Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS
lượt xem 3
download
Môn Ngữ văn là một môn khoa học xã hội tương đối khó, văn biểu cảm ở lớp 7 khi giảng dạy cho học sinh thật chẳng dễ dàng một chút nào chính vì vậy trong quá trình giảng dạy người thầy cần tận tình, tỷ mỷ, chu đáo, luôn tìm tòi sáng tạo để tìm ra phương pháp giảng dạy thích hợp phù hợp vối mọi đối tượng học sinh. Mời các bạn cùng tham khảo để nắm chi tiết!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS
- SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI MÃ SKKN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM RÈN KỸ NĂNG LÀM VĂN BIỂU CẢM CHO HỌC SINH THCS Lĩnh vực : Ngữ văn Cấp học : Trung học cơ sở NĂM HỌC 2016- 2017
- Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS MỤC LỤC I. ĐẶT VẤN ĐỀ: .............................................................................................. 1 II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ............................................................................... 2 1. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu: “Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS” .............................................................................................. 2 2. Thực trạng thực tế khi chưa thực hiện đề tài: ............................................... 2 3. Các biện pháp thực hiện: ............................................................................. 4 3.1. Đối với giáo viên ................................................................................... 4 3.2. Đối với học sinh .................................................................................. 11 4. Hiệu quả của sáng kiến: ............................................................................. 11 III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................. 17 1. Kết luận: .................................................................................................... 17 2. Một số kiến nghị: ...................................................................................... 17 2.1. Đối với thầy cô: ................................................................................... 17 2.2. Đối với trò: .......................................................................................... 17 2.3. Đối với phụ huynh ............................................................................... 17 2.4. Đối với các cấp lãnh đạo ngành: .......................................................... 17 TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 19
- Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS I. ĐẶT VẤN ĐỀ: N¨m häc 2010- 2011, được sự phân công của các cấp lãnh đạo, tôi được chuyển về Hà Nội công tác, giảng dạy môn Ngữ văn của một trường THCS. Về giảng dạy nơi đây, tôi nhận thấy đây là ngôi trường có bề dày thành tích, đội ngũ giáo viên nhiệt tình giảng dạy, có tr×nh độ chuyên môn vững vàng. Nhiều đồng chí được công nhận là giáo viên giỏi cấp Thành phố khi tuổi đời, tuổi nghề còn rất trẻ. Trong nhiều năm giảng dạy tại trường tôi luôn được Ban giám hiệu nhà trường quan tâm, phân công cho dạy môn học mà tôi tâm đắc nhất: môn Ngữ văn. Càng tìm hiểu kỹ về bộ môn này tôi nhận thấy rõ người xưa nói thật không sai: “Văn học là nhân học”. Văn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Bộ môn văn học là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, môn văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Đồng thời cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần học tốt môn văn. Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn học với hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh động của cuộc sống . Môn văn trong nhà trường bậc THCS chia làm ba phân môn: Văn học, Tiếng việt, Tập làm văn. Trong thực tế dạy và học, phân môn tập làm văn là phân môn “nhẹ kí” nhất. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Dạy làm văn là chủ yếu là dạy cho học sinh diễn tả cài gì mình suy nghĩ, mình cần bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ chính xác, làm nỗi bật điều mình muốn nói”. . . (Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện, Nghiên cứu giáo dục, số 28, 11/1973) . Trong giảng dạy môn ngữ văn 7, tôi nhận thấy mặc dù biểu lộ tình cảm, cảm xúc là một nhu cầu thiết yếu của con người nhưng học sinh chưa biết cách bộc lộ cảm xúc của mình để “khơi gợi lòng đồng cảm nơi người đọc” ( Văn 7 – tập 1). Khi hành văn, các em còn lẫn lộn, chưa phân biệt rõ ràng, rạch ròi giữa văn biểu cảm với các thể loại văn khác. Chính vì thế, điểm các bài kiểm tra và điểm trung bình môn văn của các em còn thấp. Thực tế đó qủa là đáng lo ngại. Thực trạng vấn đề này ra sao? Vì sao học sinh gặp nhiều khó khăn trong việc làm văn biểu cảm? Cần phải làm gì để nâng cao chất lượng dạy và học văn biểu cảm cho học sinh THCS? Đó là những vấn đề tôi trăn trở,khiến tôi nhanh chóng thực hiện đề tài này. 1/19
- Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu: “Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS” 1.1: Văn biểu cảm là loại văn thể hiện nội tâm, tâm trạng của người viết. Ngồi trước trang giấy, nếu tâm hồn trống rỗng không cảm xúc, đầu óc mông lung không rõ ý nghĩ gì thì người viết không thể có được một bài văn biểu cảm có hồn. Lúc đó, bài văn hoặc khô khan, nhạt nhẽo, ngắn ngủi hoặc giả tạo, vay tình mượn ý. Người giáo viên, khi dạy văn THCS nói chung, dạy văn biểu cảm nói riêng, ngoài nắm kiến thức, phương pháp lên lớp còn cần có một tâm hồn, một trái tim sống cùng tác giả, tác phẩm. 1.2: Để dạy và học tốt văn biểu cảm ở THCS, người dạy và người học cần nắm vững hệ thống 6 bài học và luyện tập về văn biểu cảm (trong số 14 tiết học văn biểu cảm ở lớp 7 – học kì I ) gồm : - Tìm hiểu chung về văn biểu cảm - Đặc điểm của văn biểu cảm - Đề văn biểu cảm và cách làm bài văn biểu cảm - Cách lập ý của bài văn biểu cảm - Các yếu tố tự sự và miêu tả trong văn biểu cảm - Cách làm bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học 2. Thực trạng thực tế khi chưa thực hiện đề tài: Qua nhiều năm giảng dạy chương trình ngữ văn lớp 7, tôi nhận thấy kĩ năng nhận diện các phương thức biểu đạt trong văn bản, kĩ năng viết, bộc lộ cảm xúc trong bài tập làm văn của một bộ phận học sinh còn yếu . Năm học 2015 – 2016, khi viết bài tập làm văn số 2 với đề bài “Loài cây em yêu”. Dù mới vừa học và hình thành kĩ năng tạo lập văn bản biểu cảm xong nhưng nhiều học sinh không phân biệt được văn miêu tả, văn tự sự với văn biểu cảm nên bài viết không viết về thái độ và tình cảm của mình đối với một loài cây cụ thể mà tả, kể về loài cây đó. Hoặc tiết viết bài tập làm văn số 3 đề yêu cầu “Cảm nghĩ của em về hình ảnh người bà thân yêu của mình”. Học sinh viết “Bà nội hay thức khuya dậy sớm để làm việc mà tối nội chưa làm. Bà thường đi làm thuê để kiếm tiền nuôi chúng em. Em thấy vậy bảo bà nội hay là nội đừng đi làm thuê nữa, nội chuyển sang nấu xôi đi. Nội suy nghĩ một hồi lâu rồi nói, đó cũng là một ý kiến hay”. Đoạn văn viết về người bà thân yêu của mình mà người đọc cảm thấy như viết về một người xa lạ vì không hề có một tình cảm nào của cháu với bà hơn nữa hầu như đó chỉ là kể. Cũng với đề văn như trên, một học 2/19
- Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS sinh khác viết câu kết bài :“Cảm nghĩ của em về bà là một người bà yêu mến con cháu”. Câu văn nêu rõ cảm nhận về bà nhưng gượng ép khô khan. Có lẽ với cách viết văn như nghĩa vụ nên làm qua loa cho xong rồi đem nộp. Kể cả học sinh khá, dù cảm và hiểu được yêu cầu của đề, xác định đúng hướng làm bài nhưng kể vẫn nhiều hơn biểu cảm. Sau đây là bảng số liệu thống kê điểm trung bình môn văn học kì I khối 7 năm học 2015 – 2016 Tỉ lệ học sinh Tỉ lệ học sinh Tỉ lệ học sinh Tỉ lệ học sinh Tỉ lệ học sinh giỏi khá trung bình yếu kém 10% 70% 20% 0% 0% *Nguyên nhân Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên thì có nhiều song theo tôi, do một số nguyên nhân chủ yếu sau : - Đối với người dạy + Đa số giáo viên đều tận tụy với công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học sinh nhưng vẫn còn những mặt hạn chế sau: + Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không nhỏ học sinh yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao. + Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương pháp trực quan vào tiết học hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của học sinh. + Một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được mạch nguồn cảm xúc ẩn sau mỗi trái học sinh. + Do sĩ số lớp đông nên rất khó cho giáo viên trong việc theo sát, kèm cặp từng học sinh trong một tiết dạy. + Giáo viên chỉ nặng về giảng lý thuyết không đầu tư cho các tiết thực hành như luyện tập, luyện nói…, không chịu khó sưu tầm các đoạn văn, bài văn hay cho các em tham khảo. + Nhiều giáo viên cho học sinh chép nhiều gây nhàm chán cho học sinh. - Đối với học sinh + Một số học sinh vì lười học, chán học nên không chuẩn bị tốt tâm thế cho giờ học văn. + Vì bố mẹ bận công việc chưa bám sát tốt thời gian tự học của các con. + Đa số các em lười hoặc không bao giờ đọc sách, kể cả văn bản trong SGK. 3/19
- Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS + Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí như xem ti vi, chơi game . . . ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý thức học bị lôi cuốn, xao nhãng việc học . 3. Các biện pháp thực hiện: Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng đánh giá rất cao lứa tuổi học sinh trong nhà trường như sau “Lứa tuổi từ 7 đến 17 là rất nhạy cảm, thông minh lạ lùng lắm”. Đúng như vậy các em không phải không có khả năng cảm nhận và biểu hiện đạt những cảm nhận ấy mà là do các em chưa biết cách. Là giáo viên dạy văn tôi thiết nghĩ mình có nhiệm vụ giúp học sinh thể hiện sự nhạy cảm, thông minh ấy. Từ thực tế giảng dạy, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp trong việc rèn kỹ năng làm văn biểu cảm để nâng cao chất lượng dạy học văn biểu cảm ở bậc THCS như sau : 3.1: Đối với giáo viên Ngoài một số phương pháp tích cực trong dạy học phân môn tập làm văn như phương pháp dạy tập làm văn thông qua hoạt động, phương pháp trực quan, hình thức vấn đáp, thảo luận, tự học . . .Giáo viên cần vận dụng sáng tạo một số phương pháp khác như phương pháp đóng vai, phương pháp sử dụng trò chơi học tập… Và theo tôi chúng ta khi dạy văn biểu cảm cho học sinh cần: * Dù dạy văn biểu cảm về sự vật và con người hay văn biểu cảm về tác phẩm văn học, giáo viên luôn phải định hướng và hướng dẫn các em nắm vững quy trình để làm một bài văn biểu cảm tốt. Quy trình đó bao gồm : a.Tìm hiểu đề và tìm ý Tìm hiểu đề Một đề bài thường ra dưới dạng khái quát nhằm thích hợp với tất cả đối tượng học sinh. Do đó, quá trình tìm hiểu đề bài sẽ diễn ra như một hoạt động nhằm cá thể hóa đề bài cho từng học sinh kết quả của quá trình này là mỗi học sinh có một đề bài cho riêng mình. Trong đề bài văn biểu cảm, giáo viên cần định hướng cho các em tìm hiểu đề bằng cách tìm ra lời giải cho các câu hỏi sau : - Em định phát biểu cảm nghĩ, tình cảm, mong muốn về đồ vật (con vật , loài cây, cảnh vật . . .)nào? Về người nào? Về tác phẩm nào ? - Em viết bài biểu cảm đó nhằm mục đích gì?(giãi bày cảm xúc, tình cảm nào?) - Em viết bài biểu cảm đó để ai đọc(cô giáo, thầy giáo, bố mẹ, bạn bè. . .)? 4/19
- Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS Lời giải đáp cho ba câu hỏi trên sẽ quyết định nội dung bài viết (trình bày cảm xúc gì ?), giọng điệu bài viết (viết cho bạn bè phải là giọng văn thân mật, có thể suồng sã; còn viết cho thầy cô hoặc bố mẹ phải thân thiết nhưng nghiêm trang ) Tìm ý Giáo viên chỉ ra cho học sinh cách đi tìm ý như sau: Tìm ý cho bài văn biểu cảm chính là tìm cảm xúc, tìm những ý nghĩ và tình cảm để diễn đạt thành nội dung của bài. Ý nghĩ, cảm xúc, tình cảm muôn màu muôn vẻ trong các bài văn biểu cảm đều bắt nguồn từ việc quan sát cuộc sống xung quanh, từ những gì người viết đã sống và trải qua, đã tiếp xúc trong tác phẩm. Vì thế, muốn tìm ý cho bài văn biểu cảm không phải cứ ngồi một chỗ mà đợi ý nghĩ, cảm xúc đến. Sau khi có một đề bài, hãy quan sát kĩ đối tượng đề bài nêu ra để từ đó, cảm xúc xuất hiện. Nếu không có điều kiện quan sát trực tiếp, hãy lục lọi trong trí nhớ, trong kỉ niệm những gì mình biết về đối tượng và từ từ nhớ lại các chi tiết. Nếu cả kỉ niệm trong kí ức cũng không có thì tìm đọc sách báo, xem phim ảnh về đối tượng để ghi nhận các chi tiết cần thiết. Đối với văn biểu cảm về tác phẩm văn học, cảm xúc và suy nghĩ về tác phẩm văn học được nảy sinh từ bản thân tác phẩm. Tìm ý trong trường hợp này chính là đọc kĩ ,đọc đi đọc lại nhiều lần tác phẩm, ngẫm nghĩ tìm ra vẻ đẹp, tìm ra triết lí của nội dung, tìm ra cái mới, cái độc đáo của các yếu tố hình thức nghệ thuật. b. Lập dàn ý Bài văn biểu cảm cũng có kết cấu ba phần (mở bài, thân bài, kết bài ) như các kiểu văn bản khác. Mở bài nhằm giới thiệu đối tượng và cảm xúc chính về đối tượng. Phần thân bài là sự phát triển các cảm xúc chính đã nêu ra ở phần mở bài. Phần kết bài khép lại các ý đã trình bày. c. Viết bài Viết bài văn biểu cảm là việc viết các đoạn văn và nối chúng với nhau, tạo thành chỉnh thể thống nhất. Khi viết bài cần thực hành thành thạo kĩ năng hành văn, đặt câu, sử dụng từ, chọn giọng điệu, cách bộc lộ cảm xúc phù hợp. Khi viết bài, kết nối các đoạn trong bài văn biểu cảm cần chú ý đến lôgíc phát triển của cảm xúc, của tình cảm. Theo lôgíc này, mỗi đoạn trong bài đều phải hướng vào làm nổi rõ lên cảm xúc chính, tình cảm chính. d. Sửa bài Đa số học sinh khi làm bài không biết cách phân phối thời gian hợp lí nên viết xong là nộp bài, thậm chí hết thời gian nhưng vẫn chưa làm xong bài. Do 5/19
- Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS đó, khâu tự sửa bài sau khi viết không được coi trọng. GV cần nhắc nhở các em chú trọng hơn đến việc sửa bài trước khi nộp. Như vậy: Để dạy tốt văn biểu cảm, giáo viên nên chú ý trước tiên đến việc đổi mới cách ra đề. Từ đề tài chung cho cả lớp (có tính định hướng chung), phải thực hiện quá trình cá thể hóa đề bài (quá trình hướng dẫn mỗi học sinh đi từ đề tài chung cho cả lớp đến việc xác định đề bài riêng, đề bài cụ thể phù hợp với vốn sống, với tình cảm, cảm xúc riêng của mỗi học sinh). Một lí luận sư phạm tôi đã rút ra được trong quá trình giảng dạy, đó là: Giáo viên không được bắt học sinh viết bài văn biểu cảm về đề tài các em chưa được sống, chưa có hiểu biết, có cảm xúc nếu giáo viên muốn học sinh làm tốt yêu cầu mình đưa ra. Khi chấm bài làm văn biểu cảm của học sinh, giáo viên nên coi trọng tính cá biệt, sự độc đáo trong suy nghĩ, rung động có trong nội dung hơn là độ dài của bài. Nếu bài văn biểu cảm của các em chỉ cần có được một, hai cảm nhận hoặc một, hai nội dung có sắc thái tình cảm riêng, các thầy cô giáo nên trân trọng, biểu dương và tỏ thái độ đánh giá cao qua cách cho điểm. Giáo viên cần hướng dẫn, khuyến khích và khuyến khích hơn nữa việc học sinh đọc sách, bắt đầu từ việc đọc các văn bản trong SGK. Thực tế cho thấy học sinh rất lười đọc sách dẫn đến đọc yếu, gây khó khăn cho việc cảm thụ văn bản. Chính vì thế, giáo viên cần khơi nguồn và nuôi dưỡng thói quen đọc sách của học sinh bằng cách: trong mỗi tiết dạy giáo viên lấy dẫn chứng, ví dụ, trích các câu nói, đoạn thơ, đoạn văn hay từ các sách tham khảo, sách nâng cao, các tác phẩm văn học và cho các em trực tiếp nhìn thấy. Khi giáo viên làm được như thế, không cần phải “Khua chiêng gõ mõ”, tự các em sẽ tìm đến với sách, làm bạn với sách. Khi bồi dưỡng học sinh năng khiếu văn, tôi phát hiện thấy học sinh thích dùng sách theo cô giáo, có lẽ là mong có tài liệu để làm đúng ý cô. Tôi đã cất công đến hiệu sách và tìm sách để đọc qua có tính chất “thẩm định sách ” tôi cung cấp cho các em sách nào tốt hợp với các em, tôi cũng dùng để khuyến khích các em đọc. Tôi thấy cách này cũng có hiệu quả vì học sinh của tôi đã thích mua sách tìm sách để đọc. Một học sinh muốn học tốt văn biểu cảm cần phải có kĩ năng diễn đạt trôi chảy, hấp dẫn. Giáo viên nên giao các bài tập rèn viết ở nhà cho học sinh sau mỗi tiết học. Đặc biệt, giáo viên nên hướng dẫn các em cách viết nhật kí để giúp các em nuôi dưỡng tình cảm đẹp khi còn ngồi trên ghế nhà trường. 6/19
- Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS * Giáo viên hướng dẫn cho học sinh biết cách tạo cảm xúc khi làm văn biểu cảm: Văn là cuộc sống, vì thế muốn có cảm xúc để viết văn biểu thì cần có cảm xúc với chính cuộc sống đời thường xung quanh chúng ta. Giáo viên nên khơi gợi cảm xúc của học sinh bằng cách nói chuyện gợi cho các em có cơ hội nói lên em thấy thế nào trước vật ấy, người ấy, sự việc ấy? Ví dụ khi biểu cảm về loài cây tôi thường hỏi các em thích cây nào? Vì sao em thích, vì sao em không thích? Nếu các em không trả lờí được tôi sẽ gợi ý cho các em: vẻ đẹp lơi ích , kỉ niệm gắn bó….với cây đó. Từ đó để các em nảy sinh tình cảm tích cực về các loài cây. Khi biểu cảm về người tôi hỏi các em ở khu chúng ta hiện nay có rất nhiều người lang thang và có vấn đề về thần kinh các em nghĩ gì khi gặp họ? Các em nói: sợ họ, ghét họ, thấy ghê tởm, thấy thương họ…. Tôi nói tiếp các em thử nghĩ nếu những người ấy là bố mẹ, cô dì, chú bác, anh em mình thì sao? Các em nghĩ một lát rồi đều nói là thương họ. Tôi cũng nói cho các em biết hàng ngày khi gặp họ tôi đã nghĩ gì cảm thấy thế nào, muốn làm gì. Tôi cảm nhận sau khi chia sẻ các em nảy sinh tình cảm rất tích cực. Hoặc trước khi viết bài về mẹ tôi đã chia sẻ cảm xúc của tôi khi mẹ mình mắc bệnh nan y và những cảm xúc của mình khi mẹ qua đời… Tất cả những chia sẻ ấy đã có ích rất nhiều trong việc khơi gợi, nuôi dưỡng cảm xúc của học sinh. Giáo viên chỉ cho học sinh thấy tất cả mọi thứ quen thuộc đôi khi ta không lắng lòng cảm nhận ta sẽ quên mất nó và vô cảm với nó rồi dần dần trái tim sẽ chai sạn, khô cằn. Biết nuôi cảm xúc là cách hiệu quả để có thể làm tốt văn biểu cảm. * Giáo viên hướng dẫn cho học sinh biết cách thể hiện cảm xúc khi làm văn biểu cảm: - Biểu cảm trực tiếp: Biểu cảm trực tiếp là cách diễn đạt tình cảm, cảm xúc, ý nghĩ của người viết một cách rõ ràng bằng các từ ngữ, câu chữ chứ không phải thông qua các hình thức biểu hiện khác. Đây là cách dùng phổ biến trong văn biểu cảm. Học sinh vận dụng cách biểu cảm trực tiếp vào bài viết cũng dễ dàng hơn hình thức biểu cảm gián tiếp vì nó dễ nhận biết, dễ thực hiện và dễ tác động một cách trực tiếp đến tình cảm của người đọc. Nhưng nếu vận dụng không khéo, bài viết của các em dễ rơi vào tình trạng giả tạo, gượng ép, sáo mòn, gây phản cảm cho người đọc. Vì thế khi viết bài các em cần chú ý kĩ năng vận dụng cách tạo cảm xúc sao cho tự nhiên, chân thực. Hình thức biểu cảm trực tiếp thường sử dụng các cách tạo cảm xúc sau: 7/19
- Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS + Sử dụng từ ngữ biểu cảm: Sử dụng những động từ chỉ cảm xúc, trạng thái tình cảm của con người: Ví dụ: “Tôi phập phồng cùng những nụ hoa đang bắt đầu hé nở. Tôi mê mẩn trước những bông hoa đang tỏa bừng rực rỡ. Tôi ngây ngất trước những hàng hoa đang lặng lẽ đưa hương, như muốn ủ vào đất, ướp lên trời, như muốn len vào hồn người. Tôi ngạc nhiên cùng mảnh đất ấy, âm thầm và lặng lẽ, giản dị và lớn lao, suốt đời đất ở dưới chân người bất ngờ bung lên tỏa bao sắc màu…” ( Trích Loài hoa tôi yêu – Hạ Huyền ) Nhận xét: Trong đoạn văn trên để bộc lộ cảm xúc của mình về các loài hoa, tác giả sử dụng những động từ chỉ trạng thái cảm xúc một cách tự nhiên say mê. Sử dụng từ ngữ gợi hình, gợi cảm, đặc biệt từ tượng thanh, tượng hình: Ví dụ: “Hằng năm, cứ vào cữ hạ sớm này, người Hà Nội lại được hưởng những cơn mưa lá sấu vang ào ạt rơi trong hương sấu dìu dịu thơm thơm. Hương lá sấu dịu dàng, ướp cả bầu không khí tinh khôi khiến ta muốn hít thật sâu cho căng tràn lồng ngực... Những mảng hoa hình sao màu trắng chao nghiêng trong gió, đậu xuống mái tóc các cô gái lấm tấm khắp cả mặt đường…” ( Tạ Việt Anh ) Nhận xét: Trong đoạn văn trên để bộc lộ cảm xúc của mình về cây sấu, hoa sấu, mùi hương của hoa tác giả sử dụng những từ láy gợi tình yêu, sự gắn bó với cây sấu Hà Nội. Qua đó bộc lộ tình yêu của Hà Nội của người viết. + Dùng từ cảm thán, câu cảm thán: Ví dụ: “ Bố ơi! Bố chữa làm sao được lành lặn đôi bàn chân ấy: đôi bàn chân dầm sương dãi nắng đã thành bệnh” ( Tuổi thơ im lặng – Duy Khán ) Ví dụ: “ Quê tôi lắm nằng nhiều mưa… Chao ôi! Sức sống của cây cau sao mà bền bỉ, mãnh liệt như vậy!” Nhận xét: Trong hai ví dụ trên tác giả bộc lộ cảm xúc trực tiếp bằng từ cảm thán và câu cảm thán. - Biểu cảm gián tiếp: Là cách biểu đạt tình cảm, cảm xúc, ý nghĩ của người viết thông qua các hình thức biểu hiện khác như dùng biện pháp tu từ ẩn dụ, tượng trưng… Ngoài ra cũng có thể diến đạt qua cảnh vật, con người có liên quan đến cảm nghĩ; trong trường hợp này họ thường sử dụng yếu tố từ sự, miêu tả để khêu gợi cảm xúc. 8/19
- Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS + Dùng biện pháp tu từ ẩn dụ tượng trưng: Ví dụ: “ Thân gầy guộc, lá mong manh Mà sao nên lũy, nên thành tre ơi? (…) Nòi tre đâu chịu mọc cong Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường Lưng trần phơi nắng phơi sương Có manh áo cộc tre nhường cho con ” ( Tre Việt Nam – Nguyễn Duy ) Nhận xét: Nhà thơ Nguyễn Duy đã lấy cây tre làm hình ảnh ẩn dụ để thể hiện cảm nghĩ về con người Việt Nam. Bằng cách này tác giả tạo ra hai lớp nghĩa cho bài thơ: ca ngợi đặc điểm của cây tre, ca ngợi phẩm chất của con người Việt Nam kiên cường bất khuất nhưng giàu lòng yêu thương, đùm bọc, nhân hậu. + Dùng yếu tố tự sự, miêu tả: Yếu tố miêu tả: Ví dụ: “ Những ngón chân của bố khum khum, lúc nào cũng như bám vào đất để khỏi trơn ngã. Người ta nói “Đấy là bàn chân vất vả”. Gan bàn chân bao giờ cũng xám xịt và lỗ rỗ, bao giờ cũng khuyết một miếng, không đầy đặn như gan bàn chân người khác. Mu bàn chân mốc trắng, bong da từng bãi, lại có nốt lấm tấm….” (Tuổi thơ im lặng- Duy Khán) Nhận xét: Qua việc miêu tả bàn chân của bố, tác giả đã thể hiện lòng thương cảm, thấu hiểu sự vất vả, nhọc nhằn của bố. Tác giả đã truyền đến người đọc tình yêu với người cha sâu sắc. Yếu tố tự sự: Ví dụ: “Bố đi chân đất. Bố đi ngang dọc đông tây đâu đâu con không hiểu. Con chỉ thấy ngày nào bố cũng ngâm chân xuống nước, xuống bùn để câu quăng. Bố tất bật đi từ khi sương còn đẫm cành cây, ngọn cỏ. Khi bố về cũng là lúc cây cỏ đẫm sương đêm…” (Tuổi thơ im lặng- Duy Khán) Nhận xét: Đoạn văn đã kể lại những việc bố làm nhưng không nhằm mục đích để kể mà để thể hiện tình cảm của con với bố. Như vậy các yếu tố miêu tả, tự sự có tác dụng là phương tiện khơi gợi cảm xúc, làm cho cảm xúc được thăng hoa. + Dùng câu hỏi tu từ và các biện pháp nghệ thuật khác: 9/19
- Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS Ví dụ: “Nước biển Cô Tô sao chiều nay nó xanh quá quắt đến như vậy? (...) Cái màu xanh luôn luôn biến đổi của nước biển chiều nay trên biển Cô Tô như là thử thách cái vốn từ vị của mỗi đứa tôi đang nổi gió trong lòng. Biển xanh như gì nhỉ? Xanh như lá chuối non? Xanh như lá chuối già? Xanh như mùa thu ngả cốm làng Vòng? Nước biển Cô Tô đang đổi từ vẻ xanh này sang vẻ xanh khác. Nó xanh như cái màu áo Kim Trọng trong tiết Thanh Minh? Đúng một phần thôi. Bởi vì con sóng vừa dội lên kia đã gia giảm thêm một chút gì, đã pha biến sang màu khác. Thế thì nước biển xanh như cái vạt áo nước mắt của ông quan Tư mã nghe đàn tỳ bà trên con sóng Giang Châu thì có đúng không? Chưa được ư? Thế thì nó xanh như một màu áo cưới, được không? Hay là nói thế này: nước biển chiều nay xanh như một trang sử của loài người, lúc con người còn phải viết vào thân tre? Nghe hơi trừu tượng phải không?...” (Cô Tô – Nguyễn Tuân) Nhận xét: Tác giả thể hiện sự bất ngờ, sự say mê, thích thú của mình trước vể đẹp kì diệu của nước biển Cô Tô qua các hình ảnh so sánh, câu hỏi tu từ. + Dùng các kết cấu trùng điệp, điệp từ, điệp ngữ: Ví dụ: “Tôi yêu Sài Gòn da diết như người đàn ông vẫn ôm ấp bóng dáng mối tình đầu chứa nhiều ngang trái. Tôi yêu trong nắng sớm, một thứ nắng ngọt ngào, vào buổi chiều lộng gió nhớ thương, dưới những cây mưa nhiệt đới bất ngờ. Tôi yêu thời tiết trái chứng với trời đang ui ui buồn bã, bỗng nhiên trong vắt lại như thủy tinh. Tôi yêu cả đêm khuya thưa thớt tiếng ồn. Tôi yêu phố phường náo động, dập dìu xe cộ vào những giờ cao điểm. Yêu cả cái tĩnh lặng của buổi sáng tinh sương với làn không khí mát dịu, thanh sạch trên một số đường còn nhiều cây xanh che chở”. (Sài Gòn tôi yêu- Minh Hương) Nhận xét: Tác giả đã bộc lộ tình yêu của mình với Sài Gòn nồng nhiệt, sâu sắc qua biện pháp tu từ điệp từ, điệp cấu trúc. Giọng văn tha thiết nhịp nhàng cũng chính là do các biện pháp này tạo ra. Rõ ràng người đọc đã rất ấn tượng với cảm xúc của tác giả. Rõ ràng nếu giáo viên hướng dẫn học sinh cách biểu cảm cụ thể, giúp học sinh học biểu cảm theo những ví dụ cụ thể thì học sinh sẽ hiểu và nhanh chóng nắm bắt được kỹ năng biểu cảm. Phân biệt văn tự sự, miêu tả với việc dùng tự sự, miêu tả để biểu cảm, chứ không nhầm biểu cảm thành kể, tả. 10/19
- Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS 3.2: Đối với học sinh Để học tốt văn biểu cảm, cần biết tạo nên cảm xúc; bởi cảm xúc là sự cảm thụ của trái tim, của tấm lòng và tình cảm người học. Các em hãy đến với giờ văn bằng trái tim, bằng tấm lòng của mình thì những cung bậc tình cảm vui, buồn, thương, hờn giận từ bài giảng của thầy cô sẽ đi vào lòng các em. Các em sẽ biết thương cảm những số phận bất hạnh, biết căm ghét sự bất công, cái xấu, cái ác; biết yêu thiên nhiên hoa cỏ, yêu quê hương đất nước, “Người với người sống để yêu nhau” ( Tố Hữu). Để làm tốt một bài văn biểu cảm, khi làm bài, trước tiên, các em cần định rõ cho mình các yêu cầu cụ thể để biến đề tài chung cho cả lớp thành đề bài của riêng mình. Sau đó, cần xác định rõ những tình cảm cảm xúc, những rung động nào là mạnh mẽ, là riêng của mình. Hãy tập trung trình bày những tình cảm, cảm xúc, suy nghĩ đó một cách trực tiếp hoặc gián tiếp (qua miêu tả cảnh vật, qua một câu chuyện . . . ). Các em cần chú ý đến sự riêng biệt, độc đáo của nội dung hơn là ham viết dài. Đồng thời, cần lựa chọn các từ ngữ, hình ảnh (so sánh ví von, so sánh ngầm . . . )thích hợp để diễn tả những tình cảm, cảm xúc, suy nghĩ của mình. Điểm quan trọng nhất để làm bài văn biểu cảm đạt kết quả cao là tự bản thân các em hãy tích cực đọc sách, tích cực tham gia các hoạt động trong nhà trường, ngoài xã hội để có thêm vốn sống, vốn hiểu biết. Các em nên viết nhật ký hoặc những bài viết ngắn ghi nhanh lại cảm xúc của mình trong cuộc sống hàng ngày. Qua đó, các em cần chú ý rèn luyện cho tâm hồn mình trở nên chứa chan những tình cảm yêu, ghét, buồn, thương, hờn giận, nhớ nhung . . . dạt dào những suy nghĩ đẹp đẽ cao thượng về tình bạn, tình yêu thương cha mẹ thầy cô, yêu quê hương đất nước . . . Đó là cái gốc to, là những chùm rễ sâu cung cấp chất bổ dưỡng cho cây văn biểu cảm luôn xanh tươi, nở hoa, kết trái. 4. Hiệu quả của sáng kiến: Qua rút kinh nghiệm và thay đổi, áp dụng những giải pháp nêu trên tôi nhận thấy chất lượng dạy và học văn biểu cảm ở môn văn khối 7 năm học 2016– 2017 được nâng cao rõ rệt. Ở phương diện là một giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy, tôi thấy mình vững vàng hơn trong chuyên môn; tự tin say mê hơn với sự nghiệp trồng người. Ai đó đã từng nói “Nghiệp văn là nghiệp khổ” nhưng tôi chẳng thấy khổ chút nào mà ngược lại, tôi thấy mình sung sướng hạnh phúc vì được cống hiến, góp sức mình làm đẹp cho đời. Đối với các em học sinh, các em bước đầu đã ý thức được tầm quan trọng của môn văn, biết bộc lộ cảm xúc của 11/19
- Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS mình đúng cách, đúng nơi, đúng lúc. Số lượng học sinh có kĩ năng làm văn biểu cảm tốt khá nhiều. * Tôi ra đề văn biểu cảm cho bài viết tập làm văn số 3: Biểu cảm về một người mà em yêu quý( Cha mẹ, thầy cô giáo, bạn bè.) Và đây là bài viết của một số em: Bài thứ nhất; “Đêm nay con ngủ giấc tròn Mẹ là ngọn gió của con suốt đời.” Trong cuộc đời này, có ai lại không được lớn lên trong vòng tay của mẹ, được nghe tiếng ru hời ầu ơ ngọt ngào, có ai lại không dược chìm vào giấc mơ trong gió mát tay mẹ quạt mỗi trưa hè oi ả. Và trong cuộc đời này, có ai yêu con bằng mẹ, có ai suốt đời vì con giống mẹ, có ai sẵn sàng sẻ chia ngọt bùi cùng con như mẹ. Với tôi cũng vậy, mẹ là người quan tâm đến tôi nhất và cũng là người mà tôi yêu thương và mang ơn nhất trên đời này. Tôi vẫn thường nghĩ rằng mẹ tôi không đẹp. Không đẹp vì không có cái nước da trắng, khuôn mặt tròn phúc hậu hay đôi mắt long lanh… mà mẹ chỉ có khuôn mặt gầy gò, rám nắng, vấng trán cao, những nếp nhăn của cái tuổi 40,của bao âu lo trong đời in hằn trên khóe mắt. Nhưng bố tôi bảo mẹ đẹp hơn những phụ nữ khác ở cái vẻ đẹp trí tuệ. Đúng vậy, mẹ tôi thông minh, nhanh nhẹn, tháo vát lắm. Trên cương vị của một người lãnh đạo, ai cũng nghĩ mẹ là người lạnh lùng, nghiêm khắc. có những lúc tôi cũng nghĩ vậy. nhưng khi ngồi bên mẹ, bàn tay mẹ âu yếm vuốt tóc tôi, mọi ý nghĩ đó tan biến hết. Tôi có cả giác lâng lâng, xao xuyến khó tả, cảm giác như chưa bao giờ tôi được nhận nhiều yêu thương đến thế. Dường như một dòng yêu thương mãnh liệt qua bàn tay mẹ truyền vào sâu trái tim tôi, qua ánh mắt, đôi môi trìu mến, qua nụ cười ngọt ngào, … qua tất cả những gì của mẹ. tình yêu ấy chỉ khi người ta gần bên mẹ lâu rồi mói cảm thấy đuợc thôi. Từ nhỏ đến lớn, tôi đón nhận tình yêu vô hạn của mẹ như một ân huệ, môt điều đương nhiên. Trong con mắt một đứa trẻ, mẹ sinh ra là để chăm sóc con. Chưa bao giờ tôi tự đặt câu hỏi: Tại sao mẹ chấp nhận hy sinh vô điều kiện vì con? Mẹ tốt, rất tốt với tôi nhưng có lúc tôi nghĩ mẹ thật quá đáng, thật… ác. Đã bao lần, mẹ mắng tôi, tôi đã khóc. Khóc vì uất ức, cay đắng chứ đâu khóc vì hối hận. Rồi cho đến một lần… Tôi đi học về, thấy mẹ đang đọc trộm nhật ký của mình. Tôi tức lắm, giằng ngay cuốn nhật ký từ tay mẹ và hét to:“ Sao mẹ quá đáng thế! Đây là bí mật của con, mẹ không có quyền động vào. Mẹ ác lắm, con không cần mẹ nữa! ” Cứ tưởng, tôi sẽ ăn một cái tát đau điếng. Nhưng 12/19
- Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS không mẹ chỉ lặng người, 2 gò má tái nhợt, Khóe mắt rưng rưng. Có gì đó khiến tôi không dám nhìn thẳng vào mắt mẹ. Tôi chạy vội vào phòng, khóa cửa mặc cho mẹ cứ gọi mãi ở ngoài. Tôi đã khóc, khóc nhiều lắm, ướt đẫm chiếc gối nhỏ. Đêm càng về khuya, tôi thao thức, trằn trọc. Có cái cảm giác thiếu vắng, hụt hẫng mà tôi không sao tránh được. Tôi đã tự an ủi mình bằng cách tôi đang sống trong một thế giới không có mẹ, không phải học hành, sẽ rất hạnh phúc. Nhưng đó đâu lấp đầy dược cái khoảng trống trong đầu tôi. Phải chăng tôi thấy hối hận? Phải chăng tôi đang thèm khát yêu thương? … Suy nghĩ miên man làm tôi thiếp đi dần dần. Trong cơn mơ màng, tôi cảm thấy như có một bàn tay ấm áp, khẽ chạm vào tóc tôi, kéo chăn cho tôi. Đúng rồi tôi đang mong chờ cái cảm giác ấy, cảm giác ngọt ngào đầy yêu thương. Tôi chìm đắm trong giây phút dịu dàng ấy, cố nhắm nghiền mắt vì sợ nếu mở mắt, cảm giác đó sẽ bay mất, xa mãi vào hư vô và trước mắt ta chỉ là một khoảng không thực tại. Sáng hôm sau tỉnh dậy, tôi cảm thấy căn nhà sao mà buồn thế. Có cái gì đó thiếu đi. Sáng đó, tôi phải ăn bánh mỳ, không có cơm trắng như mọi ngày. Tôi đánh bạo, hỏi bố xem mẹ đã đi đâu. Bố tôi bảo mẹ bị bệnh, phải nằm viện một tuần liền. Cảm giác buồn tủi đã bao trùm lên cái khối óc bé nhỏ của tôi. Mẹ nằm viện rồi ai sẽ nấu cơm, ai giặt giữ, ai tâm sự với tôi? Tôi hối hận quá, chỉ vì nóng giận quá mà đã làm tan vỡ hạnh phúc của ngôi nhà nhỏ này. Tại tôi mà mẹ ốm. Cả tuần ấy, tôi rất buồn. Nhà cửa thiếu nụ cười của mẹ sao mà cô độc thế. Bữa nào tôi cũng phải ăn cơm ngoài, không có mẹ thì lấy ai nấu những món tôi thích. Ôi sao tôi nhớ đến thế những món rau luộc, thịt hầm của mẹ quá luôn. Sau một tuần, mẹ về nhà, tôi là người ra đón mẹ đầu tiên. Vừa thấy tôi, mẹ đã chạy đến ôm chặt tôi. Mẹ khóc, nói: “ Mẹ xin lỗi con, mẹ không nên xem bí mật của con. Con … con tha thứ cho mẹ, nghe con.” Tôi xúc động nghẹn ngào, nước mắt tuôn ướt đẫm. Tôi chỉ muốn nói: “ Mẹ ơi lỗi tại con, tại con hư, tất cả tại con mà thôi. ” . Nhưng sao những lời ấy khó nói đến thế. Tôi đã ôm mẹ, khóc thật nhiều. Chao ôi! Sau cái tuần ấy tôi mới thấy mẹ quan trọng đến nhường nào. Hằng ngày, mẹ bù đầu với công việc mà sao mẹ như có phép thần. Sáng sớm, khi còn tối trời, mẹ đã lo cơm nước cho bố con. Rồi tối về, mẹ lại nấu bao nhiêu món ngon ơi là ngon. Những món ăn ấy nào phải cao sang gì đâu. Chỉ là bữa cơm bình dân thôi nhưng chứa chan cái niềm yêu tương vô hạn của mẹ. Bố con tôi như những chú chim non đón nhận từng giọt yêu thương ngọt ngào từ mẹ. Những bữa nào không có mẹ, bố con tôi hò nhau làm việc toáng cả lên. Mẹ còn giặt giũ, quét tước nhà cửa… việc nào cũng chăm chỉ hết. Mẹ đã cho tôi tất cả nhưng tôi chưa báo đáp được gì cho mẹ. Kể cả những lời yêu thương tôi cũng chưa nói bao giờ. Đã bao lần tôi 13/19
- Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS trằn trọc, lấy hết can đảm đẻ nói với mẹ nhưng rồi lại thôi, chỉ muốn nói rằng: Mẹ ơi, bây giờ con lớn rồi, con mới thấy yêu mẹ, cần mẹ biết bao. Con đã biết yêu thương, nghe lời mẹ. Khi con mắc lỗi, mẹ nghiêm khắc nhắc nhở, con không còn giận dỗi nữa, con chỉ cúi đầu nhận lỗi và hứa sẽ không bao giờ phạm phải nữa. Khi con vui hay buồn, con đều nói với mẹ để được mẹ vỗ về chia sẻ bằng bàn tay âu yếm, đôi mắt dịu dàng. Mẹ không chỉ là mẹ của con mà là bạn, là chị… là tất cả của con. Con lớn lên rồi mới thấy mình thật hạnh phúc khi có mẹ ở bên để uốn nắn, nhắc nhở. Có mẹ giặt giũ quần áo, lau dọn nhà cửa, nấu ăn cho gia đình. Mẹ ơi, mẹ hy sinh cho con nhiều đến thế mà chưa bao giờ mẹ đòi con trả công. mẹ là người mẹ tuyệt vời nhất, cao cả nhất, vĩ đại nhất. Đi suốt đời này có ai bằng mẹ đâu. Có ai sẵn sàng che chở cho con bất cứ lúc nào. Ôi mẹ yêu của con! Giá như con đủ can đảm đẻ nói lên ba tiếng: “ Con yêu mẹ! ” thôi cũng được. Nhưng con đâu dũng cảm, con chỉ điệu đà ủy mỵ chứ đâu được nghiêm khắc như mẹ. Con viết những lời này, dòng này mong mẹ hiểu lòng con hơn. Mẹ đừng nghĩ có khi con chống đối lại mẹ là vì con không thích mẹ. Con mãi yêu mẹ, vui khi có mẹ, buồn khi mẹ gặp điều không may. mẹ là cả cuộc đời của con nên con chỉ mong mẹ mãi mãi sống để yêu con, chăm sóc con, an ủi con, bảo ban con là và để con được quan tâm đến mẹ, yêu thương mẹ trọn đời. Tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng nhất trên đời này. Tình cảm ấy đã nuôi dưỡng bao con người trưởng thành, dạy dỗ bao con người khôn lớn. Chính mẹ nguời đã mang đến cho con thứ tình cảm ấy. Vì vậy, con luôn yêu thương mẹ, mong được lớn nhanh để phụng dưỡng mẹ. Và con muốn nói với mẹ rằng: “ Con dù lớn vẫn là con của mẹ Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con. ” ( Bài viết của em: Nguyễn Phương Ly lớp 7A1) Nhận xét: Bài văn của em đã gợi nhiều xúc động cho người đọc bởi tình cảm, cảm xúc em dành cho mẹ rất chân thật tự nhiên, ấm áp tình cảm mẹ con mà không hề khuôn mẫu. 14/19
- Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS Bài thứ 2: Ngày xửa ngày xưa, trái đất tưới thắm hót ca chào mừng một cô giáo tương lai ra đời…Thiên sứ đã giao nhiệm vụ cho cô giáo ấy phải đưa những cô, cậu bé lần lượt lên đò sang bờ bên kia của kiến thức và đỉnh cao của thành đạt…. Đều đặn hằng năm cô giáo ấy lại đón rồi đưa, lại chắp thêm đôi cánh cho mấy đứa nhóc tẹo vừa ngoan vừa dễ thương và hãy còn ngây ngô khờ khạo bay vào trời xanh… (trích lưu bút) Thế đấy các bạn ạ…Thầy cô của chúng ta hàng năm đều thầm lặng đưa đò, đưa chúng ta đến đỉnh cao của thành đạt…nhưng có bao giờ khi thành đạt xong chúng ta đã quay lại thăm hỏi thầy cô chưa? Phần lưu bút ở trên là của cô giáo lớp 5 viết cho mình…bạn sẽ không biết được niềm vui của những người thầy, người cô khi thấy học trò mình thành đạt…và bạn sẽ càng không thể biết được cảm giác hạnh phúc của thầy cô khi thấy những chuyến đò đã qua sông rồi nhưng vẫn luôn nhớ đến chuyến đò năm cũ… Nhiều khi những cử chỉ nhỏ bé của bạn thôi nhưng cũng đủ kết thành vòng hoa tô thắm cho cái nghề cái nghiệp của thầy cô… 20/11 lại sắp đến rồi…năm nay tôi không thể về thăm trường được nhưng vẫn muốn gửi một chút tấm lòng theo gió, theo mây vượt ngàn dặm để gửi đến thầy cô những lời biết ơn trân tình nhất….. Vượt gió, vượt mây Vượt ngàn đại dương Con đến bên Người……những chuyến đò thầm lặng…. “Nhất tự vi sư.. bán tự vi sư..” Quay tới quay lui, lại một mùa 20/11 nữa về. Bâng khuâng nhìn lại mái trường xưa… Tìm đến với thầy cô xưa, những con người cả đời đưa đò.. thầm lặng.. Em biết khóc, biết cười trước những cảnh đời.. biết đứng lên khi té ngã.. biết nhặt lấy cây gai trên đường để bảo vệ bàn chân những người đi sau. Em biết thế nào là hy sinh, thế nào là cuộc sống.. biết yêu gia đình và yêu quê hương.. Thầy dạy em biết quý thời gian, trọng chữ tín, biết giữ lòng trong sạch.. để ngẩng cao đầu với bạn bè.. Cuộc đời thầy đưa biết bao nguời qua dòng sông tri thức.. 15/19
- Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS Dòng sông vẫn cứ êm trôi.. tóc thầy bạc đi, mắt thầy nheo lại nhưng vẫn luôn vững tay chèo và hết lòng vì thế hệ trẻ.. bao nhiêu người khách đã sang sông ? bao nhiêu khát vọng đã vào bờ ? Bao nhiêu ước mơ thành sự thực..? Có mấy ai sang bờ biết ngoái đầu nhìn lại thầy ơi.. Xin dành riêng nơi đây để chúng em nhìn lại dòng sông xưa, nhìn lại thầy, nhìn lại chính bản thân mình. Và gửi tới thầy cô lời biết ơn trân trọng nhất. ( Bài viết của em Nguyễn Khánh Huyền- 7A1) Nhận xét: Bài văn biểu cảm về người thầy của em rất xúc động. Em đã biết vận dụng các phương pháp làm bài văn biểu cảm: biểu cảm trực tiếp, gián tiếp. Đặc biệt là sử dụng dấu chấm lửng và câu hỏi tạo nên sức hấp dẫn của bài văn. *Kết quả điểm trung bình môn văn học kì I năm học 2016 – 2017 là rất khả quan: Tỉ lệ học sinh Tỉ lệ học sinh Tỉ lệ học sinh Tỉ lệ học sinh Tỉ lệ học sinh giỏi khá trung bình yếu kém 16,5% 71% 12,5% 0 0 16/19
- Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận: Có lẽ trong nhà trường không có môn khoa học nào có thể thay thế được môn văn. Đó là môn học vừa hình thành nhân cách vừa hình thành tâm hồn. Trong thời đại hiện nay, khoa học kĩ thuật phát triển rất nhanh, môn văn sẽ giữ lại tâm hồn con người, giữ lại những cảm giác nhân văn để con người tìm đến với con người, trái tim hòa cùng nhịp đập trái tim. Sau khi nghiên cứu, tham khảo sáng kiến kinh nghiệm này, bản thân người dạy và người học sẽ có cái nhìn mới mẻ, tích cực hơn về phương pháp dạy và học văn biểu cảm. Từ đó, rất hi vọng kết quả học văn của các em sẽ tốt hơn; các em sẽ yêu thích, ham mê môn văn hơn nữa. 2. Một số kiến nghị: 2.1. Đối với thầy cô: Môn Ngữ văn là một môn khoa học xã hội tương đối khó, văn biểu cảm ở lớp 7 khi giảng dạy cho học sinh thật chẳng dễ dàng một chút nào chính vì vậy trong quá trình gỉảng dạy người thầy cần tận tình, tỷ mỷ,chu đáo, luôn tìm tòi sáng tạo để tìm ra phương pháp giảng dạy thích hợp phù hợp vối mọi đối tượng học sinh. Giáo viên cần đưa ra hệ thống bài tập một cách chủ động từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. thầy cần thường xuyên kiểm tra kỹ năng viết của học sinh để chấm chữa một cách chính xác, đều đặn. 2.2. Đối với trò: Cần chủ động, tích cực, tự giác tham gia vào quá trình học tập 2.3. Đối với phụ huynh - Quan tâm hơn đến việc học hành của con em mình, đầu tư nhiều về thời gian cho con cái học tập, không nên để cho các em phụ giúp nhiều công việc gia đình. - Hướng dẫn và tạo cho con thói quen đọc sách; chia sẻ tư vấn, định hướng, bồi dưỡng tâm hồn cho con để các em có nhiều thuận lợi trong việc bộc lộ và phát triển cảm xúc, tình cảm trong cuộc sống nói chung và trong việc làm văn biểu cảm nói riêng. - Phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với giáo viên bộ môn văn để tìm hiểu, nắm bắt kịp thời tình hình học tập của con em mình. 2.4. Đối với các cấp lãnh đạo ngành: Nhìn chung bộ sách giáo khoa mới được biên soạn rất công phu, tỷ mỷ, khoa học hơn rất nhiều so với bộ sách giáo khoa trước đây. Các tiết học đưa vào 17/19
- Rèn kỹ năng làm văn biểu cảm cho học sinh THCS chương trình rất phù hợp, tiện cho việc tích hợp của thầy và trò, phát huy được tính tích cực của học sinh. Tuy nhiên từ thực tế sử dụng, tôi xin mạnh dạn có một số kiến nghị: - Phần văn biểu cảm được đưa vào chương trình giảng dạy với các em học sinh lớp 7 là tương đối khó với các em . Để các em có thể làm văn biểu cảm tốt nhất cần tăng thêm các tiết luyện tập cho các em. - Phần tiếng Việt các tiết “dùng cụm chủ vị để mở rộng câu”. Hệ thống đơn vị kiến thức cũng như các ví dụ đưa vào sách giáo khoa tương đối khó với các em. khiến cho việc tiếp thu bài của các em gặp không ít khó khăn. Tất nhiên những ý kiến của tôi chỉ mang tính cá nhân do đó còn hạn chế về nhiều mặt. Tôi rất mong ý kiến ý kiến của các bạn đồng nghiệp để quá trình giảng dạy của tôi thu được những kết quả tốt đẹp. Tôi xin trân trọng cám ơn! 18/19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn luyện kỹ năng giải bài toán bằng cách lập phương trình cho học sinh lớp 8
14 p | 59 | 12
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS thông qua các tiết sinh hoạt dưới cờ
36 p | 38 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn kỹ năng giải bài toán bằng cách lập phương trình cho học sinh lớp 8 trường THCS Bình Lư
13 p | 49 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phương pháp gây hứng thú tập luyện thể dục thể thao cho học sinh THCS
18 p | 77 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn luyện kỹ năng nói tiếng Anh cho học sinh lớp 6
16 p | 31 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn kỹ năng tự học Ngữ văn cho học sinh THCS qua hoạt động tự học ở nhà
40 p | 23 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số giải pháp rèn kĩ năng viết đoạn văn trình bày luận điểm cho học sinh lớp 8
12 p | 111 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn kỹ năng thực hành Tiếng Anh cho học sinh THCS theo hướng phát triển năng lực và tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo
26 p | 28 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn kĩ năng làm bài nghị luận xã hội trong đề thi vào lớp 10 môn Ngữ văn
17 p | 14 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn giáo dục công dân 6
19 p | 21 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn kĩ năng trả lời câu hỏi đọc hiểu trong đề thi môn Ngữ văn vào lớp 10
17 p | 16 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn luyện kỹ năng lập luận có căn cứ cho học sinh thông qua dạy Hình học 7
13 p | 14 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Một số biện pháp rèn kỹ năng viết CTHH của chất vô cơ trong chương trình Hoá học lớp 8 THCS
45 p | 15 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn kĩ năng giải bài toán bằng cách lập phương trình và hệ phương trình
23 p | 26 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn luyện kĩ năng dạy học văn thuyết minh
28 p | 10 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 6
18 p | 27 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9
23 p | 36 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Rèn luyện cho học sinh kỹ năng viết chương trình Pascal bằng nhiều phương pháp
24 p | 49 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn