intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh yêu thích học Toán

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:17

27
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là tạo hứng thú học tập cho học sinh qua các công thức thú vị, dễ nhớ. Tạo hứng thú học tập bằng cách làm cho học sinh nhận thức được mục tiêu, lợi ích của bài học. Tạo hứng thú học tập bằng cách phối hợp các phương pháp và các hình thức dạy học linh hoạt. Tạo hứng thú học tập bằng việc xây dựng môi trường thân thiện giữa thầy và trò, trò và trò.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh yêu thích học Toán

  1. MỤC LỤC I. LỜI GIỚI THIỆU............................................................................................2 II. TÊN SÁNG KIẾN...........................................................................................3 III. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN..................................................................................3 IV. CHỦ ĐẦU TƯ TẠO RA SÁNG KIẾN.........................................................3 V. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN............................................................4 VI. NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG LẦN ĐẦU...................................4 VII. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN.....................................................4   1. Về nội dung sáng kiến..................................................................................4          1.1. Biện pháp 1: Tạo hứng thú học tập cho học sinh qua các công thức  thú vị, dễ nhớ:......................................................................................................4           1.2. Biện pháp 2:   Tạo hứng thú học tập bằng cách làm cho học sinh  nhận   thức   được   mục   tiêu,   lợi   ích   của   bài  học..........................................................7          1.3. Biện pháp 3: Tạo hứng thú học tập bằng cách phối hợp các phương  pháp và các hình thức dạy học linh hoạt.......................................................8  1.3.1. Tổ chức trò chơi học tập..............................................................8   1.3.2.   Tổ   chức   hoạt   động   học   theo   nhóm.........................................8            1.3.3. Tổ chức dạy học ngoài trời......................................................9          1.4. Biện pháp 4:. Tạo hứng thú học tập bằng việc xây dựng môi trường  thân thiện giữa thầy và trò, trò và trò...........................................................12 2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến.......................................................13 VII. NHỮNG THÔNG TIN CẦN ĐƯỢC BẢO MẬT.....................................13 IX. CÁC ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN...................13   1. Điều kiện chủ quan từ giáo viên..............................................................13    2. Điều kiện khách quan.............................................................................13 X. ĐÁNH GIÁ LỢI ÍCH THU ĐƯỢC HOẶC DỰ  KIẾN THU ĐƯỢC DO  ÁP DỤNG SÁNG KIẾN....................................................................................13 1. Đánh   giá   của   tác  giả................................................................................13 2. Đánh giá của tổ chuyên môn...................................................................14  XI.   DANH   SÁCH   NHỮNG   TỔ   CHỨC/   CÁ   NHÂN   ĐÃ   THAM   GIA   ÁP  DỤNG THỬ SÁNG KIẾN................................................................................14 1
  2.       BÁO CÁO KẾT QUẢ  NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN I. LỜI GIỚI THIỆU           Trong thực tế, đã có không ít học sinh thấy môn Toán khó, phức tạp nên   sợ học môn Toán. Chuyện này bắt đầu từ phía người thầy hay từ phía các em  và làm sao để các em yêu thích học toán?    Yêu thích đồng nghĩa với việc có hứng thú. Hứng thú là một thuộc tính  tâm lí ­ nhân cách của con người. Hứng thú có vai trò rất quan trọng trong học   tập và làm việc, không có việc gì người ta không làm được dưới ảnh hưởng   của hứng thú. M.Gorki từng nói: “Thiên tài nảy nở  từ  tình yêu đối với công   việc”. Niềm vui, hứng thú có tác động qua lại với tính tự  giác, tích cực, chủ  động trong học tập của học sinh, có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập  của học sinh. Rõ ràng là nếu tìm thấy niềm vui, hứng thú, trong một trạng thái  tâm lý thoải mái thì học tập sẽ ''thấm'' hơn. Theo một nhà tâm lý học thì một   niềm hứng thú thực sự biểu hiện  ở sự bền bỉ, kiên trì và sáng tạo trong việc   hoàn thành các công việc độc lập dài hơi. Nếu học sinh được độc lập quan  sát, so sánh, phân tích, khái quát hoá các sự   kiện, hiện tượng thì các em sẽ  hiểu sâu sắc và hứng thú bộc lộ rõ rệt.    Theo nhà tâm lý học Xô Viết thì nội dung dạy học cần phải  ở mức độ  phù hợp với trình độ  học sinh, phải tác động vào ''vùng phát triển gần nhất''.  Một nội dung quá dễ hoặc quá khó đều không gây hứng thú học tập cho học  sinh. Cần biết dẫn dắt học sinh luôn luôn tìm thấy cái mới, có thể  tự  chiếm   lĩnh kiến thức, phải làm cho học sinh cảm thấy mình mỗi ngày một trưởng  thành.    Cần tạo ra không khí thuận lợi cho lớp học, có sự  giao tiếp thuận lợi   giữa thầy và trò, giữa trò và trò bằng cách tổ  chức và điều khiển hợp lý các   hoạt động của từng cá nhân học sinh và tập thể học sinh.           “Để làm các em yêu thích môn toán thì phải dạy cho các em hiểu được  các bài toán chứ không phải dạy theo kiểu nhồi nhét hiện nay, mà việc đó thì   không dễ! Hiểu được toán là phải hiểu từ nội dung toán học của bậc học nền   tảng đầu tiên ­ Tiểu học. Nếu không hiểu thì học toán trở thành nặng nề”, vì  vậy nhiệm vụ  của người thầy là phải tạo niềm say mê bằng cách dạy từng  bước một, khi các em đã hiểu được thì cố gắng dạy cho các em phương pháp  tư duy. Nếu chỉ đưa nhiều bài tập thì các em cứ bắt chước thầy, lúc đó gọi là  “bắt chước” chứ  không phải “sáng tạo”; bắt chước có thể  giải được nhiều  2
  3. bài nhưng khi gặp cái mới thì không giải được và hơn nữa là chán! Đây là   hiện tượng đang rất phổ biến.             Trong Chương trình giáo dục tiểu học hiện nay, môn Toán cùng với  các môn học khác trong nhà trường Tiểu học có những vai trò góp phần quan  trọng đào tạo nên những con người phát triển toàn diện.   Toán  học là môn khoa học tự nhiên có tính lôgic cao, nó là chìa khóa  mở ra sự phát triển của các bộ môn khoa học khác.             Môn Toán được dạy theo cách truyền thống bao gồm giảng lý thuyết,  làm bài tập, kiểm tra dưới áp lực thời gian là nguyên nhân gây ra nỗi sợ Toán.  Toán học trong ấn tượng của chúng ta là một môn học đánh giá thành tích.  Nếu hỏi học sinh làm gì trong giờ học Toán thì câu trả lời là : cố gắng giải  bài tập đúng. Môn Toán có nhiều bài tập, bài kiểm tra, điểm số và có nhiều  cuộc thi hơn tất cả các môn khác.            Môn Toán ở Việt Nam thường nặng về tính kỹ thuật, mẹo mực giải  bài tập. Nhiều đến phát sợ! Học sinh lẫn phụ huynh cũng biết như vậy nhưng  không biết phải làm thế nào vì điểm Toán được tính hệ số cao nhất và có mặt  trong hầu hết cuộc thi chuyển cấp quan trọng nhất, ảnh hưởng trực tiếp đến  tương lai của học sinh.            Trên thực tế, môn Toán đúng là quan trọng thật. Các công nghệ mới  nhất của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như Trí tuệ nhân tạo, Thực tế ảo,  Xe tự lái,…đều cần một nền tảng Toán học vững chắc. Nói đúng hơn là  tương lai chúng ta phụ thuộc khá nhiều vào Toán học.  Muốn học sinh Tiểu học học tốt được môn Toán thì mỗi người giáo  viên không phải chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong  Sách giáo khoa, trong các sách hướng dẫn và thiết kế bài giảng một cách dập  khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một cách thụ động. Nếu chỉ dạy  học như vậy thì việc học tập của học sinh sẽ diễn ra thật đơn điệu, tẻ nhạt  và kết quả học tập sẽ không cao. Nó là một trong những nguyên nhân gây ra  cản trở việc đào tạo các em thành những con người năng động, tự tin, sáng  tạo sẵn sàng thích ứng với những đổi mới diễn ra hàng ngày.            Và thực tế, thứ chúng ta cần là  TƯ DUY TOÁN HỌC chứ không phải  mẹo giải bài tập. Thứ chúng ta cần phải là TƯ DUY LOGIC, GIÁI QUYẾT  VẤN ĐỀ chứ không phải là giải những bài tập đánh đố  và đánh giá trí thông  minh.  Vậy làm sao để giải quyết mâu thuẫn giữa thực tế và mong muốn? Có  cách nào vừa giúp học sinh phát triển tư duy Toán học, giải quyết vấn đề mà  vẫn đảm bảo điểm số tốt môn Toán? Tôi hi vọng với những biện pháp nhỏ  mà tôi tích lũy được qua quá trình giảng dạy và học hỏi của mình sẽ phần nào  giúp học sinh Tiểu học thêm yêu thích Toán hơn.            Và cũng chính vì những lý do nêu trên mà tôi đã chọn đề tài “Một số  biện pháp giúp học sinh yêu thích học Toán” để nghiên cứu và sử dụng. 3
  4. II. TÊN SÁNG KIẾN: “Một số biện pháp giúp học sinh yêu thích học Toán” III. TÊN TÁC GIẢ: Họ và tên: Phạm Thị Sen Địa chỉ: Trường Tiểu học Thanh Lãng A ­ Bình Xuyên ­ Vĩnh Phúc Số điện thoại: 0981 906 828         E_mail: phamthisen.c1thanhlanga@vinhphuc.edu.vn IV. CHỦ ĐẦU TƯ TẠO RA SÁNG KIẾN:       Phạm Thị Sen – GV chủ nhiệm lớp 5A ­ Trường Tiểu học Thanh Lãng A ­  Bình Xuyên ­ Vĩnh Phúc V. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN:    Môn Toán học trong các trường Tiểu học cần đến sự  yêu thích từ học  sinh nhằm đạt chất lượng giảng dạy cao hơn. VI. NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG: Bắt đầu từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 11 năm 2017 VII. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN: 1. Nội dung sáng kiến:           Yêu cầu của giáo dục hiện nay đòi hỏi phải đổi mới phương pháp dạy   học môn toán  ở  bậc Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ  động   sáng tạo của học sinh. Vì vậy người giáo viên phải gây được hứng thú học  tập cho các em bằng cách lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học  tập. Qua quá trình điều tra, theo dõi thực trạng việc tổ chức các hình thức dạy   học Toán  ở  trường mình, tôi thấy việc tổ  chức các hoạt động cho học sinh   trong các giờ học Toán còn nhiều bất cập, chưa thực sự được quan tâm đúng  mức, hiệu quả của giờ dạy chưa cao,  đôi khi người giáo viên còn mất nhiều  thời gian, từ đó cũng ngại tìm tòi sáng tạo và tổ chức các hoạt động mới. Hình   thức tổ  chức các hoạt động còn nghèo nàn, chưa phong phú. Học sinh chưa   mạnh dạn khi tham gia hoạt động mới. Nhiều em trong quá trình học chưa chú  ý, chưa hứng thú, còn đứng ngoài cuộc.           Học sinh Tiểu học có trí thông minh và khá nhạy bén, sắc sảo, có óc   tưởng tượng phong phú. Đó là tiền đề tốt cho việc phát triển tư duy toán học   nhưng rất dễ bị phân tán, lúng túng nếu bị áp đặt, căng thẳng, quá tải. Chính  vì thế nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, hình thức chuyển tải,  truyền đạt làm thế nào cho phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi là điều không thể  xem nhẹ. 4
  5. Cùng với tự  giác, hứng thú làm nên tính tích cực nhận thức, giúp học  sinh (HS) học tập đạt kết quả cao, có khả năng khơi dậy mạch nguồn của sự  sáng tạo. Trong khi đó, việc khảo sát thực tế dạy học  ở tiểu học bằng nhiều   con đường (lấy phiếu hỏi từ các cấp quản lí giáo dục, từ các giáo viên (GV),  các bậc phụ huynh và học sinh, quan sát và làm các đo nghiệm khách quan trên  học sinh) đã cho thấy nhiều  học sinh tiểu học không có hứng thú trong học  tập. Điều này vừa được xem như  là một biểu hiện vừa được xem như  một  nguyên nhân cơ bản của việc suy giảm chất lượng dạy học ở tiểu học.     Vì vậy để nâng cao chất lượng môn toán, theo tôi, cần có những biện   pháp sau đây:         1.1. Biện pháp 1: Tạo hứng thú học tập cho học sinh qua các công  thức thú vị, dễ nhớ:          ­ Trong quá trình dạy học bài “Hỗn số”­ SGK 5 trang 13, sau khi học  sinh đã hiểu bản chất của hỗn số là tổng của một số tự nhiên với một phân  số thì khi áp dụng chuyển hỗn số thành phân số, tôi đã tạo ra công thức giúp  học sinh thích thú và háo hức được thực hành với nó, công thức mang tên “  Vòng tròn nhân cộng” và nó đã đạt hiệu quả rất cao: học sinh hiểu và rất  thích làm bài tập liên quan tới hỗn số. Ví dụ: 5 2 8 5 21 2 8 8 8  Sử dụng “Vòng tròn nhân cộng”  nhẩm tính như hình vẽ sau:  ơ 5 2 8 5 21 2 8 8 8    Theo thứ tự di chuyển của vòng tròn, ta thực hiện phép nhân nhẩm 2 với 8  và tiếp tục cộng kết quả phép nhân đó với 5, giữ nguyên mẫu số chung ta  được kết quả cần tính.        ­ Hay trong các tiết dạy về hình học, các dạng toán số học có các công  thức cồng kềnh, tôi đã lựa chọn các câu đố vui, những bài thơ điệp vần vui  nhộn để gây hứng thú và giúp chạm được vào vùng phát triển gần nhất của  học sinh để các em có thể đúc túi các bài học quan trọng một cách dễ dàng và  vui vẻ như: “Chu vi tứ giác bảo rằng: Bốn cạnh cộng lại là bằng tôi thôi. Diện tích được thơ hóa rồi, Mời bạn hát nhé để tôi đệm đàn. Muốn tìm diện tích hình thang, Đáy lớn đáy nhỏ ta mang cộng vào. Thế rồi nhân với chiều cao,  Chia đôi lấy nửa thế nào cũng ra. 5
  6. Hình vuông mỗi cạnh bằng a, Diện tích ­ bằng tích a nhân a rồi. Muốn tìm diện tích hình thoi, Tích hai đường chéo chia đôi ngon lành. Diện tích của hình bình hành, Chiều cao nhân đáy là thành ngay thôi. Diện tích chữ nhật bạn ơi, Lấy dài nhân rộng chẳng đời nào quên….”. Hay: Muốn tính diện tích hình vuông Cạnh nhân chính nó vẫn thường làm đây Chu vi thì tính thế này Một cạnh nhân bốn đúng ngay bạn à.   Diện tích tam giác sao ta Chiều cao nhân đáy chia ra hai phần.   Diện tích chữ nhật thì cần Chiều dài, chiều rộng ta đem nhân vào Chu vi chữ nhật tính sao Chiều dài, chiều rộng cộng vào nhân hai.   Bình hành diện tích không sai Chiều cao nhân đáy ai ai cũng làm.   Muốn tính diện tích hình thang Đáy lớn đáy nhỏ ta mang cộng vào Xong rồi nhân với chiều cao Chia đôi lấy nửa thế nào chẳng ra.   Hình thoi diện tích sẽ là Tích hai đường chéo chia ra hai phần Chu vi gấp cạnh bốn lần.   Lập phương diện tích toàn phần tính sao Sáu lần một mặt nhân vào Xung quanh nhân bốn thế nào cũng ra Thể tích ta sẽ tính là Tích ba lần cạnh sẽ ra chuẩn liền   Hình tròn, diện tích không phiền Bán kính, bán kính nhân liền với nhau 6
  7. Ba phẩy mười bốn nhân sau Chu vi cũng chẳng khó đâu bạn à Ba phẩy mười bốn nhân ra Cùng với đường kính thế là xong xuôi.   Xung quanh hình hộp dễ thôi Tính chu vi đáy xong rồi nhân ra Cùng chiều cao nữa thôi mà Thể tích hình hộp chúng ta biết rồi Tích ba kích thước mà thôi Để giải hình tốt bạn ơi thuộc lòng.   TÌM TRUNG BÌNH CỘNG CỦA 2 SỐ Để tìm được số trung bình  Tổng các số hạng, nào mình tính ra Số trung bình cộng sẽ là Tổng chia đầu số(*), chúng ta cùng làm. (*) đầu số: số lượng các số hạng TÍNH VẬN TỐC ­ QUÃNG ĐƯỜNG ­ THỜI GIAN Bạn ơi vận tốc tính sao? Quãng đường mình lấy chia vào thời gian. Quãng đường để tính, cần làm Ta mang vận tốc, thời gian nhân vào. Còn thời gian tính thế nào? Quãng đường, vận tốc chia vào cho nhau. TÌM HAI SỐ KHI BIẾT TỔNG VÀ HIỆU CỦA HAI SỐ Muốn tìm số bé thì cần  Tổng trừ đi hiệu, hai phần chia ra. Muốn tìm số lớn thì ta Lấy tổng cộng hiệu, chia ra hai phần. Tìm được một số thì cần (**) Lấy tổng trừ nó để lần số kia.  (**): sau khi tìm được số lớn hoặc số bé ta lấy tổng trừ nó để tìm số còn lại,  cách này nhanh hơn. CỘNG, TRỪ, NHÂN, CHIA PHÂN SỐ Cộng hai phân số với nhau  Mẫu cùng: tử trước tử sau cộng vào Nếu mà khác mẫu thì sao? 7
  8. Quy đồng mẫu số, cộng vào như trên. Mẫu chung ta phải giữ nguyên  Rút gọn (nếu có) chớ quên bạn à. Trừ hai phân số thì ta Giống như phép cộng thay là trừ thôi. Nhân hai phân số biết rồi  Tử sau tử trước bạn ơi nhân nào Tiếp tục hai mẫu nhân vào  Rút gọn (nếu có) thế nào cũng ra. Chia hai phân số sẽ là Phân số thứ nhất chúng ta nhân cùng  Số chia đảo ngược là xong   Bạn làm tốt nếu THUỘC LÒNG đó nha.  1.2.  Biện pháp 2:   Tạo hứng thú học tập bằng cách làm cho học  sinh nhận thức được mục tiêu, lợi ích của bài học Hứng thú (sự  yêu thích) là một thuộc tính tâm lí mang tính đặc thù cá  nhân. Hứng thú có tính lựa chọn. Đối tượng của hứng thú chỉ là những cái cần   thiết, có giá trị, có sức hấp dẫn với cá nhân. Vậy vấn đề  gì thu hút sự  quan  tâm, chú ý tìm hiểu của các em? Trả lời được câu hỏi này nghĩa là người GV   đã sống cùng với đời sống tinh thần của các em, biến đổi những nhiệm vụ  học tập khô khan phù hợp với những mong muốn, nhu cầu, sở thích, nguyện   vọng (tất nhiên là phải tích cực, chính đáng) của HS. Hứng thú học tập trước hết được tạo ra bằng cách làm cho HS ý thức  được lợi ích của việc học để tạo động cơ học tập. Mục tiêu này có thể được   trình bày một cách tường minh ngay trong tài liệu học tập hoặc có thể  trình   bày thông qua các tình huống dạy học cụ  thể. Ngay từ  những ngày đầu HS   đến trường, chúng ta cần làm cho các em nhận thức về lợi ích của việc học   một cách tích cực và thiết thực:   Với mỗi bài học cụ  thể, giáo viên cần giúp cho học sinh nhận ra tính   lợi ích của một nội dung nào đó. Chẳng hạn:    Phép tính cộng, trừ, nhân, chia sẽ giúp em tính toán với các  con số từ nhỏ tới lớn thật nhanh, thật đúng, từ đó áp dụng giải  các bài toán lời văn dễ dàng, hay trong cuộc sống việc tính toán  cần thiết và phổ biến như thế nào,…      Bài: “Nhận dạng các hình”: Từ bài học này HS sẽ gọi đúng  được tên hình dạng của chiếc hộp bút, cái bảng, cái cửa sổ, cái  vung nồi, cái thước, quyển vở, chiếc đồng hồ,…     Bài : “Tính chu vi, diện tích của một hình”: GV cần nêu được  lợi ích sau khi học bài là các em có thể tính được chu vi, diện  tích lớp mình hoc, chu vi, diện tích bàn học của mình, của bảng  lớp học hay của chính ngôi nhà em đang ở,… 8
  9.      Bài “Phân số”: sẽ giúp các em chia nhỏ đều số táo, số bánh  hay một hình, một khối lẻ bất kì nào trong cuộc sống của em.      Bài “Tỉ số phần trăm” dạng bài tập này giúp các em có thể  tính tiền lãi gửi tiết kiệm hay bán hàng giúp bố mẹ mình,…      Dạng bài toán về chuyển động sẽ giúp các em tính được độ  dài quãng đường, vận tốc hay thời gian đi khi đã biết các đại  lượng kia. … 1.3. Biện pháp 3:  Tạo hứng thú học tập bằng cách phối hợp các  phương pháp và các hình thức dạy học linh hoạt Ngoài việc khai thác sự  lí thú trong chính nội dung dạy học, hứng thú   của HS còn được hình thành và phát triển nhờ  các phương pháp, thủ  pháp,  hình thức tổ chức dạy học phù hợp với sở thích của các em. Đó chính là cách  tổ  chức dạy học dưới dạng các trò thi đố, các trò chơi, tổ  chức hoạt động   sắm vai, tổ chức hoạt động học theo nhóm, tổ  chức dạy học dự án, tổ  chức  dạy học ngoài không gian lớp học... 1.3.1. Tổ chức trò chơi học tập: Trong thực tế dạy học, giờ học nào tổ chức trò chơi cũng đều gây được  không khí học tập hào hứng, thoải mái, vui nhộn. Nghiên cứu cho thấy, trò  chơi học tập có khả  năng kích thích hứng thú và trí tưởng tượng của trẻ em,   kích thích sự phát triển trí tuệ của các em.            Trò chơi học tập nhất thiết phải là một bộ phận của nội dung bài học,   phải là một phần cấu tạo nên bài học.  1.3.2. Tổ chức hoạt động học theo nhóm:           Học theo nhóm là hình thức học tập có sự hợp tác của nhiều thành viên  trong lớp nhằm giải quyết những nhiệm vụ  học tập chung.  Được tổ  chức  một cách khoa học, học theo nhóm sẽ  phát huy tính tích cực, sáng tạo, năng  lực, sở  trường, tinh thần và kĩ năng hợp tác của mỗi thành viên trong nhóm.   Trong giờ học Tiếng Việt, biện pháp này đã tạo nên một môi trường giao tiếp  tự  nhiên, thuận lợi, đó là hoạt động giao tiếp nhằm trao đổi, chia sẻ  kiến   thức, kinh nghiệm của những người bạn. 1.3.3. Tổ chức dạy học ngoài trời: Thực   chất   của   việc   tạo   hứng   thú   học   toán   cho   HS   trên   bình   diện  phương pháp và hình thức tổ chức dạy học là tạo ra được các tình huống để  HS tiếp cận, vận dụng nội dung toán học thiết thực và tự  nhiên. Sự  hình  thành mỗi kiến thức toán học như sự phát triển tất yếu của hệ thống các nhu   cầu nhận thức của họ. Khi các nhu cầu nhận thức được thỏa mãn thì đó chính   là bản chất bên trong của hứng thú chứ  không phải là các khẩu hiệu hoặc   biểu tượng bề ngoài. Phương pháp dạy học thể hiện vai trò là phương tiện tư  tưởng ở chỗ tạo được điểm tựa để HS tự trải nghiệm; tự điều chỉnh các kiến   9
  10. thức và kỹ năng sẵn có để tiếp nhận tri thức mới vào hệ thống tri thức của cá  nhân. Dạy học ngoài trời giúp HS tìm hiểu rất nhiều kiến thức, kĩ năng từ  cuộc sống. Dạy học ngoài trời là một hình thức tổ chức dạy học có nhiều lợi  thế để phát triển năng lực giao tiếp cho HS, một năng lực cần thiết cho tất cả  mọi môn học. Dạy học ngoài trời tạo điều kiện để  HS thực hành, quan sát vấn đề  thực tế… nhằm gây hứng thú, sự  tích cực học tập cho các em. Tổ  chức tiết  học ngoài trời sẽ  giúp HS tri giác trực tiếp đối tượng và ghi nhớ  tốt, không   phải tri giác gián tiếp qua các phương tiện dạy học. Các em có điều kiện gần   gũi, hiểu biết về thực tiễn lợi ích của các bài học, từ đó có sự yêu thích và sự  tư  duy nhạy bén với toán lời văn vì HS thấy được các bài toán đều quá đỗi  thiết thực, gần gũi và dễ hiểu. Hay các em sẽ có được kĩ năng đo lường, phân  tích tốt hơn. Hoạt động ngoài lớp còn là cơ hội để các em bộc lộ cá tính, năng   khiếu, sở  trường, đồng thời có tác dụng hình thành thói quen hợp tác, tương  trợ, học hỏi lẫn nhau.      Theo hoạch định của các chiến lược về  mục tiêu, chương trình và  sách giáo khoa (SGK) cùng với đặc thù riêng của môn Toán, các nội dung dạy  học có tính chất toán học thuần túy được lựa chọn để  dạy cho HS tiểu học   khá  ổn định; đảm bảo tính thiết thực; khả  dụng; vừa sức; hiện đại và tích   hợp. Ví dụ: Các bài liên quan tới cân, đong, đo, đếm; nhận dạng hình học hay  tính diện tích, sản lượng cây trồng trên một vùng diện tích nào đó;… Thiết kế các trò chơi học tập để  HS tiếp cận kiến thức toán một  cách nhẹ nhàng, thú vị   Ví dụ 1: Với mục tiêu là: Hình thành biểu tượng (khái niệm ban đầu)   về diện tích một hình (Toán 3 – trang 150); chúng ta hãy thử nghiệm hai cách  thiết kế dưới đây để cảm nhận về sự khác biệt tâm lý và thái độ học tập của   HS: Cách 1: Nghe giảng và xem minh  Cách 2: Vui chơi có thưởng họa 10
  11. ­ GV chia nhóm 4 HS; mỗi nhóm nhận  một tờ  giấy kẻ  64 ô vuông (8 x 8) và  hai   bút   dạ   khác   màu   (xanh­   đỏ);   Hai  nhóm ngồi đối diện. ­ Chơi oẳn ­ tù  ­ tì; nhóm nào thắng thì  GV có một hình tròn (miếng bìa đỏ  được tô vào 4 ô (yêu cầu tô lần lượt  hình   tròn),   một   hình   chữ   nhật  từng hàng) sau hai phút dừng lại kiểm  (miếng   bìa   trắng   hình   chữ   nhật).  tra. Nhóm tô được phần giấy rộng hơn  Đặt hình chữ  nhật nằm trọn trong   thì  thắng cuộc. Các  nhóm thắng cuộc  hình   tròn.   Ta   nói:   Diện   tích   hình  thì dán kết quả tô lên bảng lớp. chữ nhật bé hơn diện tích hình tròn  ­ GV yêu cầu so sánh mức độ  rộng ­  (GV chỉ  vào phần mặt  miếng bìa  hẹp của phần giấy đã tô mà các nhóm  màu trắng bé hơn phần mặt miếng  được   dán   trên   bảng   (nêu   cách   nhận  bìa màu đỏ) (Sách Giáo viên Toán  biết). Trao thưởng cho nhóm đã tô được  3, trang 235).  phần giấy rộng nhất. ­ GV chỉ vào phần giấy của nhóm đã tô  rộng nhất và giới thiệu: ta nói nhóm này  tô   được   phần   giấy   có   diện   tích   lớn  nhất. *Kết quả: Cách 1: HS phải nghiêm túc chăm chú quan sát hình vẽ và lắng nghe lời  giải thích của GV để nhận biết một cách trực giác là: hình này nằm trọn trong  hình   kia   thì   diện   tích   hình   này   bé   hơn   diện   tích   hình   kia.   Từ   đó   có   biểu  tượng ban đầu về diện tích một hình. Cách 2: HS nhận đồ dùng (bút màu và giấy kẻ ô); cùng nhau oẳn ­ tù ­ tì   để chơi và tạo ra phần giấy được tô màu (theo các hàng, cột); so sánh lần 1,   HS nhận ra trong 2 nhóm, nhóm nào tô rộng hơn thì được dán lên bảng. So   sánh lần 2, HS nhận ra nhóm tô được phần giấy rộng nhất trong các nhóm đã   dán lên bảng. Khi giải thích kết quả  so sánh HS có thể  quan sát, có thể  đặt   chồng lên nhau, có thể  đếm số  ô vuông đã tô màu. Như  vậy HS nhận biết:   diện tích hình này bé hơn diện tích hình kia (không chỉ bằng trực giác hình này  nằm trọn trong hình kia). Các hoạt động được thiết kế đã giúp HS tự kiến tạo  và tiếp cận biểu tượng ban đầu về diện tích một hình khá nhẹ nhàng, lý thú.  Ví dụ 2: Với mục tiêu: Thành lập bảng đơn vị  đo độ  dài và nhận biết   quan hệ giữa hai đơn vị đo liền kề. (bài: Bảng đơn vị đo độ dài; SGK Toán 3  trang 45), chúng ta cũng thử  nghiệm 2 cách thiết kế  hoạt động học tập của  HS dưới đây: Cách   1:   Hướng   dẫn   cách   lập  Cách 2: Vui chơi có thưởng để  tự  hình  bảng và nêu lên quan hệ thành bảng và nêu quan hệ GV yêu cầu nêu các đơn vị  đo độ  Trò chơi 1: GV treo 2 bảng kẻ  sẵn; chia  dài đã học. HS có thể  nêu không  lớp thành hai đội; mỗi đội nhận một bút  11
  12. dạ và yêu cầu mỗi đội ghi (tiếp sức) vào  các chỗ chấm trong bảng: HS hai đội lần  lượt thi đua điền tên các đơn vị  đo lớn  theo thứ  tự  nhất định, GV hướng  hơn   mét   (km;   hm;   dam);   nhỏ   hơn   mét  dẫn   HS   điền   dần   vào   bảng   kẻ  (dm; cm; mm); ghi các số  vào chỗ  chấm:  sẵn   để   cuối   cùng   có   một   bảng  1km = ....hm; 1hm = ....dam;  dam = ...m;  hoàn thiện như trong SGK. Chẳng  1m = ....dm; 1dm = ...cm ; 1cm =....mm  hạn: Khi HS lần lượt nêu các đơn  và điền vào kết luận: “Mỗi đơn vị  đo độ  vị đo độ  dài, GV có thể  viết ra  ở  dài  gấp  .....  lần  đơn  vị   đo  bé  hơn  liền   phần bảng khác (theo thứ  tự  HS  nó”.   Đội   nào   xong   trước   và   điền   đúng  nêu). Khi HS đã nêu đủ  7 đơn vị  thứ tự các đơn vị và các số vào chỗ chấm  đo độ  dài thì GV cho HS nêu đơn  thì   thắng   cuộc.   GV   yêu   cầu   HS   mỗi   vị  đo cơ  bản là mét; GV ghi chữ  nhóm   đọc   lại   tên   các   đơn   vị   đo   trong  “mét” vào cột giữa của bảng kẻ  bảng theo thứ  tự  và đọc lại kết luận về  sẵn; ghi ký hiệu “m” ở dòng dưới  quan hệ giữa các đơn vị liền kề. cùng cột. Sau đó GV cho HS nhận  Trò chơi 2: GV nêu một số  câu đố; mỗi  xét có những đơn vị  đo nhỏ  hơn  đội có một chuông (hoặc 1 biểu tượng)  mét ta ghi  ở  các cột bên phải cột  để giành quyền trả  lời. Chẳng hạn: “Đố  “mét”, GV ghi chữ “nhỏ hơn mét”  bạn biết đơn vị  đo độ  dài nào mà cứ  10  vào bảng kẻ  sẵn. Có các đơn vị  đơn vị  đó là 1 mét ?”, Hoặc đố  bạn đơn  đo lớn hơn mét ta ghi các đơn vị  vị đo độ dài nào mà 1 đơn vị đó bằng 100  lớn hơn mét  ở  bên trái cột “mét”,  mm; đội rung chuông trước được quyền  GV   ghi   chữ   “lớn   hơn   mét“   vào  trả  lời. Nếu trả  lời đúng được 10 điểm.  bảng kẻ sẵn.... Nếu   trả   lời   sai   0   điểm   và   đội   còn   lại  GV cho HS nhìn bảng và lần lượt  giành quyền trả lời. Cứ chơi như vậy sau  nêu  quan   hệ   giữa   hai   đơn   vị   đo  5 phút đội nào nhiều điểm hơn thì thắng  liền nhau... cuộc; GV cho HS đọc nhiều lần để  ghi  Yêu cầu HS 2 đội nói cho nhau nghe về  nhớ bảng. (SGV Toán 3, trang 86) thứ   tự   của   các   đơn   vị   đo   độ   dài   trong  bảng và quan hệ  của hai đơn vị  đo liền  kề. *Kết quả: Cách 1: Thể  hiện rõ vai trò của GV qua các hoạt động (được gạch  chân) trong quá trình hoàn thành mục tiêu: GV hướng dẫn; GV cho HS... GV   ghi.... Cách 2: Thể  hiện rõ vai trò của HS tự  huy động kiến thức vốn có; tự  thể hiện kỹ năng; tự  phát hiện quan hệ qua các hoạt động (được gạch chân)  trong quá trình hoàn thành mục tiêu: mỗi đội ghi (tiếp sức); thi đua điền số;   điền vào kết luận; giành quyền trả lời...  Thiết   kế   các   hoạt   động   thực   hành   đa   dạng   gắn   với   việc   giải  quyết nhu cầu thiết thực trong đời sống để HS nhận biết giá trị của tri   thức toán học 12
  13. Ví dụ 1: Bài Thực hành xem lịch (SGV Toán 2, trang 140) Kiến thức và kỹ  năng của bài  Hoạt động thực hành gắn với nhu cầu  học thiết thực ­ Hỏi các thành viên trong gia đình (bố,  ­ Rèn kỹ  năng xem lịch tháng (nhận  mẹ, anh, chị hoặc em) để biết ngày sinh  biết thứ, ngày, tháng trên lịch) nhật của từng người. ­ Củng cố  nhận biết về  các đơn vị  ­ Xem lịch rồi khoanh lại (hoặc ghi ra   thời gian: ngày, tháng, tuần lễ, biểu  vở) ngày sinh nhật của mỗi người trong   tượng thời gian (phân biệt thời điểm  gia đình em năm nay; nhớ ghi rõ ngày đó  với khoảng thời gian) là thứ mấy trong tuần.   Chẳng   hạn:   Sinh   nhật   của   bố   em   là:  ngày..... tháng... và là thứ...... trong tuần Khi yêu cầu HS điền các ngày còn trống của một tờ  lịch tháng nào đó   hoặc liệt kê các ngày thứ... trong tuần nào đó của một tháng, hoặc khoanh vào   một ngày nào đó trên tờ lịch... đều là hoạt động thực hành đúng với mục tiêu  bài học nhưng khô khan và thuần túy kiến thức. Khi thiết kế hoạt động thực  hành gắn với các nhu cầu cuộc sống như trên, chúng ta đã gợi lên những cảm   xúc cho người học khi thực hành từ những việc làm tương tự. Ví   dụ   2:  Thực   hành   nhận   dạng   các   hình.   Sau   khi   HS   lớp   Hai   học  bài: Hình chữ nhật ­ hình tứ  giác, thay cho việc yêu cầu HS quan sát và đếm  hình trong 1 hình vẽ đã cho, có thể thiết kế hoạt động thực hành như sau: a. Chọn các hình thích hợp trong bộ đồ dùng học toán để xếp thành các  hình dưới đây: b. Nói cho bạn nghe hình vừa xếp được tạo dáng của vật nào thường  thấy hàng ngày.        Ví dụ 3: Tính diện tích của một hình: Yêu cầu HS tính diện tích các vật   thể các hình có dạng đã học xung quanh các em và cho biết kết quả tính. GV   cho HS làm việc theo nhóm, tự  dùng thước mét hoặc thước dây đo trực tiếp  chiều dài, rộng hay cạnh của mặt bàn, bảng lớp, nền nhà và tự áp dụng công   thức tính ra và báo cáo kết quả  đo của mình, từ đó so sánh hay sử dụng theo  yêu cầu của bài học hay theo yêu cầu thực hành của giáo viên.                        Tóm lại, việc thiết kế  các hoạt động học tập giúp HS hứng thú học  toán là sự  thể  hiện tổng hợp các ý tưởng về  phương pháp dạy học. Người  thiết kế không chỉ xác định đúng đắn mục tiêu học tập mà còn phải chú ý các  yếu tố về tâm lý học, về giáo dục học và hiểu rõ vốn kiến thức thực tiễn của  HS để  phối hợp tốt với các thủ  thuật, kỹ  thuật thể  hiện nội dung toán học,  tạo ra các kích thích hợp lí để HS tự học. 1.4. Biện pháp 4:. Tạo hứng thú học tập bằng việc  xây dựng môi  trường thân thiện giữa thầy và trò, trò và trò Bên cạnh việc tác động vào nội dung và phương pháp, hình thức tổ  chức dạy học, việc thiết lập được mối quan hệ hợp tác tích cực tốt đẹp giữa  13
  14. thầy và trò, giữa các trò cũng sẽ tạo hứng thú cho học sinh. Hình thức tổ chức   dạy học hấp dẫn cùng với một bầu không khí thân ái hữu nghị trong giờ học  sẽ tạo ra sự hứng thú cho cả  thầy và trò. Bởi vì, học là hạnh phúc không chỉ  vì những lợi ích mà nó mang lại, mà hạnh phúc còn nằm ngay trong chính sự  học.  Người giáo viên có thể  truyền cảm hứng học tập cho HS bằng việc   thường xuyên quan tâm, động viên, giúp đỡ các em lĩnh hội được kiến thức dù  các em ở mức độ nhận thức nào, luôn nhẹ nhàng, tận tình chỉ bảo từng em để  các em được bằng bạn, các em cảm thấy sự  công bằng, được quan tâm. Từ  đó mọi học sinh đều trở  nên tự  tin, bạo dạn, yêu sự  học, quý thầy cô và yêu  luôn cả những giờ học.  Phong trào “Đôi bạn cùng tiến” cũng là một biện pháp vô cùng hữu  hiệu không những giúp tình bạn giữa các trò thêm gắn kết mà nó còn giúp các  em được học hỏi qua nhau, cùng đưa phong trào học tập của lớp đi lên mạnh  mẽ. 2. Khả năng áp dụng của sáng kiến:              Tất cả các khối lớp đều áp dụng đạt hiệu quả cao tại hai trường Tiểu  học trong thị trấn là Thanh Lãng A và Thanh lãng B. Các giái pháp trong sáng  kiến này có thể áp dụng và nhân rộng trong các nhà trường Tiểu học.   Thông qua các biện pháp, học sinh hứng thú học tập môn Toán hơn,  tiếp thu bài học nhanh hơn, khắc sâu được kiến thức đã học, làm cho giờ học  trở nên nhẹ nhàng, thoải mái, sôi nổi, sinh động và đạt hiệu quả cao hơn.  Vì thế kết quả học tập của học sinh đã được nâng lên rõ rệt, đặc biệt  là những học sinh có học lực trung bình đã có sự say mê học tập hơn rất  nhiều. VIII. NHỮNG THÔNG TIN CẦN ĐƯỢC BẢO MẬT: ­ Không IX. CÁC ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN: Theo ý kiến chủ quan của riêng tôi, để áp dụng hiệu quả sáng kiến này   vào thực tế giảng dạy thì nhất thiết phải đáp ứng được các điều kiện sau: 1. Điều kiện chủ quan từ giáo viên:  Giáo viên cần không ngừng trau dồi về  chuyên môn nghiệp vụ, nắm   vững kiến thức cần cung cấp. Từ hệ thống kiến thức đó giáo viên sâu chuỗi   lại để có định hướng giảng dạy cung cấp kiến thức cho học sinh đúng trọng  tâm hơn. Không những thế, giáo viên còn cần có lòng nhiệt tình tâm huyết.     2. Điều kiện khách quan: Cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học của nhà trường cần đầy đủ, lớp học  đủ rộng và có ánh sáng tốt, tránh được tiếng ồn của hoạt động sản xuất, giao   thông   đường   bộ   để   quá   trình   dạy   và   học   được   đảm   bảo   chất   lượng.  14
  15. Nhà trường, địa phương, cha mẹ học sinh cần quan tâm tới việc học tập, rèn  luyện của các em. X. ĐÁNH GIÁ LỢI ÍCH CỦA SÁNG KIẾN 3. Đánh giá của tác giả: Qua điều tra khảo sát tâm lí của học sinh lớp 5A, tôi thấy tâm lí các em đã  thay đổi đáng kể. ­ Giữa tháng 3 năm 2017 tôi đã tiến hành điều tra tâm lí của 35 HS lớp  5A (năm học 2016­ 2017) bằng phiếu trắc nghiệm sau: PHIẾU TRẮC NGHIỆM Đánh dấu “x” vào ô vuông trước câu em cho là phù hợp với ý thích của   mình: (giáo viên đọc từng câu cho học sinh đánh dấu) Câu 1: Em có thích học môn toán không ?      Có:                Không:         Câu 2: Giờ học Toán là:              Một giờ học mà em thích nhất vì em cảm thấy bổ ích.              Một giờ học em không thích vì phải  làm bài tập quá nhiều. Kết quả thu được Kết quả Nội dung 5A SL % 1. Em có thích học môn toán không ? Có : 27 87,1 Không : 4           12,9 2. Giờ học môn toán là: ­ Là một giờ học em thích nhất vì cảm  28 90,3 thấy bổ ích. ­ Một giờ học em không thích vì phải  3 9,7 làm bài tập quá nhiều.           Khi áp dụng được tốt các biện pháp này trong các giờ học Toán, tôi tin  rằng các em học sinh sẽ yêu thích học môn Toán, kéo theo niềm đam mê, yêu  thích các môn học khá, kết quả học tập sẽ tăng lên đáng kể và học sinh cũng  thêm yêu thầy cô giáo. Môn Toán sẽ không còn là nỗi sợ hãi của các em học  sinh Tiểu học thân yêu nữa. Đây là một hi vọng cho thế hệ mầm non ­ thế hệ  tương lai của đất nước Việt Nam góp phần xây dựng phát triển đất nước  15
  16. phồn vinh và chúng ta có thể tự hào mình là con dân nước Việt với truyền  thống tự học, tự cường trong lòng bạn bè quốc tế. 2. Đánh giá của tổ chuyên môn:         Sáng kiến có tác dụng rõ rệt trong việc tạo cho các em lòng yêu thích,   ham mê với môn Toán. Tạo niềm tin với môn học, làm cho các em thêm yêu  thích môn học, có tinh thần phấn đấu để  nâng cao chất lượng học tập.  Sáng kiến có khả năng áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực giáo dục và có tiềm   năng tạo ra một thế hệ học sinh năng động, tự tin và có ích cho xã hội. XI. DANH SÁCH TỔ CHỨC THAM GIA ÁP DỤNG SÁNG KIẾN: STT Tên tổ chức Địa chỉ Phạm vi / lĩnh vực áp  dụng sáng kiến 1 Trường Tiểu học  Thị trấn Thanh  Các lớp học từ khối 1 tới  Thanh Lãng A Lãng khối 5     Thị trấn Thanh  Các lớp học từ khối 1 tới  Trường Tiểu học     2  Lãng khối 5 Thanh Lãng B Trong quá trình thực hiện đề  tài, tôi đã cố gắng tìm đọc những tài liệu  dạy học của bộ môn cũng như học hỏi từ đồng nghiệp. Tuy nhiên đề tài cũng  không tránh khỏi những sai sót. Tôi sẽ tiếp tục vận dụng và tham khảo ý kiến  đồng nghiệp để sáng kiến này ngày càng hiệu quả và hoàn thiện thêm.  Tôi xin chân thành cảm ơn !   Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép của người   Thanh Lãng, ngày.....tháng......năm....... Thanh Lãng, ngày.....tháng......năm........  Thủ trưởng đơn vị Tác giả sáng kiến Kí tên, đóng dấu) ( (Ký, ghi rõ họ tên) khác. 16
  17. 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2