảng dạy chúng tôi chỉ  xin trình bày một số kĩ năng so sánh thông dụng khi cảm thụ văn học như: So   sánh  ở  cấp độ  hình  ảnh, cấp độ  tác phẩm, cấp độ  đề  tài, cấp độ  khuynh  hướng tư tưởng. ĐỀ TÀI 7 RÈN KĨ NĂNG SO SÁNH TRONG CẢM THỤ TÁC PHẨM VĂN HỌC   CHO HỌC SINH LỚP 9
  8. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ­ MÔN NGỮ VĂN 1. So sánh ở cấp độ hình ảnh Trong tác phẩm văn học hình  ảnh văn học là một nhân tố  quan trọng   giúp người đọc (nghe) bước đầu cảm thụ  để  đi sâu vào khám phá chủ  đề  tư  tưởng. Khi phân tích hình ảnh của tác phẩm văn học này ta có thể so sánh với   những hình ảnh khác trên cơ sở tương đồng hoặc tương phản. Mục đích của   việc hướng dẫn học sinh so sánh các hình ảnh văn học là để : ­ Các em tìm thấy sự tương đồng, gặp gỡ trong cảm xúc về thiên nhiên,  đất nước, con người,… của các tác giả. ­ Các em phát hiện ra khả năng sáng tạo vô cùng và kì diệu của các tác   giả  đã tạo nên sự  phong phú hấp dẫn cho thế  giới văn học, đem đến những   cảm nhận vừa lạ vừa quen cho người thưởng thức… Để học sinh đạt được hiệu quả nhờ kĩ năng so sánh khi học và cảm thụ  văn thì trước hết ta cần tạo lập cho các em các bước so sánh hình  ảnh. Cụ  thể: ­ Xác định được hình ảnh chủ đạo trong đoạn trích (hoặc toàn bộ tác phẩm). ­ Hình ảnh  ấy có vai trò biểu đạt nội dung gì trong đoạn trích (hoặc toàn bộ  tác phẩm). ­ Hình  ảnh  ấy khiến ta liên tưởng tới những hình  ảnh nào trong chính tác  phẩm (nếu có),  hoặc hình ảnh trong các tác phẩm văn học khác đã học (hoặc  đọc thêm). ­ Từ sự liên tưởng ấy ta rút ra nhận xét gì trong cách sử dụng hình ảnh của tác  giả trong cùng tác phẩm, giữa các tác phẩm ... Ví dụ: Khi phân tích tín hiệu thu về  trong hai câu thơ  đầu trong bài  “Sang thu” của Hữu Thỉnh :  Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Giúp học sinh cảm nhận được cái hay của hai câu thơ trên giáo viên có  thể lần lượt hướng dẫn học sinh cảm thụ bằng  hệ thống các câu hỏi như: ? Hình ảnh bao trùm trong hai câu thơ là gì ? ? Những hình ảnh ấy được nhà thơ cảm nhận như thế nào ? ? Hãy kể một vài hình ảnh báo hiệu mùa thu trong các tác phẩm văn học khác   mà em được biết ?  ĐỀ TÀI 8 RÈN KĨ NĂNG SO SÁNH TRONG CẢM THỤ TÁC PHẨM VĂN HỌC   CHO HỌC SINH LỚP 9
  9. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ­ MÔN NGỮ VĂN Từ những câu hỏi ở các cấp độ nhận biết, vận dụng, nâng cao sáng tạo  qua kĩ năng so sánh giáo viên từng bước hướng các em cảm thụ  được nội  dung chính của đoạn thơ: Trước hết ta có thể  thấy hình  ảnh bao trùm trong  hai câu thơ là “hương  ổi” và “gió se”. Tất cả mọi câu chữ  đều được tác giả  hướng về  và làm nổi bật “hương  ổi” và “gió se”. Sự  biến đổi của đất trời   sang thu được nhà thơ  bắt đầu từ  hình  ảnh “hương  ổi”. “Hương  ổi” là một  thứ  hương thơm quê mùa dân dã, quen thuộc. Mùi hương  ấy xuất hiện đột   ngột, ngỡ  ngàng trong cảm nhận của nhà thơ  với dáng vẻ  thật gần gũi mà   không kém phần mới mẻ, ấn tượng đem lại cho con người cái cảm giác như  là bất ngờ, như  là sửng sốt, như  là cái duyên để  từ  đây nhà thơ  vừa có thể  quan sát sự  xuất hiện của mùa thu trong đất trời bằng tất cả  các giác quan.   Từ  mùi hương thơm không nồng nàn mà dìu dịu, nhè nhẹ  của  ổi chín, Hữu  Thỉnh còn nhận ra cái không khí trong lành, mát mẻ  của mùa thu nhờ  những  cơn gió se. Gió se (gió heo may) là một ngọn gió heo may rất riêng biệt của   mùa thu, cùng với hương ổi, gió se đã làm nên một không gian mùa thu trở nên  thơm mát, ngọt ngào. Những tín hiệu thu về trong hai câu thơ của Hữu Thỉnh   khiến ta chợt nhớ  tới các hình  ảnh báo hiệu mùa thu trong các tác phẩm văn  học khác. Chẳng hạn như :  Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao (Nguyễn Khuyến) rồi : Ô hay buồn vương cây ngô đồng Vàng rơi, vàng rơi, thu mênh mông. (Bích Khê) hay :  Sáng mát trong như sáng năm xưa Gió thổi mùa thu hương cốm mới (Nguyễn Đình Thi) .v.v. Như vậy, với Hữu Thỉnh, thu đến không phải là bầu trời thu cao xanh,   không phải lá vàng rơi, không phải hương thơm của cốm mới,… mà  mùa thu   bất chợt hiện diện với hương  ổi chín thơm lựng trong gió hanh se. Qua đó ta  không chỉ  nhận ra một hồn thơ  tinh tế  nhạy cảm trước vẻ   đẹp của thiên  nhiên tạo vật mà còn thấy được nét mới, đóng góp của Hữu Thỉnh khi viết về  những hình ảnh của mùa thu.  ĐỀ TÀI 9 RÈN KĨ NĂNG SO SÁNH TRONG CẢM THỤ TÁC PHẨM VĂN HỌC   CHO HỌC SINH LỚP 9
  10. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ­ MÔN NGỮ VĂN Hay khi hướng dẫn trò cảm nhận hình  ảnh cây tre  ở  khổ  cuối bài thơ  “Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương, giáo viên có thể đặt câu hỏi cho  học sinh cảm thụ sâu sắc hơn về tre cũng như tài năng sử dụng hình ảnh của   nhà thơ  Viễn Phương như: Hình  ảnh cây tre trong khổ  cuối mang vẻ đẹp gì  khác so với khổ đầu bài thơ ? Từ  câu hỏi này, giáo viên lần lượt hướng dẫn học sinh cảm thụ bằng   các gợi ý để  hướng dẫn học sinh nhận ra được: Hình  ảnh hàng tre bên lăng   Bác được lặp lại ở khổ cuối bài thơ với một vẻ đẹp bổ sung cho cây tre Việt   Nam: cây tre trung hiếu. Tiếp tục là hình  ảnh  ẩn dụ  đẹp, nếu ở  khổ  1 tre là  biểu tượng cho sức sống bền bỉ, kiên cường của dân tộc dù “Bão táp mưa sa   đứng thẳng hàng”  thì  ở  khổ  cuối cây tre mang vẻ  đẹp của con người Việt  Nam là đức tính trung hiếu. Trung hiếu là “trung với Đảng hiếu với dân” như  lời Người kính yêu đã dạy, là mãi mãi trung thành với lí tưởng, sự  nghiệp   cách mạng mà Bác đã dày công xây dựng. Sự lặp lại hình ảnh thơ này không  chỉ tạo cho bài thơ  có kết cấu đầu cuối tương ứng mà còn gây ấn tượng sâu   sắc làm đậm nét hình  ảnh cây tre, khẳng định thêm vẻ  đẹp của con người,   dân tộc Việt Nam và dòng cảm xúc của nhà thơ được thể hiện trọn vẹn. Điều  đó, khiến hình  ảnh thơ  khép lại bài thơ  nhưng có sức âm vang, lan toả  mãi  trong lòng người đọc về tình cảm thành kính, xúc động dành cho Bác Hồ kính   yêu cũng như nhân dân, đất nước, con người Việt Nam. Như vậy, thao tác so sánh các hình ảnh trong thơ, văn chính là chìa khoá  để các em bước vào tìm hiểu và phát hiện ra những vẻ đẹp phong phú của tác   phẩm, mở  ra những khả  năng khám phá về  thế  giới hình  ảnh kì diệu trong  văn học. 2. So sánh ở cấp độ tác phẩm: Khi hướng dẫn HS cảm thụ  tác phẩm văn học, ngoài việc người GV  hướng dẫn các em cảm thụ văn bản theo đặc thù của từng kiểu văn bản, với   các thể  loại văn học khác nhau. Thì sau bước khám phá đó để  giúp các em  hiểu sâu, nắm kĩ hơn tác phẩm ta có thể hướng dẫn học sinh thao tác so sánh   ở  cấp độ  tác phẩm. Mục đích của việc so sánh giữa tác phẩm này với tác  phẩm kia để phát hiện ra : ­ Những tác phẩm trước nó để thấy sự kế thừa và cách tân. ­ Những tác phẩm sau nó để  thấy đặc điểm của văn học thời đại và sự  phát  triển của văn học nói chung. ­ Những tác phẩm cùng thời để thấy được sự độc đáo. ĐỀ TÀI 10 RÈN KĨ NĂNG SO SÁNH TRONG CẢM THỤ TÁC PHẨM VĂN HỌC   CHO HỌC SINH LỚP 9
  11. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ­ MÔN NGỮ VĂN ­ Những tác phẩm của chính nhà văn để thấy vẻ riêng, nét riêng hoặc một quy   luật chung nào đó. Để làm được điều này, thì giáo viên cũng phải hướng dẫn cho học sinh  cách so sánh : ­ Xác định nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. ­ Vận dụng những kiến thức đã học để phát hiện ra tác phẩm có điểm chung  và riêng gì so với các tác phẩm khác (có thể cùng hoặc khác thời) ­ Từ sự so sánh đó rút ra những nhận xét khái quát, nâng cao. Chẳng hạn, khi hướng dẫn học sinh cảm thụ tác phẩm  “Chuyện người   con gái Nam Xương”  của Nguyễn Dữ. Để  giúp các em cảm nhận được sự  sáng tạo nghệ  thuật của nhà văn trong tác phẩm thì sau khi hướng dẫn học   sinh phân tích xong toàn bộ  văn bản  “Chuyện người con gái Nam Xương”  giáo viên cần tiến hành các bước: ­ Cung cấp truyện cổ tích dân gian “Vợ chàng Trương”. ­ Hướng dẫn các em so sánh với truyện cổ tích dân gian “Vợ chàng Trương”   bằng cách cho các em thảo luận câu hỏi: ? Tìm những sự việc chính trong truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”? ? Tìm những sự việc chính trong truyện“Chuyện người con gái Nam Xương”   của Nguyễn Dữ?  ? So sánh về cách sắp xếp các sự việc giữa hai tác phẩm và rút ra nhận xét? ­ Sau đó GV cho học sinh đối chiếu kết quả: “Vợ chàng Trương” “Chuyện người con gái Nam   Xương” ­ Vũ Nương và Trương Sinh lấy  ­ Trương Sinh xin mẹ “đem trăm lạng  nhau. Vừa cưới vợ xong đã phải đi  vàng” cưới Vũ Nương. Vừa cưới vợ  lính.  xong đã phải đi lính. ­ Vũ Nương  ở  nhà phụng dưỡng  ­ Vũ Nương  ở  nhà phụng dưỡng mẹ  mẹ  già, nuôi con nhỏ. Để  dỗ  con,  già, nuôi con nhỏ.  nàng   thường   chỉ   bóng   mình   trên  tường mà bảo đó là cha nó. ­   Giặc   tan   Trương   Sinh   trở   về,  ­ Giặc tan Trương Sinh trở  về, nghe  nghe lời con nhỏ, nghi oan là vợ  lời   con   nhỏ,   nghi   oan   là   vợ   mình  mình không chung thuỷ. không chung thuỷ.  ­ Vũ Nương bị oan, bèn gieo mình  ­   Vũ   Nương   bị   oan,   bèn   gieo   mình  xuống sông Hoàng Giang tự vẫn.  xuống sông Hoàng Giang tự vẫn.  ĐỀ TÀI 11 RÈN KĨ NĂNG SO SÁNH TRONG CẢM THỤ TÁC PHẨM VĂN HỌC   CHO HỌC SINH LỚP 9
  12. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ­ MÔN NGỮ VĂN ­   Khi   hiểu   ra   nỗi   oan   của   vợ,  ­ Một đêm Trương Sinh cùng con trai  Trương Sinh đã lập đàn giải oan  ngồi bên đèn, đứa con chỉ chiếc bóng  cho nàng ở bến sông ấy. trên tường và nói đó chính là người  hay tới đêm đêm. Lúc đó chàng mới  hiểu ra vợ mình bị oan.  ­   Phan   Lang   tình   cờ   gặp   lại   Vũ  Nương   dưới   thuỷ   cung.   Khi   Phan  Lang trở về trần gian, Vũ Nương gửi  chiếc   hoa   vàng   cùng   lời   nhắn   cho  Trương Sinh.  ­ Trương Sinh lập đàn giải oan trên  bến Hoàng Giang. Vũ Nương trở  về  ngồi trên  chiếc kiệu  hoa  đứng  giữa  dòng, lúc ẩn, lúc hiện. Qua so sánh rút ra kết luận: ­ Truyện cổ  tích chỉ  thiên về  kể  những sự  kiện dẫn đến nỗi oan khuất của   Vũ Nương. ­ Trên cơ  sở  cốt truyện “Vợ  chàng Trương”,  trong “Chuyện người con gái   Nam Xương” tác giả  đã sắp xếp lại một số  tình tiết, thêm bớt hoặc tô đậm  những tình tiết có ý nghĩa, có tính chất quyết định đến quá trình diễn biến của  truyện cho hợp lí, tăng cường tính bi kịch và cũng làm cho câu chuyện trở nên   hấp dẫn và sinh động hơn. So với truyện cổ tích, sự sáng tạo nghệ thuật của   Nguyễn Dữ được thể hiện ở các biểu hiện cụ thể như : +  Ở  phần đầu truyện nhà văn đã thêm chi tiết Trương Sinh “đem trăm lạng  vàng” cưới Vũ Nương về  để  thấy được cuộc hôn nhân trở  nên có tính chất  mua bán.  + Tác giả đã đặt nhân vật vào nhiều hoàn cảnh khác nhau như : trong cuộc  sống vợ chồng bình thường; khi tiễn chồng đi lính; khi xa chồng; khi bị chồng  nghi oan. Trong mỗi cảnh nhà văn đã thêm rất nhiều những tình tiết. + Không dừng lại  ở  tình tiết các sự  việc, Nguyễn Dữ  còn sáng tạo thêm  ở  phần cuối truyện bằng cách thức đưa yếu tố kì ảo đan xen với những yếu tố  thực về địa danh, về thời điểm lịch sử, sự kiện lịch sử … Cách thức này làm  cho thế  giới kì  ảo lung linh, mơ  hồ  trở  nên gần với cuộc đời thực, làm tăng  độ tin cậy, khiến người đọc không cảm thấy ngỡ ngàng. ĐỀ TÀI 12 RÈN KĨ NĂNG SO SÁNH TRONG CẢM THỤ TÁC PHẨM VĂN HỌC   CHO HỌC SINH LỚP 9
  13. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ­ MÔN NGỮ VĂN + Nếu truyện cổ  tích chỉ  thiên về  cốt truyện và những diễn biến hành động  nhân vật thì trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, dưới ngòi bút sáng  tạo nghệ thuật của Nguyễn Dữ, nhân vật có đời sống, có tính cách rõ rệt hơn   nhiều. Chính vì vậy “Chuyện người con gái Nam Xương” trở nên có kịch tính  hơn, gợi cảm hơn… Từ  đó chúng ta nhận thấy rằng cách so sánh giữa tác phẩm với tác   phẩm là một trong số những kĩ năng không thể thiếu được trong cảm thụ tác   phẩm văn học.  3. So sánh ở cấp độ đề tài  Để  sáng tác văn học, người nghệ  sĩ không thể  không lựa chọn đề  tài  sáng tác. Đề tài là “Phạm vi các sự kiện tạo nên cơ sở chất liệu đời sống của   tác phẩm, đồng thời gắn với việc xác lập chủ  đề  của tác phẩm” (theo Lại  Nguyên Ân – “150 Thuật ngữ  văn học”). Bởi vậy khi hướng dẫn học sinh   phân tích văn học, chúng ta cũng cần rèn cho các em cách so sánh ở cấp độ đề  tài tiến hành theo các bước: ­ Xác định đề tài của tác phẩm đang cảm thụ, phân tích. ­ So sánh cách khai thác đề tài trong tác phẩm với các tác phẩm khác (có thể  so sánh đề tài với các tác phẩm của tác giả khác hoặc của chính tác giả)  Cách so sánh này nhằm: ­ Phát hiện sự gặp gỡ về đề tài giữa các tác phẩm. ­ Phát hiện ra cách xử lí đề tài của các tác giả. ­ Sự đóng góp về đề tài từ các tác phẩm đối với nền văn học dân tộc. Thực tế  khi đọc tác phẩm văn học, học sinh dễ  dàng nhận ra giữa các  tác phẩm tuy không cùng tác giả, không được sáng tác cùng thời nhưng giữa  các bậc văn nhân lại có thể có cùng sự gặp gỡ ở sự ngẫu nhiên về đề tài sáng   tác. Song cùng một đề  tài nhưng cách xử  lí để  tài của các tác giả  lại khác  nhau.  Ví dụ cùng viết về đề tài người nông dân trước cách mạng nhưng Ngô  Tất Tố, Nam Cao, Kim Lân, … lại có những khám phá rất khác nhau. Cùng  lấy mùa thu làm cảm hứng nhưng Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tản Đà, Lưu  Trọng Lư, Hữu Thỉnh, … lại có những cảm nhận riêng. Thậm chí ở cùng một   tác giả, mùa thu cũng được phát hiện với bao vẻ đẹp phong phú. Chính vì vậy  khi phân tích tác phẩm văn học để  giúp các em cảm nhận sâu giá trị  nghệ  thuật và có cái nhìn bao quát toàn bộ tác phẩm thì kĩ năng so sánh ở cấp độ đề  tài có vai trò rất đắc dụng. Bởi vì điều quan trọng trong văn học không phải là  đề tài mà là cách xử lí đề tài của tác giả. ĐỀ TÀI 13 RÈN KĨ NĂNG SO SÁNH TRONG CẢM THỤ TÁC PHẨM VĂN HỌC   CHO HỌC SINH LỚP 9
  14. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ­ MÔN NGỮ VĂN Ví dụ như khi hướng dẫn học sinh khai thác bài thơ  “Con cò” của nhà  thơ Chế Lan Viên, giáo viên giúp học sinh phát hiện cách khai thác đề tài thơ  của nhà thơ qua cách so sánh: ? Đề tài của bài thơ“Con cò” là  gì? ? Đối chiếu với bài “Con cò” với bài “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng   mẹ”  của   Nguyễn   Khoa   Điềm   và   bài  “Ngồi   buồn   nhớ   mẹ   ta   xưa”  của  Nguyễn Duy từ đó chỉ ra cách vận dụng lời ru và thể hiện tình mẹ ở mỗi bài  thơ ?   Cuối cùng giáo viên giúp học sinh chốt được: “Con cò” là một bài thơ  hay của Chế  Lan Viên ngợi ca tình mẹ  và ý nghĩa của lời ru đối với cuộc  sống của con người được vận dụng từ  lời ru. Hình tượng bao trùm toàn bài  thơ là hình tượng con cò được khai thác từ ca dao truyền thống. Trong ca dao,   hình  ảnh cò xuất hiện rất phổ  biến và được dùng với nhiều ý nghĩa  ẩn dụ:  Cò tượng trưng cho người nông dân, người phụ nữ trong cuộc sống còn nhiều  vất vả, cực nhọc nhưng giàu đức tính tốt đẹp và niềm vui cuộc sống. Trong   bài “Con cò”, cái hay của Chế Lan Viên là nhà thơ chỉ khai thác và xây dựng ý  nghĩa biểu tượng của hình tượng con cò ở nội dung biểu trưng cho tấm lòng  người mẹ và những lời hát ru. Bắt đầu là khi con còn nằm nôi cò đến với con   từ  những câu hát ru ầu ơ. Rồi theo năm tháng con lớn khôn, cánh cò từ  trong   lời ru đã đi vào tiềm thức tuổi thơ, trở nên gần gũi thân thiết và sẽ  theo cùng  con người đến suốt cuộc đời. Cò ấy là mẹ, là biểu tượng về lòng mẹ, về sự  dìu dắt, nâng đỡ dịu dàng và bền bỉ của người mẹ. Tình mẹ và lời ru với hình  ảnh con cò đã quyện chặt lấy tâm hồn con, nâng đỡ, chở che và đem đến bao   điều kì diệu. Xuyên suốt cả  bài thơ, hình tượng cò với ý nghĩa biểu tượng   cho lòng mẹ và lời ru thật tha thiết và xúc động lòng người.  Cùng viết về tình mẹ và ý nghĩa của lời ru, trong  “Ngồi buồn nhớ mẹ   ta xưa” Nguyễn Duy lại khẳng định: Cái cò … sung chát đào chua… câu ca mẹ hát gió  đưa về trời ta đi trọn kiếp con người   cũng không đi hết mấy lời mẹ ru.   Với nhà thơ  xứ Thanh này từ  niềm hoài niệm, tưởng nhớ  về cuộc đời  vất vả lam lũ của người mẹ yêu dấu, con đã nhận ra tình mẹ qua lời ru và cả  ý nghĩa của những lời hát ru. ĐỀ TÀI 14 RÈN KĨ NĂNG SO SÁNH TRONG CẢM THỤ TÁC PHẨM VĂN HỌC   CHO HỌC SINH LỚP 9
  15. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ­ MÔN NGỮ VĂN Hay cũng vận dụng từ  lời ru để  thể  hiện tình mẹ, trong  “Khúc hát ru   những em bé lớn trên lưng mẹ” Nguyễn Khoa Điềm lại vừa trò chuyện với  đối tượng (những em bé dân tộc Tà­ôi trên lưng mẹ) với giọng điệu gần như  lời ru “Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi/Em ngủ cho ngoa đừng rời lưng mẹ”   lại có những lời ru trực tiếp từ người mẹ “Ngủ ngoan a­kay ơi, ngủ ngoan a­ kay hỡi”. So sánh với những cách diễn tả  trên, ta sẽ  thấy được nét mới mẻ  và   độc đáo trong cách nói của Chế  Lan Viên. Vốn là người có nhiều sáng tạo  trong nghệ thuật xây dựng hình ảnh thơ, nên hình ảnh thơ của ông rất phong   phú đa dạng, kết hợp giữa thực và ảo, thường được sáng tạo bằng sức mạnh   của liên tưởng, tượng tượng, nhiều bất ngờ  kì thú. Bài thơ   “Con cò” đã thể  hiện khá rõ một số nét phong cách nghệ thuật của Chế Lan Viên: phong cách  suy tưởng, triết lí, đậm chất trí tuệ và tính hiện đại. Chính từ  cách so sánh đề  tài giữa các tác phẩm như  thế  này, ta không  chỉ  giúp các em nhận ra cách khai thác đề  tài của tác giả  mà còn phát hiện  được tài năng của các thi nhân, văn nhân qua cách xử lí đề tài. 4. So sánh ở cấp độ khuynh hướng tư tưởng Văn học Việt Nam là sản phẩm tinh thần quí báu của dân tộc, phản ánh  tâm hồn và tính cách Việt Nam với những nét bền vững đã thành truyền thống   và có sự  vận động trong trường kì lịch sử. Bởi vậy khi hướng dẫn học sinh   cảm thụ  các tác phẩm văn học, người dạy cần hướng dẫn các em nhận ra  những nội dung chủ  đạo của văn học Việt Nam như: tinh thần yêu nước, ý   thức cộng đồng; tinh thần nhân đạo; sức sống bền bỉ  và tinh thần lạc quan.   Vậy làm thế nào để học sinh nhận ra và hiểu sâu, nắm vững được những nội   dung chủ  đạo này của văn học nước nhà thì rất cần thao tác đối chiếu, so  sánh, tổng hợp giữa các tác phẩm văn học. Để làm được tốt thao tác này thì ta  cần tiến hành các bước: ­ Phát hiện những nội dung tư tưởng có trong từng tác phẩm. ­ So sánh giữa các tác phẩm để  tìm ra những điểm giống và khác nhau khi  biểu hiện nội dung tư tưởng đó.  ­ Quy chiếu, tổng quát lại thành những nét nổi bật của văn học nước nhà. Chẳng hạn, khi hướng dẫn học sinh học tiết 167, 168, 169: Tổng kết   Văn học, ở mục III: Mấy nét đặc sắc nổi bật của văn học Việt Nam (bài 34,   trang 191, Ngữ văn 9, tập 2) thì giáo viên cần phải chỉ rõ cho học sinh nhận ra  ĐỀ TÀI 15 RÈN KĨ NĂNG SO SÁNH TRONG CẢM THỤ TÁC PHẨM VĂN HỌC   CHO HỌC SINH LỚP 9
  16. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ­ MÔN NGỮ VĂN những biểu hiện của tinh thần yêu nước, tinh thần nhân đạo qua các tác phẩm   văn học.  Ở nội dung tinh thần yêu nước, giáo viên hướng dẫn học sinh qua các   câu hỏi:  ? Chỉ ra những biểu hiện của tinh thần yêu nước qua các tác phẩm “Đồng  chí” ­ Chính Hữu, “Đoàn thuyền đánh cá” ­ Huy Cận, “Bài thơ về tiểu đội xe   không kính” ­ Phạm Tiến Duật ? ? Từ đó so sánh và rút ra nhận xét về cách thể hiện nội dung yêu nước trong   các tác phẩm văn học ? ­ Học sinh cần xác định được: Tác phẩm Biểu hiện của tinh thần yêu nước ­ Tinh thần yêu nước là sự  thể  hiện thành công về  vẻ  đẹp của anh bộ  đội Cụ  Hồ  thời kháng Pháp. Đó là vẻ  đẹp của tình đồng chí của những người lính dựa trên cơ  “Đồng chí” sở cùng chung cảnh ngộ và lí tưởng chiến đấu được thể  hiện thật tự  nhiên, bình dị  mà sâu sắc trong mọi hoàn  cảnh, nó góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh và vẻ  đẹp tinh thần của người lính cách mạng. ­ Tinh thần yêu nước là sự phát hiện ra vẻ đẹp của thiên  “Đoàn thuyền   nhiên   vùng   biển,   sự   hài   hoà   giữa   thiên   nhiên   và   con  đánh cá” người lao động, bộc lộ  niềm vui, niềm tự  hào của nhà  thơ trước đất nước và cuộc sống. ­ Tinh thần yêu nước là sự  thể  hiện thành công về  vẻ  “Bài thơ về   đẹp của anh bộ  đội Cụ  Hồ  thời chống Mĩ  ở  hình  ảnh  tiểu đội xe   những người lính lái xe  ở  Trường Sơn, với tư  thế  hiên  không kính” ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn  nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam. Từ  cách đối chiếu so sánh tư  tưởng yêu nước trong các tác phẩm văn   học giáo viên vừa giúp học sinh nhận ra khả năng cảm nhận đời sống và tài  năng văn học của mỗi tác giả. Đồng thời các em khái quát được cái chung từ  những tác phẩm có cùng biểu hiện tư  tưởng  ấy là: Tinh thần yêu nước và ý   thức cộng đồng là nét đẹp truyền thống sâu sắc và bền vững của dân tộc Việt   Nam. Truyền thống tinh thần  ấy được kết tinh và phát huy rực rỡ  trong văn  học ở những thời kì đất nước phải chống giặc ngoại xâm hay đấu tranh giành   lại độc lập dân tộc. Trong nền văn học dân tộc, tinh thần yêu nước và ý thức   ĐỀ TÀI 16 RÈN KĨ NĂNG SO SÁNH TRONG CẢM THỤ TÁC PHẨM VĂN HỌC   CHO HỌC SINH LỚP 9
  17. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ­ MÔN NGỮ VĂN dân tộc lại sôi nổi, mạnh mẽ, thiết tha hơn bao giờ hết trong văn học của hai  thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Không chỉ vậy tinh thần ấy còn  được   thể   hiện   trong   những   rung   động   và   niềm   yêu   mến,   tự   hào   về   quê  hương, thiên nhiên đất nước hoặc mĩ lệ hùng vĩ, hoặc giản dị gần gũi… Với cách nhìn và thể  hiện con người thiên về  cái tốt đẹp, trong sáng,  cao thượng các tác phẩm văn học là một bài ca ca ngợi chủ  nghĩa anh hùng,  vẻ  đẹp tâm hồn, tư  tưởng và những phẩm chất cao cả  của con người Việt   Nam.    Như  vậy, để  học sinh hiểu và nắm rõ được tư  tưởng yêu nước trong   các tác phẩm văn học, đồng thời lại thấy được cũng tư  tưởng  ấy lại được  biểu hiện  ở  nhiều khía cạnh khác nhau thì người dạy phải hướng dẫn học   sinh đối sánh tư tưởng này trong các tác phẩm văn học. Giúp học sinh xác định tinh thần nhân đạo trong các tác phẩm văn học  Việt Nam ta có thể  minh chứng điều này qua văn bản  “Tức nước vỡ  bờ”  (trích “Tắt đèn”) của tác giả Ngô Tất Tố và “Lão Hạc” của nhà văn Nam Cao. với các câu hỏi giúp học sinh phát hiện và củng cố : ? Chỉ  ra những biểu hiện của tinh thần nhân đạo qua các đoạn trích   “Tức   nước vỡ bờ” (trích “Tắt đèn”) ­ Ngô Tất Tố, “Lão Hạc” ­ Nam Cao ? ? Từ đó so sánh và rút ra nhận xét về cách thể hiện nội dung nhân đạo trong  các tác phẩm văn học ? ­ Qua hoạt động học tập học sinh cần chỉ ra : Văn bản Biểu hiện của tinh thần nhân đạo “Tức nước ­ Qua đoạn trích Ngô Tất Tố  cho thấy bộ  mặt tàn ác,   vỡ bờ” bất   nhân   của   xã   hội   thực   dân   nửa   phong   kiến   trước   Cách mạng tháng Tám  ở  Việt Nam với sưu cao thuế  nặng   khiến   người   dân   lâm   vào   tình   cảnh   khốn   đốn,  cùng cực. Bên cạnh đó là sự  ca ngợi những giá trị  và   phẩm chất của con người. Cùng với sự  thông cảm và  trân trọng của tác giả  về  người nông dân trong xã hội  cũ, ông còn cho thấy cả sự tất yếu của quy luật xã hội:   có áp bức thì có đấu tranh như là quy luật của tự nhiên:  tức nước vỡ bờ. Vì thế  “Tức nước vỡ bờ” (“Tắt đèn”)   được coi là bản án đanh thép về chính sách thuế má bất   công, vô lí đương thời. Qua đoạn trích này dường như  nhà văn đã lờ mờ nhận ra con đường để giải phóng giai   ĐỀ TÀI 17 RÈN KĨ NĂNG SO SÁNH TRONG CẢM THỤ TÁC PHẨM VĂN HỌC   CHO HỌC SINH LỚP 9
  18. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ­ MÔN NGỮ VĂN cấp, giải phóng dân tộc chỉ  có thể  là bằng đấu tranh  bằng bạo lực cách mạng. ­ Với của nhà văn Nam Cao, ông lại đặc biệt quan tâm  tới nhân tính, nhân phẩm của con người. Chính vì vậy  ông đi sâu vào phân tích những bi kịch tinh thần của con  người trong sự lựa chọn giữa sự sống ­ cái chết và nhân  cách   con   người.Lão   Hạc   rơi   vào   hàng   loạt   những   bi   kịch. Vợ mất, con cũng phẫn chí bỏ  làng, bỏ mình đi vì   cái nghèo khiến nó không có tiền cưới được vợ. Mọi  tình cảm dành cho con ông gửi cả vào kỉ vật nó để lại là  con chó, nhưng lại một lần nữa cái đói nghèo lại cướp   con chó ra khỏi lão khiến lão thêm một lần đau đớn, dằn  vặt… Bán chó có tiền rồi nhưng lão lại phân vân, xót xa  “Lão Hạc” khi nghĩ đến ăn vào số tiền đó và cả những tiền khác lão   dành dụm lâu nay cho con. Lão quyết tâm không phiền  luỵ  đến hàng xóm. Lão cũng không thể  theo gót Binh   Tư, bán rẻ lương tâm để kiếm ăn qua ngày. Lão đã lặng  lẽ chọn cho mình một con đường để bảo toàn nhân cách   của mình thật khiến ta xót xa, đau đớn mà vô cùng cảm   động: ăn bả chó tự  tử!  Cái chết của lão đã khẳng định   cái đẹp của tâm hồn con người vẫn toả  sáng trong xã   hội đầy rẫy tối tăm, cạm bẫy. Nhân tính người dẫu rơi   vào tận cùng của éo le, cùng quẫn vẫn không thể mất đi   mà càng được khẳng định, tỏa sáng. Qua sự so sánh trên, học sinh sẽ nhận ra được sự  gặp gỡ nhau về tấm   lòng nhân đạo của Ngô Tất Tố  và Nam Cao dành cho người nông dân trước  Cách mạng. Điều đó được thể hiện ở sự cảm thông trước số phận khốn khổ,   bất hạnh của người nông dân và sự trân trọng những vẻ đẹp ở họ. Đồng thời   cũng giúp các em nhận ra được tư  tưởng nhân đạo  ấy lại không phải được   các nhà văn thể hiện một cách rập khuôn, sáo mòn mà là cách thể  hiện riêng   biệt, sáng tạo mang đậm cách nhìn riêng của mỗi tác giả về con người, cuộc  đời. Qua mỗi trang viết nhà văn muốn gửi tới độc giả  những suy nghĩ, tư  tưởng của mình về hiện thực cuộc sống với những mơ  ước, khát vọng nhằm  hướng  tới sự đồng điệu tâm hồn ở người đọc. Cùng khuynh hướng tư tưởng   nhân đạo song giữa các tác giả  lại có những biểu hiện khác nhau. Tư  tưởng  ĐỀ TÀI 18 RÈN KĨ NĂNG SO SÁNH TRONG CẢM THỤ TÁC PHẨM VĂN HỌC   CHO HỌC SINH LỚP 9
  19. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ­ MÔN NGỮ VĂN nhân đạo tuy là cái nền của mỗi tác phẩm, là chân giá trị, là mẫu số chung của  mọi tác phẩm, là điểm gặp gỡ giữa những nhà văn chân chính nhưng với mỗi  tác giả  cụ  thể  ta có thể  thấy có những nét đặc sắc riêng. Chính vì mục đích   sáng tác là vì con người và phục vụ con người nên các tác phẩm văn học dẫu  ra đời không cùng thời đại hay thời gian cách xa nhau cả hàng mấy trăm năm,  thậm chí hàng ngàn năm… song  ở  họ  đều có mối liên hệ  gần gũi, tương  đồng. Mối gắn kết kì diệu đó chính là sự  gặp gỡ  nhau  ở  cảm xúc,  ở  các  khuynh hướng tư tưởng. Chính vì vậy, khi hướng dẫn học sinh khai thác một  tác phẩm văn học, người dạy cần hướng dẫn học sinh mở rộng ra ngoài tác   phẩm bằng cách liên hệ  so sánh khuynh hướng tư  tưởng giữa các tác phẩm  với nhau. Từ cách so sánh các khuynh hướng tư tưởng giữa các tác phẩm, không  chỉ  giúp học sinh củng cố  sâu hơn tư  tưởng của tác phẩm đang cảm thụ  mà  còn giúp các em mở  rộng khả  năng cảm thụ, có cái nhìn đa dạng phong phú  hơn về  phạm vi kiến thức từ  một tác phẩm. Làm được điều này, chính là  người giáo viên đang giúp các em phát huy trí tưởng tượng và sáng tạo tư duy  trong học tập. C. PHẦN KẾT LUẬN 1. Kết quả nghiên cứu, bài học kinh nghiệm: Trong quá trình thực hiện chúng tôi nhận thấy học sinh hứng thú hơn  với bộ môn Ngữ văn, đặc biệt là phần cảm thụ văn bản. Hướng dẫn cho học   sinh thực hiện được các bước của kĩ năng so sánh trong cảm thụ  tác phẩm   văn học qua thực hành các bài tập thì năng lực làm bài của học sinh cũng có  những tiến bộ rõ rệt. Sau đó tôi tiếp tục tiến hành điều tra việc hiểu biết và  vận dụng kĩ năng so sánh trong tác phẩm văn học ở học sinh thì đã có kết quả  khả quan như sau: Số học sinh được hỏi : 89 em. ­ Hiểu được vai trò của kĩ năng so sánh trong cảm thụ  tác phẩm văn học là   89/89 (tỉ lệ 100 %). Chưa hiểu được vai trò của kĩ năng so sánh trong cảm thụ  tác phẩm văn học là 0/89 (tỉ lệ 0 %). ­ Đã sử dụng kĩ năng so sánh trong cảm thụ tác phẩm văn học là 89/89 (tỉ  lệ  100%). Chưa sử dụng kĩ năng so sánh trong cảm thụ tác phẩm văn học là 0/89   (tỉ lệ 0%). ­ Kết quả  bài tập về  cảm thụ  văn học có sử  dụng kĩ năng so đạt trên trung   bình là 58/89 (tỉ lệ 65.2%); dưới trung bình là 31/89 (tỉ lệ 34.8%). ĐỀ TÀI 19 RÈN KĨ NĂNG SO SÁNH TRONG CẢM THỤ TÁC PHẨM VĂN HỌC   CHO HỌC SINH LỚP 9
  20. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ­ MÔN NGỮ VĂN Đồng thời, trong năm học 2009 ­ 2010 và học kỳ I năm học 2010 ­ 2011,  tôi vẫn tiếp tục vận dụng đề kiểm tra tiết 75,76 (Kiểm tra thơ và truyện hiện   đại ­ học kỳ I) và tiết kiểm tra 134,135 ( Viết bài tập làm văn số 7­ học kỳ II)  như  năm học 2008 ­ 2009 nhưng kết quả kiểm tra về cảm thụ tác phẩm văn  học của các em đã có sự chuyển biến rõ rệt. Cụ thể: Kết quả năm học 2009 ­ 2010: Điểm  Điểm  Điểm  Điểm 9 ­  Điểm  dưới 9  dưới 7  dưới 5  10 dưới 3 Lớ Sĩ  đến 6.5 ­  đến 5  đến 3   p số Tổn Tổn Tổn Tổn Tổn % g % g số % g số % g số % g số số 9A 30 2 6.7 7 23.3 10 33.3 11 36.7 0 0.0 9B 33 1 3.0 8 24.3 11 33.3 12 36.4 1 3.0 Kết quả học kỳ I năm 2010 – 2011: Điểm  Điểm  Điểm  Điểm 9 ­  Điểm  dưới 9  dưới 7  dưới 5  10 dưới 3 Lớ Sĩ  đến 6.5 ­  đến 5  đến 3   p số Tổn Tổn Tổn Tổn Tổn % g % g số % g số % g số % g số số 9A 20 0 0.0 6 30.0 11 55 3.0 15.0 0 0.0 9B 21 3 14.3 5 23.8 13 61.9 0.0 0.0 0 0.0 Bên cạnh đó kết quả thi học sinh giỏi của học sinh đã đạt thành tích cao  hơn. Năm học 2009 ­ 2010, có 2 học sinh đạt giải ba, 2 học sinh đạt giải  khuyến khích cấp huyện. Năm học  2010 ­ 2011, có 3 học sinh đạt giải ba, 1   học sinh đạt giải khuyến khích cấp huyện, 1 học sinh đạt giải cấp tỉnh. Từ thực tế giảng dạy, chúng tôi nhận thấy: ­ Kĩ năng so sánh có một tầm quan trọng đặc biệt trong việc nhận thức, rút ra   những kết luận, những đánh giá về các hiện tượng văn học. ­ Kĩ năng so sánh còn mài sắc năng lực tư  duy và năng lực cảm thụ, hướng   đến việc phát hiện những vẻ đẹp độc đáo không lặp lại của văn học. ĐỀ TÀI 20 RÈN KĨ NĂNG SO SÁNH TRONG CẢM THỤ TÁC PHẨM VĂN HỌC   CHO HỌC SINH LỚP 9
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2