intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lý thuyết vùng phát triển gần của Vygotxki và ứng dụng trong giảng dạy bộ môn Văn THPT

Chia sẻ: Caphesua | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:16

31
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến được viết ra nhằm mục đích đề xuất một số biện pháp sư phạm để vận dụng lí thuyết về vùng phát triển gần trong dạy học bộ môn Văn. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết dưới đây để nắm nội dung của sáng kiến kinh nghiệm!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Lý thuyết vùng phát triển gần của Vygotxki và ứng dụng trong giảng dạy bộ môn Văn THPT

  1. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc THUYẾT MINH MÔ TẢ GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: Lý thuyết vùng phát triển gần của Vygotxki và ứng  dụng trong giảng dạy bộ môn Văn THPT 2. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử 16/11/2020 3. Các thông tin cần bảo mật (nếu có):................................................ 4. Mô tả các giải pháp cũ thường làm: *Giáo viên thuyết giảng: giáo viên nói nhiều nhưng không hiệu quả  bởi   học sinh nghe nhưng không nhớ lâu. Lần sau HS vẫn sai lỗi sai tương tự như  thế  hoặc không biết cách làm bài (ví dụ: làm dạng bài nghị  luận có định  hướng) *Giáo viên chữa bài: Giáo viên không thể chữa bài cho 100% HS trong lớp   bởi cần rất nhiều thời gian để làm việc này, nếu chữa bài cho từng em thì sẽ  không đảm bảo kế hoạch giảng dạy, phân phối chương trình.  5. Sự cần thiết phải áp dụng giải pháp sáng kiến: Những  năm   gần  đây  việc  đổi  mới  phương  pháp   giảng  dạy  trong  chương trình giáo dục phổ  thông đã có những bước tiến rõ rệt so với trước   đó, từng bước góp phần đổi mới sự  nghiệp giáo dục, đáp  ứng nhu cầu phát   triển của đất nước. Đại hội Đảng lần thứ  XI đã xác định một trong các định  hướng phát triển kinh tế ­ xã hội là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi  mới toàn diện và phát triển nhanh chóng giáo dục và đào tạo, trong đó nhấn   mạnh việc “đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình phương pháp dạy học   ở tất cả các cấp, bậc. Tích cực chuẩn bị để thực hiện chương trình giáo dục  
  2. phổ  thông mới”. Quy định này phản ánh yêu cầu đổi mới phương pháp giáo  dục nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu đào tạo con người với thực  trạng lạc hậu nói chung của phương pháp dạy học  ở  nước ta hiện nay. Do  vậy, ngoài việc đổi mới nội dung chương trình, đổi mới phương pháp cũng  vô cùng quan trọng. Lí luận dạy học đã chỉ ra rằng: “Dạy học phải có tác dụng thúc đẩy   sự phát triển của người học”. Điều đó có nghĩa là trí tuệ của học sinh chỉ có  thể phát triển tốt trong quá trình dạy học khi thầy cô phát huy tốt vai trò của  người tổ  chức, điều khiển, làm giảm nhẹ  khó khăn cho học sinh trong quá   trình nhận thức, biết cách khuyến khích, hỗ  trợ  học sinh tham gia vào hoạt   động nhận thức tích cực trong dạy học. Mặt khác, đối với học sinh, để  phát  triển trí tuệ, năng lực của mình thì không còn cách nào khác là phải tự  mình  hành động, hành động một cách tích cực và tự  giác. Như  vậy, giáo viên đảm   đương vai trò là người hướng dẫn, hỗ trợ. Hỗ trợ không có nghĩa là làm hộ,  khiến các em trở thành thụ  động. Hỗ  trợ  cũng không có nghĩa là điều khiển.  Hỗ trợ các em giải quyết vấn đề nhưng đồng thời cũng phải cho các em học   được cách tự giải quyết chúng. Nhờ đó mà sau này các em có phương pháp tự  học, tự học suốt đời theo xu thế xã hội hóa giáo dục.  Để  đạt được những mục tiêu trên có nhiều cách thức khác nhau, một  trong những biện pháp có hiệu quả cao chính là áp dụng lí thuyết vùng phát  triển gần của Vygotxki ­ một lí thuyết  dạy học  rất quan tâm đến việc hỗ  trợ học sinh. Sự hỗ trợ này được thực hiện bằng cách giúp cho các  em  giải  quyết  vấn  đề  tại  một  trình  độ  cao  hơn  trình  độ  của  các  em  hiện  có,  tức  vấn đề mà các em đối mặt rơi vào “vùng phát triển gần”. Do đó, giải quyết   vấn đề  sẽ  giúp các em dịch chuyển trình độ  hiện tại lên “vùng phát triển   gần”. Khi đó dạy học đã tạo ra động lực cho sự phát triển.  Xuất phát từ những lí do nêu trên chúng tôi chúng tôi chọn sáng kiến  Lý thuyết vùng phát triển gần của Vygotxki và ứng dụng trong giảng dạy bộ 
  3. môn Văn THPT làm đối tượng nghiên cứu của mình.  6. Mục đích của giải pháp sáng kiến: Sáng kiến được viết ra nhằm mục đích đề xuất một số biện pháp sư  phạm để  vận dụng lí thuyết về  vùng phát triển gần trong dạy học bộ  môn  Văn. 7. Nội dung sáng kiến: 7.1. Thuyết minh giải pháp mới hoặc cải tiến 7.1.1 Giải pháp 1:  a. Tên giải pháp: Step by step b. Nội dung của giải pháp:  Giải pháp được đưa ra dựa trên lí thuyết về vùng phát triển gần nhất của   Vygotxki. Lev Semyonovich Vygotxki là nhà tâm lí học Xô Viết vĩ đại. Chỉ  sau gần 10 năm hoạt động như  một nhà tâm lí học chuyên nghiệp, ông đã  công bố gần 180 công trình khoa học. Ông được thừa nhận là người khai sinh   ra Tâm lí học phát triển. Với tư tưởng “dạy học đón đầu và đi trước sự  phát  triển”, ông cho rằng, trong quá trình dạy học phải xác định hai trình độ  phát   triển của học sinh: trình độ phát triển hiện tại và vùng phát triển gần (VPTG) Trình độ phát triển hiện tại là trình độ phát triển các chức năng tâm lí của  trẻ  được hình thành như  là kết quả  của các thời kì phát triển nhất định đã  hoàn tất, được thể hiện ở  sự chín muồi, sự  kết thúc của chu trình phát triển   cho tới thời điểm đó. Nếu giao nhiệm vụ  trong trình độ  này, đứa trẻ  có thể  độc lập giải quyết nhiệm vụ đặt ra. VPTG (Zone of Proximal Development) là khoảng cách giữa trình độ  phát  triển hiện tại của người học được xác định qua việc giải quyết vấn đề  một   cách độc lập và trình độ  phát triển tiềm tàng được xác định thông qua sự  hướng dẫn của người lớn hay cộng tác với các thành viên cùng trang lứa có  khả năng hơn.
  4. Như vậy, hai mức độ phát triển trẻ em thể hiện hai mức độ  chin muồi  của mỗi chức năng tâm lý  ở  các thời điểm khác nhau. Đồng thời chúng luôn  vân  động: vùng phát triển gần nhất hôm nay thì ngày mai sẽ  trở  thành trình độ  hiện tại và xuất hiện  vùng phát triển gần nhất mới. Ý nghĩa của việc dạy học theo lí thuyết này được tóm tắt trong sơ đồ sau:
  5. Vậy   làm   thế  nào   để   thực  hiện dạy học trong VPTG của trẻ, các nhà tâm  lí học như  Mercer, Wells,  Hammond   Jeniffer,   Jamie   Mc   Kenzie   đã   đưa   ra   khái   niệm   “bắc   giàn”  (Scaffolding).  “Scaffolding”, tiếng Anh, xuất phát từ  lĩnh vực xây dựng với nghĩa  tường minh là “một bộ  khung tạm thời dùng để  nâng đỡ  con người và vật  liệu sử  dụng trong xây  dựng  ,  sửa  chữa  các  tòa  nhà  và  các  công  trình kiến  trúc lớn khác.”[34 “Scaffolding” có tác dụng đỡ các kết cấu  vật liệu mới xây 
  6. trong ngôi nhà cho đến khi mọi thứ đều cứng cáp, tự các kết cấu này có thể  đứng  vững thì  người  thợ  có  thể  gỡ  nó  ra.  Trong  nhiều  năm  đã  qua,  thuật  ngữ  “scaffolding”  được  sử  dụng  rộng  rãi. trong nghiên cứu giáo dục học  với nghĩa  ẩn dụ  rằng, “theo một cách tương tự  người  thợ  xây cung cấp  những hỗ  trợ  tạm thời nhưng cần thiết, người giáo viên cần đưa ra những  cấu trúc khuyến khích tạm thời có tác dụng hỗ trợ người học mở mang hiểu   biết, các khái niệm và các khả năng mới. Khi người học phát triển khả năng   điều khiển về những yếu tố này, người thầy cần rút đi sự  khuyến khích, chỉ  đưa ra thêm các sự khuyến khích  cho sự mở rộng chúng hoặc các phần việc,  hiểu biết và khái  niệm  mới”. Theo  nghĩa  ẩn dụ  này, “scaffolding” nhằm  mục đích hỗ  trợ  người học đạt đến  một trình độ  cao hơn dựa trên  chính  năng lực của họ  thông qua sự hướng dẫn của người có kiến thức vững vàng  hơn. Giáo viên tiến hành thực hiện “scaffoding” tương tự như người thợ tiến  hành bắc giàn giáo xây dựng. Do đó, ta có thể hiểu “scaffoding” theo nghĩa là  “bắc giàn”. Có thể bắc giàn dựa vào công nghệ, kĩ thuật, công cụ, cũng có thể bắc  giàn dựa vào trí tuệ của người biết nhiều hơn.  Bắc giàn mang những đặc trưng sau:  ­Có tác dụng mở rộng hiểu biết ­Đưa ra sự định hướng rõ ràng ­Đưa ra khuyến khích mang tính tạm thời ­Có mối liên hệ  mật thiết với ngôn ngữ  đối thoại trong đó kiến thức  được cộng tác xây dựng.  Vậy, giải pháp Step by step mà chúng tôi đề ra thực chất chính là hoạt   động bắc giàn giáo dựa vào Technology và Tools tức công nghệ, kĩ thuật và  công cụ dạy học. GV tổ chức hoạt động học thành các bước nhỏ, theo những   cấp độ  tư  duy từ  thấp đến cao để  học sinh có thể  tiếp cận từng bước. Mỗi  
  7. phân môn của bộ  môn Văn có những đặc thù riêng nhưng đều thống nhất  ở  phương pháp tiếp cận: bước từng bước. c. Các bước tiến hành giải pháp: ­ Bước 1: GV xác định mục tiêu dạy và học ­ Bước 2: GV thiết kế các hoạt động dạy học để  đạt được mụ  tiêu đề  ra. Mỗi hoạt động cần được xây dựng một cách cụ thể, chi tiết, rõ ràng   và tuân thủ  nguyên tắc step by step: theo từng cấp độ  tư  duy (áp dụng   thang tư duy Bloom) ­ Bước 3: GV chuyển giao nhiệm vụ tới HS, HS lần lượt thực hiện các  nhiệm vụ học tập theo từng bước, theo cấp độ từ dễ đến khó. ­ Bước 4: GV nhận xét, đánh giá kết quả  thực hiện nhiệm vụ  của học   sinh.  Ví dụ 1:  Nhiệm vụ học tập: Viết đoạn văn nghị  luận 200 chữ trinh bày suy nghĩ  của anh chị về hậu quả của việc lạm dụng hộp xốp và túi nilong đựng thức   ăn. Quy trình lớp học:  ­Bước 1: Giáo viên xác định mục tiêu dạy học: + Rèn kĩ năng viết đoạn NLXH cho học sinh + Khơi dậy ý thức bảo vệ môi trường. ­ Bước 2: GV thiết kế hoạt động dạy và học: + Hướng dẫn HS tìm ý, dẫn chứng + Hướng dẫn HS lập dàn ý  Thực trạng sử  dụng túi nilong và hộp xốp đựng thức ăn như  thế  nào?  Việc lạm dụng túi nilong và hộp xốp đựng thức ăn sẽ  gây ra hậu   quả ra sao?  Em sẽ làm gì để khắc phục tình trạng đó?
  8. ­ Bước 3: HS viết đoạn NLXH ­ Bước 4: GV đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm bài làm của học sinh. d. Kết quả khi thực hiện giải pháp:   Giải pháp trên đây đã được chúng tôi áp dụng thực hiện tại lớp 10 Pháp   từ  tháng 11/2021. Qua 1 thời gian thực hiện, đến nay, chúng tôi nhận thấy:   học sinh nắm vững quy trình thực hiện nhiệm vụ  và bài tập theo phương   pháp step by step. Ví dụ như: quy trình đọc hiểu văn bản, quy trình viết đoạn  nghị  luận xã hội, quy trình phân tích đề, lập dàn ý với bài văn nghị  luận văn  học… như vậy GV đã giúp HS hình thành kĩ năng làm bài. Với kĩ năng đó, học  sinh có thể  tự  học, tự  tiếp cận và lĩnh hội nhiệm vụ  học tập tương tự  mà  không cần sự  hỗ trợ của giáo viên. Kết quả  đánh giá tác động của giải pháp  tới học sinh được thống kê như sau: Các kĩ năng làm bài Không nắm   Nắm vững kĩ năng, thao   vững kĩ năng tác làm bài Trước   khi   thực   hiện   giải  60% 40% pháp Sau khi thực hiện giải pháp 20% 80% 7.1.2 Giải pháp 2:  a. Tên giải pháp: Người biết nhiều hơn b.  Nội   dung   giải   pháp:   Đây   chính   là   hoạt   động   bắc   giàn   giáo   dựa   vào  knowledgeable others. Giáo viên sẽ  nhờ  những HS biết nhiều hơn để  hỗ  trợ  những học sinh biết ít hơn trong quá trình chữa bài tập, giải bài tập, đánh giá  kết quả học tập.  Trong một lớp học, luôn luôn có những học sinh biết nhiều   hơn. Những học sinh biết nhiều hơn này có thể  giúp đỡ  những bạn biết ít  hơn. Điều này không những tốt cho những bạn biết ít hơn (vì được hỗ  trợ)   mà với những bạn biết nhiều hơn đây cũng chính là hoạt động giúp các bạn 
  9. củng cố  tri thức của mình. Lí do của điều này, theo  Vygotxki lí giải: “Con  người không sinh ra với kiến thức có sẵn và kiến thức cũng không thể  tách  rời bối cảnh xã hội. Chúng ta chỉ có thể thu được kiến thức thông qua một số  dạng  tương  tác  trong  xã hội  với  những  người  cùng  l ứ a  tuổi  hoặc  lớn hơn.” Điều này đã gián tiếp nhấn mạnh vai trò của ngôn ngữ  trong dạy  học. Dạy bất cứ môn khoa học nào cũng cần chú ý đến kĩ năng sử dụng ngôn  ngữ  của học sinh trong giao tiếp giữa các thành viên tham gia vào quá trình   dạy học, đưa ra yêu cầu cao trong việc sử dụng ngôn ngữ  của học sinh giúp  họ  rèn luyện cách diễn đạt, trình bày một vấn đề  khoa học mạch lạc. Đó  cũng là một cơ sở cho việc tự học. Như thế có nghĩa là khi giúp bạn chữa bài,   giảng bài cho bạn, những HS biết nhiều hơn đang thực hành ngôn ngữ và nhờ  đó các em trở nên thành thục hơn.  Hình minh họa cho thấy, mũi tên màu xanh phân định 2 khu vực nhận thức:   dưới mũi tên là khu vực hiện tại người học tự  học được một cách độc lập,  không cần sự  trợ  giúp; phần trên mũi tên màu xanh biểu thị  khu vực trong   tương lai người học có thể  vươn tới thông qua sự  giúp đỡ  của những người 
  10. biết nhiều hơn. Giáo viên vì vậy khi tổ  chức hoạt động học cần linh hoạt,  tính toán được khả năng của học sinh. Bởi nếu giao những nhiệm vụ học tập   quá đơn giản, dễ  dàng sẽ  khiến học sinh rơi vào tâm lí chán học. Và ngược  lại nếu nhiệm vụ  đặt ra mang tính thách đố  quá cao sẽ  dễ  khiến người học   nản chí bởi cố gắng mãi vẫn không giải quyết được. Vai trò của người biết  nhiều hơn do đó vô cùng quan trọng. Người biết nhiều hơn sẽ  giúp người  học vượt ra khỏi hai trạng thái tâm lí không mong đợi đó.  Các bước tiến hành thực hiện giải pháp  ­ Bước 1: GV chia lớp thành 8 nhóm, mỗi nhóm 4 HS, trong mỗi nhóm cần  đảm bảo có 1 học sinh biết nhiều hơn các bạn còn lại. ­ Bước 2: GV cho họp nhóm 8 bạn biết nhiều hơn để  thảo luận về  đáp án,  sau khi nhóm thảo luận xong đưa đáp án cho GV. GV chữa, chỉnh sửa đáp án   để 8 HS biết nhiều hơn nắm vững. ­ Bước 3: Mỗi HS biết nhiều hơn sẽ trở về nhóm của mình để  chữa bài cho   các bạn. Nếu có nhiều thời gian, có thể chữa cho từng bạn. Nếu ít thời gian,   gọi 1 bạn trong nhóm đọc bài, HS biết nhiều hơn sẽ chữa bài mẫu, các bạn  còn lại trong nhóm nghe, lĩnh hội để  có thể  tự  đánh giá được bài của mình.  (HS biết nhiều hơn sẽ chữa bài của bạn bằng bút khác màu) (cần minh họa   bằng các bản vẽ, thiết kế, sơ đồ,  ảnh chụp mâu sản phẩm, đĩa, bảng biểu,   số liệu) ­ Bước 4: Giáo viên kiểm tra, đánh giá việc thực hiện hoạt động này bằng  cách gọi ngẫu nhiên 1 học sinh trình bày kết quả của mình.  d. Kết quả khi thực hiện giải pháp:  Nếu như  với phương pháp giảng dạy truyền thống, trong 45 phút của  một tiết học, cùng với việc truyền đạt tri thức, cách làm, hướng dẫn học sinh   luyện tập, giáo viên chỉ  có thể  chữa bài cho một số  em thì với việc áp dụng   mô hình học tập người biết nhiều hơn, học sinh nào trong lớp cũng được  chữa bài hoặc hướng dẫn nhiệm vụ  học tập một cách cụ  thể  chi tiết. Học  
  11. sinh vì thế  sẽ  nắm vững kĩ năng hơn, biết mình sai  ở  đâu và biết cách khắc   phục. Không những học sinh được hướng dẫn tiến bộ, bản thân học sinh biết   nhiều hơn cũng ngày càng tiến bộ  hơn. Bởi quy luật đã được đúc kết: Con   người có khả  năng ghi nhớ  5% điều ta đọc; 10 % điều ta đọc – nghe; 30%  điều ta đọc – nghe – nhìn; 50% điều ta đọc – nghe – nhìn – nói và 90% điều ta  nói và làm – dạy lại cho người khác. Người biết nhiều hơn chính là người  nói, làm và thực hiện dạy lại điều mình biết cho người khác. 
  12. Nhóm HS biết nhiều hơn thảo luận về đáp án
  13. Đáp án của nhóm HS biết nhiều hơn sau khi nhận được sự góp ý của GV HS biết nhiều hơn chữa bài mẫu cho 1 bạn trong nhóm Cụ thể, nhờ áp dụng giải pháp người biết nhiều hơn, các học sinh trong lớp   đã ngày càng tiến bộ trong học tập và có năng lực tự giải quyết nhiều nhiệm vụ  học tập trong khả năng của mình hoặc nhờ vào sự giúp đỡ của người biết nhiều  hơn. Thông qua sự  đánh giá của giáo viên, thông qua sự  tự  đo lường của học  sinh có thể hệ thống kết quả của giải pháp như sau: Năng lực giải quyết   Năng lực tự   Giải quyết vấn   Giải quyết vấn   vấn đề giải quyết vấn   đề với sự trợ   đề với sự trợ   đề giúp của bạn bè giúp của giáo   viên
  14. Trước khi thực hiện  20% 10% 70% giải pháp Sau   khi   thực   hiện  40% 30% 30% giải pháp Kết quả  của giải pháp không đánh giá việc giáo viên bị  giảm vai trò trong   lớp học. Người giáo viên đích thực không chỉ  truyền thụ  tri thức mà còn dạy   phương pháp, kĩ năng, hướng đạo. Và điều quan trọng nhất, thông qua giải pháp   này, học sinh đã tự hình thành và phát triển năng lực giải quyết vấn đề, biết tìm  cách giải quyết vấn đề  (nhờ sự  trợ  giúp của bạn bè) chứ  không chỉ  phụ thuộc,   trông chờ vào giáo viên. Và thông qua người biết nhiều hơn là bạn bè của mình,  học sinh còn phát triển nhiều năng lực khác: năng lực hợp tác, năng lực ngôn  ngữ… Bản thân học sinh biết nhiều hơn cũng đã tiến bộ, kết quả như sau: Năng   lực   thuyết   trình   Hiểu rõ vấn đề   Hiểu rõ và truyền đạt tốt   của học sinh biết nhiều   nhưng truyền đạt   vấn đề hơn chưa tốt Trước khi thực hiện giải  70% 30% pháp Sau   khi   thực   hiện   giải  40% 60% pháp 7.2. Thuyết minh về phạm vi áp dụng sáng kiến:  Giải pháp đã được áp dụng tại cơ  sở  và mang lại hiệu quả, lợi ích thiết  thực trong giảng dạy môn Ngữ  Văn. Giải pháp có thể áp dụng trong giảng dạy   ở  tất cả  các phân môn: Tiếng Việt, Làm văn, Đọc văn. Bởi phân môn nào giáo  viên cũng cần tiếp cận và hướng dẫn học sinh lĩnh hội tri thức, kĩ năng theo   thang tư duy Bloom và luôn có học sinh biết nhiều hơn trong lớp học để hỗ  trợ  các bạn HS khác trong hoạt động nhóm. 
  15. Sáng kiến còn có thể  áp dụng trong giảng dạy các môn học khác như  Toán, Lí, Hóa… trong trường học. Nhóm các giải pháp này hoàn toàn có khả  năng áp dụng rộng rãi đối với đối tượng học sinh ở mọi vùng miền trên địa bàn  tỉnh Bắc Giang và cả nước, góp phần thiết thực vào việc đổi mới phương pháp,  đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. 7.3. Thuyết minh về lợi ích kinh tế, xã hội của sáng kiến ­ Hiệu quả kinh tế:  + Với học sinh: học sinh không cần đi học thêm  ở  đâu xa mà có thể  học ngay  trên lớp, học từ Thầy Cô và bè bạn của mình; HS cũng không cần tham gia khóa  học kĩ năng thuyết trình hay các khóa học viết. Chữa bài cho bạn chính là luyện  khả năng thuyết trình, truyền đạt tri thức, rèn luyện diễn đạt. + Với giáo viên: Khi trong lớp có những học sinh biết nhiều hơn và có thể  hỗ  trợ  mình trong giảng dạy, người giáo viên đồng thời phải đối mặt với một   thách thức: bản thân mình sẽ có vai trò, vị  trí như  thế nào trong lớp học và làm  thế  nào để  tổ  chức các nhiệm vụ  học tập thỏa mãn cả  những học sinh bình   thường và những học sinh biết nhiều hơn? Thách thức đó khiến người giáo viên  phải đổi mới tư duy, không ngừng tự  trau dồi tri thức và phương pháp, kĩ năng   đồng thời buộc phải tự nâng cao trình độ năng lực của mình. Việc làm này của   giáo viên như  vậy có thể  xem là tiết kiệm kinh phí cho công tác tập huấn, đào   tạo lại, do vậy mang hiệu quả kinh tế khá rõ cho xã hội. ­ Hiệu quả  xã hội: thông qua các hoạt động nhóm, các học sinh sẽ  trở  nên gần gũi, thân tiết hơn, hợp tác giúp nhau cùng tiến bộ trong học tập.  * Cam kết: Chúng tôi cam đoan những điều khai trên đây là đúng sự thật và   không sao chép hoặc vi phạm bản quyền. Xác nhận của cơ quan, đơn vị Tác giả sáng kiến (Chữ ký dấu) (Chữ ký và họ tên) Nguyễn Thị Ngọc Huệ
  16.  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2