intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng đọc trong giờ Tập đọc cho học sinh lớp 2C trường Tiểu học Bình Thuận

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:10

15
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là dạy tốt phân môn Tập đọc không những rèn kĩ năng đọc mà còn phát triển những kĩ năng khác. Qua việc học các bài Tập đọc học sinh được tiếp xúc với ngôn ngữ văn học, bước đầu có khái niệm cơ bản về nhân vật, hình ảnh, bố cục… góp phần hình thành và bồi dưỡng cho các em những tình cảm tốt đẹp của con người như tình yêu quê hương đất nước, tình thầy trò, tình bạn bè…, tình yêu Tiếng Việt.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng đọc trong giờ Tập đọc cho học sinh lớp 2C trường Tiểu học Bình Thuận

  1. PHẦN I: MỞ ĐẦU Tiểu học là bậc học nền tảng, bậc học đầu tiên trong hệ  thống giáo  dục quốc dân. Đây là bậc học tạo ra những cơ bản ban đầu và bền vững về  tri thức, về kĩ năng cho trẻ, góp phần hình thành và phát triển nhân cách học  sinh, giúp các em học tốt  ở  bậc học tiếp theo. Chính vì vậy  ở  Tiểu học yêu  cầu phải dạy đủ  9 môn học bắt buộc. Trong những môn học đó môn Tiếng   Việt là môn học hết sức quan trọng. Môn Tiếng Việt giúp các em tiếp nhận  những tri thức ban đầu, sơ giản nhưng rất cần  thiết về tiếng Việt phổ thông   như: Ngữ  âm, ngữ  nghĩa, ngữ  pháp, từ  vựng…Trên cơ  sở  đó rèn những kĩ   năng: nghe, nói, đọc, viết và kĩ năng giao tiếp. Phân môn Tập đọc được coi  như  môn khởi đầu để  học tiếp các môn khác. Lúc đầu các em học để  biết  đọc, qua đó dùng đọc để học các môn học khác và để tiếp thu các tri thức của  nhân loại. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm là “nâng  cao chất lượng và hiệu   quả  hoạt động giáo dục”. Những năm gần đây, cùng với sự  đầu tư  và phát  triển   của   giáo   dục,   chất   lượng   giáo   dục   ngày   được   nâng   cao.   Giáo   viên  trường   Tiểu   học   Bình   Thuận   không   ngừng   học   tập   nâng   cao   nghiệp   vụ  chuyên môn, tích cực đổi mới phương pháp dạy học trong đó có việc đổi mới  phương pháp “rèn đọc” cho học sinh. Việc rèn kĩ  năng đọc cho học sinh bên   cạnh những thành công còn một số  hạn chế, nhất là đối với lớp 2, các em   mới chuyển từ lớp 1 lên, qua thời gian nghỉ hè, nhiều em không thường xuyên   ôn luyện nên khi bắt đầu vào năm học lớp 2, kỹ năng đọc của một số em còn  yếu, dẫn đến kết quả “đọc” của một số lớp chưa cao. Vì  thế  giáo  viên  cần  phải dạy  đọc  bài  Tập  đọc  với giọng thế nào? làm thế nào chữa lỗi “đọc”  cho học sinh, làm thế nào để các em đọc đúng, đọc nhanh hơn, hay hơn, diễn   cảm hơn, phối hợp đọc thành tiếng và đọc hiểu... để  hiểu nội dung văn bản   được đọc, để  cho những gì đọc được tác động vào chính cuộc sống của các  em.  Chính vì lí do trên đòi hỏi người giáo viên phải có phương pháp dạy  “đọc” như  thể  nào để  giúp các em thực hiện được nhiệm vụ  phân môn Tập  đọc. Trong điều kiện xã hội ngày càng phát triển, nhất là chúng ta đang sống   trong thời kì bùng nổ  công nghệ  thông tin, nếu học sinh đọc yếu, đọc chậm  các em sẽ bị hạn chế nhiều trong việc tiếp cận với công nghệ  thông tin, các   em sẽ thiệt thòi trong giao tiếp, trong việc học tập... Trong suốt quá trình học   tập học sinh sử  dụng “đọc” rất nhiều, các em đọc bài học, đọc bài ghi, đọc  sách giáo khoa, đọc truyện…chính vì vậy, dạy tốt phân môn Tập đọc không  những rèn kĩ năng đọc mà còn phát triển những kĩ năng khác. Qua việc học  các bài Tập đọc học sinh được tiếp xúc với ngôn ngữ  văn học, bước đầu có   khái niệm cơ bản về nhân vật, hình ảnh, bố cục…góp phần hình thành và bồi  dưỡng  cho  các  em  những  tình  cảm  tốt  đẹp  của  con  người  như  tình   yêu  quê hương đất nước, tình thầy trò, tình bạn bè…, tình yêu Tiếng Việt.
  2. 2 Xuất phát  từ   những  lí do trên  tôi đã thực hiện: “Biện pháp rèn kĩ  năng đọc trong giờ Tập đọc cho học sinh lớp 2C trường Tiểu học Bình  Thuận” PHẦN II: MÔ TẢ BIỆN PHÁP 1. Thực trạng a. Đặc điểm tình hình của lớp 2C Năm học 2020 ­ 2021 Năm học 2020 ­ 2021 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 2C.  Tổng  Dân  Nữ  HS  HS có HC  HS xã  HS Nữ Nam HS c.nghèo số tộc DT nghèo éo le ngoài K.tật 36 19 17 10 5 1 1 1 4 0 b. Khảo sát thực tế lớp 2C Khi nhận lớp tôi cho các em đọc bài tập đọc “ Có công mài sắt,có ngày  nên kim” và thu được kết quả như sau:  Thời  TSHS Đọc tốt Đọc  Đọc yếu gian bình  thường SL TL (%) SL TL (%) SL TL (%) Tháng 9/2020 36 10/36 27,8 16/36 44,4 10/36 27,8 Qua kết quả  khảo sát đầu năm  ở  lớp tôi nhận thấy học sinh còn mắc   phải những lỗi sau: * Sai về phụ âm đầu Đây là lỗi mà nhiều em mắc phải, nguyên nhân này có thể  do  ảnh   hưởng của tiếng địa phương, do nói theo nhiều thành quen (học sinh phát âm  sai, bố  mẹ  không chỉnh sửa), do bản thân các em chưa biết cách điều chỉnh,  chưa kiên trì luyện tập, do bộ phận phát âm chưa hoàn chỉnh vì vậy dẫn đến  phát âm không chuẩn từ đó làm cho người nghe hiểu sai ý muốn nói. Ví dụ: “nắn nót” ý muốn nói viết cẩn thận nhưng lại phát âm là “lắn lót”   làm cho người nghe hiểu sai, dẫn đến sai ý muốn nói. * Sai về dấu thanh Lỗi về  dấu thanh là lỗi học sinh cũng hay bị  mắc nhưng không nhiều   bằng lỗi về  phụ  âm đầu, tuy nhiên lỗi về  dấu thanh rất khó sửa, cần nhiều  thời gian và kiên trì luyện tập. Ví dụ: “giảng giải” nhưng học sinh phát âm thành “giạng giại” dẫn đến  người nghe không hiểu được nghĩa muốn nói. * Sai về vần
  3. 3 Lỗi này thường mắc  ở  một số  em do thói quen sử  dụng từ  ngữ  của  vùng miền (rượu ­ riệu, gãy ­ gẫy...) Ví dụ: “mài thành kim” nhưng HS lại phát âm lại đọc là “mài thằn kim”   làm cho người nghe hiểu lầm. 2. Biện pháp 2.1. Chuẩn bị mọi điều kiện để học sinh đọc đúng, đọc hay ­ Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập: Trong những tuần đầu tôi ổn định  nền nếp lớp, kiểm tra sách vở của học sinh, hướng dẫn các em cách bọc vở,  dán nhãn cho phù hợp. Đồng thời hướng dẫn các em cách bảo quản, giữ  gìn  sách vở cũng như đồ dùng học tập của mình. ­ Phân loại đối tượng học sinh: Đây có thể coi là một giải pháp có tính   khả dụng vì giúp cho giáo viên có thể theo dõi, bồi dưỡng, kèm cặp, uốn nắn   đến từng đối tượng học sinh trong lớp. Cần phân loại học sinh trong lớp  thành các nhóm cùng đối tượng để rèn kỹ năng đọc như:  + Nhóm 1: Đối tượng học sinh đọc yếu. + Nhóm 2: Đối tượng học sinh đọc bình thường. + Nhóm 3: Đối tượng học sinh đọc tốt. ­ Rèn tư thế đọc cho học sinh: Để rèn cho học sinh thói quen đọc được  tốt tôi luôn chú ý và hướng dẫn học sinh đến tư thế cầm sách, cách đứng đọc,  cách ngồi đọc.  Chú ý khoảng cách từ  mắt đến sách, cổ  và đầu phải thẳng.  Khi đọc phải to rõ ràng, đủ  cho cả lớp nghe, phát âm chính xác. Khi bạn đọc  bài những bạn còn lại phải chỉ tay vào bài theo bạn đọc. ­ Giáo viên đọc mẫu phải chuẩn: Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, các em  luôn coi thầy, cô giáo của mình là thần tượng, là chuẩn mực. Đặc điểm tâm lí  của học sinh ở lứa tuổi này là hay bắt chước, hay làm theo. Các em thích mình  giống như thầy cô và  người lớn. Các em thường “bắt chước” cô từ  cách ăn  mặc, đi đứng, cho đến lời nói, cử chỉ, chữ viết …Học sinh hằng ngày đến lớp   chủ  yếu được nghe giọng của giáo viên. Vì vậy giáo viên cố  gắng cho học   sinh nghe đúng, nghe hay thì việc học sinh đọc sai, viết sai từng bước được  khắc phục. Muốn học sinh phát âm tốt thì giáo viên phải phát âm chuẩn xác.  2.2. Rèn kỹ năng đọc đúng  ­ Đọc rõ ràng, liền mạch từng câu, đoạn, cả bài, biết ngắt nghỉ hơi hợp   lí sau dấu câu, giữa các cụm từ, các phần trong bài tập đọc. ­ Cường độ, tốc độ đọc vừa phải (không đọc to quá hay đọc lí nhí). ­ Tốc độ  đọc vừa phải (không ê,a, ngắc ngứ  hay liến thoắng), đạt yêu  cầu khoảng 50 tiếng/phút.
  4. 4 ­ Hướng dẫn cách phát âm là phương pháp quan trọng hàng đầu, đòi hỏi   người giáo viên phải có những hiểu biết, kinh nghiệm và cả  kĩ năng hướng  dẫn tốt. Khi hướng dẫn học sinh phát âm, cần dùng lời nói mạch lạc, đơn   giản để học sinh dễ hiểu và có thể tự mình phát âm đúng. ­  Đối với những âm, vần, tiếng dễ  nhầm lẫn, giáo viên cần phải so   sánh, phân tích cụ thể  cách phát âm (môi ­ răng ­ lưỡi, đường dẫn hơi, điểm  thoát hơi);  Ví dụ: Khi học sinh sai lẫn âm l / n giáo viên cần hướng dẫn: + Âm l: Lưỡi uốn cong, bật đầu lưỡi cho hơi thoát ra mạnh, dứt khoát. + Âm n: Lưỡi ép sát lợi trên, cho hơi thoát ra đường mũi, sau đó mở  miệng cho hơi thoát ra trên mặt lưỡi, luồng hơi có thể kéo dài. Với những học  sinh vẫn chưa phát âm được, giáo viên có thể  yêu cầu các em dùng hai ngón  tay, bóp mũi lại để đọc âm l (đối với âm n, khi bóp mũi lại sẽ không thể đọc   được). Ví dụ:  Học sinh  sai lẫn  ở  những âm đầu vần và cuối vần “ac” đọc   thành “at”, giáo viên cần hướng dẫn: + ac: Mở miệng rộng, hơi thoát ra gần trong chân lưỡi. + at: Môi mở hơi rộng, đưa lưỡi chạm vào lợi trên, hơi ra trên mặt lưỡi. Ví dụ: Học sinh sai lẫn dấu thanh (gặp  ở những học sinh có hệ  thống  bộ máy phát âm chưa hoàn chỉnh) giáo viên cần hướng dẫn:   ­ Những tiếng có thanh hỏi / thanh nặng: đi ngủ ­ đi ngụ, cử tạ ­ cự tạ,  củ sả ­ cụ sạ…) + Tiếng có thanh hỏi: Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh phát âm  trầm, hơi luyến giọng, lên cao, kéo dài hơi. Có thể kèm theo động tác ngửa cổ  hướng mắt lên trên.  +  Tiếng có thanh nặng: phát âm thấp giọng và nặng, dứt khoát (không  kéo dài). Khi phát âm có thể làm động tác gật đầu.  ­ Những tiếng có thanh sắc ­thanh ngã (em bé ngã ­ em bé ngá, lọ mỡ ­  lọ mớ, ghế gỗ ­ ghế gố…) + Những tiếng có thanh ngã đọc nhấn mạnh, hơi kéo dài, luyến giọng,   lên cao giọng. + Những tiếng có thanh sắc: Đọc nhẹ  nhàng hơn tiếng có thanh ngã,   hơi ngắn, đọc nhanh, không kéo dài. Bằng cách hướng dẫn (như  một vài ví  dụ nêu trên) học sinh có thể dễ dàng phát âm và đạt hiệu quả cao. Ví dụ: Trong bài “Có công mài sắt, có ngày nên kim” (Tiếng Việt lớp 2,  tập 1, trang 4) tôi hướng dẫn học sinh đọc các từ khó đọc như: quyển, nguệch  
  5. 5 ngoạc, các từ  có âm đầu hay lẫn lộn l/n (làm, lúc, nắn nót) hoặc có âm cuối   dễ lẫn như  an/ang (chán, tảng ngắn), các từ  khác (việc, viết, mải miết). Tôi  cho học sinh đọc đúng đọc trước sau đó gọi những học sinh đọc sai, đọc yếu  đọc theo bạn, cứ như vậy các em đọc đúng, đọc sai đó đã hiểu được mình cần  đọc như thế nào mới đúng với bài đọc. ­ Trong việc luyện đọc cho học sinh, tôi luôn chú ý nghe học sinh đọc  để  có cách hướng dẫn cho từng em thích hợp, khuyến khích học sinh trong   lớp nhận xét cách đọc của bạn, chỉ  ra chỗ  bạn đọc chưa đúng, cho học sinh   đó đọc lại nhằm giúp học sinh rút kinh nghiệm để luyện đọc tốt hơn. ­ Tôi sắp xếp cho học sinh khá ngồi cạnh một học sinh yếu. Tôi hướng  dẫn cho học sinh khá cách dạy, cách kiểm tra bài để  kèm cho học sinh yếu,   vào đầu giờ và giữa giờ…..Thời gian 15 phút đầu giờ mỗi buổi, cho học sinh   giỏi đọc cho học sinh cả lớp ôn luyện. Sau đó luân phiên nhau để học sinh cả  lớp đọc, nếu em nào quên hoặc sai thì bạn học sinh giỏi giúp bạn. Tôi khuyến   khích động viên học sinh giỏi, khá kèm học sinh yếu mà tiến bộ  thì sẽ  có  phần thưởng, kể  cả  học sinh yếu có sự  tiến bộ  trong học tập, em khá giỏi  hướng dẫn được cho bạn như vậy thì có dịp bộc lộ được khả năng của mình,  sẽ nắm vững hơn phần kiến thức. Những việc làm này tạo sự đoàn kết, giúp   đỡ nhau cùng tiến bộ và có thói quen học tập tốt, xây dựng được nền nếp học   tập.  Ở nhà tôi động viên các em trong xóm giúp đỡ  lẫn nhau, cùng học cùng  chơi, cùng chia sẻ khó khăn trong học tập. Ví dụ: Khi học bài: “Gọi bạn”(Tiếng Việt lớp 2, tập 1, trang 28), khi   cho học sinh luyện đọc trong nhóm, tôi cho học sinh đọc thầm mỗi khổ  thơ  hai lần rồi mới đọc cả bài.  Lần 1 tôi cho các em học sinh khá đọc trước, ác em trong lớp cùng theo   dõi bạn đọc, đọc nhẩm theo, đến lượt học sinh đó đọc thì sẽ  đọc tốt hơn.   Trong khi các em luyện đọc, tôi quan sát hướng dẫn, hỗ trợ thêm cho các em  đọc yếu, đọc chậm, khuyến khích các em đọc có tiến bộ. Đối với bài học thuộc lòng, tôi hướng dẫn các em đọc kỹ  hơn, tôi ghi  một số từ lên bảng làm điểm tựa cho học sinh dễ nhớ và học thuộc sau đó tôi  xóa dần để học sinh tự nhớ và học thuộc toàn bài. 2.3. Rèn kỹ năng đọc hiểu  a. Hướng dẫn tìm hiểu nghĩa của từ ngữ trong bài ­ Từ ngữ khó đối với học sinh được chú giải trong bài đọc. Tôi thường  cho học sinh đọc hoặc nảy từ, giải thích nghĩa của từ đó sau đó đặt câu với từ  vừa giải nghĩa để cho học sinh hiểu hơn nghĩa của từ.
  6. 6 Ví dụ: Khi dạy bài: “Làm việc thật là vui” (Tiếng Việt lớp 2, tập 1,   trang 16), sau khi học sinh đọc bài tôi cho các em giải nghĩa từ “rực rỡ”, “tưng  bừng” và đặt câu với mỗi từ đó. + Khóm hồng nở hoa rực rỡ + Mọi người tưng bừng đi xem hội. ­ Ngoài ra tôi đưa ra những đồ dùng dạy học ( hiện vật, tranh ảnh, tranh   vẽ, mô hình). Hướng dẫn học sinh nắm nghĩa của một số  từ  mới. Điều cần  lưu ý là dù giải nghĩa theo cách nào tôi cũng chỉ giới hạn trong phạm vi cụ thể  của bài tập đọc chứ không mở rộng ra nghĩa khác nhất là các nghĩa xa lạ với   các em làm mất sự hứng thú học tập của các em. b. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài ­ Để  học sinh có thể  nắm vững nội dung bài đọc, trong quá trình giảng   dạy của mình tôi chú ý đến những việc làm giúp học sinh hiểu nội dung bài đọc  qua: + Phạm vi nội dung cần tìm hiểu: Nhân vật (số  lượng, tên, đặc điểm)   tình tiết của câu chuyện, nghĩa đen và nghĩa bóng dễ nhận ra của các câu văn,  câu thơ, ý nghĩa câu chuyện của bài văn hoặc khổ thơ. + Cách tìm hiểu nội dung bài đọc: Phương hướng và trình tự  tìm hiểu  nội dung bài đọc thể hiện ở những câu hỏi đặt sau mỗi bài. Dựa vào hệ thống   câu hỏi đó tôi tổ chức cho học sinh tìm hiểu kĩ câu hỏi bằng cách cho các em   thảo luận nhóm hay các nhân tìm ra nội dung câu trả lời và nội dung bài học. ­ Tuy nhiên để giúp các em hiểu kĩ hơn tôi hướng dẫn các em hiểu thêm  các từ  khó trong bài làm toát lên nội dung của bài bằng những câu hỏi phụ,  những lời giảng giải bổ sung. Ví dụ: Khi dạy bài: “Quả  tim Khỉ” (Tiếng Việt lớp 2, tập 2, trang 50)   tôi giúp các em hiểu thêm nghĩa của các từ: trấn tĩnh, bội bạc bằng những câu  hỏi: + Hỏi: Khi nào thì chúng ta cần trấn tĩnh? (Khi gặp việc làm mà lo  lắng, sợ hãi không bình tĩnh được) + Hỏi: Tìm từ cùng nghĩa với từ bội bạc? (phản bội, vô ơn, bội nghĩa) Sau khi học sinh nêu ý kiến tôi sơ kết lại những ý chính và nhấn mạnh   những từ ngữ rút ra nội dung bài đọc. ­ Trong quá trình tìm hiểu nội dung bài đọc tôi cũng chú ý rèn luyện cho   các em cách trả  lời câu hỏi, diễn đạt được ý, diễn đạt được nội dung bằng  câu trả lời ngắn gọn, rõ ràng, đúng với nội dung bài, tránh học sinh trả lời cộc   lốc, ê a không đúng với nội dung câu hỏi và bài đọc. Bên cạnh đó cũng đặc  biệt chú ý rèn kĩ năng sống cho học sinh.
  7. 7 Ví dụ: Khi dạy bài: “Làm việc thật là vui” (Tiếng Việt lớp 2, tập 1,   trang 16), tôi cho học sinh thảo luận theo nhóm nêu những công việc làm của   mình ở nhà mà mình đã làm và cho học sinh nêu lợi ích của công việc đó. 2.4. Rèn kỹ năng đọc hay (đọc diễn cảm) ­ Khi hướng dẫn học sinh luyện đọc, tôi cho học sinh tìm ra những chỗ  khó đọc, tìm ra cách thể  hiện điều đó trong giọng đọc của mình, xác định  được giọng đọc của cả bài: nhẹ nhàng, tha thiết, vui tươi hay mạnh mẽ, trầm   lắng hay buồn thương; nhịp điệu của cả  bài: nhanh, chậm, nhanh hơn hay  chậm hơn. Ví dụ: Khi dạy bài: “Mẹ” (Tiếng Việt lớp 2, tập 1, trang 101), trước khi   cho học sinh luyện đọc diễn cảm tôi cho học sinh nhắc lại cách đọc bài với  giọng như  thế  nào rồi mới yêu cầu học sinh đọc, nếu học sinh đọc không   đúng tôi hướng dẫn các em ngắt nhịp bài thơ: Lặng rồi/ cả tiếng con ve/ Con ve/ cũng mệt/ vì hè nắng oi.// Nhà em/ vẫn tiếng ạ ời/ Kẽo cà tiếng võng/ mẹ ngồi mẹ ru.// ­ Để luyện đọc diễn cảm, tôi thường đưa ra những cách đọc khác nhau,   hướng dẫn học sinh nhận ra được cách đọc nào đúng, cách đọc nào sai hoặc   cách đọc nào hay, cách đọc nào chưa hay. Cuối cùng học sinh luyện đọc cá  nhân,  ở  một số  bài tôi cho học sinh luyện đọc theo lối phân vai để  làm sống  lại các nhân vật trong từng bài đọc, từng tác phẩm. Ví dụ: Khi dạy bài: “Chuyện bốn mùa” (Tiếng Việt lớp 2, tập 2, trang   4) học sinh phải thể  hiện được giọng đọc của từng nhân vật. Giọng nhân  vật Đông giọng đọc buồn buồn: “Chỉ có em là chẳng ai yêu”, giọng của nhân  vật Hạ  tinh nghịch, hài hước, dí dỏm: “Thế  mà Thiếu nhi lại thích em Thu   nhất. Không có Thu làm sao có vườn bưởi chín vàng, có đêm trăng rằm rước  đèn, phá cỗ”, giọng của nhân vật Thu thủ thỉ: “Có em mới có bập bùng bếp   lửa nhà sàn, có giấc ngủ   ấm trong chăn. Sao lại có người không thích em   được,   giọng   của   nhân   vật   Bà   Đất   nhẹ   nhàng,   tình   cảm:   “Các   cháu   mỗi  người một vẻ. Các cháu đều có ích, đều đáng yêu”. 2.5. Rèn thói quen đọc mọi lúc, mọi nơi ­ Để giúp học sinh phát âm chuẩn, giáo viên không chỉ hướng dẫn, sửa sai   cho các em trong giờ học môn Tiếng Việt mà cần luôn theo dõi, uốn nắn cho các  em cả trong các tiết học khác, trong giờ chơi, trong hoạt động tập thể… Bởi vì  những lúc vui chơi là lúc các em sử dụng lời nói một cách tự nhiên nhất. Người   giáo viên cần chú ý quan sát để phát hiện những lỗi phát âm của các em và kịp  
  8. 8 thời sửa chữa, đồng thời tạo cho học sinh thói quen phát âm chuẩn dù ở bất cứ  nơi đâu. ­ Quan tâm rèn học sinh không chỉ  trong giờ  học Tiếng Việt mà trong  tất cả các môn học như Toán, Đạo đức, Tự  nhiên và Xã hội, … Khi đọc bài  tôi yêu cầu các em phải đọc chính xác nếu sai tôi cho dừng lại và điều chỉnh   kịp thời. Qua đó giúp các em đọc đúng và rèn tính kiên trì, cẩn thận cho các  em. ­ Khuyến khích các em đọc ở bất cứ đâu khi nhìn thấy chữ. Đọc ở biển  quảng cáo, tờ  lịch, những khẩu hiệu trong lớp học, ngoài sân trường để  xem  nội dung trong đó là gì hay thậm trí là khi về  nhà có thể  đọc trên bao cám  ở  gia đình. ­ Đọc sách, truyện tại thư viện góc lớp hoặc thư viện ngoài trời trong giờ  ra chơi. Tôi lựa chọn những quyển sách phù hợp về thư viện góc lớp cho các em  đọc. 3. Kết quả Sau một thời gian áp dụng những giải pháp trên, tôi đã đạt được một số  kết quả như sau: * Đối với học sinh:  Khả  năng đọc cũng như  lỗi phát âm của các em   được cải thiện đáng kể, chất lượng đọc được nâng lên, học sinh hứng thú   học tập, tạo  không khí thoải mái khi học, học mà chơi, chơi mà học. Bằng sự  nhiệt tình  trong công tác nghiên cứu giảng dạy, tôi đã vận dụng sáng tạo những phương   pháp đã học để hướng dẫn kèm cặp đối tượng học sinh lớp 2 để giúp các em   không chỉ đọc tốt mà còn viết tốt, đọc chuẩn, đọc không sai lỗi. Học sinh cơ  bản đã thay đổi được thói quen học tập, học tập tự  tin,   sáng tạo, tự giác thiếp thu bài, hứng thú học và làm chủ kiến thức của mình. Học sinh nắm chắc kiến thức ngữ âm, chất lượng môn học Tiếng Việt  của học sinh đã được nâng lên nhiều so với trước.  Tạo được cơ hội cho học sinh hình thành và phát triển năng lực hợp tác  đoàn kết, giúp đỡ  nhau cùng tiến bộ  và có thói quen học tập tốt, xây dựng   được nền nếp học tập.  Những em đọc chậm, đọc ngọng, đọc hay sai âm, vần dần dần cũng đã  mạnh dạn bày chia sẻ, mạnh dạn hỏi bạn khi không nắm được cách sửa sai. Kết quả khảo sát cuối năm: Thời  TSHS Đọc tốt Đọc  Đọc yếu gian bình  thường SL TL (%) SL TL (%) SL TL (%)
  9. 9 Tháng 4/2021 36 20/36 55,6 16/36 44,4 0 0 Kết quả cuối năm:  Hoàn  Hoàn  Chưa hoàn thành Môn TSHS thành tốt thành SL TL (%) SL TL (%) SL TL (%) Tiếng Việt 36 20/36 55,6 16/36 44,4 0 0 *  Đối với  giáo viên:  Bản thân tôi khi nghiên cứu  đã tìm ra một số  phương pháp, biện pháp và hướng đi giúp học sinh học tập tốt hơn. Qua đó  từng bước nâng cao năng lực đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm của mỗi học   sinh. Đồng thời đánh giá hiệu quả  đạt được sau mỗi tiết dạy . Tạo được sự  gần gũi, thân thiện giữa giáo viên với học sinh.  * Đối với phụ  huynh và xã hội: Phụ  huynh học sinh và xã hội có liên  quan trực tiếp, có trách nhiệm tham gia với nhiều hoạt động và hỗ  trợ  nhà  trường nhiều hơn. Đồng thời cha mẹ  học sinh còn được tiếp nhận, bổ  sung  tri thức từ nhà trường thông qua học sinh. Có tác động trực tiếp tới hiệu quả  và chất lượng học tập của học sinh. * Đối với nhà trường: Góp phần tạo được sự tin tưởng của các cơ  qua   lãnh đạo với chuyên môn của nhà trường và chuyên môn của giáo viên lớp 2.  PHẦN III: KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT 1. Đối với nhà trường Có đủ điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học để giáo  viên dạy. Huy động tốt việc học sinh đi học đều, học đủ  (Có đi đủ, đi đều học  sinh mới có thể học tốt) Có sự chia sẻ kinh nghiệm trong chuyên môn của đồng nghiệp Duy trì hiệu quả  hoạt động của thư  viện( thư  viện mở, thư  viện góc  lớp) và đầu tư kinh phí bổ sung nguồn sách, truyện tại thư viện. 2. Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo Đại Từ Đầu tư  cơ  sở  vật chất, bàn ghế  đúng quy cách, trang thiết bị  dạy học   hiện đại tạo điều kiện cho học sinh và giáo viên áp dụng công nghệ thông tin  vào giảng dạy trực tiếp. Tăng cường mở các chuyên đề để giáo viên có cơ hội học hỏi, giao lưu  trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau.
  10. 10  Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi đã và đang áp dụng vào việc  rèn đọc cho học sinh lớp 2 trường Tiểu học Bình Thuận. Rất mong nhận   được ý kiến đóng góp của Hội đồng khoa học các cấp để tôi có thể góp phần  đổi mới phương pháp dạy học thành công hơn. Bình Thuận,  ngày 20 tháng 9 năm 202    XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Người viết Nguyễn Thị Chi
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
16=>1