Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một vài kinh nghiệm trong việc nâng cao kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội đối với học sinh lớp 9
lượt xem 3
download
Sáng kiến kinh nghiệm được thực hiện với mục tiêu nhằm khơi dậy khả năng sáng tạo, kĩ năng thực hành viết văn của các em thì người giáo viên phải luôn đổi mới phương pháp dạy học. Học sinh phải nắm được các phương pháp làm bài văn cụ thể, nhuần nhuyễn. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một vài kinh nghiệm trong việc nâng cao kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội đối với học sinh lớp 9
- UBND QUẬN HOÀNG MAI TRƯỜNG THCS YÊN SỞ MỘT VÀI KINH NGHIỆM TRONG VIỆC NÂNG CAO KĨ NĂNG LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN Xà HỘI ĐỐI VỚI HỌC SINH LỚP 9 A. PhÇn ®Æt vÊn ®Ò I. Lí do chọn đề tài Trong nh÷ng n¨m gÇn ®©y với quan điểm chú trọng tới việc rèn luyện, nâng cao kĩ năng thực hành tạo lập văn bản nói và văn bản viết, môn Ngữ văn nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng đã chú trọng xây dựng nội dung theo cấu trúc đồng tâm, có lÆp lại (nâng cao) ở các lớp khác nhau. Đặc biệt, ở kiểu bài nghị luận với việc cho thêm kiểu bài nghị luận xã hội vào chương trình giảng dạy ở bậc THCS và PTTH đã thể hiện rõ quan điểm của Bộ giáo dục và đào tạo nước ta luôn mong muốn đẩy mạnh, phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo trong học tập của học sinh. Kiểu bài này đã giúp cho học sinh nâng cao được trình độ hiểu biết cũng như được bày tỏ được quan điểm của mình về các lĩnh vực xã hội. Đặc biệt kĩ năng làm bài văn của các em được nâng cao, tránh tình trạng lắp ráp y nguyên các bài văn mẫu có sẵn trong các sách tham khảo. Tuy vậy, một thực trạng chung là kĩ năng viết văn nói chung và viết văn nghị luận xã hội nói riêng của đa số các em còn rất yếu. Đối với học sinh trường tôi đa số học sinh là con em ở vùng quê mới phát triển, điều kiện học tập và trình tự nhận thức rất hạn chế. Ngay cả đối với kiểu văn tự sự các em còn lúng túng chưa biết làm đầy đủ một bài văn hoàn chỉnh thì kiÓu bµi nghÞ luËn x· héi ë ch¬ng tr×nh s¸ch gi¸o khoa líp 9 với các em là một thách thức lớn. Sè lîng tiÕt lÝ thuyÕt vÒ kiÓu bµi nghÞ luËn x· héi trong ch¬ng tr×nh s¸ch gi¸o khoa líp 9 lµ 5 tiÕt chia cho hai kiÓu bµi nhá : Nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí vµ nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống. Nh vËy víi sè tiÕt Ýt ái cho hai kiÓu bµi kh¸c nhau thuéc nghÞ luËn x· héi thì c¸c em häc sinh còn rất mơ màng về lý thuyết nói gì đến việc nắm vững được các kĩ năng làm bài. Thªm vµo ®ã, c¸c kiÕn thøc cña c¸c em vÒ x· héi cßn v« cïng ít ỏi. Bởi nghị luận xã hội là một lĩnh vực rất rộng: Từ bàn bạc những sự việc, hiện tượng trong đời sống đến luận bàn những vấn đề chính trị, chính sách, từ những vấn đề đạo đức, lối sống đến những vấn đề có tầm chiến lược, những vấn đề tư tưởng triết lí. Khi c« gi¸o giao cho c¸c em mét ®Ò v¨n thuéc v¨n nghÞ luËn x· héi ®a phÇn c¸c em v« cïng lóng tóng. C¸c em chØ ch¨m ch¨m t×m trong s¸ch tham kh¶o xem cã bµi v¨n nµo trïng víi ®Ò c«
- gi¸o cho ®Ó mµ chÐp lÊy. Hoặc làm bài chưa biết trình bày luận điểm, chưa biết lập luận, diễn đạt lủng củng, kiến thức về các vấn đề xã hội rất ít ỏi, nông cạn... Trong khi đó, kiểu bài nghị luận xã hội từ lâu đã được đưa vào cấu trúc đề thi 9 vào lớp 10 chiếm 2.0 điểm. Lượng kiến thức của kiểu bài này như đã trình bày ở trên rất rộng lớn. Nếu chỉ dậy tủ, học tủ, học sinh sẽ không thể làm bài thi vào lớp 10 tốt được. Đứng trước thực trạng đó tôi luôn trăn trở và suy nghĩ làm sao có thể khắc phục được những nhược điểm này của các em? Tôi nhận ra rằng chỉ có thể rèn luyện cho các em kĩ năng làm bài văn thì chất lượng bài làm của các em mới được nâng cao. Với các lí do đó tôi đã chọn và thực hiện sáng kiến kinh nghiệm “Một vài kinh nghiệm trong việc nâng cao kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội đối với học sinh lớp 9”. Đề tài này tôi đã áp dụng cho học sinh trường THCS Yên Sở và đã thu được những kết quả khả quan. Trong khuôn khổ đề tài này tôi muốn sẻ chia một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân mình với tất cả các anh chị đồng nghiệp, với những người đã từng trăn trở trước những bài viết của học sinh ®Ó tõ ®ã cã thÓ gióp Ých phần nào cho viÖc n©ng cao chất lượng kÜ n¨ng lµm bµi nghị luận xã hội của c¸c em học sinh. II. Mục đích nghiên cứu Qua một thời gian giảng dạy của mình, tôi thấy rằng để khơi dậy khả năng sáng tạo, kĩ năng thực hành viết văn của các em thì người giáo viên phải luôn đổi mới phương pháp dạy học. Học sinh phải nắm được các phương pháp làm bài văn cụ thể, nhuần nhuyễn. Vì vậy, viết đề tài này bản thân tôi mong muốn được góp phần cùng đồng nghiệp hiểu sâu sát hơn về kiểu bài nghị luận xã hội, qua đó tìm ra được phương pháp tối ưu phù hợp với các em học sinh lớp 9. III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1. Đối tượng nghiên cứu - Học sinh lớp 9 (9A3,9A4) của trường THCS Yên Sở, Quận Hoàng Mai, TP. Hà Nội - Văn nghị luận xã hội ở lớp 9. 2. Phạm vi nghiên cứu: Cách làm bài văn nghị luận xã hội của học sinh lớp 9 của trường THCS Yên Sở IV.Thời gian và phương pháp nghiên cứu 1.Thời gian nghiên cứu: Năm học 2018-2019. 2. Phương pháp nghiên cứu - Điều tra cơ bản.
- - Thực hành. - Phân tích, tổng hợp. - So sánh đối chiếu. - Trắc nghiệm. - Tổng kết rút kinh nghiệm. B. PHẦN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CHƯƠNG I- CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. Giới thiệu khái quát về thể văn nghị luận. Văn nghị luận là loại văn viết ra để phát biểu ý kiến, bày tỏ nhận thức đánh giá thái độ đối với cuộc sống bằng những luận điểm, lí lẽ, dẫn chứng. Nếu tác phẩm văn học nghệ thuật phát biểu ý kiến bày tỏ thái độ cuộc sống bằng những hình tượng nghệ thuật gợi cảm thì văn nghị luận điễn đạt bằng những mệnh đề, phán đoán lôgic thuyết phục. Từ những điều nói trên, khái niệm về văn nghị luận được cụ thể như sau: Văn nghị luận là loại văn trong đó người viết (người nói) đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng về một vấn đề nào đó và thông qua cách thức bàn luận thuyết phục được người nghe. 1.2. Đặc trưng của văn nghị luận Văn nghị luận được xây dựng trên cơ sở của tư duy lôgíc. Nhiệm vụ của bài văn nghị luận là trình bày dưới hình thức các luận điểm. Luận điểm là linh hồn của bài viết. Luận điểm đúng đắn, chân thực, đáp ứng nhu cầu thực tế thì mới có sức thuyết phục. Trong văn nghị luận, mỗi đoạn văn có một kết cấu riêng, chúng thường mang bóng dáng một trong những mô hình cấu trúc: tổng - phân – hợp, diễn dịch, quy nạp...Ở cấp độ liên câu các câu cũng được sắp xếp theo một trật tự tuyến tính. Nếu trật tự các câu không phù hợp với trình tự lập luận thì tính logíc bị phá vỡ. Sức thuyết phục của một bài văn nghị luận trước hết toát ra từ một nội dung tư tưởng sâu sắc, từ hệ thống lí lẽ và luận chứng phong phú, xác đáng. Nhưng nếu nội dung sâu sắc, phong phú mà kết cấu không chặt chẽ, trình bày không rạch ròi gãy gọn, giữa các ý không có mối quan hệ lôgíc thì sức thuyết phục cũng bị giảm. Sự chính xác mạch lạc trong suy luận phải được thể hiện qua sự khúc chiết, chặt chẽ nhất quán, liên tục trong trình bày. 1.3. Một số dạng thức nghị luận xã hội trong chương trình làm văn THCS 1.3. 1. Kiểu bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống. Là trình bày quan điểm, suy nghĩ, thái độ (khẳng định hay phủ định, biểu dương hay phê phán) về một sự việc nào đó xảy ra trong đời sống (gia đình, học đường, xã hội...). Những hiện tượng tốt hoặc chưa tốt cần được nhìn nhận thêm. Ví dụ: - Suy nghĩ của em về tình trạng thanh thiếu niên ham mê trò chơi điện
- tử. - Một tấm gương vượt khó trong học tập. - Vấn đề bảo vệ môi trường. 1.3.2. Kiểu bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí. Là trình bày suy nghĩ, thái độ về một quan niệm tư tưởng, đạo lí, lối sống, văn hoá... định hình trong cuộc sống con người. Những quan niệm đó thường thể hiện dưới hình thức một ý kiến, một nhận định, một đánh giá... có tính chất khuyên răn (tục ngữ, ca dao, danh ngôn, nhận định...mang tính chân lí). Kiểu bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí là quá trình kết hợp những thao tác lập luận để làm rõ những vấn đề tư tưởng đạo lí trong cuộc đời. Ví dụ: - Nghị luận về đạo lí “Uống nước nhớ nguồn”, - Ý nghĩa của tình yêu thương. Trong phạm vi Tập làm văn ở nhà trường bậc THCS, học sinh líp 9 được làm quen kiểu bài văn nghị luận xã hội với hai dạng chính: nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống và nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí. Cụ thể trong cấu trúc chương trình sách giáo khoa Ngữ văn có các tiết: - Tiết 99: Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống. - Tiết 100: Cách làm bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống. - Tiết 108: Nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí. - Tiết 113+114: Cách làm bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí. CHƯƠNG II- THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ 2.1.Về thuận lợi - Văn nghị luận là một loại văn phổ biến sử dụng trong nhà trường hiện nay. Trong các loại văn, thì văn nghị luận có tính khoa học, và đòi hỏi tư duy cao nhất nhằm kiểm tra khả năng phân tích, tổng hợp và tư duy khoa học của học sinh mà vẫn đánh giá được ở học sinh khả năng diễn đạt và cảm thụ. - Giáo viên được đào tạo cơ bản, có năng lực, nhiệt huyết, có kiến thức về xã hội khá sâu sắc, được trang bị phương pháp dạy học tích cực và có kinh nghiệm trong giảng dạy. - Học sinh có nhiều em ngoan ngoãn. Một số em có lßng say mê yªu thÝch bộ môn. Đời sống xã hội ngày được nâng cao chính vì vậy các vấn đề về xã hội ngày càng được mọi người chú ý và quan tâm trên các phương tiện thông tin đại chúng đặc biệt là các vấn đề liên quan đến môi trường sống. Do vậy nguồn tư liệu thông tin rất phong phú.
- - Áp dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy đặc biệt cung cấp những hình ảnh về các vấn đề của đời sống xã hội đã góp phần quan trọng trong việc thu hút sự chú ý cuả các em học sinh vào bài giảng. - Phụ huynh học sinh tạo điều kiện cho con em học tốt môn văn như: mua sách tham khảo, giành nhiều thời gian cho con mình học, thường xuyên trao đổi về tình hình học tập của con mình với giáo viên giảng dạy. - Trong quá trình thực hiện đề tài tôi luôn nhận được những chia sẻ và góp ý chân thành từ đồng nghiệp và sự giúp đỡ tận tình của các đồng chí trong Ban giám hiệu nhà trường. 2.2. Về khó khăn Tuy vậy tôi cũng gặp không ít khó khăn trong khi triển khai đề tài. Bởi lẽ: - Các em từ trước tới nay dựa dẫm quen vào văn mẫu, không chịu có tư duy của riêng mình, mà nghị luận xã hội thì rất phong phú, không bị cố định như nghị luận văn học. Khi hình thức học thay đổi, tất yếu, các em khó có thể thích nghi ngay được. - Nghị luận xã hội thường là những vấn đề rất rộng của đời sống, các em học sinh lại thiếu hiểu biết xã hội, nên không có vốn từ, vốn tư liệu,... để viết. - Nghị luận xã hội hay có những câu danh ngôn, định nghĩa, khái niệm, nên chúng thường rất trừu tượng, các em gặp khó khăn khi phải hiểu, phải lý giải được ý nghĩa của đề . - Số tiết giảng dạy về kiểu bài này trên lớp còn ít ỏi. Thời gian để học sinh thực hành rất ít. Năm học 2018-2019 tôi tiến hành khảo sát học sinh lớp 9A3 và 9A4 bao gồm 2 lớp với tổng số là 60 học sinh. Tôi cho học sinh làm bài với đề bài Sách mở ra trước mắt tôi những chân trời mới (M.Gorki). Tôi thu được kết quả cụ thể như sau: Lớp TS Giỏi Khá Trung Yếu Kém bình SL % SL % SL % SL % SL % 9A3 35 0 5 14,2 11 31, 14 40 5 14,4 9A4 2 0 2 8,0 8 32,0 10 40,0 5 20,0 Cộng 60 0 7 11,6 19 13,3 24 40,0 10 35,1 Qua bảng thống kê trên cho thấy tỉ lệ học sinh khá giỏi là quá thấp ( không có bài viết nào đạt loại giỏi) tỉ lệ học sinh có bài viết yếu kém chiếm số lượng khá cao (trên 50 %). Đây là một con số đáng báo động về khả năng tạo lập văn bản của học sinh. Những con số đó là nỗi ám ảnh, là một thách thức to lớn đối với tôi,
- người trực tiếp làm nhiệm vụ đứng lớp. Đi tìm nguyên nhân của những điểm số quá thấp trên tôi nhận thấy: Phần lớn các bài viết của các em chưa bám sát yêu cầu của đề bài, tức là chưa xác định được viết cho ai? Viết để làm gì ? Viết như thế nào? Hoặc có bài đã xác định được chủ đề song vì không nắm bắt hiểu rõ bản chất vấn đề, không triển khai được các nội dung cơ bản của chủ đề nên bài viết trở nên lan man, khó hiểu, không trọng tâm, có bài viết còn lạc đề. Kể cả bài viết đạt điểm khá cũng chưa đạt đến độ sắc sảo trong lối viết. Các em chưa rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống. Bên cạnh đó, hình thức trình bày của các em còn rất cẩu thả, chữ viết xấu, chưa phân định rõ bố cục của bài viết (mở bài, thân bài, kết bài) hoặc có thể hiện bố cục song lại không đảm bảo yêu cầu về mặt nội dung trong từng phần, còn sai lỗi chính tả diễn đạt lñng củng, không lưu loát, cách dùng từ không chọn lọc, thiếu chính xác và phần lớn các em chưa biết cách đặt câu, ngắt câu, chưa biết xây dựng đoạn văn, nội dung sơ sài. Đó là kiểu viết chống đối, viết qua loa, đại khái cũng có em không biết mình phải viết những gì, viết như thế nào, không làm đúng các trình tự các bước làm một bài văn. Khả năng lập luận, tư duy khoa học bị hạn chế. Việc quan sát và liên hệ với cuộc sống hạn hẹp,... ảnh hưởng đến kĩ năng sống, việc rèn luyện phẩm chất, đặc biệt kết quả môn Văn không cao. Nguyên nhân sâu xa của hiện tượng trên: Các em chưa có kiến thức cơ bản về bộ môn, chưa ham thích học văn, viết văn nên không cần nghiên cứu văn học, rèn luyện kĩ năng viết văn, đặc biệt là bố trí thời gian rèn luyện cách viết ở nhà. Các em chưa có một tư duy sắc sảo, một tâm hồn nhạy bén, một kĩ năng diễn đạt thành thục.Vốn hiểu biết của các em về các vấn đề xã hội rất hạn chế. Khi viết không tuân thủ theo các bước làm bài. Thời lượng các tiết học kiểu bài trên lớp rất ít. Tất cả các lí do trên đã ảnh hưởng đến chất lượng bài viết của các em rất thấp. Là một giáo viên tâm huyết với nghề đứng trước thực trạng trên tôi luôn trăn trở và tìm mọi cách để nâng cao chất lượng bài làm của các em. Tôi nhận ra rằng chỉ có thể nâng cao kĩ năng làm bài của các em thì chất lượng bài văn mới cao lên được. Với sự tận tâm của mình và sự giúp đỡ, ủng hộ của thầy cô giáo, của BGH nhà trường tôi đã hoàn thiện bản sáng kiến kinh nghiệm này. Trong khuôn khổ bài viết có hạn tôi chỉ dừng lại giới thiệu và minh họa một số kinh nghiệm trong việc rèn cho học sinh kĩ năng viết một bài nghị luận xã hội ở phân môn tập làm văn lớp 9 bậc THCS. CHƯƠNG III- CÁC BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- 3.1. Củng cố và khắc sâu những kiến thức cơ bản về văn nghị luận xã hội. 3.1.1.Tư tưởng trong bài văn nghị luận xã hội Trong các bài văn nghị luận xã hội, các em cần phát biểu được những suy nghĩ nghiêm túc , chín chắn của mình về 1 vấn đề có ý nghĩa xã hội đặt ra cho mình, lứa tuổi mình, không thể phát biểu tùy tiện như trong sinh hoạt hàng ngày. Một tư tưởng đạo lí; nghị luận về một hiện tượng đời sống; nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học đều thuộc loại bài nghị luận xã hội. Bài văn nghị luận xã hội ở đây trước hết đòi hỏi người viết phải trình bày rõ tư tưởng của mình. Vì vậy tư tưởng trong bài văn nghị luận xã hội phải là tư tưởng phù hợp đạo lí, lẽ phải, thể hiện trách nhiệm của người viết đối với đất nước, gia đình, xã hội, con người. Tư tưởng trong bài văn nghị luận xã hội phải thể hiện nhiệt tình xây dựng, vun đắp cho xã hội ngày một đẹp, lên án, phê phán các hành vi trái đạo đức, trái lẽ phải, có hại cho đất nước, xã hội và văn hóa Việt Nam. Tư tưởng trong bài văn nghị luận xã hội phải là tư tưởng có cơ sở khách quan, góp phần làm sáng tỏ 1 vấn đề có ý nghĩa thực tế. tư tưởng trong bài văn nghị luận xã hội phải làt ư tưởng chân thật, tự nhiên, của học sinh, không phải là tư tưởng sao chép trong tài liệu, với những sáo ngữ cũ mòn. 3.1.2. Luận điểm của bài văn nghị luận xã hội Tư tưởng trong bài văn nghị luận xã hội phải được diễn đạt thành những luận điểm, tức là các câu văn thể hiện tập trung cho một tư tưởng. Có thể coi luận điểm trong bài văn nghị luận xã hội là điểm sáng, con mắt của bài văn nghị luận. Bài văn nghị luận mà thiếu luận điểm thì dù người viết viết hay như thế nào thì người đọc vẫn thấy tối mù. Cho nên, sau khi tìm hiểu đề văn rồi thì việc đầu tiên là phải xác định luận điểm, diễn đạt luận điểm rõ ràng, dứt khoát. Luận điểm ấy chính là sợi chỉ đỏ, là cái xương sống của bài văn nghị luận. 3.1.3. Nắm bắt thông tin Đối với dạng đề nghị luận về một hiện tượng đời sống xã hội thường đề cập tới nhiều vấn đề trong cuộc sống hằng ngày và mang tính chất thời sự, thu hút sự quan tâm của nhiều người như: gian lận trong thi cử, vấn đề tai nạn giao thông, bạo lực học đường, văn hóa thần tượng,… Có thể nói, đây là dạng chung mà nhiều năm gần đây Bộ giáo dục đã hướng đến để học sinh tiếp cận. Để làm dạng bài này đạt kết quả cao, đòi hỏi các em phải có vốn hiểu biết nhất định về đời sống xã hội để vận dụng vào bài làm. Do vậy, ngoài kiến thức được học tại trường, các em phải có lượng hiểu biết về xã hội. Các em có thể ủng hộ hay phản đối một quan niệm nào đó song phải có khả năng lập luận sắc bén và cách hành văn trôi chảy, có sức thuyết phục. Văn nghị luận xã hội khác với nghị luận văn học ở chỗ nó là những kiến thức được tích lũy và lấy ra từ cuộc sống hằng ngày.
- Vì vậy, các em cần sự tìm kiếm, học hỏi và nắm bắt thông tin nhanh chóng. Muốn vậy, cần khai thác thông tin trên đài, báo, truyền hình hàng ngày; ghi chép lại những nhân chứng, bài học, tình huống hay và có ý nghĩa trong cuộc sống để làm tư liệu, dẫn chứng cho bài làm. Sau khi được cô giáo hướng dẫn cách thu thập thông tin xã hội tôi nhận thấy các em đã hứng thú rất nhiều trong việc sưu tầm tư liệu về các vấn đề của xã hội. Có em còn lập hẳn một quyển sách ghi chép những điều sưu tầm. Trình độ hiểu biết của các em được nâng cao một cách rõ rệt. 3.1.4.Văn phong Cách viết văn nghị luận xã hội cần sự ngắn gọn, súc tích nhưng vẫn phải đầy đủý và không được khô khan. Muốn làm được điều đó cần có một dàn bài cụ thể trước khi đặt bút làm bài. Nếu như có những dẫn chứng hay thì nên chen vào giữa bài làm để tránh sự nhàm chán và khô khan cho bài văn. Đừng nên viết quà dài và lan man không sát chủ đề. Bên cạnh đó nên tận dụng cách viết sáng tạo. 3.2. Hướng dẫn học sinh làm bài nghị luận xã hội theo các bước cụ thể 3.2.1.Tìm hiểu đề và tìm ý 3.2. 1.1.Phân tích cho học sinh thấy tầm quan trọng của khâu phân tích đề. Đề văn có nhiều dạng thức khác nhau tuy nhiên căn cứ vào nội dung và hình thức cấu tạo ta nhận thấy có những dạng đề sau: - Đề trực tiếp: Có kết cấu rạch ròi, đầy đủ gồm 2 bộ phận. Bộ phận A chứa đựng dữ kiện (tiền đề). Bộ phận B chứa đựng điều đề bài yêu cầu, bộ phận này thường được diễn đạt dưới dạng một câu cầu khiến (hãy phân tích; hãy chứng minh; em hiểu thế nào? cảm nhận của em) - Đề tự do (đề mở): Là những đề bài không có quy định một cách cụ thể, chặt chẽ các yêu cầu về nội dung và hình thức cũng như phương hướng cách thức, mức độ phạm vi giải quyết. Do đó về mặt kết cấu, những đề này có đặc điểm là trong bộ phận A thường không có trích văn, bộ phận B các yêu cầu nêu lên không đầy đủ. Tất cả tùy thuộc vào vốn hiểu biết và trình độ nhận thức của người làm bài. 3.2. 1.2. C¸c bíc t×m hiÓu ®Ò - Bước 1: Đọc đề bài. Đây là bước cần thiết để có được những nhận định chung nhất, những dự cảm đầu tiên về nội dung làm bài và những phương hướng giải quyết vấn đề do đề bài nêu lên. - Bước 2: Phân tích, xác định yêu cầu về nội dung và hình thức nghị luận. + Nhận diện xem đề thuộc loại hình nào? (Đề trực tiếp hay đề tự do). Phân tích đâu là dự kiện cho trước (những tiền đề của tình huống có vấn đề - bộ phận A). Sau đó tìm hiểu những yêu cầu về nội dung và hình thức, phương hướng, cách
- thức, giới hạn giải quyết vấn đề (bộ phận B). + Phải tìm hiểu cặn kẽ ý nghĩa của những từ ngữ quan trọng, vai trò của các vế, các câu, phân tích quan hệ ngữ pháp và quan hệ lôgíc – ngữ nghĩa của chúng. Bắt đầu từ sự phân tích ý nghĩa trực tiếp của câu, chú trọng lời văn trích (nếu có), tập trung chú ý vào những từ ngữ đầu mối then chốt và ngăn tách các vế trong câu văn để dễ phân biệt. Phải nghiền ngẫm, cố phát hiện cho hết ý nghĩa của các từ (nghĩa đen và nghĩa bóng). - Đối với kiểu bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí thường có hai dạng đề : + Dạng đề trong đó tư tưởng đạo lí được nói đến một cách trực tiếp. ví dụ: Đề bài “Bàn luận về lòng yêu nước” + Dạng đề trong đó tư tưởng đạo lí được nói đến một cách gián tiếp. Ở dạng để này vấn đề tư tưởng đạo lí được ẩn trong một danh ngôn, một câu ngạn ngữ, một câu chuyện.Ví dụ: Quà tặng cuộc sống, Bài học cuộc sống. Sau khi được cô giáo hướng dẫn cách tìm hiểu đề thì có hơn một nửa số học sinh lớp tôi giảng dạy đã biết làm đối với đề bài sau: Đề bài: “Sách mở ra trước mắt tôi những chân trời mới” (M. Gorki) + Nhận diện đề: Đề tự do + Gạch chân các dữ kiện. + Thao tác nghị luận : Giải thích, Chứng minh + Nguồn tư liệu để dẫn chứng: Thực tế cuộc sống, việc thực, người thực được lưu lại qua sách vở. 3.2. 1.3. Tìm ý * Để tìm ý cho bài văn nghị luận ta có thể dựa vào các căn cứ sau: - Về nội dung, đề bài bao giờ cũng chỉ rõ vấn đề cần nghị luận là gì, từ đó giúp ta xác định được phương hướng lập ý. Chú ý giải thích nghĩa đen và nghĩa bóng. - Xác định luận điểm: Bài văn nghị luận xã hội trước hết người viết phải thể hiện được tư tưởng của mình. Tư tưởng trong bài văn nghị luận xã hội phải là tư tưởng chân thật tự nhiên của học sinh không phải là tư tưởng sao chép trong tài liệu với những sáo ngữ cũ mòn. Tư tưởng trong bài nghị luận xã hội phải được diễn đạt thành những luận điểm. Luận điểm chính là linh hồn của bài văn nghị luận. Luận điểm thể hiện rõ quan điểm, chủ trương đánh giá của người viết. Bài văn nghị luận xã hội mà thiếu luận điểm thì dù có viết thế nào ngưồi đọc cũng vẫn thấy tối mù.Cho nên khi tìm hiểu xong đề văn rồi thì việc đầu tiên là cần xác định luận điểm, diễn đạt luận điểm cho thật rõ ràng, dứt khoát. Luận điểm chính là sợi chỉ đỏ, là cái xương sống của bài văn nghị luận xã hội. Luận điểm của bài văn được thể hiện dưới hình thức những câu văn ngắn gọn, là những phán đoán có tính chất khẳng định hoặc phủ định.
- - Mở rộng vấn đề. * Ví dụ minh họa: - Đề 1: Lập ý cho đề bài văn nghị luận sau: Nhà triết học người Anh Phơ-răng-xit Bê-cơn có nói: Tri thức là sức mạnh. Em hiểu câu nói đó như thế nào? Tìm ý: + Giải thích câu nói nổi tiếng và làm sáng tỏ nội dung câu nói đó. Câu nói có 2 vế: Tri thức và sức mạnh. + Luận điểm 1: Tìm hiểu tri thức là gì, tại sao tại sao tri thức là sức mạnh. + Luận điểm 2: Con người ta khi chưa có tri thức và không có tri thức thì tình trạng như thế nào? Khi có tri thức rồi thì trở thành con người như thế nào ? + Luận điểm 3: Câu nói đặt ra nhiệm vụ gì ? + Đối với bài văn nghị luận, khi tìm ý chúng ta phải biết cách đặt câu hỏi và biết cách trả lời câu hỏi. Mỗi kiểu bài đòi hỏi cách đặt câu hỏi thích hợp để tìm ý đúng với yêu cầu của thể loại. Việc vận dụng câu hỏi phải hết sức linh hoạt và đúng với từng kiểu bài. 3.2.2. Lập dàn ý 3.2.2.1. Mục đích của việc lập dàn ý Lập dàn ý trước khi viết bài có những cái lợi sau: - Nhìn được một cách bao quát toàn cục nội dung chủ yếu mà bài làm cần đạt được, đồng thời thấy được mức độ giải quyết vấn đề sẽ nghị luận và đáp ứng những yêu cầu đề bài đặt ra, tránh bài làm xa lệch trọng tâm. - Thông qua việc làm dàn ý có điều kiện suy nghĩ sâu xa và toàn diện hơn để điều chỉnh hệ thống luận điểm. Lập dàn ý sẽ tránh tình trạng bỏ sót những ý quan trọng hoặc tránh những ý thừa. - Khi có dàn ý cụ thể người viết chủ động phân chia thời gian cho hợp lí. Tránh tình trạng bài làm mất cân đối “đầu voi đuôi chuột”. 3.2.2.2. Cấu trúc của một dàn ý bài nghị luận xã hội 3.2.2.2.1. Đối với kiểu bài nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống a. Mở bài: Giới thiệu hiện tượng đời sống cần nghị luận b. Thân bài - Luận điểm 1: Nêu rõ hiện tượng đời sống cần nghị luận. - Luận điểm 2: Giải thích khái niệm (nếu cần) - Luận điểm 3: Thực trạng của vấn đề trong đời sống. - Luận điểm 4: Phân tích nguyên nhân, ảnh hưởng/ tác hại của hiện tượng đời sống đang nghị luận (Dùng dẫn chứng từ cuộc sống để chứng minh) - Luận điểm 5: Đề xuất những giải pháp. c. Kết bài - Khái quát lại vấn đề đang nghị luận. - Bày tỏ thái độ của bản thân về hiện tượng đời sống đang nghị luận
- 3.2.2.2.2. Đối với kiểu bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí a. Mở bài - Giới thiệu vấn đề được đưa ra bình luận. - Nêu luận đề: dẫn nguyên văn câu danh ngôn hoặc nội dung bao trùm của danh ngôn. - Giới hạn nội dung và thao tác nghị luận sẽ triển khai. b. Thân bài - Giải thích tư tưởng, đạo lí cần nghị luận (nêu các khía cạnh nội dung của tư tưởng, đạo lí này). - Phân tích, chứng minh, bình luận các khía cạnh ; bác bỏ, phê phán những sai lệch (nếu có). - Khẳng định chung, nêu ý nghĩa, liên hệ thực tế, rút ra bài học nhận thức và hành động. c. Kết bài: Tóm tắt các ý, nhấn mạnh luận đề đã nêu ở đầu bài nhằm chốt lại bài viết hoặc dẫn thơ, văn để mở rộng, gợi ý thêm cho người đọc về vấn đề đang bàn luận. 3.3.Viết bài 3.3.1. Viết phần mở bài 3.3.1.1.Vị trí và vai trò của phần mở bài M. Gorki đã từng nói: Khó hơn cả là phần mở bài, cụ thể là câu đầu. Cũng như âm nhạc, nó chi phối giọng điệu của cả tác phẩm, và người ta thường tìm nó rất lâu. Phần mở bài có vị trí quan trọng vì: - Nó là phần đầu tiên, phần trước nhất đến với người đọc, gây cho người đọc cảm giác, ấn tượng ban đầu về bài viết, tạo ra âm hưởng chung cho toàn văn bản. - Mở bài rõ ràng, hấp dẫn tạo được sự hứng thú người đọc và thường báo hiệu một nội dung tốt. 3.3.1.2. Chức năng của phần mở bài Nó phản ánh được yêu cầu cơ bản của đề bài. Nó giới thiệu nêu vấn đề trung tâm mà bài nghị luận đề cập và giải quyết, nó xác định phương hướng, phạm vi, mức độ giải quyết vấn đề. 3.3.1.3. Yêu cầu về nội dung của phần mở bài - Đưa ra được tiền đề, dữ kiện đòi hỏi phải có lời giải đáp (trong phần thân bài). Đối với đề bài có yêu cầu phê phán, không nên để lộ thiên hướng của người viết (tức là không để lộ điều khẳng định) bài viết sẽ kém sức thuyết phục. - Cấu tạo của phần mở bài ở dạng đầy đủ: + Dẫn vào đề: Nêu xuất xứ của đề, của một ý kiến, một nhận định…có thể bắt đầu bằng một sự kiện đặc sắc, một hình tượng hấp dẫn, một thôn báo thú vị để
- kích thích trí tưởng tượng của người đọc. Có thể vào thẳng vấn đề mà không cần lời dẫn. + Đề xuất vấn đề: Đây là bộ phận có nhiệm vụ tạo nên tình huống có vấn đề mà mình sẽ giaỉ quyết trong phần sau (có thể nêu một câu hỏi bất ngờ, một mẫu chuyện để gây cấn hấp dẫn…) + Giới hạn vấn đề: Xác định phương hướng, phương pháp, phạm vi mức độ, giới hạn của vấn đề. - Về hình thức: Phần mở bài phải cân xứng với khuôn khổ bài viết, những câu dẫn đề nên viết ngắn gọn, khéo léo, tránh viết dài dòng, cầu kì, tránh viết lan man không ăn khớp với những phần sau. *Ví dụ: Đề bài Suy nghĩ của em về câu tục ngữ: Tốt gỗ hơn tốt nước sơn Mở bài : Bàn về mối quan hệ giữa bản chất và hình thức bề ngoài của sự vật, hiện tượng, tục ngữ Việt Nam có câu: Tốt gỗ hơn tốt nước sơn. Nhận định của câu tục ngữ có đúng hoàn toàn? * Mở bài gián tiếp: Không đi ngay vào vấn đề mà thông qua một loạt sự dẫn dắt, sau đó mới nêu vấn đề trình bày. Cách này thường dài, tốn thời gian nhưng lại lôi cuốn, hấp dẫn người đọc. - Mở bài 1: Trong đời sống hiện nay, không mấy ai không bị hấp dẫn bởi vẻ đẹp bên ngoài, bởi danh vọng, địa vị. Vì thế nhiều người thường bị những hình thức bên ngoài ấy che lấp khiến mất khả năng đánh giá chính xác sự vật, hiện tượng, thậm chí còn đem cả cuộc sống theo đuổi những vinh quang vô bổ. Để răn đời đồng thời nêu lên một nhận xét chung về vai trò quan trọng của nội dung so với hình thức, tục ngữ có câu: Tốt gỗ hơn tốt nước sơn. - Mở bài 2: L. Tôn-xtôi từng nói: Người ta đáng yêu không phải vì đẹp mà đẹp vì đáng yêu. Ý của nhà văn muốn đề cao phẩm chất của con người. Cùng quan điểm như vậy, nhưng cách diễn đạt giàu hình ảnh và có thể hiểu một cách rộng hơn phạm vi đánh giá con người, tục ngữ có câu: Tốt gỗ hơn tốt nước sơn. 3.3.2. Viết phần thân bài Phần thân bài là phần giải quyết vấn đề. Phần này thường gồm một số đoạn văn được liên kết với nhau thành một hệ thống nhằm giải đáp một số yêu cầu của đề bài. Nếu đề bài cho sẵn trình tự yêu cầu thì ta giải quyết từng yêu cầu theo một trình tự ấy. Nếu đề bài không cho sẵn thì ta phải định ra một trình tự để giải quyết sao cho hợp lôgíc. Khi viết phần thân bài cần chú ý các điểm sau: - Viết đoạn văn nghị luận: Đoạn văn thường được xây dựng theo câu chủ đề, nó có tác dụng định hướng, triển khai tránh được tình trạng lạc ý. Câu chủ đề tức là câu luận điểm đặt ở đầu đoạn ứng với mô hình diễn dịch, đặt ở cuối đoạn ứng với mô hình quy nạp. Có khi đoạn văn không có câu chủ đề. Trong trường hợp này, chủ đề của đoạn văn được ngầm hiểu qua việc khái quát ý của tất cả các câu. Sau mỗi đoạn văn phải giải quyết trọn vẹn một đề mục. Những chỗ xuống
- dòng thích hợp rất cần cho một bài làm. Giúp cho bài văn sáng sủa, mạch lạc. - Trong quá trình làm bài cần lưu ý vận dụng phép liên kết câu, liên kết đoạn. - Các ý chính (ý trọng tâm) được viết thành các đoạn chiếm tỉ lệ thích đáng so với toàn bài. Các ý phụ chỉ nên viết thành những đoạn văn ngắn. - Thân bài phải gồm đủ hai thành phần là bàn luận và đánh giá, để có thể đáp ứng yêu cầu bình luận. - Các ý của thân bài cần được sắp xếp sao cho người đọc (người nghe) có thể tiếp nhận sự đánh giá, bàn luận của người làm văn một cách dễ dàng và hứng thú, vì sự bình luận chỉ có ý nghĩa khi nó thực sự hướng tới người đọc (người nghe). Chẳng hạn: Người đọc (người nghe) sẽ không thể tiếp nhận, và càng không thể tiếp nhận một cách hứng thú những lời bình luận về một hiện tượng nếu họ còn mơ hồ về cái hiện tượng được đưa ra bình luận ấy. Vì thế, trước khi bắt tay vào đánh giá hay bàn bạc, người bình luận nên trình bày một cách trung thực, đầy đủ, rõ ràng về hiện tượng đời sống mà mình sẽ đem ra bàn luận cùng người đọc (người nghe). Người bình luận không nên cố trình bày hiện tượng đời sống đó sao cho phù hợp nhất với quan điểm của mình, vì việc làm ấy có thể sẽ mâu thuẫn với yêu cầu khách quan, trung thực và từ đó sẽ khiến người đọc (người nghe) hoài nghi, cảm thấy sự bình luận không thật công bằng, không vô tư. Người bình luận cũng nên vận dụng các yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh trong lúc trình bày để bài văn của mình thêm chính xác, rõ ràng, sinh động và do đó, thêm sức thuyết phục người đọc (người nghe). Người đọc (người nghe) sẽ không thể thực sự tin vào ý kiến của người nghị luận, nếu cảm thấy ý kiến ấy chỉ là sự áp đặt một chiều. 3.3.3 .Viết phần kết bài Phần kết bài không chỉ là tổng kết, tóm lược những luận điểm cơ bản đã trình bày trong phần thân bài mà còn nhấn mạnh, khẳng định ở tầm nhìn cao hơn. Thông thường thì người ta nêu mối tương quan biện chứng giữa các luận điểm hoặc cũng có thể nêu ý nghĩa, tác dụng chủ yếu về mặt giáo dục và nhận thức vấn đề đối với bản thân người viết. Trong phần kết bài nếu có những ý sắc sảo độc đáo sẽ gây được ấn tượng mạnh mẽ về sự hoàn tất trọn vẹn, gợi cho những ý nghĩ, cảm xúc sâu sắc, tạo được dư âm cuối cùng ở người đọc. 3.4. Kiểm tra, sửa chữa sau khi làm bài. Nhiều em sau khi làm bài xong thường bỏ qua bước này. Chính vì vậy có những bài thường mắc một số lỗi như viết sai chính tả, dấu câu đặt chưa đúng, thông tin còn sai... Vì vậy bao giờ tôi cũng nhắc các em phải bố trí đủ thời gian để xem lại tất cả các câu, các đoạn văn . Sau đó chỉnh sửa các lỗi chính tả, những câu văn chưa đầy đủ, phần ngày tháng, thời gian, số liệu mà các em nhầm. Công
- việc này sẽ giúp các em có được kết quả bài làm cao hơn. 3.5. HiÖu qu¶ cña s¸ng kiÕn kinh nghiÖm. Thực tế cho thấy: Thời gian đầu các em không biết lập dàn ý, không biết xác lập luận điểm. Khi viết bài, có khi cả phần thân bài các em chỉ viết một đoạn văn, ý nọ chồng ý kia, mắc rất nhiều lỗi diễn đạt. Cô thÓ : *Đầu năm: Trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Lớp TS Giỏi Khá Trung Yếu Kém bình SL % SL % SL % SL % SL % 9A3 35 0 5 14,2 11 31,4 14 40 5 14,4 9A4 25 0 2 8,0 8 32,0 10 40,0 5 20,0 Cộng 60 0 7 11,6 19 13,3 24 40,0 10 35,1 Sau khi hướng dẫn các em làm các bước trên, tôi tiến hành kiểm tra xem kĩ năng làm bài của các em.Tôi cho học sinh đề bài, yêu cầu các em về nhà phân tích đề, tìm ý và lập dàn ý vào vở bài tập hoặc giấy. Tiết sau, tôi thu về nhà chấm. Ban đầu tôi cảm nhận được sự không hứng thú của các em khi tôi ra những dạng bài tập trên. Thực sự, tôi rất băn khoăn! Sau đó tôi đã cho các em hoạt động nhóm, (mỗi nhóm thông thường đều có ít nhất một em học khá văn) trình bày yêu cầu trên giấy A3. Kết quả thật khả quan, bài viết của các em có bố cục 3 phần đầy đủ (có thể chưa hay) song các em đã tự lập ý được và phần nào làm chủ bài viết của mình. Tiếp theo, tôi cho đề bài, yêu cầu học sinh phân tích đề bài, tìm ý cho đề bài và lập dàn ý ngay trên lớp. Sau phần kiểm tra đó, tôi thường cho các em nhận xét, trình bày trước lớp. Phần đa các em trình bày không đầy đủ hoặc phân tích đề rất sơ sài. Thậm chí có em không lập được dàn ý chi tiết. Có em trao đổi với tôi rằng “ Em viết một bài viết thấy dễ hơn nhiều khi phải lập một dàn ý, mặc dù chỉ gạch đầu dòng để xác định ý”. Điều đó hoàn toàn không sai, bởi các em chưa có thói quen lập dàn ý. Để khắc phục hạn chế này, tôi đưa các bước làm bài vào trong quá trình giảng dạy các tiết tự chọn để học sinh có thời gian thực hành được nhiều hơn. Dần dần các em đã quen với việc lập dàn ý. Chất lượng bài viết được nâng lên một cách rõ rệt. *Cuối năm: Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm t«i thu ®îc kÕt qu¶ nh sau: Lớp TS Giỏi Khá Trung Yếu Kém bình SL % SL % SL % SL % SL % 9A3 35 3 8,5 7 20,0 17 48,5 8 23,0 0 0
- 9A4 25 2 11,8 9 26,4 10 35,4 4 26,4 0 0 Cộng 60 5 8,3 16 26,6 27 45,0 12 20,1 0 0 Qua bảng thống kê về chất lượng học sinh ở đầu năm và cuối năm học, tôi nhận thấy số lượng học sinh khá giỏi đã tăng hơn lên một cách đáng kể (từ chỗ không có học sinh giỏi thì nay đã có 8,3 % học sinh giỏi, học sinh khá tăng lên 15 %), số học sinh yếu giảm 19,9 %. Đặc biệt không còn số học sinh kém nữa. Kết quả đạt được như trên không phải là đã cao nhưng nó đánh dấu sự tiến bộ trong việc làm bài của các em. Điều đó khẳng định rằng các biện pháp thực hiện của tôi bước đầu đã có hiệu quả và đúng hướng. C. PHẦN KẾT LUẬN I. Ý nghĩa Qua việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào trong quá trình giảng dạy, kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội của các em đã được nâng cao rõ rệt. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng thực hành của các em ở phân môn Tập làm văn nói riêng và môn Ngữ văn nói chung. Nâng cao khả năng hiểu biết và trách nhiệm của các em đối với các vấn đề của đời sống xã hội. Góp phần quan trọng trong việc phát huy tính tích cực, chủ động của các em trong quá trình học tập. II. §¸nh gi¸ viÖc ¸p dông vµ kh¶ n¨ng ph¸t triÓn cña sáng kiến kinh nghiệm Qua việc nghiên cứu và áp dụng thành công sáng kiến kinh nghiệm “Một vài kinh nghiệm trong việc nâng cao kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội đối với học sinh lớp 9” đối với học sinh trường tôi, tôi nhận thấy rằng sáng kiến kinh nghiệm này có thể mở rộng áp dụng cho học sinh líp 9 của c¸c trêng THCS toàn quận ở các giờ học chính khóa hay trong các tiết tự chọn, dạy chuyên đề. III. Bµi häc kinh nghiÖm Qua viÖc nghiªn cøu ®Ò tµi này bản thân tôi nhận thấy rằng trong thực tế không có một phương pháp dạy học đơn phương nào có thể đem lại hiệu quả tối ưu cả. Điều quan trọng để cho bài giảng được thành công cần và đủ các yếu tố sau: - Bài giảng phải có sự phối kết hợp các phương pháp và đúng với đặc trưng bộ môn. Làm được điều này người giáo viên phải thật sự tâm huyết với bài giảng, có kiến thức vững vàng, truyền đạt rõ ràng, tận tụy với học sinh, yêu học sinh như yêu chính bản thân mình. Từ đó giáo viên phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, luôn tự trau dồi kiến thức. - Học sinh phải tập trung, tích cực hoạt động, ham học hỏi và tham gia tiếp thu bài một cách nhiệt tình. IV. Kiến nghị, đề xuất Sáng kiến kinh nghiệm đã được áp dụng trong năm qua ở trường THCS
- Yên Sở và đã đạt được một số thành công nhất định. Tuy nhiên để sáng kiến kinh nghiệm được phổ biến rộng rãi và thực sự có hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng làm kiểu bài nghị luận chính trị xã hội tôi đề xuất và kiến nghị một số vấn đề sau: *Đối với phụ huynh học sinh: - Quan tâm hơn đến việc học hành của con em mình, đầu tư nhiều về thời gian cho con cái học tập. - Hướng dẫn và tạo cho con thói quen đọc sách, chia sẻ tư vấn, định hướng ,bồi dưỡng tâm hồn cho con để các em có nhiều thuận lợi trong việc bộc lộ và phát triển cảm xúc, tình cảm trong cuộc sống nói chung và trong việc làm văn biểu cảm nói riêng - Phối hợp chặt chẽ ,thường xuyên với giáo viên bộ môn văn để tìm hiểu, nắm bắt kịp thời tình hình học tập của con em mình. *Đối với BGH nhà trường: Tổ chức hội thảo chuyên đề cho giáo viên bộ môn văn trong từng năm để giáo viên có dịp trao đổi kinh nghiệm, bàn luận tìm ra biện pháp tối ưu, tích cực nâng cao chất lượng dạy học môn văn. *Đối với địa phương: - Quản lí chặt chẽ các điểm kinh doanh internet và các điểm dịch vụ không lành mạnh, làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh. - Quan tâm sát sao, hiệu quả đến chất lượng giáo dục ở địa phương, đầu tư cơ sở vật chất kịp thời phục vụ cho việc dạy và học. Trªn đây là một số biện pháp và kinh nghiệm thực hiện sáng kiến kinh nghiệm "Một vài kinh nghiệm trong việc nâng cao kĩ năng làm bài văn nghị luận xã hội đối với học sinh lớp 9 ". Với thời gian nghiên cứu, kinh nghiệm và vốn tích luỹ chưa được nhiều, nên không thể tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong sự góp ý bổ sung của đồng nghiệp, của tổ chuyên môn và tập thể khoa học nhà trường để sáng kiến kinh nghiệm được hoàn thiện đem lại hiệu quả thiết thực. Rất mong được sự đóng góp chân thành từ phía các đồng nghiệp! Nơi nhận: - Phòng Văn hóa và Thông tin; - Lưu VT. NGƯỜI VIẾT …………, ngày ….tháng ….năm 2019 THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Đỗ Thị Vui Đỗ Thu Hà
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học tập phân môn Hát ở lớp 6
13 p | 326 | 31
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số phương pháp giáo dục học sinh cá biệt ở THCS
33 p | 98 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng thiết bị dạy học và sửa chữa đồ dùng dạy học bộ môn Vật lí ở trường THCS
16 p | 25 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một vài kinh nghiệm sử dụng phương pháp trò chơi vào tiết luyện tập môn Hóa học ở trường THCS
24 p | 168 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp trong việc bảo quản vốn tài liệu tại thư viện trường THCS Nguyễn Lân
15 p | 89 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số thủ thuật dạy từ vựng môn tiếng Anh cấp THCS
12 p | 27 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán cấp THCS
28 p | 97 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm trong việc chỉ đạo nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn ở trường THCS Nguyễn Lân, quận Thanh Xuân
35 p | 36 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giải bài tập Vật lý 6
26 p | 41 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh THCS
27 p | 82 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số ứng dụng của định lí Vi-ét trong chương trình Toán 9
24 p | 84 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp rèn kỹ năng viết CTHH của chất vô cơ trong chương trình Hoá học lớp 8 THCS
45 p | 17 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm dạy dạng bài tập đồ thị phần toán chuyển động trong Vật lí THCS
33 p | 36 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm hữu ích giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 8
21 p | 84 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ Ban chỉ huy Đội tại trường THCS Nguyễn Khuyến
29 p | 65 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh THCS trong các bài vẽ tranh
17 p | 20 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 8 thành công trong thí nghiệm Hoá học 8
10 p | 12 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp nâng cao chất lượng giờ dạy thực hành sử dụng các hàm để tính toán của Excel
14 p | 90 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn