Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong môn lịch sử Trung học cơ sở
lượt xem 2
download
Sáng kiến "Một số phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong môn lịch sử Trung học cơ sở" được hoàn thành với mục tiêu nhằm đưa ra một số phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THCS. Những phương pháp mà tác giả đưa ra đều dựa trên cơ sở lí luận về phương pháp dạy học Lịch sử và hệ thống phương pháp dạy học ở trường THCS.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong môn lịch sử Trung học cơ sở
- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG MÔN LỊCH SỬ TRUNG HỌC CƠ SỞ” I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do khách quan: 1.1. Vấn đề phát huy tính tích cực học tập của học sinh đã được đặt ra trong ngành giáo dục nước ta từ năm 1960. Cũng trong thời gian đó, trong các trường sư phạm có khẩu hiệu “Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”. Trong cuộc cải cách giáo dục lần thứ II năm 1980, phát huy tính tích cực đã là một trong các phương hướng cải cách, nhằm đào tạo những người lao động sáng tạo, làm chủ đất nước. Công cuộc cải cách giáo dục lần III từ năm 1981 đến nay, đồng thời chú trọng cả ba mặt: Cải cách hệ thống giáo dục; cải cách nội dung và phương pháp dạy học. 1.2. Hiện nay, phương pháp dạy học Lịch sử đã được chú trọng đổi mới, cải tiến nhiều góp phần vào nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Tuy nhiên, nhìn chung phương pháp dạy học Lịch sử vẫn chưa theo kịp các cải tiến về nội dung, chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo. Có thể nói, phương pháp dạy học Lịch sử còn có phần bảo thủ, thực dụng. Sự lạc hậu về phương pháp dạy học là một trong những trở ngại của việc nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là do giáo viên chưa nhận thức đúng đắn, sâu sắc về vai trò, vị trí của phương pháp dạy học, chưa tiếp cận được những cơ sở khoa học, lí luận về phương pháp dạy học và chú trọng phát huy tính tích cực của học sinh. Vì vậy, cho đến nay sự chuyển biến về phương pháp dạy học ở trường THCS chưa được là bao; phổ biến vẫn là cách dạy thông báo kiến thức định sẵn, cách học thụ động, sách vở. Tuy rằng trong nhà trường đã xuất hiện ngày càng nhiều tiết học tốt của các giáo viên dạy giỏi, theo hướng tổ chức cho học sinh hoạt động, tự chiếm lĩnh tri thức mới. Nhưng tình trạng chung hàng ngày vẫn là “Thầy đọc, trò chép” hoặc giảng giải xen kẽ vấn đáp, tái hiện, giải thích, minh họa bằng tranh ảnh. 1.3. Hơn nữa, trong việc dạy học, giữa Mục tiêu – Nội dung – Phương pháp – Kiểm tra, đánh giá có mối quan hệ trực tiếp hữu cơ với nhau. Không thể điều chỉnh mục tiêu đào tạo, cải tiến chương trình, nội dung sách giáo khoa mà không đổi mới phương pháp dạy học và phương thức kiểm tra đánh giá trong dạy học. Công việc này đòi hỏi sự nỗ lực của mỗi giáo viên, có thể nói là phải tiến hành một cuộc Cách mạng trong đổi mới phương pháp dạy học. 2. Lý do chủ quan: 2.1. Thực tế hiện nay trong quá trình dạy học môn Lịch sử ở trường THCS đã có không ít giáo viên có tâm huyết với bộ môn, dạy học bằng cả tấm lòng yêu nghề, mang lại hiệu quả thiết thực cho nền giáo dục. 2.2. Tuy nhiên, trong tư tưởng của nhiều người chỉ coi môn Lịch sử trong trường THCS là môn phụ không quan trọng như môn Toán, Văn, Ngoại ngữ… Môn Lịch sử chỉ cần học thuộc lòng là đủ, không cần phải sử dụng tư duy lôgíc. Mặt khác nhiều học sinh ngại học môn Lịch sử bởi nó dài và nhiều sự kiện khó
- 2----------------------------------------------------------------------------------------------- - nhớ, học rồi lại quên ngay. Chính vì vậy mà các em không thích học môn Lịch sử. Thực tế cho thấy, trong mấy năm trở lại đây, chất lượng môn Lịch sử trong các kì thi lớn như Đại học, Cao đẳng là rất đáng lo ngại. Hằng ngày, các phương tiện truyền thông không ngừng lên tiếng về thực trạng dạy và học môn Lịch sử ở trường phổ thông như một “Vấn nạn” của xã hội. 2.3. Trước thực trạng đó, đòi hỏi người giáo viên dạy môn Lịch sử cần phải nhận thức sâu sắc hơn tầm quan trọng của bộ môn mình phụ trách, phải phát huy được tính tích cực của học sinh, tránh lối học thụ động “Thầy đọc – Trò chép”. Giáo viên cũng nên tránh tình trạng chỉ truyền đạt nguyên si kiến thức trong sách giáo khoa, như thế sẽ tạo cảm giác nhàm chán cho học sinh. Tuy nhiên, giáo viên cũng không nên xa rời nội dung sách giáo khoa, quá mở rộng kiến thức bên ngoài sẽ làm cho bài giảng bị loãng, học sinh khó tiếp thu, như vậy sẽ không mang lại hiệu quả cho giờ học. Với lí do nêu trên, cho thấy sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học theo lối tích cực hóa ở trường THCS nhằm nâng cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập, tôi mạnh dạn đề xuất kinh nghiệm: “Một số phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong môn lịch sử Trung học cơ sở”. 3. Thời gian, đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ bài viết này tôi xin được đề cập đến một số phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Lịch sử ở trường THCS Phạm vi thời gian được thực hiện trong học kỳ I của năm học 2022 – 2023 với đối tượng là học sinh các lớp 6,7,8,9 của trường THCS Tiên Phong. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Thực trạng của vấn đề: Trường THCS Tiên Phong là một trong những trường ở địa bàn xã còn gặp nhiều khó khăn. Tuy trường được thành lập lâu xong cơ sở vật chất còn thiếu, nhưng so với nhiều trường trong khu vực có thể nói trường vẫn hơn hẳn về cơ sở vật chất và điều kiện học tập của học sinh. Hàng năm nhà trường đều có học sinh giỏi và giáo viên giỏi cấp huyện, Chi bộ nhà trường nhiều năm đạt danh hiệu: “Chi bộ trong sạch vững mạnh”. Đối với bộ môn Lịch sử mặc dù với chương trình mới được gọi là Lịch sử - Địa lý song vẫn có hai phân môn riêng, tâm lí e ngại bộ môn Lịch sử của các em học sinh còn nhiều, do khối lượng kiến thức còn lớn, nhiều sự kiện… Ngoài ra, tâm lí chưa thực sự coi trong môn Lịch sử của bộ phận cha mẹ học sinh, cho rằng đây chỉ là môn phụ gây ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả học tập và chất lượng bộ môn. Lịch sử là hiện thực quá khứ đã diễn ra một cách khách quan, hợp quy luật, không lệ thuộc vào sự hiểu biết, ý thức mong muốn của cá nhân. Do những đặc điểm hiện thực Lịch sử (diễn ra theo trình tự thời gian và không lặp lại nguyên si như cũ), và cả nhận thức Lịch sử (không trực tiếp quan sát, không diễn ra trong phòng thí nghiệm) nên giáo viên cần biết hướng cho học sinh ------------------------------------------------------------------------------------------------
- 3----------------------------------------------------------------------------------------------- - những khả năng khôi phục hình ảnh quá khứ đúng như nó tồn tại khách quan và trên cơ sở ấy hiểu Lịch sử. Đúng như lời chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở đầu quyển “Lịch sử nước ta” năm 1941 bằng hai câu thơ sau: “ Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” Học tập Lịch sử đâu chỉ có biết nhiều sự kiện, chỉ ghi nhớ, học thuộc lòng mà không phải hiểu, không đòi hỏi sự thông minh, sáng tạo. Nhận thức đúng chức năng, nhiệm vụ bộ môn Lịch sử mới thấy rõ sự cần thiết phải phát huy tính tích cực trong học tập, đổi mới, cải tiến phương pháp dạy học Lịch sử. Vì vậy, người giáo viên phải có tâm huyết với nghề, có năng lực sáng tạo, có chuyên môn vững vàng. Thực tế giáo viên đang giảng dạy bộ môn Lịch sử ở các trường THCS đều có trình độ chuẩn và trên chuẩn. Trong quá trình giảng dạy nhiếu giáo viên đã triệt để sử dụng các thiết bị và đồ dùng dạy học như: Tranh ảnh, sơ đồ, lược đồ, phim, video ... vào bài giảng giúp học sinh khắc sâu được kiến thức tạo hứng thú cho học sinh khi học Lịch sử, nâng cao chất lượng mỗi giờ dạy. Bên cạnh đó, vẫn còn có giáo viên (đặc biệt là giáo viên đang công tác tại vùng khó khăn) vẫn chưa áp dụng phương pháp dạy học tích cực mà vẫn sử dụng các phương pháp dạy học truyền thống hoặc các thiết bị, phương tiện dạy học quá cũ kĩ do thời gian sử dụng dài mà chưa có thiết bị, phương tiện thay thế. Vì vậy khiến một số thầy cô ngại tìm kiếm tự tạo thiết bị, phương tiện cho giảng dạy nên thực hiện “dạy chay” làm cho giờ học Lịch sử trở nên nhàm chán, không có khả năng phát triển tư duy cho học sinh ... tiết học trở nên khô khan và các em sẽ xem nhẹ tầm quan trọng của bộ môn Lịch sử. Qua 18 năm giảng dạy Lịch sử ở trường THCS Tiên Phong tôi nhận thấy với mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học đang được tiến hành đồng bộ đã làm thay đổi cách dạy của giáo viên, cách học của học sinh. Bản thân tôi không ngừng tìm tòi, sáng tạo cách dạy, cách truyền đạt mới với phương châm lấy học sinh làm trung tâm và giáo viên là người hướng dẫn cho học sinh giải quyết vấn đề. Từ những thực trạng trên, nhằm tạo niềm say mê, hứng thú học tập, đặc biệt là phát huy tính tích cực chủ động và sáng tạo của học sinh trong việc học tập Lịch sử, tôi đã rút ra và áp dụng: “Một số phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong môn lịch sử Trung học cơ sở”. - Số liệu khảo sát trước khi thực hiện áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Khối Sĩ số Kết quả lớp Giỏi Khá Trung Yếu bình SL % SL % SL % SL % 9A 45 7 15,6 13 28,9 22 48,8 3 6,7 8B 39 6 15,4 10 25,6 21 53,8 2 5,2 ------------------------------------------------------------------------------------------------
- 4----------------------------------------------------------------------------------------------- - 7A 35 5 14,3 10 28,6 18 51,4 2 5,7 6C 38 6 15,8 11 28,9 19 50,0 2 5,3 2. Các bước tiến hành: 2.1. Xây dựng mục tiêu bài học: Mục tiêu của bài học là cái đích đặt ra cho học sinh cần đạt được sau khi học bài đó. Mục tiêu chỉ đạo toàn bộ nội dung, phương pháp dạy học, hình thức đánh giá của bài đó. Mục tiêu của mỗi bài gồm ba thành tố: Kiến thức, năng lực, phẩm chất. Xây dựng được mục tiêu, người giáo viên mới xác định được những nội dung chính của bài học, từ đó chọn lựa phương pháp phù hợp cho từng mục của bài. Giúp bài giảng đạt hiệu quả và tăng hứng thú học tập cho học sinh. 2.2. Sử dụng các phương tiện dạy học theo hướng phát huy tính tích cực hóa hoạt động của học sinh. 2.2.1. Sử dụng kênh hình trong dạy học: Trong môn Lịch sử kênh hình không chỉ mang ý nghĩa minh hoạ mà còn góp phần thể hiện nội dung.Việc sử dụng kênh hình giúp giáo viên dễ áp dụng các phương pháp tổ chức, học sinh hào hứng học tập .Qua hình vẽ giáo viên khai thác nội dung bằng các câu hỏi, học sinh làm việc nhiều hơn, tư duy cao và phát huy được tính tích cực trong học tập. Để phát huy hết hiệu quả khi sử dụng hệ thống kênh hình, điều quan trọng là giáo viên phải xác định cho mình nên sử dụng, khai thác thế nào. Theo tôi, khi sử dụng hệ thống kênh hình, giáo viên cần chú ý những điểm sau: - Cần phải căn cứ vào nội dung, yêu cầu giáo dưỡng, giáo dục của bài học để lựa chọn phương pháp sử dụng thích hợp, đảm bảo phát huy được sự chú ý và tính tích cực của học sinh vào khai thác kênh hình. - Khi soạn giáo án, giáo viên phải xác định được thời điểm, thời gian hợp lí để sử dụng kênh hình vào bài dạy, và phải xây dựng được hệ thống câu hỏi khai thác một cách hợp lí và hệ thống câu hỏi này phải có tác dụng phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập. - Trước khi hướng dẫn học sinh sử dụng, khai thác, giáo viên phải hiểu một cách đầy đủ và chính xác nhất nội dung kiến thức phản ánh trong kênh hình đó là gì, tức là phải hiểu hết bản chất của kênh hình. - Phải đảm bảo sự kết hợp giữa lời nói với việc trình bày nội dung kênh hình theo hướng rèn luyện khả năng thực hành của học sinh, đồng thời kết hợp với các tài liệu khác khi sử dụng. Kênh hình bao gồm: * Bản đồ, lược đồ Lịch sử - Về hình thức : bản đồ lịch sử không cần có nhiều chi tiết về điều kiện tự nhiên mà cần có nhiều kí hiệu, biên giới, quốc gia, sự phân bố dân cư, thành phố, vùng kinh tế, địa điểm trên bản đồ phải đẹp chính xác rõ ràng. Bản đồ là ------------------------------------------------------------------------------------------------
- 5----------------------------------------------------------------------------------------------- - phương tiện trực quan rất quan trọng và sinh động trong dạy học lịch sử. Trên bản đồ lịch sử các sự kiện luôn được thể hiện một không gian, thời gian, địa điểm cùng một số yếu tố địa lí nhất định. - Về nội dung : bản đồ chia làm 2 loại chính + Bản đồ tổng hợp : phản ánh những sự kiện lịch sử quan trọng nhất của một nước hay nhiều nước có liên quan ở một thời kỳ nhất định, trong những điều kịên tự nhiên nhất định. Ví dụ các bản đồ “Sự phân chia thuộc địa của các nước đế quốc cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX”, “Chiến tranh thế giới thứ nhất 1914 - 1948”, “Chiến tranh thế giới thứ hai 1939 - 1945”… ; + Bản đồ chuyên đề : nhằm diễn tả những sự kiện riêng lẻ hay một mặt của quá trình lịch sử, như diễn biến một trận đánh, sự phát triển kinh tế của một nước trong một giai đoạn lịch sử. Ví dụ các bản đồ “Bọn phản cách mạng tấn công nước Pháp năm 1793”, “Nước Nga Xô-viết chống thù trong giặc ngoài 1918 - 1920”, “Khởi nghĩa Hương Khê”, “Khởi nghĩa Yên Thế”… Ví dụ 1: Nếu chỉ dùng lời giáo viên khó có thể tạo cho học sinh biểu tượng về tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mà thực dân Pháp và cố vấn Mĩ cho là “một pháo đài bất khả xâm phạm”, “một cối xay thịt Việt minh’. Nếu giáo viên biết kết hợp sử dụng bản đồ chiến trường Đông Dương 1953-1954, bản đồ chiến dịch Điện Biên Phủ và một số hình ảnh khác thì học sinh có thể hiểu được khá rõ về vấn đề này: Điện Biên Phủ có núi cao bao bọc, hiểm trở, là vị trí chiến lược có thể kiểm soát cả chiến trường Lào và Bắc bộ . Thông qua quan sát bản đồ, đọc kí hiệu, liên hệ với kiến thức địa lý đã học, nội dung lịch sử được biểu diễn trên bản đồ sẽ được học sinh nhanh chóng nắm bắt, việc sử dụng bản đồ lịch sử còn góp phần phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ, đặc biệt là kĩ năng đọc bản đồ, củng cố thêm kiến thức về Địa lí . Chú ý: Khi sử dụng bản đồ nhất thiết phải giới thiệu cụ thể cho các em kí hiệu ghi trên bản đồ, đồng thời tập cho các em quan sát, đọc bản đồ và tìm hiểu nội dung lịch sử được thể hiện trên bản đồ . Việc học lịch sử nhất thiết phải có bản đồ: “Có bản đồ là có địa lý”. Vậy học địa lý nhất thiết phải có bản đồ. Bản đồ vừa là phương tiện giúp các em khai thác kiến thức và là nguồn tri thức địa lý phong phú, nội dung địa lý đã được mã hoá trở thành một thứ ngôn ngữ đặc biệt đó là ngôn ngữ bản đồ. - Thông qua việc sử dụng bản đồ giáo viên hướng dẫn học sinh rèn luyện được các kỹ năng bản đồ. - Đọc tên bản đồ để biết đối tượng lịch sử được thể hiện trên bản đồ là gì. - Hiểu bản đồ, đọc được bản chú giải để biết cái người ta thể hiện đối tượng đó trên bản đồ như thế nào, bằng các ký hiệu gì ? Bằng màu sắc gì? ... - Xác định vị trí, phương hướng của các địa điểm trên bản đồ. ------------------------------------------------------------------------------------------------
- 6----------------------------------------------------------------------------------------------- - - Cao hơn nữa giáo viên hướng dẫn học sinh biết dựa vào bản đồ, kết hợp với các kiến thức lịch sử để phân tích, so sánh, giải thích các mối quan hệ của các sự kiện giữa các đối tượng. “ Mở đầu bằng bản đồ và kết thúc bằng bản đồ” *) Lược đồ: Trong giảng dạy lịch sử giáo viên có thể sử dụng lược đồ câm học sinh nhớ các sự kiện, địa danh diễn ra sự kiện và điền vào lược đồ với cách này học sinh sẽ khắc sâu trí nhớ. Cũng có thể giáo viên dùng những kí hiệu, biểu tượng để đính các địa danh, nơi diễn ra sự kiện nổi bật hoặc diễn biến của cuộc khởi nghĩa, chiến dịch... Giáo viên cũng có thể sử dụng lược đồ để trình bày diễn biến, sự kiện như sử dụng bản đồ - Thông qua lược đồ giúp học sinh hiểu và nhớ lâu hơn các sự kiện. - Bước đầu tập cho học sinh thể hiện các sự kiện đơn giản sau đó thực hành với các chiến dịch, các trận đánh có quy mô lớn hơn. Qua các việc sử dụng lược đồ các em cũng có thể đánh giá được tác động của các điều kiện tự nhiên liên quan đến sự kiện lịch sử và cũng qua đó giáo viên cũng có thể đánh giá được khả năng lĩnh hội của các em và có hướng điều chỉnh, sửa chữa kịp thời cho các em và đây cũng là phương pháp kích thích khả năng tìm tòi, sáng tạo của các em. Ví dụ 2: Với lược đồ tổng hợp diễn biến của cuộc chiến tranh khi dạy bài 21 “Chiến tranh thế giới thứ hai 1939 - 1945”. - Trước hết giáo viên giới thiệu khái quát lược đồ “Chiến tranh thế giới thứ hai 1939 - 1945”, giải thích cho học sinh các kí hiệu trên lược đồ : + Lãnh thổ của Đức, I-ta-lia, Nhật Bản trước khi nổ ra chiến tranh.Những nước trung lập, nước bị phát xít chiếm đóng. + Mũi tên màu xanh là hướng tiến công của trục phát xít (Đức, I-ta-lia ở châu Âu và Bắc Phi, Nhật ở châu Á - Thái Bình Dương). + Mũi tên màu đỏ là hướng tiến công của quân đồng minh - Giáo viên đặt một số câu hỏi để học sinh trả lời : + Tại sao Đức chọn Ba Lan làm nơi tấn công mở đầu cho cuộc chiến tranh ? (Bởi vì Ba Lan là nước có nhiều tài nguyên quan trọng phục vụ cho công nghiệp chiến tranh, có thể dùng Ba Lan làm bàn đạp để tấn công Liên Xô và nhiều nước châu Âu khác). + Tại sao Đức chiếm Ba Lan (đồng minh Anh, Pháp), các nước Anh, Pháp chỉ tuyên mà không chiến với Đức ? Tại sao Đức chiếm được Ba Lan lại không tấn công Liên Xô mà lại tấn công các nước tây Âu trước sau đó mới đánh Liên Xô ? Phát xít Đức đã tấn công vào lãnh thổ Liên Xô như thế nào ? Nhân dân Liên Xô đã chiến đấu chống lại phát xít Đức ra sao ? Quá trình bành trướng của phát xít Nhật ở châu Á - Thái Bình Dương ? ------------------------------------------------------------------------------------------------
- 7----------------------------------------------------------------------------------------------- - - Sau khi hướng dẫn học sinh khai thác nội dung bằng việc trả lời câu hỏi. Để thấy được toàn cảnh cuộc chiến tranh giáo viên sử dụng lược đồ kết hợp với lời nói tường thuật. - Cuối bài giáo viên cho lớp làm việc theo 2 nhóm : + Nhóm 1 : Phát xít Đức bị tiêu diệt như thế nào ? Em đánh giá như thế nào về vai trò của Liên Xô và đồng minh Mĩ - Anh trong việc tiêu diệt phát xít Đức ? 7 + Nhóm 2 : Phát xít Nhật đã bị tiêu diệt như thế nào ? Em đánh giá như thế nào về vai trò của Liên Xô và đồng minh Mĩ - Anh trong việc tiêu diệt phát xít Nhật ? Học sinh các nhóm trả lời, giáo viên chốt khắc sâu kiến thức cho các em * Tranh, ảnh chân dung các nhân vật lịch sử Tranh ảnh lịch sử lấy chủ đề về lịch sử như chân dung các nhân vật lịch sử, quang cảnh lịch sử… nhằm tạo biểu tượng, khôi phục lại hình ảnh con người, nhân vật, biến cố, sự kiện một cách cụ thể, sinh động và khá sát thực. Chân dung các nhân vật lịch sử có ý nghĩa rất lớn trong việc giảng dạy và học tập lịch sử ở trường THCS, chân dung các nhân vật lịch sử trong sách giáo khoa thường có hai loại : chân dung các nhân vật chính diện và chân dung các nhânvật phản diện. Khi sử dụng chân dung nhân vật lịch sử giáo viên không nên chú ý đến việc miêu tả bề ngoài của các nhân vật mà cần chú ý phân tích nội tâm, tài đức, quan điểm thể hiện ở hành động của nhân vật. Khi khai thác chân dung các nhân vật chính diện như các anh hùng dân tộc, lãnh tụ cách mạng, nhà phát minh khoa học... giáo viên phải làm nổi bật tính cách thông qua việc miêu tả bề ngoài, hay nêu khái quát ngắn gọn tiểu sử nhân vật, đặcbiệt là những câu chuyện thời thơ ấu của nhân vật, dễ làm học sinh hứng thú, kích thích óc tò mò, phát triển năng lực nhận thức. Qua việc sử dụng chân dung các nhân vật chính diện giáo viên cần giáo dục ở học sinh lòng biết ơn, sự khâm phục tài chí, đạo đức của nhân vật từ đó có ý thức rèn luyện mình theo gương đó. Đối với chân dung nhân vật phản diện, khi khai thác, sử dụng vào bài họcgiáo viên cần hướng dẫn học sinh nhận xét những thể hiện của tính gian ác, tham lam, xảo quyệt của nhân vật ấy, không nên để học sinh bị thu hút về hình thức của nhân vật mà quên đi đó là nhân vật phản diện. Ví dụ 3 : Khi giảng dạy bài 26 “Phong trào kháng chiến chống Pháp trong những năm cuối thế kỷ XIX”, Mục I, phần 1 - Cuộc phản công quân Pháp của phái chủ chiến tại kinh thành Huế và sự bùng nổ phong trào Cần Vương giáo viên cho học sinh xem ảnh vua Hàm Nghi và giới thiệu: Vua Hàm Nghi tên thật là Ưng Lịch, lên ngôi lúc 14 tuổi, được bá quan văn võ đồng tình, toàn dân công nhận. Nhìn trong ảnh, ta thấy vua Hàm Nghi trong trang phục rất giản dị, gọn gàng, đầu quấn khăn đen, mặc áo the như dân ------------------------------------------------------------------------------------------------
- 8----------------------------------------------------------------------------------------------- - thường. Nhưng vẻ mặt lộ rõ sự kiên nghị, tính tình khẳng khái, thông minh và quả cảm. Quân Pháp phản công, quân triều Nguyễn thua chạy, rời bỏ kinh thành Huế. Tôn Thất Thuyết vào cung báo lại việc giao chiến trong đêm và mời vị hoàng đế trẻ Hàm Nghi cùng Tam cung lên đường. Nghe chuyện phải rời khỏi thành, vua Hàm Nghi đã thảng thốt nói : "Ta có đánh nhau với ai mô mà phải chạy". Qua đó cho thấy vua lúc bấy giờ còn hồn nhiên. Ông đã cùng Tôn Thất Thuyết ra căn cứ Tân Sở để tính chuyện kháng chiến lâu dài. Tại đây ngày 13/7/1885 Vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương (Do Tôn Thất Thuyết soạn thảo), kêu gọi toàn dân giúp vua đánh Pháp. Trong suốt thời gian kháng chiến của vua Hàm Nghi, vua anh Đồng Khánh và 3 bà Thái hậu liên tục gửi thư kêu gọi vua trở về nhưng ông khẳng khái từ chối. Toàn quyền Pháp ở Đông Dương là Paul Bert cũng đã định lập Hàm Nghi làm vua 4 tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh Bình nhưng cũng không thành. Nhà vua thường nói mình ưa chết trong rừng hơn là trở về làm vua mà ở trong vòng cương tỏa của người”. Đầu tháng 11/1888,Thực dân Pháp đã mua chuộc đượcTrương Quang Ngọc (Người hầu cận của vua Hàm Nghi), y đã dẫn đường cho Thực dân Pháp đột nhập căn cứ vua Hàm Nghi bị bắt khi đang ngủ, Tôn Thất Thiệp bị đâm chết. Khi đó, ông mới 17 tuổi, chống Pháp được ba năm. Nhà vua đã chỉ thẳng vào mặt Trương Quang Ngọc mà nói rằng : "Mi giết ta đi còn hơn là mi mang ta ra nộp cho Tây". Như vậy, qua việc hướng dẫn học sinh khai thác ảnh của nhà vua Hàm Nghi trong sách giáo khoa và thấy được tính cách của một vị vua trẻ tuổi nhưng rất gan dạ, anh hùng, đã phát huy được tính tích cực của học sinh, giáo dục cho các em lòng kính yêu và tự hào, biết ơn về vị vua trẻ tuổi yêu nước. * Sơ đồ lịch sử Sơ đồ nhằm cụ thể hoá nội dung, sự kiện bằng những hình học đơn giản, diễn tả tổ chức một cơ cấu xã hội, một thể chế chính trị, mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử. Ví dụ như: sơ đồ “Bộ máy công xã Pa-ri 1871”, “Sơ đồ so sánh sự phát triển của sản xuất thép giữa Anh và Liên-xô trong những năm 1929 - 1931”, “Sơ đồ tổ chức chính quyền của Pháp ở Đông Dương”…Sơ đồ hóa kiến thức Lịch sử sẽ giúp học sinh hình dung bao quát được bài học hoặc một vấn đề. Học sinh nhớ được kiến thức một cách nhanh chóng và lâu bền hơn sẽ góp phần làm cho bài giảng một cách nhẹ nhàng và hiệu quả. Ví dụ 4: Khi dạy bài 29 Lịch sử 8 phần luyện tập vận dụng giáo viên có thể cho học sinh làm bài tập sau: “Hãy vẽ sơ đồ tổ chức bộ máy chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương. Em có nhận xét gì về tổ chức bộ máy cai trị của thực dân Pháp?”. Học sinh vẽ sơ đồ và đưa ra nhận xét: Nhận xét: về hệ thống chính quyền của Pháp : + Chặt chẽ , với tay xuống tận nông thôn . ------------------------------------------------------------------------------------------------
- 9----------------------------------------------------------------------------------------------- - + Kết hợp giữa nhà nước thực dân và phong kiến . + Chia Việt Nam thành ba quốc gia riêng biệt là Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ . + Tất cả đều phục vụ cho lợi ích tư bản Pháp . * Biểu đồ lịch sử Là kênh hình dùng để diễn tả quá trình phát triển, sự vận động của một sự kiện lịch sử, trên cơ sở sử dụng số liệu, tài liệu thống kê trong bài học. Biểu đồ thường được biểu diễn trên trục hoành (ghi thời gian) và trục tung (ghi sự kiện). * Hình vẽ lịch sử Hình vẽ có giá trị như một tư liệu lịch sử cung cấp hiểu biết về tư liệu lịch sử. Ví dụ 5: khai thác và sử dụng H.85 “Trương Định nhận phong soái”, trong Bài 24 - Lịch sử 8 - Tiết 2. - Để khai thác và sử dụng hiệu quả bức tranh này theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, cần thực hiện như sau: + Giáo viên hiểu rõ nội dung kiến thức phản ánh trong bức tranh đó là: bức tranh miêu tả quang cảnh Trương Định nhận phong soái, nó vừa thể hiện sự trang nghiêm, vừa thể hiện sự tôn kính và đồng lòng hưởng ứng cuộc khởi nghĩa do Trương Định lãnh đạo. + Xác định thời điểm sử dụng tranh. Sau khi giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu về khởi nghĩa của Trương Định thì hướng dẫn học sinh khai thác tranh minh họa nhằm củng cố và khắc sâu kiến thức. + Xây dựng hệ thống câu hỏi khai thác tranh. GV treo tranh (phóng to) lên bảng. ? Quan sát tranh và hãy miêu tả toàn cảnh bức tranh này? - Học sinh trả lời, giáo viên nhận xét và bổ sung. Bức tranh này thể hiện sự tôn kính của nhân dân và sự đồng lòng hưởng ứng của nhân dân đối với cuộc khởi nghĩa do ông phát động, hãy tìm những chi tiết thể hiện điều đó? Học sinh thảo luận và trả lời. Giáo viên nhận xét câu trả lời và miêu tả toàn bộ bức tranh, trong đó nhấn mạnh sự đồng lòng hưởng ứng của nhân dân đối với cuộc khởi nghĩa do Trương Định phát động và lãnh đạo. Khi dạy bài 21 “Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XIX”. - Sau khi hướng dẫn học sinh khai thác nội dung bằng việc trả lời câu hỏi. Để thấy được toàn cảnh cuộc khởi nghĩa giáo viên sử dụng lược đồ kết hợp với lời nói tường thuật ngắn gọn : Căn cứ chính ở Ngàn Trươi, Vụ Quang (Hương Khê - Hà Tĩnh). Ở đây có núi cao, rừng rậm, sông ngòi, khe suối che chở nên nghĩa quân có điều kiện thuận lợi chiến đấu ; địa bàn hoạt động của nghĩa quân rộng, cả bốn tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình ; chiến thuật của ------------------------------------------------------------------------------------------------
- 10--------------------------------------------------------------------------------------------- --- nghĩa quân là sử dụng các phương thức tác chiến linh hoạt, chủ động sáng tạo trong quá trình chuẩn bị lực lượng cũng như trong khi giao chiến với kẻ thù, nghĩa quân chủ yếu thực hiện lối đánh du kích, lấy yếu chống mạnh, làm cho quân Pháp nhiều phen khốn đốn. Thời gian hoạt động của nghĩa quân kéo dài 10 năm. Vì vậy học sinh tự so sánh với các cuộc khởi nghĩa khác, có thể khẳng định được cuộc khởi nghĩa Hương Khê là cuộc khởi nghĩa điển hình của phong trào Cần Vương. 2.2.2. Sử dụng bảng phụ: Giáo viên sử dụng bảng phụ để ghi hệ thống các câu hỏi, bài tập điền khuyết…, từ đó hướng dẫn học sinh làm việc cá nhân, học sinh thảo luận nhóm rất có hiệu quả, giáo viên không phải nói nhiều mà học sinh được làm việc tích cực, gây cho học sinh hứng thú, say mê môn học. Ví dụ: Khi dạy Bài 4: Các nước Châu Á - Lịch sử lớp 9. GV có thể sử dụng bảng phụ để làm bài tập củng cố như sau: Khoanh tròn vào từ đầu tiên trước câu trả lời đúng: Câu 1: Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa được thành lập vào ngày tháng năm nào? A. 22/7/1948 B. 1/10/1949 C. 7/10/1949 D. 1/1/1959 Câu 2: Ai là nhà du hành vũ trụ đầu tiên của Trung Quốc bay vào không gian? A. Lương Triều Vĩ B. Dương Lợi Vĩ C. Hồ Cẩm Đào D. Trần Quán Hy 2.2.3. Sử dụng phiếu học tập và thảo luận nhóm: Phiếu học tập là những tờ giấy rời có nội dung hướng dẫn yêu cầu học sinh làm việc trong một thời gian ngắn tại lớp học hoặc được làm ở nhà trước mỗi bài học ghi rõ nhiệm vụ nhận thức nhằm hình thành kiến thức, năng lực, phẩm chất cho học sinh. Vai trò của phiếu học tập: Cung cấp thông tin và sự kiện (phiếu học tập chứa đựng thông tin, dữ liệu hoặc sự kiện dùng làm cơ sở cho một hoạt động nhận thức nào đó); công cụ hoạt động và giao tiếp (phiếu học tập chứa đựng các câu hỏi và bài tập yêu cầu hoạt động, những vấn đề để yêu cầu học sinh giải quyết hoặc thực hiện kèm theo những hướng dẫn, gợi ý cách làm. Khi sử dụng phiếu học tập kết hợp với thảo luận nhóm, giáo viên cũng dễ dàng tổ chức giao việc cho học sinh làm việc cá nhân hay làm việc theo nhóm đạt hiệu quả cao. Ví dụ: Khi dạy Bài 2: Các cuộc phát kiến địa lý và sự hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ở Tây Âu - Lịch sử - Địa lý lớp 7 phần Lịch sử. Mục 1: Các cuộc phát kiến địa lí lớn trên thế giới. ------------------------------------------------------------------------------------------------
- 11--------------------------------------------------------------------------------------------- --- - GV có thể cho lớp thảo luận nhóm với câu hỏi chuẩn bị trước bằng phiếu học tập. GV chia lớp ra thành 4 nhóm, cử nhóm trưởng, thư kí, đọc câu hỏi to trước lớp sau đó phát phiếu học tập cho các nhóm. Mỗi nhóm có thời gian thảo luận là 3 phút. Sau đó đại diện từng nhóm lên trình bày câu trả lời. Các nhóm khác chú ý nhận xét và bổ xung. Nhóm 1: Em hãy nêu nguyên nhân dẫn tới các cuộc phát kiến lớn về Địa lí?(Do sản xuất phát triển, các thương nhân, thợ thủ công cần thị trường và nguyên liệu. Do kĩ thuật phát triển, đóng được tàu lớn, có la bàn). Nhóm 2: Trình bày các cuộc phát kiến lớn về Địa lí? ( Năm 1487, Điaxơ vòng quanh cực Nam Châu Phi; 1498, Va- xcô đơ - Ga-ma tìm ra ấn Độ; 1492, Cô-lôm-bô đã tìm ra Châu Mĩ; 1519 – 1522, Ma-gien-lang lần đầu tiên đi vòng quanh trái đất.) Nhóm 3: Trình bày hệ quả của các cuộc phát kiến lớn về địa lí? (Tìm ra những con đường mới, những vúng đất mới; đem lại những món lợi khổng lồ cho thương nhân châu Âu; đặt cơ sở cho việc mở rộng thị trường của các nước châu Âu) Nhóm 4: Nêu ý nghĩa của các cuộc phát kiến địa lí? (Là cuộc Cách mạng về giao thông và tri thức; thúc đẩy thương nghiệp phát triển.) Cuối cùng giáo viên nhận xét và kết luận. 2.2.4. Mô hình: Dùng những vật liệu đơn giản để tạo ra những hiện vật, những sự kiện lịch sử đơn giản để minh hoạ cho tiết dạy sinh động hơn. Giáo viên giới thiệu mô hình đang sử dụng, mô hình là vật tượng trưng cho sự kiện lịch sử nào? . Dùng câu hỏi hướng dẫn học sinh quan sát, trả lời tìm ra các sự kiện lịch sử Ví dụ 6: Trong mô hình Cảnh Thoát Hoan thua chạy. Giáo viên đặt câu hỏi : Thoát Hoan phải thua chạy chui vào ống đồng trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ mấy và diễn ra vào năm nào? Hoặc khi dạy bài lịch sử lớp 6 về công cụ của người nguyên thuỷ giáo viên cho học sinh quan sát mô hình về các lưỡi cày, liềm, rìu đá...các em sẽ cảm nhân được rõ ràng hơn, nhớ lâu hơn và các em sẽ mô tả được chính xác hơn những công cụ của thời tiền sử. + Từ các mô hình giáo viên giúp học sinh hiểu và nắm chắc các kiến thức Lịch sử ... + Cách sử dụng có hiệu quả: - Giáo viên cho học sinh quan sát nhận biết đó là mô hình gì? - Mô hình đó gắn với sự kiện nào. - Rút ra ý nghĩa, bài học 2.2.5. Băng video: ------------------------------------------------------------------------------------------------
- 12--------------------------------------------------------------------------------------------- --- Là loại phương tiện và thiết bị kỹ thuật hiện đại, tạo cho học sinh có những phương pháp học tập mới, biết quan sát, nghe, nhìn; có khả năng lĩnh hội kiến thức với chất lượng cao, tốc độ nhanh. Với loại phương tiện này người giáo viên đòi hỏi phải có sự chuẩn bị công phu: Phòng tối, tivi, đầu video... và cơ bản là phải hướng dẫn, chỉ đạo tốt học sinh mới lĩnh hội chắc kiến thức. Ví dụ 7: Khi dạy bài Chiến cuộc đông xuân 1953-1954 GV sử dụng băng video học sinh rất dễ dàng hiểu được quá trình chuẩn bị của quân và dân ta cũng như diễn biến của chiến dịch, HS tiếp thu bài nhanh, rất hứng thú với bài học hoặc bài 30 “Hoàn thành giải phóng miền Nam thống nhất đất nước 1973 - 1975” giáo viên sử dụng băng video thì học sinh dễ cảm nhận được hào khí của dân tộc, của 5 cánh quân cùng lúc vượt qua tuyến phòng thủ bên ngoài của địch tiến vào trung tâm Sài Gòn..., Diễn biến của chiến dịch như thế học sinh sẽ tiếp thu bài rất nhanh và sẽ nhớ lâu những hình ảnh mà mình đã được xem qua băng hình... 2.2.6. Sử dụng giáo án điện tử: Đây là một phương pháp dạy học hiện đại nhất hiện nay, nó có thể giúp học sinh quan sát tất cả các đồ dùng như bản đồ, sơ đồ, lược đồ, tranh ảnh, mô hình và cả video clip một cách sinh động. Việc sử dụng các thiết bị dạy học này cũng không phải là điều dễ dàng, bản thân tôi cũng đã thực hiện giảng dạy đối với các lớp mà tôi được phân công giảng dạy, qua đó tôi nhận thấy học sinh rất hứng thú với tiết học, học sinh thì đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, hiệu quả thu được rất cao, học sinh có thể quan sát các hình ảnh, thành tựu, các trận đánh, chiến dịch một cách rõ nét, sinh động và chân thực. Song để dạy được một giờ như vậy phải có sự chuẩn bị rất công phu, phải biết sử dụng các phương tiện hiện đại, phải sưu tầm nhiều loại tư liệu khác nhau (GV tránh tình trạng sử dụng quá nhiều hình ảnh, nếu lạm dụng sẽ làm cho tiết học kém hiệu quả vì chỉ giống như một tiết tham quan học sinh không nắm được kiến thức trọng tâm của bài học và việc sử dụng các hiệu ứng không phù hợp cũng dễ gây mất sự chú ý, tập của học sinh vào kiến thức cần đạt). Trong phần này, ta có quy trình (hay “công thức”) thiết kế một bài giảng lịch sử cụ thể bằng công nghệ thông tin. Có nhiều tài liệu nêu các bước thiết kế bài giảng khác nhau, nhưng theo ý kiến của tôi thì có 4 bước (“công thức” chung) để thiết kế bài giảng điện tử cho một bài học lịch sử cụ thể: + Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài dạy. Do môn lịch sử là môn có nhiều thông tin, nhiều sự kiện nên khi muốn thiết kế bài dạy, giáo viên cần bám sát chương trình và sách giáo khoa, trình độ nhận thức của học sinh mà quyết định sẽ chọn nội dung nào làm kiến thức cơ bản của bài giảng. Và tất nhiên, việc chọn lọc kiến thức cơ bản sẽ làm thay đổi cấu trúc bài giảng góp phần làm nổi bật các mối liên hệ giữa các hợp phần kiến thức của bài, từ đó làm rõ các trọng tâm, trọng điểm của bài. + Bước 2: Tìm thêm các tài liệu để minh họa bài giảng. Sau khi làm rõ kiến thức cơ bản của bài giảng, giáo viên tìm thêm tài liệu để làm cụ thể - minh ------------------------------------------------------------------------------------------------
- 13--------------------------------------------------------------------------------------------- --- họa bài giảng, nguồn tài liệu phù hợp với bài giảng sẽ được lấy từ internet, sách giáo khoa và cả sách chuyên ngành . + Bước 3: Xây dựng kịch bản dạy học. Đây là khâu quan trọng của bài giảng có công nghệ thông tin. Trong bước này, giáo viên sẽ thể hiện ý tưởng của mình ra bài giảng điện tử: hệ thống khái niệm, hiện tượng, quy luật, hệ thống hóa… thông qua một loạt các phần mềm và công cụ thông dụng; rồi sắp xếp chúng theo một cấu trúc logic, phù hợp với nội dung khoa học và trình độ nhận thức của học sinh. + Bước 4: Chạy thử, chỉnh sửa và hoàn thiện. Đây là giai đoạn quan trọng không thể bỏ qua. Khi thiết kế xong cần kịp thời phát hiện lỗi, chỉnh sửa rồi lưu vào file, đặt tên cho file. File này được lưu trong máy hoặc đĩa CD để dễ sử dụng và vận chuyển. Đó là “công thức” chung của thiết kế bài giảng lịch sử bằng công nghệ thông tin. Do chương trình lịch sử THCS được thiết kế theo 4 dạng bài lịch sử: chiến tranh, chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội nên “công thức” thiết kế khác nhau ở cách thể hiện. Ví dụ: Bài 27 (sách Lịch sử 9): Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc. Ở bài này, ta chú ý phần I và II với 2 nội dung: kế hoạch Navarre của Pháp – Mỹ (hoàn cảnh, nội dung và biện pháp thực hiện); chủ trương của ta đối phó với kế hoạch Navarre dẫn tới chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Kế tiếp, giáo viên tìm tư liệu minh họa bài học: văn kiện Đảng 1953 – 1954, Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 – 1954 của Hoàng Văn Thái, Chiến dịch Điện Biên Phủ của Phan Ngọc Liên… Khác với dạng bài kinh tế, chính trị; dạng bài này có tư liệu phong phú – nhiều hình ảnh rất tốt để minh họa bài giảng của giáo viên. 2.3. Vận dụng một số phương pháp theo định hướng đổi mới. 2.3.1. Phương pháp tường thuật: Tường thuật là một cách trình bày miệng quan trọng, nhằm tái hiện ở học sinh biến cố Lịch sử quan trọng với đầy đủ tính cụ thể và gợi cảm của nó. Tuy nhiên, trong thực tế không ít giáo viên chưa nhận thức được đầy đủ nội dung vàvị trí của nó trong việc dạy và học Lịch sử ở trường THCS. Bài tường thuật được xây dựng trên cơ sở nội dung sách giáo khoa nhưng tạo cho học sinh những hình ảnh cụ thể, sinh động, chính xác về bức tranh quá khứ đã học. Vì vậy, các em hứng thú học tập hơn. Sức hấp dẫn của tường thuật trong dạy học là cung cấp những sự kiện, dẫn dắt học sinh đến những hiểu biết mới sâu sắc, có ấn tượng mạnh mẽ. Hứng thú học tập sẽ giảm đi nếu bài tường thuật chỉ là sự thông báo vắn tắt khô khan một số sự kiện. Cho nên việc xây dựng bài tường thuật đòi hỏi giáo viên phải biết chọn đúng sự kiện để trình bày thông tin những kiến thức mới, bổ ích phù hợp với trình độ học sinh. Giáo viên trình bày mạch lạc, rõ ràng kết hợp với các phương tiện dạy học ( đồ dùng trực quan, tài liệu mới…). Ví dụ: Khi dạy Bài 5: Công xã Pari 1871 – Lịch sử lớp 8. Mục 2: Cuộc khởi nghĩa ngày 18 – 3 – 1871. Sự thành lập Công xã. ------------------------------------------------------------------------------------------------
- 14--------------------------------------------------------------------------------------------- --- GV có thể tường thuật cuộc khởi nghĩa ngày 18.3.1871 kèm theo đồ dùng trực quan: “Sáng sớm tinh mơ ngày 18 tháng 3 năm 1871, Chie cho quân lẻn đến đánh úp dồi Mông-mác (Bắc Paris), để chiếm trọng pháo của Quốc dân quân. Nhân lúc tảng sáng, quân Chie đã vượt qua được những phố vắng tiến tới Mông mác. Chỉ có một đơn vị nhỏ quân vệ quốc canh giữ trọng pháo nên không chống lại nổi quân chính phủ. Trọng pháo lọt vào tay quân chính phủ. Nhưng họ không thể mang ngay đi được, vì mãi đến 8 giờ sáng, ngựa kéo pháo mới tới. Trong khi đó, lệnh báo động đã nổi lên. Thế là công nhân, thợ thủ công và quân Vệ quốc tập hợp lại, theo sau là một toán phụ nữ. Họ kéo cả lên gò Mông mác. Khi đoàn người tới gần, binh lính của Chie đã chĩa nòng súng vào nhân dân. - Bắn! Tên tướng chỉ huy ra lệnh cho quân đội nổ súng. Nhưng ngay lập tức một hạ sĩ quan bước ra khỏi hàng ngũ và hô lớn “ Quay nòng súng xuống đất !” Một giây nặng nề trôi qua. Những nòng súng của các binh sĩ sẽ hướng về đâu? Theo lệnh tên tướng, bắn vào đám đông máu sẽ đổ, hay làm trái lệnh chỉ huy? Một lần nữa viên tướng gào lên “Bắn!”. Trong giây phút căng thẳng đó, cái thiện đã thắng cái ác trong mỗi người lính. Binh lính không chịu bắn vào nhân dân, quay lại trói viên chỉ huy và đoàn kết với Quốc dân quân. Đồi Mông- mác và trọng pháo vẫn nguyên vẹn trong tay Quốc dân quân. Theo đà thắng lợi đó, tới trưa, Quốc dân quân cùng quần chúng từ các xóm thợ ngoại ô tiến vào trung tâm Pari. Chi-e thấy nguy, hấp tấp kéo đánh nhưng quân đội đã mất tinh thần, rút lui về Véc- xai. Đến chiều, các cơ quan chính phủ đều lọt vào tay quân cách mạng. Cờ đỏ phấp phới bay trên nóc sở Bộ chiến tranh và Tòa thị chính Paris. Cuộc Cách mạng Vô sản thắng lợi đầu tiên trên thế gới. Uỷ ban Trung ương Vệ quốc quân trở thành Chính phủ lâm thời”. 2.3.2. Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề: Dạy học đặt và giải quyết vấn đề là một hệ thống dạy học dựa trên những quy luật của sự lĩnh hội tri thức và cách thức hoạt động một cách sáng tạo bao gồm sự kết hợp những phương pháp dạy học và việc học có những nét cơ sở của sự tìm tòi khoa học. Nhờ vậy, nó đảm bảo cho học sinh lĩnh hội vững chắc những cơ sở khoa học – phát triển tính tích cực, tính tự lực trong năng lực sáng tạo, hình thành cơ sở thế giới quan cho học sinh. Bản chất của dạy học đặt và giải quyết vấn đề là tạo nên một chuỗi những tình huống vấn đề và điều kiện hoạt động của học sinh nhằm tự lực giải quyết những vấn đề học tập. Việc trình bày theo phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề đòi hỏi giáo viên phải nắm vững sự kiện, biết tạo ra tình huống có vấn đề, nhằm phát huy năng lực nhận thức của học sinh. Vì vậy, cách trình bày đặt và giải quyết vấn đề có nhiều ưu điểm hơn việc thông báo tài liệu, đọc lại sách giáo khoa. Trình bày đặt và giải quyết vấn đề vừa cung cấp cho học sinh những sự kiện cần thiết để hiểu biết lịch sử, vừa tạo ra sự suy nghĩ cho các em. ------------------------------------------------------------------------------------------------
- 15--------------------------------------------------------------------------------------------- --- Ví dụ: Khi dạy Bài 14: Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên – Lịch sử - Địa lý lớp 7 phần Lịch sử. Phần 3. Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên năm 1287 – 1288. Để tạo được tình huống có vấn đề, giáo viên giới thiệu dẫn dắt vào bài mới: “Sau hai lần xâm lược Đại Việt thất bại, nhà Nguyên không chịu từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta. Với kế hoạch xâm lược Đại Việt lần thứ ba của chúng như thế nào? Quân dân nhà Trần đã tổ chức kháng chiến ra sao? Đó là nội dung bài học hôm nay.” Đây là ví dụ về tình huống có vấn đề. Tình huống là mâu thuẫn giữa cái đã biết và cái chưa biết mà giáo viên tạo ra, nhằm thu hút sự chú ý, hứng thú học tập của học sinh, học sinh cần giải quyết một điều mới, điều chưa biết, trên cơ sở kiến thức của bài học trước. Sự hướng dẫn, gợi mở của người thầy để học sinh tự tìm ra bản chất của sự kiện mới. 2.3.3. Phương pháp dạy học trực quan: Phương pháp dạy học trực quan là phương pháp sử dụng những phương tiện trực quan, phương tiện kĩ thuật dạy học trong, trước và sau khi nắm tài liệu mới, khi ôn tập, củng cố, hệ thống hoá và kiểm tra tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Trong dạy học lịch sử, phương pháp trực quan góp phần quan trọng tạo biểu tượng cho học sinh, cụ thể hoá các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại hoá lịch sử của học sinh. Các phương tiện trực quan rất đa dạng và phong phú. Vì vậy, khi sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Lịch sử đòi hỏi giáo viên phải căn cứ vào nội dung, yêu cầu giáo dục, giáo dưỡng của bài học để lựa chọn đồ dùng thích hợp, có phương pháp thích hợp trong việc sử dụng mỗi loại đồ dùng. Từ đó, phát huy tính tích cực của học sinh khi sử dụng đồ dùng trực quan, đảm bảo kết hợp lời nói với việc trình bày đồ dùng, rèn luyện khả năng thực hành của học sinh khi xây dựng và sử dụng đồ dùng học tập ( vẽ bản đồ, tường thuật lược đồ, miêu tả hiện vật…). Việc sử dụng kênh hình dạy học như trên không chỉ có tác dụng giúp học sinh tạo biểu tượng chân thực về quá khứ, mà còn khắc sâu kiến thức, qua đó hình thành khái niệm và rút ra bài học, quy luật của lịch sử. Đặc biệt nhờ có yếu tố “Trực quan sinh động” học sinh sẽ dễ dàng đạt tới “Tư duy trừu tượng” tạo thêm niềm hứng thú, say mê trong học tập bộ môn, qua đó từng bước nâng cao hiệu quả bài học. Trước đây, đa số các trường đều thiếu thốn về cơ sở vật chất, nghèo nàn về các thiết bị dạy học, đối với bộ môn Lịch sử chỉ có một số loại đơn giản như: Lược đồ, sơ đồ, bản đồ... Theo quan niệm giáo dục trước đây cho rằng dụng cụ trực quan là phương tiện cần thiết để giáo viên truyền thụ kiến thức mới, dụng cụ minh họa cho các kiến thức đã truyền đạt, còn đối với học sinh chỉ có tác dụng chấp nhận và ghi nhớ. ------------------------------------------------------------------------------------------------
- 16--------------------------------------------------------------------------------------------- --- Theo phương pháp sử dụng này thì dụng cụ trực quan chưa phát huy hết vai trò của mình, đôi khi chưa thể hiện được tính trực quan và tính khoa học của nó. Vì vậy, để cải tiến phương pháp giảng dạy phù hợp với chương trình giáo dục mới ở bộ môn Lịch sử, thiết bị các trường học đã trang bị khá đầy đủ các loại dụng cụ trực quan, chủ yếu là các loại sau: Như vậy phương pháp dạy học trực quan trong dạy học lịch sử ở trường THCS là một việc làm rất quan trọng, rất phong phú và có ý nghĩa lớn cần được mỗi thầy giáo, cô giáo quán triệt một cách sâu sắc và vận dụng sáng tạo trong công tác giảng dạy của mình, trong hoạt động nội khoá cũng như hoạt động ngoại khoá. Tuy nhiên để làm tốt việc này cần có sự chuyển biến mạnh mẽ mang tính cách mạng trong phương pháp dạy – học lịch sử và phải có thời gian kiểm nghiệm sự đúng đắn của nó so với kiểu dạy truyền thống. Mỗi giáo viên sau khi vận dụng các phương pháp dạy học này vào từng bài phải có sự nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm và trao đổi, phổ biến với đồng nghiệp để khẳng định những biện pháp sư phạm trong việc nâng cao chất lượng bộ môn. Cần trách khuynh hướng “tách lí thuyết với thực tế”...đáp ứng được những yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá . 2.3.4. Phương pháp vấn đáp: Phương pháp vấn đáp là phương pháp giáo viên khéo léo đặt hệ thống câu hỏi để học sinh trả lời nhằm gợi mở cho họ sáng tỏ những vấn đề mới, tự khai phá những tri thức mới bằng sự tái hiện những điều đã học hoặc những kinh nghiệm đã tích luỹ được trong cuộc sống. Từ đó, giúp học sinh củng cố, mở rộng đào sâu, tổng kết, hệ thống hoá tri thức đã tiếp thu được, nhằm mục đích kiểm tra, đánh giá và giúp học sinh tự kiểm tra, đánh giá và lĩnh hội tri thức. Trong sử dụng phương pháp vấn đáp, đòi hỏi giáo viên phải có nghệ thuật đặt câu hỏi. Câu hỏi phải có nội dung chính xác, rõ ràng, dễ hiểu, không thể có hai câu trả lời đúng, hình thức gọn gàng. Học sinh phải mạnh dạn trả lời, nếu sai học sinh khác bổ sung, qua đó kích thích hoạt động chung của lớp. Giáo viên không chỉ chú ý đến kết quả trả lời của học sinh mà cả cách diễn đạt câu trả lời một cách chính xác, rõ ràng, hợp lôgíc, là điều kiện quan trọng để phát triển tư duy lôgíc của học sinh. Ví dụ: Khi dạy Bài 1: Quá trình hình thành và phát triển của chế độ phong kiến ở Tây Âu - Lịch sử - Địa lý lớp 7 phần Lịch sử – Mục 4: Sự xuất hiện và vai trò của thành thị Trung đại. GV có thể đưa ra một số câu hỏi ở các mức độ khác nhau, học sinh suy nghĩ trả lời. ? Thành thị trung đại xuất hiện như thế nào? (Cuối thế kỉ XI, sản xuất phát triển, hàng hoá dư thừa được đưa đi bán – thị trấn ra đời – thành thị trung đại xuất hiện.) ------------------------------------------------------------------------------------------------
- 17--------------------------------------------------------------------------------------------- --- ? Cư dân trong thành thị gồm những ai? Họ làm những nghề gì? (Thợ thủ công và thương nhân…) ? Thành thị ra đời có ý nghĩa như thế nào? (Thúc đẩy sản xuất phát triển, tác động đến sự phát triển của xã hội phong kiến.) 2.3.5. Dạy học bám sát theo chuẩn kiến thức – kĩ năng: Thực tế hiện nay, giáo viên không quan tâm đến chương trình chỉ chú ý đến SGK- là tài liệu để học sinh học tập, không coi SGK là pháp lệnh, cố dạy hết SGK gây quá tải. Yêu cầu đặt ra là phải bám sát chuẩn kiến thức – kĩ năng, thông qua SGK để xác định, lựa chọn nội dung cơ bản, kiến thức trọng tâm, giúp học sinh nắm “ít” mà “ tinh”. Ví dụ: Khi dạy Tiết 36. Bài 24. Cuộc kháng chiến từ năm 1858 đến năm 1873 – Lịch sử lớp 8. Phần I. Cuộc kháng chiến từ năm 1858 đến năm 1873. Mục 1. Chiến sự ở Đà Nẵng những năm 1858 – 1859. GV cần cung cấp được những kiến thức sau đây theo đúng chuẩn kiến thức – kĩ năng. - Nguyên nhân Pháp xâm lược: + Từ giữa thế kỉ XIX, các nước phương Tây đẩy mạnh xâm lược các nước phương Đông để mở rộng thị trường, vơ vét tài nguyên. + Việt Nam có vị trí đại lí thuận lợi, giàu tài nguyên thiên nhiên. + Chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng, suy yếu. - Pháp đánh Đà Nẵng: + Lấy cớ bảo vệ đạo Gia-tô, liên quân Pháp-Tây Ban Nha kéo đến Việt Nam. + Ngày 1 – 9 – 1858, quân Pháp nổ súng đánh Đà Nẵng. + Quân ta dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương, lập phòng tuyến, anh dũng chống trả. + Sau 5 tháng xâm lược, Pháp chỉ chiếm được bán đảo Sơn Trà. Kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của Pháp bước đầu thất bại. Tóm lại, việc đưa ra những phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử giúp cho học sinh lĩnh hội sâu sắc và nhớ lâu kiến thức, là phương tiện tốt để hình thành kiến thức, gợi dậy những xúc cảm lịch sử, kích thích hứng thú học tập của học sinh, tạo cơ sở để giáo dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm cho các em. Như vậy, hoạt động tích cực, độc lập của học sinh trong dạy học lịch sử có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở trường THCS. 2.3.6. Kết hợp các phương pháp trong quá trình giảng dạy: Để giờ học trở nên sinh động hấp dẫn, có hiệu quả đòi hỏi người giáo viên phải biết phối kết hợp các phương pháp một cách nhuần nhuyễn. Sử dụng quá thiên về một phương pháp nào sẽ làm giờ học trở nên khô khan, làm mất hứng thú học tập của học sinh. 3. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm. ------------------------------------------------------------------------------------------------
- 18--------------------------------------------------------------------------------------------- --- 3.1 Kết quả thực nghiệm của vấn đề: Đối tượng áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Học sinh các lớp 9A, 8B, 7A, 6C trường THCS Tiên Phong – Ba Vì – Hà Nội. Khi áp dụng : “Một số phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của người học trong môn Lịch sử THCS” với học sinh ở trường Trung học cơ sở Tiên Phong tôi nhận thấy: Trong thời gian đầu nhiều học sinh chưa thực sự hứng thú với bộ môn lịch sử kết quả học tập chưa cao. Sau một thời gian áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này đối với học sinh các lớp 9A, 8B, 7A, 6C tôi nhận thấy các em học sinh đã có những thay đổi, sự tiến bộ trong học tập bộ môn. Nhiều em tỏ ra thích thú với việc học, tích cực trong học bài và làm bài tập về nhà. - Kết quả học tập bộ môn lịch sử của học sinh sau khi áp dụng sáng kiến trong dạy học: Khối Sĩ số Kết quả lớp Giỏi Khá Trung Yếu bình SL % SL % SL % SL % 9A 45 12 26,6 15 33,3 18 40,0 0 0 8B 39 10 25,6 13 33,4 16 41,0 0 0 7A 35 8 22,9 11 31,4 16 45,7 0 0 6C 38 9 23,7 12 31,6 17 44,7 0 0 Qua bảng thống kê có đối chiếu ở những tuần đầu của học kỳ I năm học 2022 -2023 cho thấy đã có những chuyển biến đáng kể, số học sinh chuyển loại từ trung bình lên khá, từ khá lên giỏi có số lượng khá lớn. Điều này cho thấy những hiệu quả ban đầu của sáng kiến khi đưa vào thực tiễn. Nhưng sự khác biệt lớn nhất đó chính là sự yêu thích của các em và bản thân các em đã có những nhận thức đúng về cách học tập ở môn học. 3.2. Đánh giá hiệu quả của việc thực hiện sáng kiến: Việc sử dụng kết hợp linh hoạt và sáng tạo với các phương pháp dạy học khác nhau: Vấn đáp, đặt và giải quyết vấn đề, sử dụng đồ dùng trực quan, tích hợp môi trường… Kết hợp với trình bày miệng sinh động, ghi bảng khoa học là những việc làm cần thiết giúp cho giáo viên hoàn thành tốt một tiết dạy trên lớp. Đó chính là cơ sở nâng cao hiệu quả bài học Lịch sử ở trường THCS. Góp phần phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình học tập lịch sử của học sinh, giúp học sinh nắm kiến thức nhanh và vững chắc. Qua đó cũng góp phần nâng cao chất lượng dạy – học môn Lịch sử ở trường THCS. PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận: ------------------------------------------------------------------------------------------------
- 19--------------------------------------------------------------------------------------------- --- Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đòi hỏi giáo dục phổ thông phải đào tạo con người phát triển toàn diện, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Mỗi môn học ở trường THCS với đặc trưng riêng đều phải góp phần đào tạo thế hệ trẻ, trong đó có bộ môn Lịch sử. Những kiến thức lịch sử thế giới, lịch sử dân tộc từ nguồn gốc đến nay có tác dụng hình thành thế giới quan và nhân sinh quan cho học sinh. Những người thực, việc thực trong quá khứ sẽ gợi dậy trong học sinh những tư tưởng, tình cảm đúng đắn, mà những tư tưởng tình cảm này là hành trang tối cần thiết cho thế hệ trẻ trong điều kiện mở cửa, hội nhập với thế giới. Song muốn phát huy tốt chức năng, nhiệm vụ bộ môn trong việc giáo dục học sinh, cần nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử. Thực trạng hiện nay, muốn nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử thì vấn đề đổi mới phương pháp dạy học là rất cần thiết. Vì vậy, trong mỗi giờ học lịch sử, giáo viên cần kết hợp các phương pháp dạy học một cách nhuần nhuyễn, hợp lí thì giờ học sẽ đạt được hiệu quả cao. Hơn nữa, học sinh sẽ phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, năng lực sáng tạo trong học tập. Vấn đề này còn tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập của học sinh. Trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy, tôi đã đưa ra một số phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THCS. Những phương pháp mà tôi đưa ra đều dựa trên cơ sở lí luận về phương pháp dạy học lịch sử và hệ thống phương pháp dạy học ở trường THCS. Hi vọng các phương pháp đó sẽ nâng cao chất lượng dạy học môn Lịch sử ở trường THCS. 2. Khuyến nghị: - Đối với Phòng Giáo dục: Hỗ trợ kinh phí từ tăng cường cung cấp các thiết bị, đồ dùng dạy học cần thiết để phục vụ cho việc học tập và giảng dạy. Tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng để giáo viên có cơ hội học hỏi, cọ xát nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đổi mới phương pháp dạy học. - Đối với Nhà trường: Tạo điều kiện để cho giáo viên, học sinh được đi tham quan, học hỏi kinh nghiệm, học tập nâng cao chất lượng dạy và học. - Đối với giáo viên trong Nhà trường: Tích cực học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, luôn tìm tòi đổi mới các phương pháp dạy học để học sinh hứng thú, say mê học tập. - Đối với học sinh: Cần tích cực học hỏi, tìm tòi, chủ động trong học tập và lĩnh hội kiến thức. Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của tôi, trong quá trình vận dụng cũng như tổng hợp thành sáng kiến có thể còn hạn chế rất mong nhận được sự đóng góp, bổ sung của đồng nghiệp để bản sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Tiên Phong, tháng 02 năm 2023 NGƯỜI VIẾT ------------------------------------------------------------------------------------------------
- 20--------------------------------------------------------------------------------------------- --- Nguyễn Thị Thúy Hà ------------------------------------------------------------------------------------------------
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học tập phân môn Hát ở lớp 6
13 p | 329 | 31
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số phương pháp giáo dục học sinh cá biệt ở THCS
33 p | 99 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng thiết bị dạy học và sửa chữa đồ dùng dạy học bộ môn Vật lí ở trường THCS
16 p | 27 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp trong việc bảo quản vốn tài liệu tại thư viện trường THCS Nguyễn Lân
15 p | 97 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm trong việc chỉ đạo nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn ở trường THCS Nguyễn Lân, quận Thanh Xuân
35 p | 38 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số thủ thuật dạy từ vựng môn tiếng Anh cấp THCS
12 p | 31 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán cấp THCS
28 p | 97 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp giải bài toán tìm x cho học sinh lớp 6
33 p | 91 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số ứng dụng của định lí Vi-ét trong chương trình Toán 9
24 p | 85 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp
26 p | 45 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giải bài tập Vật lý 6
26 p | 44 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm hữu ích giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 8
21 p | 84 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số dạng bài tập về muối ngậm nước
22 p | 33 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp rèn kỹ năng viết CTHH của chất vô cơ trong chương trình Hoá học lớp 8 THCS
45 p | 18 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm dạy dạng bài tập đồ thị phần toán chuyển động trong Vật lí THCS
33 p | 36 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh THCS trong các bài vẽ tranh
17 p | 22 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số phương pháp tổ chức trò chơi trong giờ học môn Toán lớp 8
15 p | 29 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 8 thành công trong thí nghiệm Hoá học 8
10 p | 13 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn