intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao công tác chủ nhiệm ở trường Tiểu học

Chia sẻ: Tomjerry004 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:15

26
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm giúp người giáo viên chủ nhiệm lớp có điều kiện gần gũi với học sinh, hiểu học sinh hơn để từ đó giáo dục các em ngày càng tốt hơn. Học sinh không còn tâm lí ngại gần gũi, ngại tiếp xúc với giáo viên chủ nhiệm lớp, tạo điều kiện để học sinh phát huy tối đa những khả năng vốn có của mình trong học tập cũng như trong mọi hoạt động của lớp, của trường.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao công tác chủ nhiệm ở trường Tiểu học

  1. A. PHẦN MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:      Giáo viên chủ nhiệm ở Tiểu học có một vị trí vô cùng quan trọng trong việc   hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài   về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng sống cơ bản để học sinh tiếp   tục học Trung học cơ  sở. Ngoài việc tổ  chức, hướng dẫn các hoạt động học tập   của học sinh  xuyên suốt 10 buổi/ tuần, giáo viên chủ  nhiệm lớp còn phải thường  xuyên theo dõi các hoạt động trong giờ chơi, trong các buổi sinh hoạt, giao lưu tập  thể,…và cả hoạt động học tập ở nhà của học sinh. Vì vậy công việc của một giáo   viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học là rất nặng nề, rất vất vả và vô cùng phức tạp. Là người giáo viên chủ  nhiệm lớp, bản thân tôi nhận thức hết sức sâu sắc   lời dạy bảo ân cần của Bác Hồ kính yêu: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang   hay không, dân tộc Việt Nam có  sánh vai cùng các cường quốc năm châu hay  không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”. Đó là trách nhiệm,  là niềm vinh quang, tự hào. Tôi suy nghĩ phải làm gì đây để xây dựng và hình thành  cho các em phẩm chất, trình độ  tốt ngay từng giờ, từng ngày học và ý thức trách   nhiệm của các em đối với bản thân, với tập thể lớp, trường và cộng đồng xã hội. Các em học sinh Tiểu học ngây thơ, hồn nhiên trong trắng như tờ giấy trắng.   Tôi hết sức tự hào khi mình là người đầu tiên được cầm bút viết lên tờ giấy trắng   đó. Niềm tự hào bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm đối với các em, với giáo dục   và xã hội.   Lương tâm của nhà sư phạm mách bảo tôi phải uốn nắn kịp dần cho các em  hình thành có ý thức nội quy, nề nếp đã được quy định. Quan tâm, động viên, giúp  các em từ  việc nhỏ  đến việc lớn, làm hành trang cho các em mang theo vào cuộc  sống sau này.  Hiểu rõ như vậy, do đó tôi chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao  công tác chủ nhiệm ở trường Tiểu học” để viết sáng kiến kinh nghiệm. II. ĐIỂM MỚI CỦA ĐỀ TÀI  ­ Giúp người giáo viên chủ nhiệm lớp có điều kiện gần gũi với học sinh, hiểu học   sinh hơn để từ đó giáo dục các em ngày càng tốt hơn.  ­ Học sinh không còn tâm lí ngại gần gũi, ngại tiếp xúc với giáo viên chủ  nhiệm   lớp, tạo điều kiện để  học sinh phát huy tối đa những khả  năng vốn có của mình  trong học tập cũng như trong mọi hoạt động của lớp, của trường. ­ Tìm ra một số biện pháp tích cực, tối ưu trong công tác chủ nhiệm lớp góp phần  nâng cao sự  hình thành và phát triển về  năng lực, phẩm chât và  giáo dục kĩ năng  sống cho học sinh.dể  từ  đó  học sinh ý thức được giá trị  của bản thân trong mối  quan hệ  xã hội,  hiểu biết về  thể  chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi,  thói quen ứng xử có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật…  và có đủ khả năng  tự chủ, độc lập, tự tin khi giải quyết công việc, đem lại cho các em vốn tự tin ban   đầu để trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời.  III. PHẠM VI ÁP DỤNG ĐỀ TÀI:  Trang 1
  2. Với khả năng và trình độ  cho phép, tôi xin chọn tập thể học sinh lớp  5A do  tôi chủ nhiệm. B. PHẦN NỘI DUNG I. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM  Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC :        Giáo viên Tiểu học không chỉ dạy các môn học theo quy  định của Bộ GD&ĐT  mà còn phải làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Vì vậy, đòi hỏi người giáo viên Tiểu  học không chỉ có trình độ  chuyên  môn mà còn phải biết tổ chức quản lý học sinh   trong các hoạt động giáo dục, đó là việc rất nặng nề và cũng rất khó khăn đối với   giáo viên.       Học sinh lớp  5 là lứa tuổi đang bước vào tuổi dậy thì nên ngoài những thay đổi  về  thể  chất, các em cũng thay đổi về  tâm lý tình cảm, dễ  bị  tác động xấu bởi   những vấn nạn của xã hội nếu các em không được giáo dục tốt.        Học sinh trong lớp có em có hoàn cảnh khó khăn nên thiếu sự quan tâm sâu sát   của gia đình, có em sống với ông bà ngoại để  đi học vì bố  mẹ  đi làm ăn xa; đặc   biệt  có em có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, bố mẹ bỏ nhau, bố thần kinh   không bình thường, mẹ  bị  bệnh tâm thần khá nặng, nhà nghèo nên em có tâm lí  chán học, thường xuyên nghỉ học.           Một số phụ huynh coi việc giáo dục trẻ là bổn phận và trách nhiệm của nhà   trường mà đặc biệt là của giáo viên.        Từ thực tế trên, tôi tự  hứa với lòng mình phải cố  gắng thật nhiều để  làm tốt   công tác chủ nhiệm và phải đặc biệt quan tâm, gần gũi hơn với  học sinh. 1. Những thuận lợi, khó khăn trong công tác chủ nhiệm lớp: 1.1. Thuân l ̣ ợi:   Các ban ngành, đoàn thể luôn tạo điều kiện giúp đỡ hỗ trợ nhiệt tình về mọi  mặt. Ban giám hiệu luôn quan tâm đến chất lượng dạy và học, việc giáo dục đạo  đức rèn phẩm chất, năng lực cho HS. Cơ sở vật chất của trường đảm bảo cho việc  dạy và học.  Ngay từ  đầu năm học trường đã tổ  chức được cuộc họp với phụ  huynh để chấn chỉnh nế nếp học tập của các em.  Là giáo viên chủ  nhiệm lớp 5. Bản thân luôn nhiệt tình trong công tác, hết  lòng vì học sinh thân yêu. Lớp 5A là lớp do tôi làm chủ nhiệm từ năm học trước, đã  nắm và hiểu rõ về tình hình, đặc điểm của lớp, của từng học sinh. Các em đều là  học sinh ngoan, biết vâng lời thầy cô giáo, chăm học, đoàn kết, luôn yêu thương   giúp đỡ nhau. Học sinh có đủ sách vở và đồ dùng học tập. Gia đình học sinh đều ở  gần trường đóng, thuận lợi cho việc đi lại của học sinh.  Trong gia đoạn hiện nay, với sự bùng nổ công nghệ thông tin nên việc nắm  bắt chủ  trương  đường lối của Đảng và nhà nước của mỗi giáo viên, của phụ  huynh rất kịp thời, Sự liên lạc giữa giáo viên chủ nhiệm – gia đình học sinh – nhà   trường khá kịp thời  1.2. Kho khăn ́ Trang 2
  3. *Những khó khăn do khách quan:        Nhận thức của một số phụ huynh còn hạn chế. Sự quan tâm giáo dục của gia   đình đối với các em chưa đúng mức, phụ huynh còn quan niệm việc giảng dạy và  giáo dục học sinh là do nhà trường đảm nhiệm. Việc này đồng nghĩa với việc  khoán trắng trọng trách cho người giáo viên. Mặt khác cũng có gia đình quan tâm  tới việc học của con em mình nhưng lại không nắm được nội dung giảng dạy cũng  như  phương pháp dạy dẫn tới hiệu quả  không cao. Thậm chí có trường hợp phụ  huynh dạy sai dẫn tới các em nhận thức lệch hướng của vấn đề. Chính những khó  khăn này ảnh hưởng trực tiếp đến việc học của các em.           Bên cạnh đó ngoài giờ  học các em còn phải tiếp giúp gia đình như: cắt lúa,   phơi lúa, giữ em để cha mẹ đi làm. Vì thế khi tới mùa vụ tỉ lệ nghỉ học của các em  tương đối cao. Điều này làm cho việc học của các em bị  hụt kiến thức dẫn đến  mất căn bản. Mặt trái của sự bùng nổ về công nghệ thông tin đã mang đến những tiêu cực,  các trò chơi ngày càng nhiều đặc biệt các trò choi trên mạng Internet…..thu hút học  sinh tham gia. Đời sống kinh tế phát triển dễ làm cho các em rơi vào lối sống thiên   về vật chất, do đó càng khó khăn hơn trong việc giáo dục tư  tưởng cho các em có   lối sống hồn nhiên có lý tưởng. * Khó khăn từ phía giáo viên và học sinh:  ­ Công tác quan hệ phối hợp với phụ huynh học sinh chưa được thường xuyên. ­ Còn có nhiều học sinh gia đình có hoàn cảnh khó khăn, thuộc diện hộ nghèo. ­ Nhà ở vùng thấp, lũ lụt hay bị ngập nước nên việc thực hiện nội quy trường, lớp   vào mùa mưa gió của các em học sinh còn hạn chế. ­ Một số học sinh do thiếu thốn tình cảm gia đình (như chỉ ở với mẹ hoặc bố, cha   mẹ làm ăn xa) nên các em ít được quan tâm, giáo dục toàn diện như  các bạn cùng  trang lứa, có em còn có những biểu hiện mặc cảm tự ti, không dám hòa mình trong  mọi hoạt động chung của lớp. ­ Lứa tuổi các em rất hiếu động, suy nghĩ chưa sâu sắc nên đôi khi còn hay tranh   cãi, đánh nhau gây ra những trường hợp không đáng có trong môi trường giáo dục.  Một số học sinh chưa có động cơ tự học tập, thiếu hứng thú, chưa thấy lợi ích của  việc học, chưa có thói quen và kỹ năng lao động trí óc. ­ Việc triển khai thực Thông tư  22 của BGDĐT và tiếp cận các phương pháp dạy  học hiện đại, mô hình dạy học VNEN mới bắt đầu, cả GV và phụ huynh đều bắt  đầu làm quen  nên còn nhiều lúng túng. 2. Nguyên nhân của những thực trạng nói trên:         Hiện tượng trẻ em chưa linh hoạt  khi phải xử lí những tình huống của cuộc   sống thực, thiếu tự tin trong giao tiếp, thiếu bản lĩnh vượt qua khó khăn, thiếu sáng   kiến và dễ  nản chí ngày càng nhiều. Nhiều vấn đề  của xã hội hiện đại tác động  đến trẻ chưa được cập nhật, bổ sung vào chương trình giáo dục nhà trường. Việc   định hướng sai các giá trị  là nguyên nhân gây ra những hiện tượng đáng tiếc trong  ứng xử của trẻ. Phương pháp giáo dục nhồi nhét, lí thuyết suông, không tạo được   Trang 3
  4. cho trẻ khả năng tư duy, óc phân tích, suy xét, phán đoán, không tạo cơ hội cho trẻ  trải nghiệm những vấn đề thực trong cuộc sống hiện đại… Qua nhiều năm thực tế  giảng dạy ở trường, bản thân tôi nhận thấy  học sinh chưa tốt là do những nguyên   nhân sau:     Giáo viên và người lớn chưa thật gần gũi, thân thiện với học sinh.     Rèn kĩ năng sống qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui chơi chưa  thật sâu sát.     Giáo viên khuyến khích động viên khen thưởng học sinh còn ít.      Công tác tuyên truyền các bậc cha mẹ  thực hiên giáo d ̣ ục đạo đức cho các em  chưa nhiều.      Chính việc thiếu hụt nghiêm trọng các kĩ năng sống do sự hạn chế của giáo dục   gia đình và nhà trường, sự  phức tạp của xã hội hiện đại là nguyên nhân trực tiếp   khiến học sinh gặp khó khăn trong xử với tình huống thực của cuộc sống. II. MÔT S ̣ Ố BIÊN PHÁP NÂNG CAO  ̣ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƯỜNG  TIỂU HỌC  1. Biện pháp 1: GVCN phải có nhận thức đầy đủ, sâu sắc về  vị  trí, vai trò vô   cùng quan trọng của mình đối với sự phát triển của học sinh lớp chủ nhiệm: GVCN là thành viên của tập thể sư phạm, là người thay mặt hiệu trưởng, hội  đồng nhà trường và phụ  huynh học sinh   quản lý, tổ  chức học tập rèn luyện đạt  mục tiêu đào tạo.  GVCN vừa đóng vai trò quản lý hành chính Nhà nước, vừa đóng  vai trò người thầy giáo, đồng thời còn đóng vai trò người đại diện cho quyền lợi của  tập thể lớp. Đối với HS và tập thể lớp, GVCN vừa là nhà giáo dục và là người lãnh đạo  gần gũi nhất, người lãnh đạo, tổ chức, điều hành, kiểm tra toàn diện các hoạt động   giáo dục, hoạt động tập thể  và chịu trách nhiệm trước hiệu trưởng về  công tác  giáo dục đạo đức, lối sống và chuẩn KTKN cần đạt của lớp mình được quy định  trong chương trình GDPT tại QĐ số  16/ QQD­ BGD ĐT ngày 5/5/ 2006 của BGD  và ĐT. GVCN là người chủ  chốt của nhà trường làm công tác giáo dục đạo đức,   lối sống cho HS lớp mình chủ nhiệm.  Trong quan hệ  với các lực lượng giáo dục khác trong và ngoài nhà trường,  GVCN là nhân vật trung tâm để  hình thành, phát triển nhân cách học sinh; là cầu  nối giữa lớp với gia đình, nhà trường và xã hội. 2. Biện pháp 2: Tìm hiểu nắm rõ đặc điểm tình hình của lớp chủ nhiệm  để có   biện pháp tổ  chức giáo dục sát với đối tượng nhằm thúc đẩy sự  tiến bộ  của   từng học sinh và của cả lớp.      Ngay sau khi nhận lớp chủ nhiệm, tôi đã tìm hiểu, nắm bắt thông tin về đối  tượng học sinh lớp chủ  nhiệm qua các kênh thông tin khác nhau như  điều tra qua   học bạ năm học trước của học sinh, qua giáo viên chủ nhiệm cũ; lập phiếu điều tra  các thông tin cá nhân; tiến hành phân loại học sinh… Trang 4
  5. Sự phân loại và các thông tin trên là căn cứ để lựa chọn học sinh có năng lực,  nhiệt tình vào Ban cán sự lớp, Hội đồng tự quản; đồng thời cũng là cơ sở để đưa ra  những biện pháp phù hợp trong việc giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm. 3. Biện pháp 3: Xây dựng đội ngũ Hội đồng tự  quản của lớp, hoàn thiện tổ   chức lớp học:          Xây dựng một đội ngũ Hội đồng tự  quản giỏi là việc rất quan trọng người   giáo viên làm công tác chủ  nhiệm phải có kế  hoạch thực hiện. Hơn nữa, để  đội  ngũ cán bộ lớp cùng giáo viên chủ nhiệm đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện nề nếp   học tập của các bạn là công việc cần thiết và có ích.   Trước hết, những học sinh được chọn vào Hội đồng tự  quản bao giờ  cũng  phải gương mẫu trước các bạn về  mọi mặt: Học tập, kỷ  luật, tham gia các hoạt  động, đối xử với bạn bè....  Hội đồng tự quản của lớp tôi gồm: 1 Chủ tịch HĐTQ, 2 Phó chủ tịch HĐTQ  và gồm 6 ban với các chức trách và nhiệm vụ như sau:   * Chủ tịch Hội đồng tự quản:  Điều hành công việc chung * Phó chủ  tịch Hội đồng tự  quản: Điều hành các ban theo sự  phân công của chủ  tịch Hội đồng. * Ban văn nghệ : Tổ chức cho các bạn hát, múa, chơi trò chơi vào đầu tiết học và  cuối tiết học. Có thể lồng ghép chơi trò chơi để ôn lại kiến thức cũ.  * Ban học tập: Có nhiệm vụ  phát đồ  dùng và mời các nhóm trưởng lên nhận tài  liệu và đồ  dùng học tập. Kiểm tra bài cũ, bài tập  ứng dụng của các bạn, báo cáo   với cô giáo vào đầu giờ. Trong tiết học ngoài nhiệm vụ  học tập của mình phải  quan sát bao quát lớp để cuối mỗi tiết học nhận xét đánh giá tình hình học tập của   lớp. Ngoài ra, tùy từng bài mà đặc biệt là ở hoạt động làm việc cả lớp, giáo viên có thể  để  ban học tập thay cô giáo kiểm tra lại kiến thức mà các nhóm vừa thảo luận   xong. Muốn làm được tốt công việc đó, cuối mỗi buổi học, tôi thường mời ban học  tập ở lại để giao nhiệm vụ trước cho các em. * Ban lao động: Có nhiệm vụ theo dõi vệ sinh chung của cả lớp. Đầu mỗi buổi học  phải phân công vệ  sinh lần lượt cho các nhóm và kiểm tra nhóm nào chưa thực  hiện hoặc thực hiện chưa tốt. Cuối mỗi buổi học cũng phải kiểm tra lại xem nhóm  nào   thực   hiện   vệ   sinh   chưa   tốt   để   kịp   thời   nhắc   nhở   các   bạn   thực   hiện   tốt. * Ban thể dục: Có nhiệm vụ theo dõi phần tập thể dục giữa giờ và các tiết học thể  dục xem bạn nào thực hiện tốt, bạn nào thực hiện chưa tốt. * Ban sức khỏe: Theo dõi về  sức khỏe nếu trong lớp bạn nào có vấn đề  về  sức   khỏe thì đưa bạn lên phòng y tế của trường hoặc báo với cô y tế. * Ban thư viện: Cho các bạn mượn truyện đọc, thu truyện và sắp xếp thư viện gọn  gàng ngăn nắp. * Ban ngoại giao: Có nhiệm vụ nếu lớp có khách đến thăm thì ra mời khách vào và   biết  giới thiệu về trường, lớp các góc học tập, cô giáo, các bạn. … Trang 5
  6.           Nhiệm vụ của mỗi em, mỗi ban được ghi rõ ràng trong một cuốn sổ, sau đó   phát cho các em. Tôi hướng dẫn từng em cách ghi chép trong sổ một cách khoa học,  cụ thể, rõ ràng. Mỗi em sẽ làm đúng các nhiệm vụ của mình. Hội đồng tự quản và   các ban phải đoàn kết và hợp tác chặt chẽ với nhau trong công việc chung.           Cuối mỗi tuần, vào tiết sinh hoạt lớp ngày thứ  sáu, dưới sự  điều hành của   Chủ tịch HĐTQ, đại diện các ban báo cáo các mặt hoạt động của lớp. Căn cứ  vào   báo cáo của từng ban, GVCN nắm được khả năng quản lí lớp của từng thành viên.  Và cứ cuối mỗi tháng, GVCN tổ chức họp HĐTQ một lần để tổng kết các mặt làm   được của lớp, động viên khen ngợi những việc các em đã làm tốt, đồng thời chỉ rõ  những thiếu sót và hướng dẫn các em cách  khắc phục.  4. Biện pháp 4: Xây dựng kế  hoạch phù hợp và chỉ  đạo các em thực hiện tốt   theo kế hoạch.         Từ thực tế nắm bắt được tình hình của học sinh tôi xây dựng một kế hoạch   chủ  nhiệm. Kế  hoạch này ngoài việc căn cứ  vào kế  hoạch của nhà trường, phải  dựa vào tình hình thực tế  của lớp, xây dựng kế  hoạch cả  năm, kế  hoạch học kỳ,   tháng,  tuần, bảo đảm tính khả  thi, phù hợp với đặc điểm HS, với hoàn cảnh và  điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp và của từng em; Có được   kế hoạch thì tôi đi vào chỉ đạo học sinh thực hiện theo kế hoạch đã định. Phát huy  vai trò của hội đồng tự  quản và các ban, đội ngũ này sẽ giúp giáo viên động viên,  đôn đốc, kịp thời uốn nắn, kiểm tra đối tượng học sinh. Sau mỗi tuần giáo viên   tổng kết lại cả quá trình và rút ra cho mình bài học kinh nghiệm. Từ đó biết được  ưu, khuyết điểm của lớp để khắc phục và đưa ra hướng hoạt động  cho tuần tiếp   theo. Những vấn đề  trong hướng dẫn lớp hoạt động, giáo viên ghi vào sổ  chủ  nhiệm những gì mình theo dõi được  ở  học sinh. Từ  đó đánh giá và giáo dục học   sinh tốt hơn. 5. Biện pháp 5: Luôn quan tâm, tạo sự gần gũi hòa đồng giữa GVCN với   HS, tập thói quen thực hiện nề nếp theo qui định. Từ  khi nhận lớp và đi thăm gia đình phụ  huynh học sinh, tôi đã hiểu được   phần nào ở mỗi học sinh, nên đã lập nên một kế hoạch: Ở trước lớp tôi động viên  và khuyên nhủ các em về vệ sinh lớp trước khi vào học, vệ sinh cá nhân sạch sẽ.  Về tác phong tư tưởng, các em còn vụng dại, sợ sệt không giám nói, sinh hoạt còn  mang nặng ở nhà, ăn mặc còn bẩn. Vì thế tôi đã gần gũi với các em, hoà mình vào  tập thể lớp như: gài cúc áo, xắn tay áo, chải đầu, sửa quần áo... cho các em. Tôi đã   giành thời gian giữa giờ để  tập hát, kể  chuyện cho các em một số  câu chuyện bổ  ích. Để tạo cho các em hứng thú trong học tập, sự hoà đồng giữa giáo viên và học   sinh, rút ngắn lại khoảng cách thầy, trò. Trước đây các em xa lạ với tôi bao nhiêu   thì các em càng gần gũi với tôi bấy nhiêu. Trong các giờ  lên lớp tôi luôn luôn xác  định rằng khi học là phải có một nề nếp. Tổ chức cho HS cả lớp cùng với HĐTQ   xây dựng một nề nếp và kiên quyết thực hiện theo nề nếp đã qui định. ­ 15 phút đầu giờ tôi chữa bài tập, ôn lại bài cũ, tập hát cho các em... Trang 6
  7. ­ Thực hiện dạy bài mới, ôn bài cũ qua từng giai đoạn, từng thời kì. Với   phương pháp từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn. ­ Khi ngồi học bàn ghế  phải ngay ngắn, ngồi vuông góc, ngồi thẳng hàng,   bàn nào có em nói chuyện là mời em đó lên ngồi bàn trên. ­ Xếp chỗ ngồi một em khá, một em yếu để các em kèm cặp nhau trong học   tập, các nhóm trưởng phải theo dõi trong nhóm của mình ai nói chuyện riêng, không  làm bài tập, không học bài cũ, đi học muộn, nghỉ học không có phép...bạn nào hăng   say phát biểu, xây dựng bài. ­ Các nhóm trưởng phải theo dõi các bạn trong nhóm của mình. Cuối tuần  thống kê tuyên dương những em có ý thức tốt, em nào mắc phải khuyết điểm tự  đứng dậy nhận lỗi trước lớp và giáo viên chủ  nhiệm. Đây là một việc làm mang  tính giáo dục, các em tự  biết nhận lỗi, tự  nhận ra khuyết  điểm của mình. Qua  những việc làm như  vậy, tôi thấy các em tiến bộ  rõ rệt. Theo tôi nghĩ, nhiều lúc  nghiêm túc quá sẽ dẫn đến không khí căng thẳng trong giờ học. Trong khi học bài   nếu học sinh phát biểu tôi luôn chú ý động viên dù trả lời không đúng hoặc đúng ít  để  tạo cho lớp mình có một phong trào học tập hằng say và sôi động. Do đó tôi  thấy rằng với những việc làm như  thế, mỗi giờ dạy của  tôi đối với lớp có phần   sôi động hẳn lên, tạo cho cả hai phía giáo viên và học sinh. Giáo viên thì hứng thú  giảng dạy, còn học sinh thì hứng thú học tập và kết quả truyền thụ và tiếp thu của  các em khá cao.        Ngoài việc dạy kiến thức tôi luôn quan tâm đến việc ghi chép bài vở  của học   sinh, xem các em viết bài như thế nào. Em nào ghi chưa hợp lý và chưa khoa học,   tôi đã hướng dẫn các em ghi chép đầy đủ và khoa học hơn. Hướng dẫn các em cách  cầm sách khi đọc bài, cách trả  lời các câu hỏi phải có đầu, đuôi. Luôn quan tâm  giúp đỡ các em học yếu. Luôn nhắc nhở và quan sát tư thế ngồi học của các em, để  kịp thời sửa chữa cho các em ngồi đúng tư thế. Khi giảng dạy tôi luôn dùng những  kí hiệu trên bảng để  điều khiển lớp, nhằm hạn chế  sự  làm việc riêng của học   sinh, giáo viên khỏi phải nói nhiều và thói quen trong học tập.  Trong giờ  học, tôi luôn tạo không khí sinh động, sôi nổi, hài hòa, vui tươi   không căng thẳng mà tạo niềm vui, sự phấn chấn để các em tự tin học tập, các em   vừa học vừa chơi nhưng vẫn đảm bảo chương trình chung. Ví dụ  trong giờ  học   toán tôi vận dụng các câu chuyện cổ tích, câu chuyện vui để đưa ra các bài toán liên  quan đến chương trình toán mà các em đang học. Khi đọc các bài toán có trong câu  chuyện các em cảm thấy thú vị hơn với vấn đề yêu cầu các em giải quyết, nó còn  giúp học sinh nâng cao kĩ năng đọc. Từ sự hưng phấn đó khoảng cách giữa các em  với cô giáo chủ nhiệm được gần hơn, các em thực sự mạnh dạn trong học tập.  Trong các tiết học tôi luôn chú ý các em yếu hoặc tính trầm lặng ít phát biểu.  Đối với các em ít nói, tôi thường gọi các em đứng dậy nhắc lại những câu trả  lời  của bạn hoặc đọc lại những câu ghi trên bảng để tạo cho các em thêm mạnh dạn   và nói lưu loát hơn trước đám đồng. Còn các em yếu kém tôi luôn chú ý kèm cặp và  Trang 7
  8. dìu dắt kĩ hơn các em khác. Luôn động viên và khuyến khích các em dù có những  việc làm nhỏ. Từ đó tôi thấy các em mạnh dạn hơn và kết quả nâng cao.  * Quan tâm giáo dục học sinh cá biệt, HS có hoàn cảnh khó khăn:  Ở  lớp tôi chủ  nhiệm có em Võ Thị  Bích Thuận  có hoàn cảnh gia đình đặc  biệt khó khăn: Bố  bỏ đi từ  lúc em chưa chào đời, mẹ bị  bệnh tâm thần khá nặng,   nhà quá nghèo. Gia đình chỉ có hai mẹ con sống với nhau, thần kinh của em không   được bình thường như các bạn trong lớp. Vì vậy, việc chấp hành nội qui của lớp,  của trường nhiều lúc chưa thật nghiêm túc; em còn đi học không thường xuyên và  có nguy cơ bỏ học. Ngoài ra, một số học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn như  em Phạm Thị Tú  (bố mẹ đi làm ăn xa, em ở với ông bà ngoại); em Nguyễn Hoàng   Anh (nhà nghèo, gia đình đông con), ….     Là giáo viên chủ  nhiệm lớp, trước hết phải tìm hiểu hoàn cảnh gia đình,  nguyên nhân dẫn đến hành vi của HS; gặp riêng HS cá biệt bằng tình cảm chân  thành của mình. Khi các em mắc lỗi, giáo viên cần bình tĩnh, nhẹ  nhàng, tế  nhị,   phân tích có lý, có tình mức độ  nguy hại của khuyết điểm,  thức tỉnh HS bằng  những câu chuyện đạo đức để cảm phục các em.     Tin tưởng giao công việc tập thể  phù hợp với khả  năng của HS cá biệt.    Đây là việc làm mang tính hai mặt, đòi hỏi GVCN lớp phải thường xuyên giám sát,  kiểm tra và động viên kịp thời khi HS đạt được thành tích dù là nhỏ nhất.   Tổ chức hoạt động tập thể, hoạt động nhân đạo để tạo điều kiện cho HS cá  biệt tham gia; xây dựng môi trường lành mạnh, tích cực, để  các em có cơ  hội tự  thể hiện mình. Cho các em tham gia và thực hiện tốt các chuyên đề ngoại khoá, rèn  luyện kỹ năng sống để các em tiến bộ.   Tổ chức cho tập thể lớp quan tâm tận tình giúp đỡ dưới mọi hình thức như:  thăm hỏi, đôi bạn, nhóm bạn cùng tiến. Ngoài ra bản thân tôi còn kêu gọi các tổ  chức trong và ngoài nhà trường  ủng hộ, quyên góp về  vật chất để  giúp các em có   điều kiện đến trường. GVCN lớp có thể  lấy tấm gương tốt trong tập thể, hoặc  của chính một HS cá biệt đã tiến bộ để cảm hoá HS cá biệt.  Kết hợp chặt chẽ với GV bộ môn vừa để hiểu hơn về HS vừa giúp các em   có những cố gắng  ở từng môn học. Đồng thời, kết hợp  chặt chẽ  với hội CMHS,  Đội TNTP để thống nhất biện pháp giáo dục HS cá biệt. Thực tiễn giáo dục HS cá biệt là rất khó khăn và không phải HS cá biệt nào   cũng giáo dục thành công. Công tác giáo dục HS cá biệt luôn là một thử  thách rất   lớn đối với mỗi GVCN lớp, song làm tốt được điều này bạn mới thực sự trở thành   một nhà giáo dục theo đúng nghĩa. 6. Biện pháp 6: Tổ chức tốt các hoạt động tập thể và các trò chơi vui tươi lành   mạnh.        Thích sinh hoạt tập thể và tham gia các trò chơi bổ ích là nhu cầu, là sở thích   của hầu hết các học sinh tiểu học. Vì vậy, khi tổ  chức cho các em sinh hoạt tập  thể  và tham gia các trò chơi là giáo viên đã giúp các em “học mà chơi, chơi mà  học”, kiến thức và kĩ năng ở mỗi em sẽ được hình thành và rèn luyện một cách nhẹ  Trang 8
  9. nhàng, tự nhiên, không gây căng thẳng, gò bó đối với các em. Ngoài ra, tổ chức sinh   hoạt tập thể  và vui chơi còn giúp các em phát triển và hoàn thiện nhân cách, bồi  dưỡng năng khiếu và tài năng sáng tạo. Ngoài ra, việc tổ  chức các hoạt động tập  thể còn là sợi dây gắn bó, kết nối, đoàn kết các em lại với nhau.        Các hoạt động sinh hoạt tập thể và một số trò chơi đơn giản, gọn nhẹ, tôi có   thể tổ chức ngay trong mỗi buổi học chính khóa và cả các buổi sinh hoạt ngoài giờ  lên lớp.        * Tổ chức sinh hoạt tập thể và vui chơi trong buổi học chính khóa          Giữa 2 tiết học căng thẳng, tôi thường tổ chức cho các em múa hát tập thể,  biểu diễn văn nghệ, hát dân ca, diễn hài,...         Trong các tiết TNXH, Đạo đức, tôi tổ chức cho các em chơi các trò chơi như:  làm phóng viên; sắm vai xử  lí các tình huống phòng tránh bị  xâm hại, từ  chối các   chất gây nghiện, bày tỏ thái độ đối với người bị nhiễm HIV/AIDS,...và đóng vai xử  lí các tình huống trong môn Đạo đức. Thông qua các hoạt động này, các em còn  được hình thành và rèn luyện nhiều kĩ năng sống cần thiết.           Tôi phân công vai diễn, múa hát hoặc giao việc phù hợp với khả  năng của  từng em, khuyến khích động viên các em tự  tin bộc lộ  năng khiếu của mình. Nhờ  vậy, các tiết học chính khóa trở  nên sôi nổi, các em rất hào hứng tham gia. Thông   qua các hoạt động vui chơi, các em được “làm”, “được trải nghiệm” như  trong   cuộc sống thực, điều đó sẽ  giúp các em lĩnh hội kiến thức và rèn luyện kĩ năng   sống một cách nhẹ nhàng, nhưng lại hiệu quả.        * Tổ  chức các họat động sinh hoạt tập thể  và vui chơi thông qua hoạt động   ngoài giờ lên lớp                 Ở  Tiểu học, giáo dục ngoài giờ  lên lớp được qui định trong chương trình   chính khóa, không bắt buộc giáo viên chủ  nhiệm phải lên tiết ngoài giờ  lên lớp.   Nhưng nếu các hoạt động này chỉ diễn ra ở các tiết học chính khóa trên lớp thì sẽ  mất rất nhiều thời gian, nếu như giáo viên vận dụng và tổ chức không khéo léo thì   sẽ làm ảnh hưởng đến tiến trình giờ học. Do vậy, đối với những hoạt động chiếm  nhiều thời gian, cần nhiều sức lực, tôi tổ chức cho học sinh tham gia trái buổi, mỗi   tuần 1 buổi.        ­ Tổ chức cho học sinh ôn luyện kiến thức bằng các trò chơi như: Rung chuông   vàng, Hái hoa dân chủ, Thi tìm hiểu về An toàn giao thông,... Nội dung thi được tôi   soạn bằng chương trình PowerPoint nên gây được sự  thích thú, hào hứng cho học   sinh mỗi lần tham gia.       ­ Tổ chức các buổi họp lớp, làm đồ  dùng học tập và làm báo tường, vẽ  tranh  chào mừng các ngày lễ lớn.       ­ Tổ chức cho học sinh xem phim tài liệu kỉ niệm các sự kiện lịch sử trọng đại   của đất nước như: Kỉ niệm ngày thành lập Đảng, Cách mạng tháng Tám, Kỉ niệm  ngày Quốc khánh, ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, ngày giải phóng   miền Nam,...Những đoạn phim tài liệu này, tôi lấy trên mạng Internet rồi kết nối   với máy chiếu, chiếu lên cho học sinh xem.        Trang 9
  10.        ­ Hướng dẫn các em làm bình hoa, cắt gấp hoa để trang trí góc học tập và làm  một số đồ  chơi đơn giản để  trưng bày hoặc để  tặng người thân bạn bè. Dựa trên   hướng dẫn  ở  báo Chăm học, tôi tập chung cả  lớp lại và hướng dẫn các em  làm  việc theo nhóm. Các em cùng làm, cùng góp, giúp đỡ nhau làm việc.         Nhờ thường xuyên tổ chức các hoạt động sinh hoạt tập thể và các trò chơi cho   cả lớp nên các em trở nên rất tự tin, rất năng động sáng tạo. Và điều quan trọng là   tôi đã thực sự xây dựng được một môi trường học tập thân thiện, học sinh tích cực.   Sĩ số  của lớp tôi luôn đảm bảo, chất lượng học tập của học sinh ngày càng nâng   cao. * Tổ chức tốt giờ sinh hoạt lớp cuối tuần:  Là giáo viên chủ  nhiệm lớp thì giờ  sinh hoạt cuối tuần là thời gian quan  trọng nhất, bởi tiết này không đơn thuần chỉ dừng lại ở việc nhận xét ưu, khuyết  điểm của lớp trưởng về  hoạt động của lớp tuần qua mà trong giờ  sinh hoạt cuối   tuần nhằm để học sinh nhận thấy được các khuyết điểm của chính bản thân mình,   dù nhỏ  hay lớn đều phải tự  hứa trước lớp sẽ  có biện pháp khắc phục trong tuần   tới. Đặc biệt trong giờ sinh hoạt này, tôi lấy các tấm gương điển hình về học tập,  giúp đỡ bạn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao để tuyên dương, khen ngợi  phần này được nhấn mạnh hơn, phần tồn tại chỉ nhắc nhở không quá khắt khe có  như vậy các em mới tự giác thực hiện tốt.      Ngoài những biện pháp nói trên, tôi còn thường xuyên quan tâm đến việc  phối hợp tốt với các GV bộ  môn, với Liên đội, với BGH nhà trường, với Phụ  huynh học sinh,… Nhờ vậy mà việc giáo dục học sinh của lớp có nhiều hiệu quả  hơn. Đặc biệt bản thân tôi luôn làm gương trong mọi mặt để cho các em noi theo.  Bởi vì tôi luôn nghĩ, giáo viên chủ nhiệm như người mẹ hiền thứ hai chăm sóc đàn  con của mình, mỗi việc làm lời nói của người giáo viên chủ nhiệm ảnh hưởng rất   lớn trong việc hình thành nhân cách học sinh.  Trong những năm làm công tác chủ  nhiệm, tôi nhận thấy rằng: Người giáo  viên chủ nhiệm nào chăm lo tới lớp của mình và có năng lực tổ  chức quản lý lớp   thì lớp đó bao giờ cũng ngoan hơn, nề  nếp hơn. Đúng là “Mẹ  nào con đó, tướng   nào quân  ấy”. Người giáo viên nào đứng lớp cũng cần chữ  “ UY”. Nhưng chữ  “UY” của giáo viên chủ  nhiệm đối với học sinh thì cần hơn. Chữ  “UY”  ở  đây là   uy tín, là lòng kính trọng tin yêu, là lòng khâm phục  lòng ngưỡng mộ của trò đối  với thầy... Thầy có chữ “UY’’ thì thầy bảo, thầy nói, thầy dạy trò mới vâng theo.  Theo tôi, chữ “UY” được hình thành từ cái nhỏ nhất. Đó là lời nói, việc làm, hành  động; là trang phục, tư thế tác phong, cách thức cư xử ... và sự hấp dẫn trong từng   tiết học của thầy của giáo viên chủ  nhiệm. Bên cạnh chữ  “UY” thì phải nói tới   chữ   “TÂM”   của   giáo   viên   chủ   nhiệm.   Chữ   “TÂM”   được   hiểu   ở   đây   là   lòng   thương yêu trẻ  đích thực, là lòng tâm huyết với công việc của mình. Người giáo  viên chủ  nhiệm cần phải quản lý lớp, giáo dục học sinh bằng tình yêu thương.  Trang 10
  11. Kinh nghiệm của bản thân tôi: Học sinh yêu quí thầy cô nào thì thích học thích  vâng nghe theo lời thầy cô ấy.          Tóm lại, người giáo viên chủ  nhiệm lớp  ở Tiểu học có một vị  trí đặc biệt  quan trọng. Lao động của một giáo viên chủ  nhiệm lớp  ở  Tiểu học là lao động  sáng tạo không ngừng; Sự sáng tạo đó đòi hỏi phải toàn diện: sáng tạo trong soạn   giảng, trong tổ  chức các hoạt động học tập, vui chơi, trong sinh hoạt tập thể  và   đặc biệt là trong các biện pháp giáo dục đạo đức và rèn luyện kĩ năng sống cho học   sinh. Vì vậy chỉ  có những giáo viên thực sự  tâm huyết với nghề, thực sự  thương   yêu học sinh của mình thì mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ. Bằng nhiều hình thức khác nhau, bản thân luôn cố gắng làm tốt công tác chủ  nhiệm, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh trong nhận thức, trong cư xử, đối  xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử lí trong mọi trường hợp.           Việc nâng cao công tác chủ nhiệm cho giáo viên Tiểu học là điều hết sức cần.  Để đạt được điều đó, giáo viên cần kiên trì, quyết tâm thực hiện từng bước và liên   tục trong suốt quá trình giảng dạy.  III. HIỆU QUẢ ÁP DỤNG:              Qua việc thực hiện các biện pháp trên, kể từ năm học 2017­2018 đến giữa   học kì I này, bản thân tôi thật sự vui mừng vì các em có nhiều tiến bộ  rõ rệt. Các  em đều có ý thức kỉ luật, tinh thần tự giác và có tinh thần tự học. Giờ truy bài thực   sự hữu ích với các em vì đó chính là giờ tự học, tự kiểm tra rất có kết quả. Các em   mạnh dạn trình bày ý kiến và mong muốn của mình trước tập thể. Hội đồng tự  quản làm việc có bài bản, thực sự  năng động hơn. Việc sinh hoạt hằng ngày trên  lớp, trong nhiều nghi thức lời nói, các em biết vận dụng những lời nói thân thiện   vào thực tế, những lời chào, cảm ơn hay xin lỗi, những yêu cầu, đề nghị lịch sự,...   đã trở thành thói quen được các em vận dụng hằng ngày. Các em rất hăng hái phát   biểu trong tiết học. Phụ huynh học sinh rất vui mừng phấn khởi trước sự tiến bộ  trưởng thành của con em mình, với những kết quả tốt đẹp của tập thể lớp 3C.          Kinh nghiệm trên đã áp dụng rộng rãi ở tất cả các lớp trong khối 3 nói riêng  và học sinh toàn trường nói chung, được các đồng nghiệp đồng tình ủng hộ. Học   sinh trong khối ngoan hơn, tự  giác chủ  động, mạnh dạn hơn, đã thể  hiện được   cách xử lí trong ứng xử khá phù hợp. Toàn khối trong năm qua không có em nào bị  kỉ luật và tỉ lệ lên lớp đạt chỉ tiêu.           Nhìn lại kết quả trên cho thấy, học sinh trong lớp chủ nhiệm về năng lực và   phẩm chất đều đạt. Về  kiến thức kĩ năng các em đều hoàn thành và hoàn thành   thành tốt. Như vậy, với hiệu quả đạt được như trên đã phần nào phản ánh được tác dụng   sáng kiến này, nó được áp dụng có hiệu quả trong lớp cũng như trong khối. Các giáo viên  trong trường cũng đã áp dụng sáng kiến này trong công tác chủ nhiệm của mình, học sinh   đa số đều có kĩ năng sống tốt hơn: thích ứng được với môi trường xã hội, tự giải quyết   được một số vấn đề thiết thực trong cuộc sống như vấn đề về sức khỏe, môi trường, tệ  nạn xã hội,…các em có thể tự tin, chủ động không bị quá phụ thuộc vào người lớn mà   Trang 11
  12. vẫn có thể tự bảo vệ mình, tự đem lại lợi ích chính đáng, điều kiện thuận lợi cho bản   thân mình rèn luyện, học tập phấn đấu vươn lên đáp ứng được phong trào thi đua “Xây  dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực.”   Với việc áp dụng những biện pháp nói trên, kết quả lớp 2017 ­  2018 đạt được  cụ thể sau: * Năm học 2017­2018:  +Kiến  thức, kỹ năng :100% học sinh  hoàn thành +Năng lực:                                ­Tự phục vụ, tự quản: 100% học sinh xếp loại Tốt.              ­ Hợp tác: 100% học sinh xếp loại Tốt.              ­ Tự tin, giải quyết vấn đề: 87,5% học sinh xếp loại Tốt. 12,5 % học  sinh xếp loại Đạt. +Phẩm chất:                 ­ Chăm học, chăm làm: 100% học sinh xếp loại Tốt.              ­ Tự tin, trách nhiệm: 100% học sinh xếp loại Tốt.              ­ Trung thực, kĩ luật: 100% học sinh xếp loại Tốt.              ­ Đoàn kết, yêu thương: 100% học sinh xếp loại Tốt. + Có 19/24 em được khen thưởng cuối năm đạt tỉ lệ: 79,2%    ­ Học sinh hoàn thành xuất sắc các nội dung học tập và rèn luyện: 8 em  ­ Học sinh có thành tích vượt trội hay tiến bộ vượt bậc về ít nhất một môn học   hoặc ít nhất một năng lực, phẩm chất : 11 em. * Kết quả các hội thi của lớp 5A:  Tổng số: 30 giải từ cấp trường trở lên ( Trong đó: Cấp trường 24 giải ;  Cấp huyện 3 giải ; Cấp tỉnh 3 giải ) cụ thể như sau: a) Cấp trường: Đạt  01 giải Nhất OTE tiếng Anh . Đạt  01 giải Nhì OTE tiếng Anh . Đạt 01 giải Ba Em hát dân ca và Hò khoan Lệ Thủy. Đạt 01 giải Ba Hội thi Kể chuyện theo sách Đạt 01 giải Ba Hội thi Nghi thức đội. Đạt 01 giải nhất Nội dung Gian hàng – Ngày hội học sinh Tiểu học Đạt 01 giải nhất Nội dung kéo co – Ngày hội học sinh Tiểu học Đạt 01 giải nhất Nội dung Đổ nước vào chai – Ngày hội học sinh Tiểu học Đạt 01 giải nhất Nội dung Nhảy bao bố – Ngày hội học sinh Tiểu học Đạt 01 giải nhất chạy 60m nam         Đạt 01 giải Ba chạy 60 m nam         Đạt 01 giải Nhì chạy 60 m nữ         Đạt 01 giải Nhất bật xa nam Đạt 01 giải Nhất bật xa nữ         Đạt 01 giải Nhất cờ vua nữ         Đạt 01 giải Ba cờ vua nam Trang 12
  13.         Đạt 01 giải Nhất đá cầu đơn nam          Đạt 01  giải Nhất đá cầu đơn nữ           Đạt 01 giải Nhất đá cầu đôi nam          Đạt 01 giải Nhất đá cầu đôi nữ          Đạt 01 giải Nhất đá cầu đôi nữ          Đạt 01  giải Nhất đá cầu đôi nữ          Đạt 01 giải Nhất đá cầu đôi nam nữ          Đạt 01 giải Nhất đá cầu đôi nam nữ  b) Cấp huyện: Đạt  01 giải Nhì OTE tiếng Anh . Đạt  01 giải Nhì nội dung chạy 60 nam. Đạt  01 giải Ba nội dung đá cầu đôi nữ.     c) Cấp tỉnh        Đạt  01 giải Ba OTE tiếng Anh        Đạt 01 giải Nhì Hội thi Trạng nguyên Tiếng Việt.        Đạt 01 giải Khuyến khích Hội thi Trạng nguyên Tiếng Việt * Học giữa học kì 1 ­ Năm học 2018­2019 (Lớp 5A):  a/ Kết quả giáo dục:  Chưa hoàn  Hoàn thành tốt Hoàn thành Tổng số  thành Môn học, HĐGD học sinh Số  Số  Số  % % % lượng lượng lượng Tiếng Việt 26 11 42.3 15 57.7 0 0.0 Toán 26 15 57.7 9 34.6 2 7.7 Đạo đức 26 14 53.8 12 46.2 0 0.0 Khoa học 26 11 42.3 15 57.7 0 0.0 Lịch sử và Địa lí 26 11 42.3 15 57.7 0 0.0 Âm nhạc 26 8 30.8 18 69.2 0 0.0 Mĩ thuật 26 9 34.6 17 65.4 0 0.0 Thủ công (Kĩ  26 11 42.3 15 57.7 0 0.0 thuật) Thể dục 26 9 34.6 17 65.4 0 0.0 Tiếng Anh 26 8 30.8 18 69.2 0 0.0 Tin học 26 10 38.5 16 61.5 0 0.0 Năng lực 26 Đạt tốt Đạt Cần cố gắng Tự phục vụ, tự  26 25 96.2 1 3.8 0 0.0 quản Hợp tác 26 15 57.7 11 42.3 0 0.0 Tự học và GQVĐ 26 15 57.7 11 42.3 0 0.0 Phẩm chất 26             Trang 13
  14. Chăm học, chăm  26 17 65.4 9 34.6 0 0.0 làm Tự tin, trách nhiệm 26 17 65.4 9 34.6 0 0.0 Trung thực, kỉ luật 26 26 100.0 0 0.0 0 0.0 Đoàn kết, yêu  26 26 100.0 0 0.0 0 0.0 thương b/ Kết quả các phong trào thi đua và mũi nhọn:  ­ Tham gia đầy đủ các hội thi cấp trường, đạt giải cao. Cụ thể:    + Hội thi Tiếng Anh OTE cấp trường : 02 giải Nhất ; 01 giải Nhì    + Hội thi Kể chuyện theo sách: đạt giải Ba. C. PHẦN KẾT LUẬN I. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI: Công tác chủ nhiệm lớp quả thật nặng nề và phức tạp. Người giáo viên phải  vừa như người mẹ dịu dàng, người thầy nghiêm khắc, người bạn gần gũi, trọng tài  phân minh… Thành công của giáo viên là làm cho học sinh tôn trọng, kính yêu, tin  tưởng, là xây dựng được một tập thể  lớp đoàn kết, gắn bó. Muốn đạt được điều   đó, GVCN phải đảm bảo các nguyên tắc sau đây: Thầy cô phải luôn là điểm sáng, là thần tượng của các em. Các em dễ tin, dễ  nghe theo lời dạy bảo của thầy cô.  Nắm chắc được những thuận lợi, khó khăn, hiểu rõ thực tế trường lớp mình,  khéo léo tìm cách bỏ đi mọi rào cản trong mối quan hệ với phụ huynh, đề ra những   biện pháp hữu hiệu, tiếp cận gần với các em nhất, tôi nghĩ rằng bất cứ  giáo viên  nào cũng sẽ sớm trở thành những người bạn của trẻ.  Luôn gần gũi, bên cạnh, quan tâm tới hoàn cảnh sống của học sinh, nhất là   học sinh có hoàn cảnh đặc biệt.  Bên cạnh đó, liên hệ chặt chẽ với phụ huynh, ban đại diện cha mẹ học sinh   của trường, của lớp, vận động cha mẹ học sinh có những hành động thiết thực hỗ  trợ học tập sẽ giúp cho hoạt động của lớp có hiệu quả hơn.  Phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ lớp làm nòng cốt, là “cánh tay phải”  của mình. Muốn vậy cần phải có một sự chọn lựa dựa trên cơ sở định hướng của  giáo viên và khả  năng tín nhiệm của học sinh. Để  giúp cho các em hoạt động có   hiệu quả, tích cực, chính xác, người giáo viên cần xây dựng kế  hoạch chủ  nhiệm   sát hợp với tình hình của lớp, thiết kế hệ thống sổ sách theo dõi phù hợp và thường  xuyên kiểm tra, đánh giá để có cách điều chỉnh thích hợp.  Ngoài ra, sự liên hệ chặt chẽ thường xuyên với các GVCN khác, với các giáo  viên bộ  môn cũng góp phần quan trọng cho GVCN trong thực hiện công tác của   mình. Sống, học tập, lao động là những vấn đề  thiết yếu mà bản thân luôn cố  gắng để ươm mầm cho thế hệ trẻ. Bởi trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai   Trang 14
  15. của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, là nhân   tố để cây đời mãi mãi xanh tươi. Việc chăm sóc và giáo dục trẻ em, bồi dưỡng trẻ  em trở  thành công dân tốt của đất nước là một công việc vô cùng quan trọng mà  mỗi giáo viên chúng ta phải cùng có trách nhiệm. II. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT * Đối với nhà trường:  ­ Thường xuyên tổ  chức hội thảo chuyên đề  về  công tác chủ  nhiệm lớp nhằm  không ngừng nâng cao nhận thức cho đội ngũ giáo viên nói chung, GVCN nói riêng  giúp cho đội ngũ làm tốt hơn nữa công tác chủ nhiệm lớp góp phần nâng cao chất  lượng giáo dục trong nhà trường ­ Hằng năm tổ chức bình bầu danh hiệu GVCN lớp giỏi cấp trường một cách công   bằng, chính xác để  tạo sự  phấn đấu thi đua trong mỗi giáo viên. Động viên khen   thưởng kịp thời cho những GVCN làm tốt công tác của mình, khen thưởng lớp đạt  thành tích cao trong học tập và rèn luyện.        Trên đây là một số biện pháp mà bản thân tôi đã thực hiện trong công tác chủ  nhiệm lớp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục học sinh lớp 5. Kính mong nhận   được những ý kiến đóng góp của hội đồng khoa học các cấp để  sáng kiến được  đưa vào thực hiện có hiệu quả cao.         Tôi xin chân thành cảm ơn ! Trang 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0