Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số giải pháp nâng cao tính ứng dụng thực tế trong giảng dạy môn Toán lớp 5
lượt xem 0
download
Sáng kiến "Một số giải pháp nâng cao tính ứng dụng thực tế trong giảng dạy môn Toán lớp 5" được hoàn thành với mục tiêu nhằm tìm ra một số giải pháp để nâng cao tính ứng dụng thực tế trong giảng dạy môn Toán lớp 5.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số giải pháp nâng cao tính ứng dụng thực tế trong giảng dạy môn Toán lớp 5
- 1 I.ĐẶT VẤN ĐỀ: 1. Tính cấp thiết phải tiến hành sáng kiến: Như chúng ta đã biết, hiện tại theo chương trình Giáo dục phổ thông năm 2018 là dạy học theo định hướng phát triển năng lực có nghĩa là dạy cho học sinh biết làm gì chứ không phải là dạy cho học sinh biết gì và một trong yếu tố tạo nên điều đó chính là việc ứng dụng linh hoạt những kiến thức thực tế trong cuộc sống hàng ngày vào trong dạy học. Mục tiêu nói trên được thông qua việc dạy học các môn học, đặc biệt là môn toán. Môn này có tầm quan trọng vì vậy môn toán là bộ môn không thể thiếu được trong nhà trường, đây là những tri thức, kỹ năng vừa đáp ứng cho phát triển trí tuệ, óc thông minh, sáng tạo, vừa đáp ứng cho việc ứng dụng thiết thực trong cuộc sống hàng ngày. Trong các môn học ít có môn học nào lại giúp rèn luyện năng lực suy nghĩ và phát triển trí tuệ cho học sinh như môn Toán. Môn Toán có tầm quan trọng to lớn. Nó là bộ môn khoa học nghiên cứu có hệ thống, phù hợp với hoạt động nhận thức tự nhiên của con người. Môn Toán còn là môn học rất cần thiết để học các môn học khác, nhận thức thế giới xung quanh để hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn. Môn Toán có khả năng giáo dục rất lớn trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận logic, thao tác tư duy cần thiết để nhận thức thế giới hiện thực như: trừu tượng hoá, khái quát hoá, khả năng phân tích tổng hợp, so sánh, dự đoán, chứng minh. Ở trường tiểu học, đặc biệt là giai đoạn lớp 5, việc dạy học toán cho học sinh nhằm phát triển năng lực và hướng dẫn, định hướng cho các em biết cách học toán, biết cách sử dụng những kiến thức đã được học trong môn toán để vận dụng vào cuộc sống hàng ngày. Thông qua việc học toán trong nhà trường,học sinh được rèn năng lực tư duy, phát triển trí thông minh và kĩ năng tính toán. Đặc biệt hơn cả, trong dạy toán cho các em, người giáo viên phải giúp các em trả lời được câu hỏi: Học toán để làm gì? Trả lời câu hỏi đó các em mới có mục tiêu học tập và có hướng học tập một cách rõ ràng. Xuất phát từ yêu cầu này tôi đã luôn trăn trở và tìm phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh. Những bài toán tôi đưa ra không chỉ giúp các em giải được bài toán, có được kiến thức toán cần thiết mà còn giúp các em hiểu sâu, nắm rõ và nắm chắc bản chất toán học qua từng bài toán. Không những thế, tôi còn giúp các em hiểu : học toán là đem kiến thức toán học được để áp dụng vào trong cuộc sống hàng ngày và áp dụng một cách hiệu quả. Để đạt được mục tiêu này tôi đã đưa các kiến thức và vốn sống thực tế áp dụng để giải toán. Và ngược lại, đưa những kiến thức toán mà các em học được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày. Chính vì lí do đó tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số giải pháp nâng cao tính ứng dụng thực tế trong giảng dạy môn Toán lớp 5”.
- 2 2. Mục tiêu của đề tài: Nhằm tìm ra một số giải pháp để nâng cao tính ứng dụng thực tế trong giảng dạy môn Toán lớp 5. 3. Thời gian, đối tượng, phạm vi nghiên cứu: -Thời gian: Trong năm học 2023-2024 -Đối tượng nghiên cứu: HS lớp 5 Trường Tiểu học Phú Sơn -Phạm vi nghiên cứu: Chương trình môn Toán lớp 5 II.NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN: 1. Thực trạng về việc dạy học một số bài toán có tính ứng dụng thực tế cho học sinh lớp 5. Qua thời gian trực tiếp giảng dạy lớp 5, tôi đã tiến hành điều tra, phân tích thực trạng, suy ngẫm về nội dung giảng dạy một số bài toán có tính ứng dụng thực tế lớp 5 của học sinh, cách tổ chức dạy học của bản thân và đồng nghiệp, tôi đã rút ra được những thuận lợi và hạn chế sau: 1.1. Đối với giáo viên: a) Thuận lợi: - Giáo viên đã nắm chắc được yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học một cách cơ bản, việc sử dụng đồ dùng dạy học hiệu quả. - Thông qua các tiết dạy mẫu, tiết chuyên đề đã mang lại cho mỗi giáo viên nhiều kinh nghiệm và thành công khi áp dụng vào giảng dạy môn Toán 5. - Trường tôi có cơ sở vật chất hiện đại. Mỗi lớp học được trang bị đầy đủ ti vi , máy tính để giáo viên có thể sử dụng và dạy học đạt kết quả tốt. b) Những hạn chế : - Trong môn toán ở Tiểu học, một số bài toán có tính ứng dụng thực tế là mạch kiến thức được dạy lồng ghép. Do đó có một bộ phận giáo viên còn coi nhẹ phần kiến thức này. Khi lên đến lớp 5 phần nội dung kiến thức về một số bài toán có tính ứng dụng thực tế có thời lượng rất ít , vẫn chưa được chú trọng. Do đó giáo viên chỉ dạy những kiến thức hết sức cơ bản mà không mở rộng kiến thức cho các em. Lâu dần dẫn đến tình trạng chỉ cung cấp kiến thức một cách “nguyên bản”, “mặc định”, như vậy cả thầy và trò đều thụ động trong việc dạy và học. - Một số giáo viên chỉ chú trọng dạy các mạch kiến thức: số học, đại lượng, giải toán mà ít chú trọng về dạy các bài toán có tính ứng dụng thực tế nên mấy năm gần đây chất lượng về giải toán có nội dung ứng dụng thực tế này của các em có khuynh hướng ngày càng đi xuống. - Thiết kế các hoạt động học chưa hợp lý, chưa tích cực. - Giáo viên còn nói nhiều, còn làm thay cho học sinh, giao việc cho học sinh chưa cụ thể theo từng đối tượng, thiếu quan tâm, tiếp cận kịp thời cho các nhóm học sinh hạn chế về năng lực học tập.
- 3 - Giáo viên chưa chú ý khơi gợi, tạo tình huống học tập để học sinh có hứng thú, tìm tòi, trải nghiệm, chiếm lĩnh kiến thức mới. - Giáo viên chưa phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh, còn áp đặt. 1.2. Đối với học sinh: a) Thuận lợi: - Học sinh ham học toán. - Học sinh có tư duy toán học tương đối tốt. - Trình độ tiếp thu của học sinh trong lớp tương đối đồng đều. - Học sinh có đầy đủ sách vở và đồ dùng học tập. b) Hạn chế : - Do đặc điểm tâm lí của lứa tuổi nên khả năng chú ý và tập trung còn yếu, tính kỉ luật chưa cao dễ mệt mỏi. - Kiến thức về cuộc sống thực tế của học sinh còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc tiếp thu bài học. - Kĩ năng sống của học sinh còn hạn chế. - Khả năng phân tích, tổng hợp chưa cao. - Các em chỉ ghi nhớ các công thức và quy tắc một cách máy móc là học thuộc lòng nên khi vận dụng vào giải bài toán có tính ứng dụng thực tế các em chỉ dựa vào phân tích dữ kiện dựa trên câu văn như giải toán có lời văn mà các em không liên hệ được các yếu tố , dữ kiện của đề bài. - Trí nhớ của học sinh chưa bền vững chỉ dừng lại ở phát triển tư duy cụ thể còn tư duy trừu tượng, khái quát chưa phát triển (nhất là ở học sinh yếu kém) nên khi gặp những bài cần có sự tư duy logic như tính số viên gạch hay số tiền thì các em không làm được do không có công thức tính trong sách giáo khoa - Năng lực tư duy trừu tượng của các em phát triển chưa nhiều, nên trí tưởng tượng về hình học còn gặp nhiều khó khăn. - Kĩ năng vận dụng quy tắc, công thức và phân tích, tìm ra mối quan hệ giữa các dữ kiện còn thấp, kéo theo kĩ năng trình bày bài của các em chưa tốt. - Việc tóm tắt đề toán còn dài dòng theo lỗi diễn đạt của giải toán có lời văn, hay nhiều em còn không biết tóm tắt - Đặc điểm của trẻ ở Tiểu học là chóng nhớ nhưng nhanh quên. Sau khi học bài mới, cho các em luyện tập ngay thì các em làm được bài nhưng chỉ sau một thời gian ngắn kiểm tra lại thì hầu như các em đã quên hoàn toàn, đặc biệt là những tiết ôn tập, luyện tập cuối năm. Năm học 2023- 2024, tôi được Nhà trường phân công giảng dạy và chủ nhiệm lớp 5A1. Đầu năm học, tôi đã điều tra 27 học sinh bằng phiếu trắc nghiệm sau:
- 4 PHIẾU TRẮC NGHIỆM Đánh dấu X vào trước ý kiến em cho là đúng: 1. Em có thích học môn Toán không? Có Không 2. Giờ học Toán Là một giờ học sôi nổi. Là một giờ học tẻ nhạt vì phải thực hiện tuần tự các lệnh trong SGK. Là một giờ mà em thích nhất vì em cảm thấy học Toán rất bổ ích. Sau 1 tuần quan sát, theo dõi và căn cứ kết quả thăm dò từ cha mẹ học sinh lớp 5A1, tôi thu được thực trạng năng lực ứng dụng thực tế của học sinh như sau: *Bảng kết quả các năng lực ứng dụng thực tế đầu năm học 20223-2024: Kết quả Nội dung SL % 1. Có thích học môn Toán. 10 37% 2. Không thích học môn Toán. 17 63% 3. Giờ học Toán là một giờ học sôi nổi. 11 40,7% 4. Một giờ học tẻ nhạt vì phải thực hiện tuần tự các lệnh 16 59,3% trong SGK. 5. Một giờ học mà em thích nhất vì em thấy môn toán rất bổ 0 0 ích. 6.Biết áp dụng vốn hiểu biết thực tế vào giải toán và áp 4 14,8 dụng kiến thức toán vào cuộc sống hàng ngày. 7. Không biết áp dụng vốn hiểu biết thực tế vào giải toán và 23 85,2 áp dụng kiến thức toán vào cuộc sống hàng ngày. Từ kết quả trên, để khắc phục tình trạng học sinh học toán, giải toán nhưng tách rời kiến thức toán học, không biết áp dụng kiến thức toán vào cuộc sống tôi đã đưa ra những giải pháp cụ thể.
- 5 2. Một số giải pháp nâng cao tính ứng dụng thực tế trong giảng dạy môn Toán lớp 5: 2.1. Các bài toán có nội dung hình học. ➢ Mục đích: - Từ những hiểu biết và thực tế ở trong cuộc sống hàng ngày các em sẽ đưa vào giải những bài toán về diện tích. - Học sinh hiểu được bản chất của kiến thức được đưa vào trong bài toán. - Từ những kiến thức đã học các em đem áp dụng vào cuộc sống, có thể tính toán giúp bố mẹ diện tích căn nhà mình đang ở hay diện tích cần quét vôi khi gia đình có nhu cầu. ➢ Cách tiến hành: * Bài toán 1: Để lát nền lớp học hình chữ nhật có chiều dài 8m, chiều rộng 6,8m, người ta dùng những viên gạch hình vuông có cạnh 40cm. Hỏi người ta phải dùng bao nhiêu viên gạch men đó để lát kín hết nền lớp học (Diện tích phần mạch vữa không đáng kể).( Bài 1, tiết Luyện tập chung trang 31) Với bài toán này nếu bình thường đối với giáo viên dạy lớp 5 thì không phải là bài toán thuộc những dạng toán khó, nhưng với các em học sinh lớp 5 lần đầu tiên giải bài toán này nếu không được tìm hiểu, không được giáo viên dẫn dắt một cách hợp lí và đặc biệt nếu không được giáo viên gợi ý, khơi gợi từ những kiến thức thực tế thì các em sẽ không hiểu được bản chất bài toán. Các em có giải được cũng chỉ hoàn toàn là học theo cách giải của cô và học thuộc cách giải một cách máy móc mà thôi. Bài toán này khi dạy cho học sinh lần đầu tiên tiếp cận với dạng toán, tôi đã hướng dẫn học sinh giải bài toán dựa vào điều kiện cũng như kiến thức thực tế như sau: - Chỉnh sửa dữ kiện bài toán phù hợp với điều kiện lớp học: Thường thì các bài toán lấy số liệu phù hợp với tiêu chuẩn một lớp học nhưng khi dạy trên đối tượng học sinh của mình, học trong một lớp học đủ điều kiện, hàng ngày các em ngồi học và có đủ thời gian nhìn, ngắm và biết rất rõ về phòng học nên tôi đã lấy ngay số đo chiều dài, số đo chiều rộng của lớp học. Từ đó, khi có đáp số của bài toán các em kiểm chứng lại ngay và đáp số ấy là đáp số hoàn toàn đúng trên thực tế cũng như giải toán. - Dùng những câu hỏi phù hợp để gợi ý cho các con giải bài toán một cách tốt nhất như: + Bài toán hỏi gì? ( dùng bao nhiêu viên gạch để lát?) + Muốn biết phải dùng hết bao nhiêu viên gạch phải biết điều gì trước?
- 6 Bài toán này khi hướng dẫn giải lần đầu cho học sinh sẽ mắc ở câu hỏi 2. Học sinh rất khó đưa ra được câu trả lời đúng là: Muốn tính phải dùng bao nhiêu viên gạch ta phải biết diện tích nền lớp học đó là bao nhiêu. - Để tháo gỡ nút thắt này cho học sinh, tôi yêu cầu các em quan sát ngay chính nền lớp học của mình. Tôi hướng dẫn các em để giúp các em nhận ra rằng diện tích nền lớp học chính là diện tích của tất cả các viên gạch được lát trên nền lớp học đó. Từ câu định hướng này của tôi, học sinh càng hiểu rõ hơn bản chất của diện tích: Diện tích của một hình chính là bề mặt phẳng của hình đó. - Trong bài toán mà tôi đưa ra, số đo chiều dài, số đo chiều rộng hay đáp số của bài toán đều là con số thực tế. Trước khi đưa ra cách giải tôi đã cho các em đếm trên thực tế nền lớp học. Các em đếm được chiều dài lớp dùng 20 viên, chiều rộng là 17 viên và cả nền lớp học được lát bởi: 17 x 20 = 340 (viên) - Tôi đã dùng hệ thống câu hỏi để giúp các em đưa về cách giải của bài toán dựa trên những hiểu biết thực tế như sau: + Muốn tính được nền lớp học của chúng mình được lát bởi bao nhiêu viên em phải tìm được gì? (Diện tích của 1 viên gạch, diện tích của nền lớp học) + Em hãy giải thích tại sao? (Diện tích của nền lớp học chính là diện tích của tất cả các viên gạch) - Nhờ được quan sát nền lớp học học sinh dễ dàng thấy được diện tích nền lớp học chia cho diện tích một viên sẽ ra số viên cần dùng để lát. Hình thành công thức cho học sinh: Diện tích nền nhà = Diện tích 1 viên gạch x Số viên gạch Số viên gạch = Diện tích nền nhà : Diện tích 1 viên gạch ( cùng một đơn vị đo) Vậy Muốn tính số viên gạch thì :- Bước 1: Tính diện tích nền nhà - Bước 2: Tính diện tích một viên gạch. - Bước 3: Tính Số viên gạch ( theo Công thức)
- 7 Bài giải Diện tích nền lớp học là: 8 x 6,8 = 54,4 (m2 ) Diện tích một viên gạch là: 40 x 40 = 1600 (cm2 ) Đổi 1600cm2 = 0,16 m2 Cần số viên gạch để lát kín nền lớp học là: 54,4 : 0,16 = 340 (viên) Đáp số: 340 viên * Khi có đáp số bài toán, học sinh so sánh, kiểm chứng giữa cách giải và thực tế. Từ đó các em hiểu cách giải bài toán và cũng hiểu cách tính số viên gạch để lát nền nhà nếu nhà các em cần tính toán để lát. * Bất cứ một dạng toán nào, nếu học sinh được giảng kĩ, phân tích sâu và đặc biệt các kiến thức trong bài luôn xuất phát từ thực tế và áp dụng được vào thực tế cuộc sống nó sẽ luôn cuốn hút học sinh. Các em sẽ thấy được môn toán là môn học không hề khô cứng mà là một môn học rất gần gũi và mang tính ứng dụng rất cao. Từ bài toán này học sinh dễ dàng giải được các bài toán cùng dạng, có thể nâng cao hơn một chút như bài toán sau. * Bài toán 2. Phòng khách nhà Lan có mặt nền hình vuông. Trước đây thợ xây đã dùng 256 viên gạch lát nền hình vuông có chu vi 120cm thì vừa đủ lát. Bây giờ bố Lan dự định dùng gỗ ván sàn để thay. Mỗi thanh gỗ ván sàn có chiều dài 8dm, chiều rộng 1dm. Hỏi phải cần bao nhiêu thanh gỗ ván sàn trên để vừa đủ lát kín? - Đây là bài toán ngược với bài toán thứ nhất. Nếu học sinh không có kiến thức thực tế thì các con khó lòng có thể giải được. Từ hiểu biết thực tế diện tích nền nhà chính là diện tích của tất cả các thanh gỗ được lát trên nền nhà đó, các con có thể giải được bài toán. Bài giải Cạnh viên gạch hình vuông có số đo là: 120 : 4 = 30 (cm) Diện tích của một viên gạch là: 30 x 30 = 900 (cm2 ) = 9dm2 Diện tích mặt nền của phòng khách đó là: 9 x 256 = 2304 (dm2 ) Diện tích một thanh gỗ ván sàn là: 8 x 1 = 8 (dm2 ) Để lát kín nền phòng khách cần số thanh gỗ ván sàn là: 2304 : 8 = 288 (thanh) Đáp số: 288 thanh
- 8 Như vậy: Một bài toán học sinh không những giải được, giải thành thạo mà các em còn nắm bắt được cái gốc của kiến thức. Từ cái gốc của kiến thức ấy, các em vận dụng vào giải các bài toán khó hơn. Cái gốc bài toán nếu xuất phát từ vốn sống và sự hiểu biết thực tế nó giúp học sinh nhớ lâu hiểu kĩ và đưa kiến thức toán học có được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày. Như ở dạng toán này, khi học xong, học sinh của tôi còn giúp được cả bố, mẹ các em ở nhà khi bố mẹ cần phải tính toán số viên gạch lát trên một diện tích nhất định. Rất nhiều học sinh khoe với tôi “Cô ơi hôm nay em tính giúp bố em số viên gạch cần mua để lát nền nhà em đấy, cô ạ! Em được bố khen!”. * Bài toán 3: Một phòng học có chiều rộng 6,5m, chiều dài 8,4m, chiều cao 3,5m. Có một cửa ra vào rộng 1,4m, cao 2,5m và 4 cửa sổ mỗi cửa rộng 1,4m, cao 1,6m. Người ta quét vôi các bức tường bên trong và trần nhà. Hỏi diện tích quét vôi là bao nhiêu? Đây là một bài toán có tính ứng dụng thực tế rất cao. Nếu giáo viên không biết đưa những kiến thức thực tế trong cuộc sống hàng ngày vào bài toán thì học sinh cũng rất khó đưa ra được lời giải, đáp số của bài toán đúng. Hoặc cho dù các em có giải được đi chăng nữa nếu giáo viên không chỉ ra những kiến thức thực tế trong cuộc sống thì các em học sinh có giải được bài toán cũng chỉ là giải bài toán một cách máy móc mà thôi. Chính vì vậy, khi hướng dẫn giải bài toán này tôi đã định hướng cho học sinh quan sát lớp học của mình kĩ càng. Từ đó các em đã đưa ra được những kết luận rất cần thiết khi giải bài toán. - Thứ nhất: Lớp học quét vôi trần nhà và 4 bức tường xung quanh - Thứ hai: Các cửa ra vào của lớp học cũng như các cửa sổ không được quét vôi. - Thứ ba: Nền lớp học không quét vôi. * Có được những quan sát và vốn sống thực tế này các em dễ dàng hiểu rằng: - Diện tích cần quét vôi sẽ không có diện tích của các cửa ra vào, cửa sổ hay nền nhà. Từ đó, hình thành công thức: Diện tích cần quét vôi = Diện tích xung quanh + Diện tích trần nhà – Diện tích các cửa - Các em dễ dàng đưa ra cách giải của bài toán. Bài giải Diện tích xung quanh phòng học là: (6,5 + 8,4) x 2 x 3,5 = 104,3 (m2 ) Diện tích trần phòng học là: 6,5 x 8,4 = 54,5 (m2 ) Diện tích xung quanh và diện tích trần phòng học là:
- 9 104,3 + 54,6 = 158,9 (m2 ) Diện tích các cửa là: 1,4 x 2,5 + 1,4 x 1,6 x 4 = 12,46 (m2 ) Diện tích cần quét vôi là: 158,9 – 12,46 = 146,44 (m2 ) Đáp số : 146,44 m2 * Bài toán 1, bài toán 2 và bài toán 3 là những bài toán giúp các em học sinh có được những kiến thức trong thực tế rất tốt. Ngay từ bây giờ, ở lứa tuổi lớp 5 các em đã biết được một phần công việc trong xây dựng nhà cửa. Các em tính được số m2 cần quét vôi của một ngôi nhà, các em hoàn toàn có thể tính diện tích mặt sàn nhà mình là bao nhiêu, rồi tính giúp bố mẹ số viên gạch cần dùng để lát nền nhà và hơn nữa chắc chắn các em sẽ tính được tiền công lăn sơn của chính ngôi nhà thân yêu của các em. Khi học toán, những kiến thức toán học gắn liền với kiến thức thực tế sẽ giúp các em giải quyết được công việc ngay chính trong gia đình em cần hàng ngày. 2.2. Các bài toán về thể tích. ➢ Mục đích. - Giúp học sinh cụ thể hóa kiến thức trong bài toán. - Kích thích sự tìm tòi, tư duy sáng tạo. - Khơi dậy niềm đam mê toán học và khả năng tự học. - Phát huy năng lực tích cực và khả năng tự phát hiện kiến thức. - Đưa những hiểu biết trong cuộc sống áp dụng vào những bài toán để hiểu và đưa ra được cách giải nhanh và hợp lí. - Tạo niềm hứng thú cho học sinh từ những thí nghiệm nhỏ nhưng lại có sức minh chứng to lớn có kiến thức được rút ra từ bài toán. ➢ Cách tiến hành. * Bài toán 1. Tính thể tích của hòn đá nằm trong bể nước theo hình dưới đây: ( Bài 3 trang 121- SGK )
- 10 Đây là một bài toán trong SGK lớp 5 trang 121 không phải là bài toán khó. Nhưng nếu đơn thuần chỉ giải toán thôi thì học sinh sẽ khó hiểu được bản chất của bài toán là gì và quan trọng hơn các em sẽ rất nhanh quên cách giải. Để giúp học sinh hiểu sâu, hiểu rõ bản chất của bài toán tôi cho các em làm một thí nghiệm nho nhỏ. - Học sinh tự lấy một cốc nước, mức nước ban đầu do các em tự chọn. - Cho viên đá vào cốc nước mà mình vừa lấy. - Tôi đặt câu hỏi cho cả lớp như sau: + Em có nhận xét gì về mức nước của cốc nước ban đầu và mức nước của cốc nước sau khi cho đá ? +Em hãy giải thích tại sao ? - Học sinh của tôi do được tự tay làm thí nghiệm các em dễ dàng nhận ra rằng: Mực nước của cốc nước khi cho đá vào dâng cao hơn mức nước của cốc nước ban đầu mặc dù lượng nước không thay đổi. Lí do: Đá chiếm thể tích làm cho nước dâng cao. *Xuất phát từ thí nghiệm thực tế này tôi định lượng giúp học sinh đưa ra cách giải và tìm cách giải nhanh, dễ hiểu. Cũng qua thí nghiệm nho nhỏ này học sinh hiểu được thể tích mức nước thay đổi do có đá và chiều dài chiều rộng không thay đổi. Cách 1: Bài giải Thể tích của khối nước lúc ban đầu là: 10 x 10 x 5 = 500 (cm3 ) Thể tích của khối nước và hòn đá là: 10 x 10 x 7 = 700 (cm3 ) Thể tích của hòn đá là: 700 – 500 = 200 (cm3 ) Đáp số: 200cm3 *Đặc biệt: các em được quan sát thực tế, được tự tay mình làm thí nghiệm, tự mình rút ra kết luận nên các em rất dễ dàng giải bài toán theo cách 2 mà không cần tôi giải thích. Cách 2. Chiều cao mức nước khi có hòn đá hơn chiều cao mức nước ban đầu là: 7 – 5 = 2 (cm) Thể tích hòn đá là: 10 x 10 x 2 = 200 (cm2 ) Đáp số: 200cm2 * Bài toán 2.
- 11 Một cái thùng dạng hình lập phương có cạnh 5dm. Nửa thùng đó chứa nước. Người ta thả 25 viên gạch có chiều dài 2dm, chiều rộng 1dm, chiều cao 0,5dm vào thùng. Hỏi mức nước trong thùng sau khi dâng lên cách miệng thùng bao nhiêu dm? (Giả thiết gạch hút nước không đáng kể). - Trong bài toán này các em đã nắm rất rõ về bản chất của bài nhờ thí nghiệm và kiến thức thực tế có được đó là: Khi cho gạch vào thùng mực nước sẽ dâng cao lên. Mực nước chênh lệch giữa mức nước ban đầu và mức nước sau khi thả gạch chính là do gạch chiếm chỗ làm chiều cao mực nước thay đổi. Chiều cao mức nước trong thùng dâng lên thêm đấy chính là do có 25 viên gạch thả vào. Xuất phát từ thực tế này học sinh giải bài toán đơn giản hơn và rõ ràng, thông minh hơn. Bài giải Thể tích một viên gạch là: 2 x 1 x 0,5 = 1(dm3 ) Thể tích 25 viên gạch là: 1 x 25 = 25(dm3 ) Sau khi thả 25 viên gạch vào thùng thì mực nước dâng thêm là: 25 : (5 x 5) = 1(dm) Sau khi thả 25 viên gạch vào thùng thì mực nước cách miệng thùng là: 5 – (5 : 2 + 1) = 1,5 (dm) Đáp số: 1,5 dm *Như vậy: Một lần nữa, bằng cách dẫn dắt học sinh giải toán xuất phát từ những kiến thức và kinh nghiệm có trong cuộc sống hàng ngày tôi thấy học sinh của tôi hiểu bài sâu hơn, nhớ phương pháp giải lâu hơn và muốn học sinh có được tư duy trừu tượng thì khi xây dựng lên từ vốn sống thực tế các em sẽ vững vàng hơn. 2.3. Các bài toán về chuyển động. ➢ Mục tiêu. - Học sinh giải toán chuyển động dựa vào những trải nghiệm thức tế của mình. - Nắm chắc dạng toán, hiểu bản chất của vận tốc, quãng đường, thời gian và mối quan hệ giữa vận tốc, quãng đường và thời gian. ➢ Cách tiến hành * Bài toán 1. Một thuyền máy đi xuôi dòng từ A đến B. Vận tốc của thuyền máy khi nước lặng là 22,6km/giờ và vận tốc dòng nước là 2,2km/giờ. Sau 1 giờ 15 phút thì thuyền máy đến B. Tính độ dài quãng đường AB. Đây là bài toán trong SGK toán 5 trang 162 có thêm phần hướng dẫn như sau:
- 12 - Vận tốc của thuyền máy khi xuôi dòng bằng tổng vận tốc của thuyền máy khi nước lặng và vận tốc của dòng nước. - Nếu như giáo viên chỉ cho học sinh đọc hướng dẫn này để áp dụng vào bài toán thì học sinh không hiểu nổi tại sao vận tốc xuôi dòng lại bằng tổng vận tốc của thuyền máy khi nước lặng và vận tốc dòng nước hay ngược lại vận tốc ngược dòng bằng hiệu vận tốc của thuyền máy khi nước lặng và vận tốc dòng nước. - Giúp học sinh hiểu rõ cách tính này tôi đã có những câu hỏi khơi gợi để học sinh từ thực tế trong chính chuyển động của mình các em sẽ giải đáp được ngay thắc mắc của các em. Đó là: + Những hôm đi đến trường bằng xe đạp, khi xuôi gió, các em thấy thế nào? (Đạp xe nhẹ hơn và xe bon bon nhanh hơn ) +Tại sao em lại thấy xe đi nhanh hơn ? ( Gió đẩy em đi ) + Những hôm đi đến trường bằng xe đạp, trời có gió mà em đi ngược gió, em thấy ra sao ? ( Đạp rất nặng và xe đi chậm hơn em mong muốn ) + Tại sao xe đi chậm hơn mong muốn ? ( Gió cản và đẩy em lại) *Từ những câu trả lời của học sinh, tôi thấy rõ ràng các em đã hiểu, biết áp dụng kiến thức thực tế, kinh nghiệm sống hàng ngày để giải thích những tình huống, những câu hỏi trong học tập. Các em hiểu rõ ràng rằng: Khi đi xuôi gió sẽ đi nhanh hơn, do có thêm vận tốc của gió. Ngược lại, khi đi ngược gió, gió cản, phải trừ bớt vận tốc của gió. Từ thực tế này tôi hình thành công thức cho học sinh dễ dàng, các em hiểu được gốc rễ vấn đề. V(xuôi dòng ) = V( thực) + V(dòng nước) V(ngược dòng ) = V( thực) - V(dòng nước) Bằng những gợi ý tưởng chừng rất nhỏ như thế này nhưng lại rất hữu ích cho các em. Các em thấy được toán rất sát, rất gần với cuộc sống hàng ngày và phục vụ cuộc sống hàng ngày. Học sinh áp dụng vào giải toán sẽ dễ dàng và chính xác hơn. Bài giải Đổi: 1 giờ 15 phút = 1,25 giờ Vận tốc thuyền máy lúc xuôi dòng là: 22,6 + 2,2 = 24,8 (km/giờ) Quãng sông AB dài là: 24,8 x 1,25 = 31 (km) Đáp số: 31km
- 13 * Bài toán 2. Một người dự định đi từ địa điểm A đến địa điểm B hết thời gian là 4 giờ. Nhưng khi đi, người đó đi với vận tốc lớn gấp 3 lần vận tốc dự định. Hỏi người đó đã đi từ A đến B hết bao nhiêu thời gian? *Với bài toán này nếu học sinh không có hiểu biết thực tế về chuyển động sẽ rất khó tìm được đáp số của bài toán mặc dù các bước giải của bài toán rất gọn gàng và không mấy khó khăn. Để giải bài toán này học sinh phải nắm được mối quan hệ giữa hai đại lượng vận tốc và thời gian. Trước khi hướng dẫn học sinh giải bài này tôi đưa ra bài toán nhỏ bằng chính hoạt động chuyển động của các em hàng ngày như sau: Bài toán. Quãng đường từ nhà bạn Nam đến trường dài 3km. Hỏi bạn Nam đi đến trường hết bao nhiêu thời gian? - Nếu bạn Nam đi bộ với vận tốc 5km/h. - Nếu bạn Nam đi đến trường bằng xe đạp với vận tốc 6km/h. - Nếu bạn Nam được bố đèo bằng xe máy đến trường với vận tốc 30km/h. *Học sinh của tôi dễ dàng tìm được đáp số của bài toán: s 3 km 3 km 3 km v 5km/h 6 km/h 30 km/ h t 0,6 giờ =36 phút 0,5 giờ = 30 phút 0,1 giờ = 6 phút Hơn nữa bằng thực tế hàng ngày, các em đến trường, các em thấy rõ rằng: các em đi càng nhanh thì thời gian càng ít. Cụ thể: 30km/h gấp 6 km/h số lần là: 30 : 6 = 5 (lần) Khi đi 5km với vận tốc 30km/h hết số thời gian là: 30 : 5 = 6 (phút ) - Từ những kinh nghiệm hàng ngày kết hợp giải bài toán nhỏ, các em rút ra được: Trên cùng một quãng đường, vận tốc và thời gian là 2 đại lượng tỉ lệ nghịch. - Học sinh dễ dàng giải được bài toán nêu trên. Bài giải: Trên cùng một quãng đường, vận tốc và thời gian là hai đại lượng tỉ lệ nghịch. Mà vận tốc gấp lên 3 lần nên thời gian giảm đi 3 lần. Người đó đi từ A đến B hết số thời gian là 4 4: 3 = ( giờ) 3 4 Đổi = 1 giờ 20 phút 3 Đáp số:1 giờ 20 phút
- 14 Quan trọng hơn nữa, từ vốn sống thực tế, học sinh áp dụng vào giải bài toán trên, các em đã nắm bắt được bản chất, nắm rõ được kiến thức nên các em giải bài toán khó cũng dễ dàng hơn rất nhiều. * Bài toán ứng dụng : Một tàu thủy đi xuôi dòng từ bến A- B hết 10 giờ và từ bến B về bến A hết 15 giờ. Vận tốc ngược dòng kém vận tốc xuôi dòng là 8km/h Hãy tính: a) Vận tốc tàu thủy khi đi xuôi dòng, ngược dòng nước. b) Khoảng cách giữa bến A và bến B. * Ở bài toán này học sinh phải kết hợp 2 điều kiện: - Xuôi dòng =V(thực)+ V(dòng nước) - Ngược dòng =V(thực ) –V(dòng nước) - Trên cùng một quãng đường, vận tốc và thời gian là hai đại lượng tỉ lệ nghịch. * Xuất phát từ những hiểu biết qua hai bài toán trên các em đưa ra được ngay cách giải, cùng với đó các em cũng biết áp dụng những hiểu biết trong cuộc sống và ngược lại đưa bài toán trở nên gần gũi với cuộc sống hơn. Bài giải: T (xd) 10 2 V(ngd) 2 = = => = T (ngd ) 15 3 V ( xd) 3 Hiệu số phần bằng nhau là: 3 - 2 = 1(phần) Vận tốc xuôi dòng là: 8 x 3 = 24 (km) Vận tốc ngược dòng là: 8 x 2 = 16 (km) Khoảng cách giữa hai bến A và B là: 24 x 10 = 240 (km) Đáp số: 24km/giờ; 16km/ giờ; 240km *Kết luận: Nhờ vậy, qua những bài toán nêu trên, tôi đã phân tích và minh chứng rõ ràng 1 điều là: - Giúp học sinh học toán một cách tốt nhất và hứng thú nhất, có rất nhiều cách thức, phương pháp nhưng không thể bỏ qua những kiến thức, vốn sống thực tế. Chính phương pháp này đã đưa môn toán trở nên gần gũi với học sinh hơn. - Các em đưa được kiến thức toán đã học áp dụng vào cuộc sống làm cho các em thấy rõ được vai trò tích cực của môn Toán. - Học sinh hứng thú học hơn khi hiểu bài rõ hơn, nắm được bản chất toán học hơn.
- 15 - Quan trọng hơn nữa: Trong chương trình Toán lớp 5 tính ứng dụng thực tế còn được thể hiện qua nhiều dạng toán nữa như Tỉ số phần trăm. Học sinh học cách giải toán Tỉ số phần trăm khi mua bán sản phẩm nếu được giảm 40% hay 50% hoặc 70% các em có thể tích được giá sản phẩm ngay tức khắc. Như vậy, nếu dạy toán mà giáo viên ứng dụng thực tế để giải toán cũng như đưa kiến thức toán ứng dụng vào thực tế cuộc sống tôi tin chắc rằng học sinh sẽ nắm rất chắc kiến thức được học và sẽ xác định đúng mục đích khi học toán. Lúc ấy các em sẽ hào hứng học tập hơn. 3. Kết quả sau khi áp dụng giải pháp sáng kiến tại đơn vị: Sáng kiến “Một số giải pháp nâng cao tính ứng dụng thực tế trong giảng dạy môn toán lớp 5.” đã được tôi và một số đồng nghiệp khác áp dụng trong năm học 2023-2024. Trong quá trình thực hiện đề tài này, tôi đã nhận được sự ủng hộ rất nhiệt tình của Ban giám hiệu nhà trường, các đồng nghiệp và đặc biệt là các em học sinh. Tuy đề tài đã đạt được những thành công nhất định nhưng để vận dụng vào thực tế đạt được hiệu quả cao nhất mỗi giáo viên khi thực hiện cần phải linh động, sáng tạo sao cho phù hợp với đặc điểm của từng bài dạy, làm sao khai thác một cách tối đa khả năng sáng tạo của học sinh có như vậy đề tài mới thực sự thành công. Kết quả cụ thể như sau: + Đối với GV - Tôi đã có thêm kinh nghiệm tạo hứng thú học cho học sinh nhằm nâng cao chất lượng học môn toán - Các tiết học của lớp tôi diễn ra nhẹ nhàng, sôi nổi, hấp dẫn học sinh. - Nhận được sự tin tưởng và ủng hộ cao của phụ huynh. + Đối với HS Sau khi áp dụng đề tài: “Một số giải pháp nâng cao tính ứng dụng thực tế trong giảng dạy môn toán lớp 5.”, tôi nhận thấy học sinh rất hứng thú say mê học tập, biết hợp tác trong làm việc nhóm, cặp. Học sinh bước vào giờ học với tâm trạng thoải mái, thích thú. Nhiều em mạnh dạn, tự tin, tích cực tham gia vào các hoạt động và hoàn thành bài tập với độ chính xác cao. Cuối năm học, tôi đã điều tra 27 học sinh bằng phiếu trắc nghiệm sau: PHIẾU TRẮC NGHIỆM Đánh dấu X vào trước ý kiến em cho là đúng: 1 .Em có thích học mônToán không? Có Không 2.Giờ học toán : Là một giờ học sôi nổi. Là một giờ học tẻ nhạt vì phải thực hiện tuần tự các lệnh trong SGK. Là một giờ mà em thích nhất vì em cảm thấy thoải mái học bởi môn toán có tính ứng dụng thực tế cao.
- 16 *Bảng kết quả các năng lực ứng dụng thực tế cuối năm học 2021-2022: Kết quả Nội dung SL % 1. Có thích học môn Toán 25 95,8 2. Không thích học môn Toán 0 0 3. Giờ học Toán là một giờ học sôi nổi. 25 95,8 4. Một giờ tẻ nhạt vì phải thực hiện tuần tự các lệnh trong 0 0 SGK. 5. Một giờ mà em thích nhất. 25 98,5 6. Biết áp dụng vốn hiểu biết thực tế vào giải toán và áp 25 98,5 dụng kiến thức toán vào cuộc sống hàng ngày. 7. Không biết áp dụng. 0 0 *Bảng so sánh kết quả điểm kiểm tra môn Toán năm học 2023 - 2024 Năm học 2023-2024 9-10 7-8 5-6 SL TL SL TL SL TL Đầu năm 10 37% 12 44,4% 5 18,5% Cuối năm 17 63% 9 33,3% 1 3,7% Tôi tự nhận thấy mình đã tìm được hướng đi đúng, cách làm phù hợp cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn toán. Tôi thấy mỗi giờ dạy bản thân mình cũng được say mê, hứng thú trong việc cung cấp cho các em những kiến thức mới. 4.Hiệu quả của sáng kiến 4.1. Hiệu quả về khoa học: -Tìm ra được một số giải pháp nâng cao tính ứng dụng thực tế trong dạy học môn Toán lớp 5 - Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn toán cho học sinh tiểu học. 4.2. Hiệu quả về kinh tế: -Tiết kiệm về mặt thời gian cho giáo viên mà vẫn thu được hiệu quả giáo dục cao. -Không tốn nhiều tiền đầu tư đồ dùng dạy học, tận dụng được các đồ dùng có sẵn trong thực tế hàng ngày của học sinh. 4.3. Hiệu quả về xã hội: -Tạo được tâm lí hào hứng trong mỗi giờ học Toán của học sinh. -Tạo được niềm tin của PHHS với việc dạy học của nhà trường.
- 17 -HS áp dụng được những kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống hàng ngày của các em. -Giúp HS và PH thêm yêu thích môn Toán và thấy rằng Toán học rất gần gũi với đời sống thực tế. 5.Tính khả thi: -Đề tài : “Một số giải pháp nâng cao tính ứng dụng thực tế trong giảng dạy môn toán lớp 5 ”có tính khả thi cao, dễ áp dụng trong thực tế dạy học ở nhà trường, vì tất cả các đồ dùng dạy học đều có sẵn trong thực tế lớp học hay trong cuộc sống hàng ngày, gần gũi với các em. -Đề tài đã được áp dụng trong năm học rất thành công. Qua quá trình nghiên cứu và thực tế áp dụng, tôi thấy đây là một biện pháp phù hợp với định hướng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh tiểu học. Các biện pháp phù hợp với mọi đối tượng học sinh và có thể áp dụng để tạo hứng thú học toán cho học sinh các khối lớp trong bậc tiểu học. Bản thân tôi đánh giá những biện pháp không cần tốn quá nhiều chi phí đầu tư, việc thực hiện chủ yếu thông qua sự chủ động của giáo viên và học sinh nên tôi tin tưởng đạt được hiệu quả cao khi áp dụng ở các trường Tiểu học của địa phương. 6. Thời gian thực hiện đề tài: - Để tài được áp dụng trong năm học 2023-2024. 7.Kinh phí thực hiện đề tài: -Đề tài được thực hiện không mất kinh phí vì toàn bộ đồ dùng dạy học đều có sẵn trong thực tế lớp học hoặc trong phòng thiết bị nhà trường. III.KIẾN NGHỊ- ĐỀ XUẤT: Sau quá trình thử nghiệm và áp dụng đề tài: “Một số giải pháp nâng cao tính ứng dụng thực tế trong giảng dạy môn toán lớp 5” vào dạy học toán 5 có hiệu quả, tôi mạnh dạn đưa ra một số ý kiến sau: - Về giáo viên + Tìm hiểu và hiểu rõ nguyên nhân vì sao học sinh chưa hứng thú với môn học để đưa ra những giải pháp phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình giảng dạy. + Chuẩn bị kĩ bài trước khi đến lớp, nắm chắc kiến thức, kĩ năng của môn học và dự kiến được những tình huống sư phạm có thể xảy ra trong tiết toán. + Giáo viên phải nắm được xu hướng đổi mới của giáo dục để điều chỉnh giải pháp cho phù hợp. + Khi vận dụng các giải pháp cần linh hoạt, vừa sức với học sinh. + Động viên khen thưởng kịp thời để gây hứng thú học tập cho học sinh.
- 18 - Về nhà trường: + Tạo điều kiện về cơ sở vật chất, các phương tiện, thiết bị dạy học cho học sinh như: máy chiếu, tranh ảnh,... + Tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn, tổ chức cho giáo viên đi học tập kinh nghiệm ở trường bạn. + Động viên khen thưởng kịp thời các GV có sáng tạo trong đổi mới PPDH để khích lệ họ có nhiều cống hiến hơn nữa trong dạy học. - Về học sinh: + Các em học sinh phải thực hiện tốt bốn nhiệm vụ của học sinh, tích cực học tập và rèn luyện. Có được tất cả những điều kiện trên, tôi tin chắc chắn rằng: học sinh sẽ học toán một cách tốt nhất và hứng thú nhất, đạt được những kết quả cao nhất.Bởi đề tài này đã đưa môn toán trở nên gần gũi với học sinh hơn. Các em đưa được kiến thức toán đã học áp dụng vào cuộc sống làm cho các em thấy rõ được vai trò tích cực của môn Toán.Từ đó,học sinh hứng thú học, hiểu sâu, hiểu rõ hơn, nắm được bản chất Toán học hơn. Xác nhận của cơ quan Phú Sơn, ngày 29 tháng 4 năm 2024 NGƯỜI VIẾT SÁNG KIẾN Chu Thị thanh Vân
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Cách hướng dẫn giải toán tìm X ở bậc Tiểu học
30 p | 2237 | 370
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 434 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 216 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 187 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 174 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 122 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 167 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn
27 p | 126 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 163 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 133 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 127 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Xây dựng đội ngũ, hoạt động phù hợp mang lại hiệu quả và thiết thực trong dạy và học ở Trường tiểu học An Lộc A
14 p | 55 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt bài thể dục phát triển chung
24 p | 188 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 145 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1
27 p | 65 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn