intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Ngữ văn lớp 8 ở trường PTDT Nội Trú THCS và THPT

Chia sẻ: Khánh Thành | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:17

98
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm được hoàn thành với mục tiêu nhằm tăng sự tương tác giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với nhau nhằm khơi dậy sự hứng thú học tập môn ngữ văn cho học sinh. Thông qua đó giáo dục những kĩ năng cơ bản như tự học, tự nghiên cứu, trong hoạt động nhóm có biết phân công các nội dung để tìm ra điểm yếu, điểm mạnh của cá nhân.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Ngữ văn lớp 8 ở trường PTDT Nội Trú THCS và THPT

  1. CỘNG HOÀ XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc ĐƠN ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi: Hội đồng TĐ­ KT ngành Giáo dục – Đào tạo tỉnh Sơn La. 1. Tôi ghi tên dưới đây Tỷ lệ %  Chức  đóng  Nơi công  vụ/ Trình  TT Họ và tên Ngày sinh góp vào  tác chức  độ sáng  danh kiến  Cử  Giáo  nhân  1 100% viên khoa  học 2. Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: " Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Ngữ văn lớp 8 ở   trường PTDT Nội Trú THCS và THPT …….". 3. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:  ­ …………. ­ Trường PTDT Nội trú THCS và THPT huyện ……. 4. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:  Giáo dục 5. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:  ­ Năm học 2020 ­ 2021. 6. Mô tả bản chất của sáng kiến:  6.1. Tình trạng của giải pháp đã biết: a. Thuận lợi ­ Theo Nghị  Quyết số: 29­NQ/TW của Ban chấp hành Trung  ương ngày 4   tháng 11 năm 2013 về  “Đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo” một  trong những nội dung quan trọng là tăng cường  ứng dụng công nghệ  thông tin  vào giảng dạy và học tập.  ­ Ban giám hiệu nhà trường cùng đội ngũ giáo viên xác định  ứng dụng công  nghệ thông tin trong nhà trường là phương tiện dạy học hữu ích nhằm nâng cao   chất lượng giáo dục của nhà trường.
  2. 2
  3. 3 ­ Cơ  sở  vật chất phục vụ   ứng dụng công nghệ  thông tin trong dạy học  ở  nhà   trường được  ưu tiên hàng đầu. Mỗi phòng học đều được bố  trí 1 máy chiếu cố  định, mỗi lớp đều có hệ thống wifi để phục vụ cho công tác giảng dạy. ­  Ban giám  hiệu  nhà trường luôn sát sao  chỉ   đạo giáo viên về  chuyên môn,  thường xuyên dự giờ thăm lớp để nâng cao chất lượng giảng dạy. ­ Giáo viên về  cơ  bản có trình độ  tin học, ham học hỏi, sáng tạo và thường   xuyên ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy. ­ Học sinh hứng thú với các tiết học có sử  dụng công nghệ  thông tin. Có trên   80,1% học sinh sử  dụng điện thoại thông minh để  tìm kiếm tài liệu phục vụ  cho   việc học tập. b. Khó khăn:  ­ Bộ  môn Ngữ  văn là môn học về  ngôn từ, ít sử  dụng đồ  dùng dạy học và  phương tiện dạy học nên việc đầu tư  đồ  dùng dạy học cho môn học này là rất   hạn chế và dường như không có. Để quá trình dạy và học đạt được hiệu quả giáo   viên thường giao cho học sinh chuẩn bị bài theo hình thức phiếu bài tập.  ­ Khi giao phiếu học tập cho học sinh hoạt động cá nhân, để  đạt hiệu quả  thì  giáo viên phải photo bài cho từng học sinh (như thế rất tốn kém). Trong hoạt động  nhóm muốn trình bày sản phẩm của mình thì học sinh phải viết vào bảng phụ  có  sẵn hoặc giấy A0 (điều này phụ thuộc vào vị trí ngồi của HS thuận tiện cho việc   viết bảng phụ). Khi sử dụng thì cồng kềnh, mất thời gian treo lên tháo xuống, ....  ­ Tình trạng học sinh lười, chán học trở nên phổ biến nhất là đối với các môn xã  hội nói chung và môn Ngữ văn nói riêng. Trong giờ học, một số em luôn có những   biểu hiện như: ít phát biểu, khả  năng đọc bài yếu kém, khả  năng diễn đạt trong  quá trình làm bài lủng củng, thiếu mạch lạc và hành văn không mang tính văn   chương. Từ đó, các em có tâm lý chán nản, không còn hứng thú trong giờ học. Đây   là một vấn đề hết sức nan giải, gây khó khăn rất lớn đối với giáo viên dạy bộ môn   Ngữ văn. Nhưng khi sử dụng mạng xã hội hay điện thoại thông minh thì các em lại  rất hứng thú. ­ Yêu cầu đặt ra là làm thế nào để tạo hứng thú cho các em như khi giao nhiệm  vụ  học tập cho học sinh mà không mất thời gian, không tốn kém. Hơn nữa trong   quá trình chuẩn bị  tôi có thể  hỗ  trợ  và có thể  dùng sản phẩm (các phiếu bài tập,   các sản phẩm dự  án….) của các em làm đồ  dùng trực quan phục vụ  cho tiết dạy  được tốt hơn. Xét thấy những phương tiện dạy học của nhà trường chưa đáp ứng  được hết những yêu cầu trên. Chỉ  có những phương tiện dạy học hiện đại (máy  chiếu vật thể) mới có thể giải quyết được những khó khăn đó. 
  4. 4 c. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng:  ­ Nhà trường đã trang bị  các thiết bị  dạy học tương đối đầy đủ. Tuy nhiên  những thiết bị ấy mới đáp ứng được phần nào yêu cầu của dạy học tích cực.  ­ Nhiều giáo viên trong trường hào hứng với việc ứng dụng công nghệ thông tin   vào giảng dạy. Nhưng hiệu quả chưa cao, chưa gây hứng thú cho học sinh.  ­ Với quan điểm của bản thân tôi là  ứng dụng công nghệ  thông tin vào giảng   dạy không chỉ dừng lại ở việc khai thác, sử dụng thiết bị có sẵn trong nhà trường  mà người giáo viên cần sáng tạo kết hợp các thiết bị  khác nhằm tạo nên thiết bị  dạy học phong phú hơn giúp giải quyết những khó khăn trên.  Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học 2020 – 2021, ở học sinh khối lớp   8 như sau: Kết quả khảo sát học sinh khối 8 đầu năm: Tổng số Hứng thú Không hứng thú học sinh HS % TS % 68 38 55,9 30 44,1  6.2. Nội dung của giải pháp đề nghị công nhận  sáng kiến là: a) Mục đích của giải pháp: ­ Chia sẻ với đồng nghiệp một số ứng dụng công nghệ thông tin như :(mạng   xã hội: Zalo, Facebook…), các thiết bị như camera rời…, khi kết hợp với nhau có  thể sử dụng tích cực trong hoạt động dạy và học:  + Bước1: Tôi dùng mạng xã hội ­ Zalo trong việc hướng dẫn cũng như  kiểm tra việc học tại nhà của học sinh một cách có hiệu quả hơn. Thông qua đó có  thể kiểm tra, đánh giá năng lực tự học và mức độ siêng năng chăm chỉ của học sinh   không chỉ  trong các tiết học mà còn kiểm tra vào nhiều thời điểm thông qua hình  thức kiểm tra “trực tuyến” nhằm hạn chế bớt việc học sinh sử dụng mạng xã hội   vào những việc không có ích, mất thời gian của học sinh. + Bước 2: Dùng camera rời, máy tính  kết hợp với máy chiếu để  truyền  hình ảnh trực tiếp trong quá trình dạy học. Cách làm trên có chức năng gần giống  với máy chiếu vật thể giúp tôi dễ dàng chiếu phiếu học tập các em đã làm ở  nhà,  những bài tập các em làm trên lớp. Thông qua đó nhận xét, đánh giá kết quả  học  tập của các em mà không cần dùng bảng phụ (thường dùng là giâý A4­ cồng kềnh,  tốn kém, khó viết…), bảng nhóm mà HS cả  lớp vẫn dễ  dàng quan sát sản phẩm  của nhóm bạn.  + Qua giải pháp tôi mong muốn các đồng nghiệp chia sẻ  cùng tôi những   kinh nghiệm giảng dạy, trao đổi bàn luận để  tìm ra biện pháp thiết thực, khả  thi  
  5. 5 nhất, để đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay và nâng cao chất lượng   giáo dục bộ  môn ngữ  văn, giải quyết triệt để  tình trạng học sinh không có hứng  thú với môn học, lười tư duy, động não... Mục đích cuối cùng là tăng sự tương tác  giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với nhau nhằm khơi dậy sự hứng thú học  tập môn ngữ  văn cho học sinh. Thông qua đó giáo dục những kĩ năng cơ  bản như  tự  học, tự  nghiên cứu, trong hoạt động nhóm có biết phân công các nội dung để  tìm ra điểm yếu, điểm mạnh của cá nhân. Đặc biệt thông qua đó tôi giáo dục các   em kĩ năng tìm kiếm thông tin và sử dụng mạng xã hội một cách có ích nhất. b. Tính mới của giải pháp:  Để  nâng cao chất lượng giảng dạy bộ  môn Ngữ  văn tôi xin đưa ra 2 những giải pháp sau  ­ Giải pháp 1: Sử dụng mạng xã hội (Zalo) tạo nhóm cùng học tập của môn   Ngữ văn. + Điểm mới:  Những điểm khác biệt, tính mới của giải pháp mới so với giải  pháp cũ:  + Với cách làm cũ: Giáo viên muốn kiểm tra bài của HS thì GV phải giao bài   tập cho HS làm ở nhà, sau đó GV thu bài hoặc giải quyết ngay trên lớp. Điều này   gây nhiều bất tiện như là thời gian trên lớp không cho phép; khi kiểm tra bài tập   sau giờ  học tôi cần phải làm kiểm tra ngay để  trả  lại tập cho học sinh khi đó có  những lúc tôi có thể  không có thời gian để  làm công việc này vì phải có tiết dạy  trên lớp; số học sinh được kiểm tra không nhiều. + Với cách làm mới: Tôi có thể giao bài và kiểm tra bài làm học sinh bằng cách  yêu cầu các em chụp ảnh hoặc quay video bài tập của học sinh.   + Các bước tiến thực hiện: Bươc 1: T ́ ạo tài khoản Zalo Mỗi học sinh tạo một tài khoản Zalo và kết  bạn với giáo viên sau đó tạo một nhóm kết nối với nhau.       Bươc 2: Giao nhi ́ ệm vụ để học sinh thực hiện: Sau khi tạo nhóm trên Zalo giáo viên giao nhiệm vụ  cho học sinh để  các  em thực hiện những công việc giáo viên giao: Làm các bài tập  ở nhà sau khi đã học xong (thường thì khái quát văn bản  bằng sơ  đồ  tư  duy, lập hồ  sơ  người nổi tiếng, hồ  sơ  tác phẩm nổi tiếng, viết  đoạn văn với chủ đề cho trước, hoàn thiện các bài tập trên lớp chưa kịp giải quyết   xong….)
  6. 6 Yêu cầu các em tìm hiểu một vấn đề  nào đó liên quan đến bài học (tìm  hiểu về  tác phẩm, tóm tắt tắt tác phẩm, sân khấu hoá các văn bản, các phiếu bài   tập để chuẩn bị nội dung bài mới….).  Như vậy trong qúa trình chuẩn bị bài cũ, mới đều có sự tương tác giữa  giáo viên với học sinh, học sinh với học sinh. Thông qua hoạt động đó tôi có thể tư  vấn hay hướng dẫn các em giải quyết các vấn đề mà các em đang vướng mắc,  động viên chia sẻ với các em trong quá trình học tập, thông qua đó tôi nắm bắt  được tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của học sinh để kịp thời điều chỉnh những  suy nghĩ lệch lạc trong học tập của các em. Zalo còn là nơi lưu giữ những sản phẩm tốt của học sinh Giải pháp 2:  Dùng camera rời, ứng dụng mạng xã hội (zalo), máy tính kết   hợp với máy chiếu nhằm tăng tính tương tác trong dạy học môn Ngữ văn. ­ Điểm mới:  + Phiếu học tập làm ở nhà + Bài làm học sinh thực hiện trên lớp có thể đưa trực tiếp lên máy chiếu trong  tiết học tiết học để làm đồ dùng trực quan.  + Với cách làm này có thể vừa chiếu bài tập vừa chữa trực tiếp để  học sinh   quan sát. Các em có đồ dùng trực quan do mình làm ra thông qua đó các em sẽ nhận  ra điểm mạnh điểm yếu của bản thân để tự rút ra phương pháp học tập đúng đắn  và tích cực nhất.  ­ Các bước thực hiện giải pháp
  7. 7 * Chuẩn bị: + 01đế để camera, có thể xoay 180  độ. + Camera rời (chiếu rõ hình ảnh). + Máy tính cá nhân (PC). + Máy chiếu. • *Áp dụng vào giảng dạy:   Tôi thường áp dụng vào các tiết văn bản: phần kiến thức liên quan tác giả, tác  phẩm, phần khái quát văn học, tìm hiểu thêm nội dung 1 tác phẩm văn học dài (đã  giao nhiệm vụ ở nhóm Zalo).   Thực hiện:  Học sinh trình bày, cả  lớp quan sát và nhận xét. Giáo viên khẳng   định lại kiến thức trên phiếu học tập của các em, lớp quan sát và bổ sung vào vở. Ví dụ: Trước khi học đến các tiết văn bản tôi yêu cầu học sinh tìm hiểu mục 1. Đọc   và tìm hiểu chung: Tiểu sử, thân thế của Nam Cao, sự nghiệp sáng tác, tác phẩm,  đề tài của văn bản…theo phiếu yêu cầu. Tôi chụp ngẫu nhiên vở  của học sinh, chiếu lên máy chiếu và yêu cầu học   sinh đó lên trình bày sản phẩm của mình. Cho học sinh khác nhận xét (nội dung,  
  8. 8 cách trình bày, bổ  sung những thiếu sót và thông qua đó em học được gì từ  sản   phẩm của bạn). Sau khi học sinh thuyết trình, nhận xét. Giáo viên khái khát lại kiến thức, các  em so sánh với phần chuẩn bị của mình nếu thiếu sẽ  bổ  sung thông tin bằng bút   màu đỏ Khi thực hiện hoạt động này tôi tiết kiệm được nhiều thời gian cho phần I.   Tìm hiểu chung. Thời gian tiết kiệm được tôi cho học sinh thực hành làm phần mở  bài với 1 đề  văn cụ  thể  bằng cách tìm các từ  khoá trong phần kiến thức các em  vừa trình bày.  Sản phẩm thu được: Vận dụng: Hình thành kiến thức mới. * Cách thường làm: Khi khai thác kiến thức mới trong các tiết văn bản cần  tập trung thời gian ngắn tìm chi tiết chúng ta thường kẻ  phiếu học tập to (khổ  giấy A0, A1 cho học sinh dễ quan sát) sau đó yêu cầu 4 hoặc 8 nhóm tìm chi tiết.   Nhóm nào nhanh, chính xác được lên thuyết trình. Các nhóm khác bổ  sung, đối  chiếu, nhận xét. Khi thực hiện rất mất thời gian, và bảng nhóm hoạt động xong   thường vất vào một góc, ít sử  dụng lại. Đặc biệt không có thời gian rèn kĩ năng  trình bày cho các em. *. Điểm mới: Giáo viên vẫn chuẩn bị các nội dung như cách cũ nhưng phiếu  học tập có thể dùng giấy A4 hoặc vở soạn của học sinh, giấy nhớ. Chia nhóm và  rèn cho học sinh cách phân công nhau khi thực hiện hoạt động nhóm.    * Ví dụ: Ngữ văn 8 –tập 2 – Tiết 106: VĂN BẢN THUẾ MÁU Khi tìm hiểu mục 1. Chiến tranh và người bản xứ. Kiến thức  ở  đây là cần   học sinh tìm nhanh chi tiết số  phận của người bản xứ  trước và sau chiến tranh  cũng như cách các quan cai trị gọi người bản xứ. Giáo viên chỉ cần đưa phiếu học   tập, giao nhiệm vụ cho học sinh chú ý vào phần 1 của văn bản. Tìm chi tiết (giáo   viên chọn phương án nhóm 4 và gợi ý cho mỗi học sinh tìm một nội dung rồi thống   nhất thành sản phẩm nhóm). Sản phẩm của các em sẽ là những tờ giấy nhớ ghép  lại. Giáo viên chọn sản phẩm nhóm nào nhanh nhất, tốt nhất để  các em nhận xét,  
  9. 9 đánh giá, giáo viên đưa câu hỏi vận dụng để  chốt được nghệ  thuật, nội dung qua  hoạt động đó.  Vận dụng: Trò chơi điền bảng (hoạt động nhóm): * Cách thường làm: Trò chơi này dùng trong những giờ  ôn tập. Thay bằng  việc cho học sinh lập bảng thống kê kiến thức bình thường (tờ  phiếu A0), ta có   thể làm thành những thẻ (tờ phiếu) kiến thức, sau đó phát cho nhóm và yêu cầu các   nhóm học sinh dùng thẻ này để điền vào ô trống trên bảng thống kê. Mục tiêu cuối  cùng là giúp học sinh thống kê được kiến thức. Cách này nhẹ  nhàng mà huy động  được sự tham gia của cả lớp. Với cách làm này giáo viên chuẩn bị rất vất vả, tốn   thời gian, sản phẩm dùng xong thường bị vứt vào 1 góc. * Điểm mới: Giáo viên vẫn chuẩn bị  những nội dung trên nhưng lập bảng  thống kê kiến thức bình thường (tờ  phiếu A4), những thẻ  (tờ  phiếu nhỏ) kiến   thức. Các em ghép thẻ, chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ, nhóm nào nhanh giáo viên  chụp lên máy chiếu, các nhóm khác bổ sung, hoàn thiện sản phẩm của nhóm mình.  Đặc biệt khi học xong các em ghép phiếu vào vở ghi để làm tài liệu học tâp. * Ví dụ:    Ngữ văn 8 –tập 1 – Tiết 42:  ÔN TẬP TRUYỆN KÝ VIỆT NAM ­ Trong phần lập bảng thống kê các văn bản truyện ký Việt Nam, ta giữ lại  các ô: Tên các tác phẩm, thứ tự, tác giả, tác phẩm, thể loại, năm sáng tác, phương  thức biểu đạt, nội dung chủ yếu, đặc điểm nghệ thuật. Các ô nội dung khác bỏ  trống để học sinh dán thẻ kiến thức ­ Các nhóm học sinh nhận thẻ  kiến thức và tiến hành trao đổi thảo luận để  tìm và đưa ra những thẻ kiến thức phù hợp với các ô trống. ­ Đại diện các nhóm nhanh nhất lên trình bày và giáo viên tổng kết bằng   phiếu của nhóm nhanh và đúng nhất.  * Ví dụ:   Ngữ văn 8 – tập một:                           Tiết 58: LUYỆN NÓI: THUYẾT MINH VỀ MỘT THỨ ĐỒ DÙNG.   * Cách thường làm    ­ Giáo viên chia học sinh thành các nhóm và yêu cầu mỗi nhóm vẽ mặt nạ đồ  chơi. Các nhóm sẽ  vẽ  mặt nạ  đồ  chơi theo ý thích và thuyết trình về  đặc điểm,   công dụng... của nó.Khi trình bày, giáo viên nên cho học sinh treo sản phẩm lên và  giới thiệu. HS các nhóm khác nhận xét, bổ sung về bức vẽ, khả năng thuyết trình, 
  10. 10 kiến thức mà các nhóm trình bày. GV nhận xét, khuyến khích nhóm làm tốt, sáng  tạo . * Điểm mới:  Vẫn thực hiện theo cách vẫn làm nhưng yêu cầu các em trình bày vào giấy  A4, khi các em nộp sản phẩm giáo viên chụp và chiếu lên máy chiếu học sinh   thuyết trình.  Ưu điểm nổi bật là học sinh chuẩn bị  nhanh hơn, được nhiều sản   phẩm hơn, các em quan sát sản phẩm được rõ ràng hơn. Và tiết học này các em rất  hào hứng, khi dạy xong các em xin quay lại video các bước làm đồ chơi cũng như  thuyết trình lại để đưa lên nhóm.   Vận dụng trò chơi: Giải ô chữ hình thức thứ nhất (chủ yếu là hoạt động  cá nhân): * Đặc điểm: Trò chơi này khá quen thuộc và đã được áp dụng nhiều nhưng   nó lại được sự đón nhận rất nhiệt tình và hứng khởi của các em học sinh. Chính vì  thế, nó mang lại hiệu quả  cũng rất cao. Trò chơi này thích hợp với một giờ  văn   học hoặc tiếng Việt. Có thể áp dụng trò chơi này để  vào bài hoặc dùng ôn tập ở  cuối bài. *Chuẩn bị: Giáo viên hoặc học sinh soạn ra một bảng ô chữ  cùng các câu   hỏi đi kèm tương ứng với kiến thức của các ô hàng ngang cần thực hiện. Từ gợi ý  của các ô hàng ngang, học sinh dần dần tìm ra nội dung của ô hàng dọc – Đây là ô  chính mà nội dung của nó có tầm quan trọng đối với bài học mà học sinh cần nắm   chắc và ghi nhớ được. Hoặc GV có thể tô màu một số chữ trong từ hàng ngang để  học sinh tìm từ khóa bằng cách ghép các chữ tô màu đã tìm được. Bảng ô chữ này  có thể chuẩn bị bằng cách áp dụng công nghệ thông tin để tạo ra các sile trò chơi  trên Powerpoint.  * Ví dụ 1:  Ngữ văn 8 – tập một: Tiết 33+34: CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG  * Cách thường làm : ­ Dạy xong bài này, giáo viên cho học sinh tham gia vào trò chơi. Giáo viên có  thể chia ra nhóm hoặc cho HS chơi cá nhân thường dùng là hoạt động cá nhân.  ­ Yêu cầu của trò chơi: Học sinh nắm được những nội dung cơ  bản về  tác  giả  O Henri  và tác phẩm  “Chiếc lá cuối cùng”  cũng như  các  nhân vật trong  truyện. Đặc biệt, khi kết thúc trò chơi học sinh phải nắm được một trong những  phẩm chất cần thiết của con người trong mọi hoàn cảnh là “NGHỊ LỰC”
  11. 11 ­ Giáo viên dùng máy chiếu cho HS (cá nhân) lựa chọn câu hỏi để tìm từ hàng   ngang. Nếu HS (cá nhân) nào không trả  lời được theo thời gian quy định thì phải  nhường lượt cho HS khác tiếp tục trò chơi.  ­ Cụ thể:  Câu hỏi và đáp án từ hàng ngang: Câu 1(10 ô chữ): Tên một loài cây trong truyện?       Đáp án: Thường xuân Câu 2 (7 ô chữ): Chiếc lá cuối cùng không rụng khiến Giôn­xi như thế nào? Đáp án: Hồi sinh Câu 3 (5 ô chữ): Từ chỉ nghề nghiệp của các nhân vật trong truyện?  Đáp án: Họa sĩ Câu 4 (7 ô chữ): Hình ảnh xuyên suốt câu chuyện?  Đáp án: Chiếc lá Câu 5 (3 ô chữ): Tên một nhân vật trong truyện?    Đáp án: Xiu Từ khóa là: NGHỊ LỰC * Điểm mới: Dùng giấy nhớ cho hoạt động nhóm 4 học sinh thi giữa các đội  với nhau, cùng nghe dữ  liệu, viết ra giấy so xem nhóm nào nhanh hơn, đúng hơn.   Sẽ kích thích sự hứng thú các em hơn là hoạt động từng cá nhân trả lời. c) Ưu, nhược điểm của giải pháp mới:        Giải pháp 1: *Ưu điểm:   + Đối với giáo viên: Chuẩn bị kế hoạch và nội dung công việc giao cho học  sinh ở nhà; kiểm tra những công việc giao cho học sinh trước đó trong thời gian ở  nhà hoặc trong những khoảng thời gian rảnh rỗi nào đó thông qua điện thoại hoặc  máy tính có kết nối internet giảm được thời gian kiểm tra của giáo viên trong tiết   dạy; như vậy giáo viên có thể tranh thủ và chủ động trong việc sắp xếp thời gian   để kiểm tra việc học của học sinh ở nhà.  + Đối với học sinh:  Chuẩn bị  bài đầy đủ, nắm vững nội dung bài học, bổ  sung các câu trả lời của bạn, thích được phát biểu ý kiến của mình về vấn đề của   nhóm mình đang làm và của cả nhóm bạn. Không nản, kiên trì làm cho xong bài tập  (vì có phần thi đua giữa các nhóm). Khi trình bày bài viết của nhóm, học sinh  
  12. 12 thường học theo cách nói của giáo viên hay của những người dẫn chương trình  trên truyền hình mà các em xem, từ đó các em mạnh dạn, năng động hơn. *Han chê cua giai phap ̣ ́ ̉ ̉ ́: Vơi giai phap trên có th ́ ̉ ́ ể  còn một số  nhỏ  hoc sinh có th ̣ ể  chép bài tập của bạn  để gửi cho giáo viên.  Một một số em học sinh không có điều kiện kết nối Internet sẽ gặp khó khăn   trong việc tham gia các hoạt động của giáo viên yêu cầu. Giáo viên tốn nhiều thời gian để có thể đưa ra phiếu bài tập phù hợp với kiểu   bài, phù hợp đặc thù của phân môn. Đặc biệt giáo viên phải nghiên cứu kĩ, làm chủ  kiến thức thì tiết học mới thành công. Để  khắc phục những hạn chế  trên chúng tôi sẽ  tập trung kiểm tra những   trường hợp đó trong tiết dạy đồng thời kiểm chứng những trường hợp đối phó   bằng cách kiểm tra trực tiếp.  Giải pháp 2: *Ưu điểm: Tất cả các vật dụng liên quan được lắp ráp linh hoạt, cơ động, giá thành rẻ so  với camera vật thể trên thị trường, các ứng dụng có sẵn .... nhưng lợi ích mang lại   rất lớn. Chức năng chiếu vật thể: giúp các em quan sát, nhận xét, đối chiếu, đánh   giá sản phẩm của mình. Giáo viên chữa luôn vào phiếu của học sinh, giáo viên  không phải chốt kiến thức lên bảng cho học sinh.  Học sinh không mất thời gian treo, cất bảng phụ. Giáo viên dùng để chữa bài  kiểm tra cho các em tuyên dương những bài làm tốt để khuyến khích các em thông   qua đó những bạn làm chưa tốt có thể học hỏi. Chọn những bài có lỗi sai cơ  bản   để các em sửa và tránh được lỗi sai. *Hạn chế: Do sử dụng công nghệ thông tin nếu mất điện là không thực hiện được. Trong   quá trình thực hiện giáo viên cần linh hoạt điều chỉnh khoảng cách và ánh sáng.  Lựa chọn những sản phẩm phù hợp với mục tiêu của tiết dạy. Lựa chọn đối  tượng học sinh để trình bày. Để  khắc phục những hạn chế chủ quan tôi thường xuyên áp dụng ở  các kiểu   bài khác nhau để xử lí những hạn chế trong khâu thao tác. 6.3. Khả năng áp dụng của giải pháp: Giải pháp " Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Ngữ văn lớp   8 ở  trường PTDT Nội Trú THCS và THPT Quỳnh Nhai". Thực chất nó là  ứng  dụng nền có nghĩa là có thể  áp dụng gần như  hầu hết các bộ  môn trong nhà 
  13. 13 trường. Trong năm học 2020 – 2021 tôi đã mạnh dạn áp dụng (học kì I và nửa học  kì II năm học 2020 – 2021), tại Trường  PTDT Nội trú THCS và THPT huyện  Quỳnh Nhai tỉnh Sơn La. Có thể nhân rộng cho giáo viên dạy Ngữ văn các khối tại  trường, các trường Nội Trú khác trong tỉnh hay trường trung tâm huyện (tôi mạnh   dạn áp dụng 2 tiết tại trường Nguyễn Tất Thành) và đã nhận được phản hồi tốt từ  đồng nghiệp. 7. Hiệu quả  lợi ích thu được hoặc dự  kiến có thể  thu được do áp dụng  giải pháp: theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã áp dụng sáng kiến (nếu có) và   theo ý kiến của tác giả sáng kiến: Theo ý kiến chủ quan của tôi  ­  Hiệu quả kinh tế: Đối với việc áp dụng giải pháp này không mất nhiều kinh phí, thời gian cho  việc mua, sử dụng đồ dùng dạy và học cho môn ngữ văn THCS. Không mất nhiều thời gian tìm kiếm các  ứng dụng công nghệ  thông tin phù  hợp với yêu cầu của dạy học. Nhiều giáo viên đã biết ứng dụng công nghệ thông   tin trong giảng dạy  ở  nhà trường thì việc tìm kiếm các  ứng dụng công nghệ  áp   dụng trong giảng dạy môn Ngữ  Văn không hiếm, chỉ  cần giáo viên chịu khó tìm  kiếm trên mạng Internet sau đó thiết kế thành bài giảng theo ý tưởng của mình thì   các ứng dụng công nghệ giúp cho giáo viên lên ý tưởng nhanh hơn, hiệu quả hơn.   Cũng như tiết kiệm được chi phí cho học sinh, giáo viên, nhà trường cũng như toàn  ngành giáo dục nhất là trong bối cảnh kinh tế của đất nước hiện nay. ­ Hiệu quả xã hội:  Sau khi áp dụng các giải pháp này, tôi thu được những kết quả rất đáng khích  lệ. Giúp cho tiết dạy và học môn Ngữ văn 8 trở nên sôi nổi và hào hứng một cách   rõ rệt đồng thời cũng giúp tạo niềm say mê, hứng thú cho các em trong học tập   môn Ngữ văn. Chất lượng, tỉ  lệ  HS quan tâm và yêu thích môn học tăng rõ rệt. Sau đây là   bảng so sánh kết quả học lực ở  khối 8 như sau:
  14. 14 Khi chưa  Kết quả  So sánh áp dụng  sau khi  Tăng, giảm giải pháp áp dụng Tiêu chí Tổng số  (Khảo sát  HS và học  Số  Tỉ lệ Số  Tỉ lệ lực) lượng % lượng % HS   yêu   thích,   hứng  38 55,9 48 70,6 Tăng 14,7 % thú học  68
  15. 15 HS  không  yêu  thích,  không hứng thú học 30 44,1 20 29,4 Giảm 14,7 % Loại Giỏi 2 2,9 5 7,4 Tăng 4,5 % Loại Khá 18 26,5 22 32,4 Tăng 5,9 %
  16. 16 Loại TB 48 70,6 41 60,2 Giảm 10,4 % 8. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Điều kiện cần thiết để  áp dụng sáng kiến này: Trước tiên phải có đối tượng   tham gia học tập là học sinh, cùng với các thiết bị  dạy học: máy chiếu, máy tính,  camera rời, các  ứng dụng về  công nghệ  để  phục vụ  giảng dạy. Giáo viên giảng   dạy phải nghiên cứu thiết kế bài dạy, từng ứng dụng công nghệ phù hợp với từng  phân môn, với từng tiết dạy. Giáo viên thành thạo  ứng dụng công nghệ  thông tin   vào giảng dạy. Học sinh thích nghi được với các tiết học có sử  dụng  ứng dụng   công nghệ thông tin. Học sinh cần chuẩn bị bài đầy đủ theo yêu cầu của giáo viên.  Thiết kế kiểu bài phù hợp, không phải bài dạy nào cũng áp dụng sẽ gây nhàm chán  cho học sinh. 10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự  kiến có thể  thu được từ  việc áp   dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:  ­ Các phiếu học tập học sinh không cần dùng gấy A0 mà thay vào đó là giấy A4   và giấy nhớ. ­ Hiệu quả ngoài dự kiến: + Trong quá trình áp dụng tôi thấy học sinh tích cực chuẩn bị bài hơn. + Phần bài tập chuẩn bị ở nhà càng ngày trình bày càng khoa học, lưu loát, rõ  ràng hơn. + Các em học tập với tinh thần hứng thú hơn.  + Học sinh có sự  tương tác với giáo viên và các bạn, trong quá trình giao bài   tập các em mạnh dạn đề  xuất những hình thức học tập như  tiếp sức, .. và có sự  phân công hợp lí hơn.
  17. 17 + Sản phẩm của học sinh có kết hợp  ứng dụng công nghệ  thông tin như  các  em tự làm video thuyết trình được các sản phẩm tự đóng kịch các tiết văn bản và   quay video lại. + Nhiều học sinh chữ viết tiến bộ rõ rệt và mong muốn được trình bày, tham   gia hoạt động nhóm tích cực. + Các em còn mạnh dạn áp dụng ở môn học khác như môn lịch sử. 11. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự  kiến có thể  thu được do áp dụng  sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần  đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có): Năm học 2020 – 2021 Phòng GD huyện Quỳnh Nhai tổ  chức Hội thi giáo viên  dạy giỏi cấp THCS cấp huyện lần thứ VII tôi áp dụng sáng kiến để  tham gia thi   giảng 01 tiết ngữ văn 9 (tiết 46 ­ văn bản  Đoàn thuyền đánh cá) được công nhận  và được UBND huyện Quỳnh Nhai tặng giấy khen. Trong học kì  2, khi  tham  gia sinh hoạt cụm THCS tại Trường Nguyễn Tất   Thành tôi đã mạnh dạn đề  xuất với nhóm Văn của trường soạn tiết 121 văn bản  Nói với Con  (có  ứng dụng sáng kiến của tôi) để  dạy và bước đầu được đồng  nghiệp đánh giá khả quan. Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và  hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật./.  Quỳnh Nhai, ngày 26 tháng 4 năm 2021 Người nộp đơn                                                                                  Nguyễn Thị Thanh Nga
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2