Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm và giải pháp dạy học diện tích các hình cho học sinh lớp 5 nhằm phát triển năng lực và phát huy tính tự học chủ động của học sinh
lượt xem 11
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm giúp học sinh phân loại, nhận dạng các bài toán về tính diện tích các hình để đưa ra phương pháp giải phù hợp và trình bày bài giả một cách khoa học, hợp lý và đầy đủ.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm và giải pháp dạy học diện tích các hình cho học sinh lớp 5 nhằm phát triển năng lực và phát huy tính tự học chủ động của học sinh
- SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “MỘT SỐ KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP DẠY HỌC DIỆN TÍCH CÁC HÌNH CHO HỌC SINH LỚP 5 NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC VÀ PHÁT HUY TÍNH TỰ HỌC CHỦ ĐỘNG CỦA HỌC SINH” 1. PHẦN MỞ ĐẦU: 1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Nhận thức được vai trò của giáo dục trong việc phát triển và xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã xác định. Để đạt được mục tiêu này, giáo dục Việt Nam phải thực hiện thông qua nhiều cấp học, bậc học khác nhau trong hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó giáo dục tiểu học giữ một vai trò quan trọng. Chính vì vậy trong những năm gần đây, giáo dục tiểu học đã trở thành một bậc học quan trọng và được tiến hành phổ cập trên toàn đất nước. Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để tiếp tục học lên trung học cơ sở. Toán học có vị trí rất quan trọng phù hợp với cuộc sống thực tiễn, đó cũng là công cụ cần thiết cho các môn học khác và để giúp cho học sinh nhận thức thế giới xung quanh, để hoạt động có hiệu quả trong mọi lĩnh vực. Khả năng giáo dục nhiều mặt của nó tốn rất to lớn: Những phát triển tư duy, trí tuệ, có vai trị quan trọng trong việc rèn luyện tính suy luận, tính khoa học tồn diện, chính xác, tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt, góp phần giáo dục tính nhẫn nại, ý chí vượt khó khăn. Từ vị trí và nhiệm vụ vô cùng quan trọng của môn toán, vấn đề đặt ra cho người thầy là làm thế nào để giờ dạy – học toán có hiệu quả cao, học sinh phát triển tính tích cực, chủ động sáng tạo, phát huy được năng lực trong việc chiếm lĩnh kiến thức toán học. Theo tôi, các phương pháp dạy học bao giờ cũng phải xuất phát từ vị trí, mục đích và nhiệm vụ, mục tiêu giáo dục của bài học môn toán. Nó không phải là cách thức truyền thụ kiến thức, cách giải toán đơn thuần mà là phương tiện tinh vi để tổ chức hoạt động nhận thức tích cực, độc lập và giáo dục phong cách làm việc một cách khoa học, hiệu quả. Hiện nay, giáo dục tiểu học đang thực hiện yêu cầu mô hình trường học mới, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy phẩm chất, năng lực, tính tích cực của học sinh, làm cho hoạt động dạy học trên lớp “nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả, học sinh tự học, tự chiếm lĩnh tri thức”. Để đạt được yêu cầu đó, giáo viên phải có phương pháp và hình thức dạy học để vừa nâng cao hiệu quả cho học sinh, vừa phù hợp với đặc điểm
- tâm sinh lý của lứa tuổi tiểu học và trình độ nhận thức của học sinh, để đáp ứng với công cuộc đổi mới của đất nước nói chung và của ngành giáo dục tiểu học nói riêng. Dạy học Toán ở Tiểu học nhằm giúp cho học sinh có những kiến thức cơ bản ban đầu về số học: số tự nhiên, phân số, số thập phân; các đại lượng thông dụng; dạy các yếu tố hình học; một số yếu tố thống kê và đặc biệt là kĩ năng tính diện tích một số hình. Các mạch kiến thức toán học từ lớp 1 đến lớp 5 được thống nhất chặt chẽ với nhau theo cấu trúc đồng tâm nên nó giúp cho học sinh không những được học mà còn được củng cố lại kiến thức ở các lớp trên. Học tốt môn Toán là điều kiện để học tốt các môn học khác. Hình học trong chương trình lớp 5 giúp phần chủ yếu vào việc hình thành và phát triển kĩ năng tính toán, một trong những kĩ năng cơ bản của người lao động trong giai đoạn xã hội hiện nay. Từ đặc điểm tâm sinh lý học sinh tiểu học là chưa xác định rõ ràng mục đích việc học tập là gì. Trong thực tế hiện nay, một số em còn học là do bị ép buộc hoặc học chỉ để thầy cô, cha mẹ vui lòng… Điều đó cho thấy nhận thức và nhu cầu học tập của HS còn chưa cao, các em sẽ dễ dàng nhàm chán, không hứng thú đến trường nếu như trong quá trình dạy học, giáo viên không nắm rõ đặc điểm tâm lí của HS và không thay đổi cách thức dạy học của mình ở từng bài, từng tiết học. Thực trạng đó cho thấy: giáo viên chúng ta cần phải đổi mới cách thức dạy học làm sao để tạo cho HS sự hứng thú, có nhu cầu nhận thức và chủ động tích cực trong việc học tập của mình. Vì vậy giáo viên phải làm thế nào để khắc sâu kiến thức cho học sinh và tạo ra không khí sẵn sàng học tập, chủ động tích cực trong việc tiếp thu kiến thức. Để đáp ứng các yêu cầu trên trong giảng dạy nói chung, trong dạy học Toán nói riêng cần phải vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học để nâng cao hiệu quả dạy học. Trong quan niệm dạy học mới (tổ chức) một giờ học tốt là một giờ học phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của cả người dạy và người học nhằm nâng cao tri thức, bồi dưỡng năng lực hợp tác, năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn, bồi dưỡng phương pháp tự học, tác động tích cực đến tư tưởng, tình cảm, đem lại hứng thú học tập cho người học. Ngoài những yêu cầu có tính chất truyền thống như: bám sát mục tiêu giáo dục, nội dung dạy học, đặc trưng môn học; phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh ; giờ học đổi mới PPDH còn có những yêu cầu mới như: được thực hiện thông qua việc GV tổ chức các hoạt động học tập cho HS theo hướng chú ý đến việc rèn luyện phương pháp tư duy, khả năng tự học, nhu cầu hành động và thái độ tự tin; được thực hiện theo nguyên tắc tương tác nhiều chiều: giữa GV với HS, giữa HS với nhau (chú trọng cả hoạt động dạy của người dạy và hoạt động học của người học. Người giáo viên dạy học luôn đảm bảo được nguyên tắc “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ học tập với sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”.
- Từ thực tế đó, tôi thấy việc tìm hiểu một số phương pháp dạy học tích cực trong môn Toán giúp học sinh phát huy tính tự học là hết sức cần thiết. Do đó tôi quyết định chọn đề tài: “ MỘT SỐ KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP DẠY HỌC DIỆN TÍCH CÁC HÌNH CHO HỌC SINH LỚP 5 NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC VÀ PHÁT HUY TÍNH TỰ HỌC CHỦ ĐỘNG CỦA HỌC SINH ”. 1.2. Điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm Trong những năm gần đây với nhu cầu của một xã hội hóa giáo dục đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới phương pháp dạy học để tạo ra những thế hệ con người nhận thức sâu sắc, biết tự giác chủ động sáng tạo trong công việc. Tuy nhiên, nhìn lại việc áp dụng đổi mới phương pháp vào trường tiểu học còn gặp nhiều khó khăn. Nhận thức của các em học sinh còn nhiều hạn chế, ý thức tự học, tự rèn luyện ít, điều kiện học tập còn nhiều thiếu thốn. Chưa xác định động cơ học tập đúng đắn. Đối với môn Toán, nhiều khi các em vận dụng còn máy móc, có lối tư duy thụ động, ít quan tâm đến bản chất, nên khi đọc bài tập HS rất khó định hướng cách giải mà trông chờ vào GV. Mặt khác, nhiều học sinh ngại lao động trí óc, không chịu suy nghĩ làm bài tập chỉ chờ chép bài của bạn hoặc sách giải bài tập. Một số em khác có hoàn cành gia đình khó khắn, ít giao lưu, rụt rè, nhút nhát nên chất lượng cũng như học tập kém. Thực hiện dạy học phù hợp với tiến trình nhận thức của học sinh (đi từ cụ thể đến trừu tượng, từ dễ đến khó); Quán triệt tinh thần “lấy người học làm trung tâm”, chú ý nhu cầu, năng lực nhận thức, cách thức học tập khác nhau của từng cá nhân học sinh; Tổ chức quá trình dạy học theo hướng kiến tạo, trong đó học sinh được tham gia tìm tòi, phát hiện, suy luận giải quyết vấn đề; Linh hoạt trong việc vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, kết hợp nhuần nhuyễn, sáng tạo với việc vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học truyền thống; Kết hợp các hoạt động dạy học trong lớp học với hoạt động thực hành trải nghiệm, vận dụng kiến thức toán học vào thực tiễn. Từ các bài toán giúp học sinh có được sự tự tin về bản thân, sự hứng thú, chủ động trong học tập; giúp các em từng bước hoàn thiện để phát triển những kĩ năng cần thiết mà xã hội yêu cầu. Ý thức được giá trị của bản thân học sinh trong mối quan hệ xã hội; giúp học sinh hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi, thói quen ứng xử có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật…Giúp học sinh có đủ khả năng tự thích ứng với môi trường xung quanh, tự chủ, độc lập, tự tin trong cuộc sống khi giải quyết công việc và chủ động đối phó với hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống, đem lại cho các em vốn tự tin ban đầu để trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời. Trước tình hình đó giáo viên cần trau dồi nâng cao kiến thức và năng lực tổ chức
- hoạt động dạy học; cải tiến phương pháp dạy học cho phù hợp với đối tượng HS và thực tế của vùng miền. Là GV dạy ở trường Tiểu học, tôi mong muốn tìm ra một số giải pháp nhằm giúp học sinh phát triển năng lực, huy tính tự học khắc phục những khó khăn và hạn chế trong việc dạy học Toán, góc phần từng bước nâng cao chất lượng dạy và học cho HS, HS tích cực tự học nhằm hoàn thiện về kiến thức, năng lực và phẩm chất của mỗi em. Đây là một vấn đề nóng bỏng cần phải thực hiện nhanh và đúng cách để những thế hệ do chúng ta đào tạo ra là những người làm chủ tương lai, đất nước, biết xây dụng quê hương và đưa trình độ hiểu biết của toàn dân đi lên sánh được với các nước phát triển trên thế giới. Qua vận dụng đổi mới PPDH các em HS mạnh dạn, tự tin hơn trước đám đông, biết tự đánh giá kết quả học tập của mình cũng như đánh giá kết quả học tập của bạn khác. Từ đó các em có tính chủ động hơn trong học tập và biết phấn đấu thi đua nhau để kết quả học tập đạt kết quả cao hơn. 1.3. Phạm vi áp dụng Sáng kiến này được áp dụng từ đầu năm học đến nay cho học sinh khối 5 toàn trường nhằm giúp học sinh phân loại, nhận dạng các bài toán về tính diện tích các hình để đưa ra phương pháp giải phù hợp và trình bày bài giả một cách khoa học, hợp lý và đầy đủ. 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu. Trong chương trình tiểu học, môn Toán giữ một vai trò quan trọng . Thông qua việc học toán, học sinh tiểu học thấy được nhiều khái niệm trong toán học như các số, các phép tính, các đại lượng, các yếu tố hình học . . . đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện thực, trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các sự kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm. Qua việc học toán sẽ rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính của con người mới, có ý thức vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, làm việc có kế hoạch, thói quen xét đoán có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm và độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo giúp học sinh vận dụng các kiến thức, rèn luyện kĩ năng tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Đồng thời qua việc học toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm, thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng, tư duy để giúp học sinh phát huy những mặt được và khắc phục những mặt thiếu sót. Với nhu cầu của xã hội hoá giáo dục đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới phương pháp dạy học để tạo ra những thế hệ con người nhận thức sâu sắc, biết tự giác chủ động sáng tạo trong công việc. Mục đích của giải toán về diện tích các hình là làm thế nào để học sinh phải thực sự tích cực, chủ động tự giác, luôn trăn trở, tìm tòi, sáng tạo trong quá trình
- lĩnh hội tri thức và lĩnh hội cả cách thức để có tri thức ấy nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình. Dạy học về diện tích các hình trong chương trình Toán 5 cũng cần đạt được mục đích trên. Khi đổi mới mục tiêu và nội dung dạy học, những phương pháp đã và đang sử dụng sẽ không đáp ứng với yêu cầu đào tạo nếu không có sự đổi mới về cách thức tiến hành phương pháp. Đổi mới phương pháp không phải là thay thế các phương pháp dạy học cũ bằng một loạt phương pháp dạy học mới. Đổi mới phương pháp là cách thức tiến hành các phương pháp, đổi mới các phương tiện và hình thức triển khai phương pháp trên cơ sở khai thác triệt để ưu điểm các phương pháp cũ và vận dụng linh hoạt một số phương pháp mới nhằm phát huy tối đa tính tích cực chủ động sáng tạo của người học. Toán học ngày càng có nhiều ứng dụng trong cuộc sống, những kiến thức và kĩ năng toán học cơ bản đã giúp con người giải quyết các vấn đề trong thực tế cuộc sống một cách có hệ thống và chính xác, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Môn Toán ở trường Tiểu học góp phần hình thành và phát triển các phẩm chất chủ yếu, năng lực chung và năng lực toán học cho học sinh; phát triển kiến thức, kĩ năng then chốt và tạo cơ hội để học sinh được trải nghiệm, vận dụng toán học vào thực tiễn; tạo lập sự kết nối giữa các ý tưởng toán học, giữa Toán học với thực tiễn, giữa Toán học với các môn học và hoạt động giáo dục khác, đặc biệt với các môn Khoa học, Khoa học tự nhiên. Nội dung môn Toán thường mang tính logic, trừu tượng, khái quát. Do đó, để hiểu và học được Toán, chương trình Toán ở trường Tiểu học cần bảo đảm sự cân đối giữa “học” kiến thức và “vận dụng” kiến thức vào giải quyết vấn đề cụ thể. Trong quá trình học và áp dụng toán học, học sinh luôn có cơ hội sử dụng các phương tiện công nghệ, thiết bị dạy học hiện đại, đặc biệt là máy tính điện tử và máy tính cầm tay hỗ trợ quá trình biểu diễn, tìm tòi, khám phá kiến thức, giải quyết vấn đề toán học. Dạy học về diện tích các hình trong chương trình Toán 5 hình thành, phát triển ở học sinh năng lực toán học với các thành tố: tư duy và lập luận toán học; mô hình hoá toán học; giải quyết vấn đề toán học; giao tiếp toán học; sử dụng công cụ, phương tiện học Toán. Đồng thời, môn Toán góp phần hình thành, phat triên ́ ̉ ở học sinh các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung đã quy định trong Chương trình tổng thể; giúp học sinh bước đầu xác định được năng lực, sở trường của bản thân nhằm đinh h ̣ ương va l ́ ̀ ựa chon nghê nghiêp, rèn luy ̣ ̀ ̣ ện nhân cách để trở thành người lao động và người công dân có trách nhiệm. a. Thực trạng chung của nhà trường. * Thuận lợi: Nhà trường được sự quan tâm của chính quyền của địa phương, của phụ huynh học sinh.
- Ban giám hiệu nhà trường năng nổ nhiệt tình, sáng tạo luôn chỉ đạo sát sao việc dạy học của giáo viên và việc học của học sinh. Giáo viên trong nhà trường luôn nhiệt tình giảng dạy, yêu nghề mến trẻ Về học sinh : Nhìn chung các em chăm ngoan, có ý thức vươn lên trong học tập. Bên cạnh những thuận lợi trên nhà trường còn có những khó khăn sau: * Khó khăn: Là một xã dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông, kinh tế còn nhiều khó khăn, nhiều gia đình thuộc diện hộ nghèo, học sinh có bố mẹ đi làm ăn xa ở với ông bà. Chính điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập cũng như chất lượng học của học sinh. Do tâm lý chung của học sinh tiểu học còn ham chơi nêu việc học tập của các em cần có sự giám sát chặt chẽ của gia đình thì hiệu quả học của các em mới đạt cao. Đa số học sinh xem môn toán là môn học khó khăn, dễ chán. Trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều : một số học sinh còn chậm, nhút nhát, kĩ năng tóm tắt bài toán còn hạn chế, chưa có thói quen đọc và tìm hiểu bài toán, dẫn tới thường nhầm lẫn giữa các dạng toán, lựa chọn phép tính còn sai, chưa bám sát vào yêu cầu bài toán để tìm lời giải thích hợp với các phép tính. Một số em tiếp thu bài một cách thụ động, ghi nhớ bài còn máy móc nên còn chóng quên các dạng bài toán. Về đội ngủ giáo viên: Nhà trường có đội ngũ giáo viên nhiệt tình giảng dạy song còn nhiều khó khăn do có một số giáo viên trẻ chưa có nhiều kinh nghiện trong giảng dạy. b. Thực trạng của lớp 5B: Năm học 2019 2020 tôi được phân công giảng dạy trường Tiểu học Lớp 5A do tôi chủ nhiệm và giảng dạy có 34 học sinh. Trong đó: Con cán bộ công chức: 8 em Con gia đình nông nghiệp 26 em. Nam 16 em; nữ: 18 em. Các em ở rải rác khắp các thôn trong xã, có nhiều em xa trường nên việc đi lại của các em gặp rất nhiều khó khăn điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của các em Một số em thuộc diện hộ ngheo gia đình có hoàn cảnh khó khăn Giáo viên và học sinh trong quá trình rèn luyện kĩ năng giải toán có lời văn. Qua thực tế giảng dạy và thảo luận cùng đồng nhiệp. c. Thực trạng về việc học nội dung về diện tích các hình trong chương trình Toán của lớp 5 1. Thực trạng:
- Thực trạng dạy học nội dung về diện tích các hình trong chương trình Toán 5 năm học qua và năm học 2019 2020 ở trường Tiểu học: + Giáo viên đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo các PPDH khác nhau, nhưng khi dạy học phần này vẫn chưa kết hợp được hoặc kết hợp chưa nhuần nhuyễn dẫn đến hiệu quả chưa cao. + Phần nào đã biến yêu cầu của dạy học thành nhu cầu nhận thức của người học, song các tình huống nhận thức mà giáo viên đưa ra đôi lúc chưa thật hợp lí và thiếu tính sáng tạo. + Về phát triển khả năng tự học của học sinh, khi dạy nội dung trên, giáo viên đã chú ý song vẫn chưa đưa ra được biện pháp hợp lí để giúp học sinh xây dựng biện pháp tự học, tăng cường các hoạt động tự tìm kiếm tri thức hay ứng dụng tri thức vào cuộc sống. + Dạy học về diện tích các hình trong chương trình Toán lớp 5 hầu hết giáo viên đã chú ý kết hợp hoạt động cá nhân với hoạt động nhóm và phát huy khả năng của cá nhân, tuy vậy vẫn còn mang tính hình thức, hiệu quả các hoạt động chưa cao. + Các tiết dạy đã chú trọng kĩ năng thực hành, song biện pháp tổ chức thực hành thiếu linh hoạt, nhiều khi lúng túng hoặc rập khuôn máy móc. + Sử dụng thiết bị dạy học trong thiết kế bài dạy và lập kế hoạch bài học còn nhiều vấn đề cần phải điều chỉnh và định hướng cụ thể hơn vì giáo viên sử dụng thiết bị dạy học, học sinh sử dụng dụng cụ học toán còn lúng túng. + Trong kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của học sinh đã được chú trọng nhưng việc tổ chức tự đánh giá lẫn nhau vẫn còn lúng túng. c.1. Thực trạng về việc học nội dung về diện tích các hình trong chương trình Toán của lớp 5 *. Nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của học nội dung diện tích các hình trong chương trình Toán của lớp 5 Để tìm hiểu vấn đề này tôi đã đặt câu hỏi: Việc rèn luyện kĩ năng tính diện tích một số hình với em là với 4 mức độ:Rất quan trọng; Quan trọng; Bình thường; Không quan trọng. Kết quả thu được như sau: Nhận thức của học sinh với việc rèn luyện kĩ năng giải toán: Rất quan trọng: 14 học sinh , chiếm 41,2% Quan trọng: 10 học sinh, chiếm 29,4% Bình thường: 6 học sinh, chiếm 17,6% Không quan trọng 4 học sinh, chiếm 11,8% Qua việc điều tra tôi thấy rằng đa số học sinh (70,6%) cho rằng việc giải rèn luyện kĩ năng tính diện tích của một hình có vai trò rất quan trọng trong quá trình học toán ở nhà trường. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số em (11,8%)
- xem nhẹ công việc này. Đối với học sinh chúng tôi tiến hành điều tra ngẫu nhiên (bằng phiều trưng cầu ý kiến) đối với tổng số 34 học sinh thuộc lớp 5B tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau: + Điều tra học sinh lớp 5 qua khảo sát chất lượng học nội dung về diện tích các hình: Số học sinh dự khảo sát: 34 học sinh Đạt điểm 910: 7 em chiếm 20,6 % Đạt điểm 78: 15 em chiếm 44,1% Đạt điểm 56 : 9 em chiếm 26,5 % Đạt điểm dưới 5: 3 em chiếm 8,8% Các số liệu điều tra trên cho thấy cần có những giải pháp tích cực trong việc đổi mới cách dạy và đổi mới cách học nhằm nâng cao chất lượng dạy học về diện tích các hình trong chương trình Toán lớp 5 góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Toán. * Kĩ năng vẽ hình của học sinh trong quá trình làm toán. Để tìm hiều vấn đề này chúng tôi đặt câu hỏi : Em đánh giá kĩ năng vẽ hình bài toán của mình là? Với bốn lựa chọn cho học sinh: Rất tốt; Tốt; Bình thường; chưa vẽ được. Kết quả thu được như sau: Kĩ năng vẽ hình bài toán của học sinh Rất tốt: 7 em chiếm 20,6 % Tốt: 12 em chiếm 35,3% Bình thường: 10 em chiếm 29,4 % Chưa vẽ được: 5 em chiếm 14,7% Qua điều tra ta nhận thấy rằng số học sinh có kĩ năng vẽ hình tốt và rất tốt đạt 55,9%. Còn học sinh có kĩ năng ở mức độ trung bình và chưa vẽ được chiếm 44,1%. Như vậy kĩ năng tóm tắt của nhiều em học sinh vẫn còn nhiều hạn chế. Việc tóm tắt chưa đạt dẫn đến học sinh khó có thể biểu diễn được các mối quan hệ của các đại lượng trong bài toán một chính xác, gây khó khăn cho việc tìm hướng giải. * Những lỗi các em thường mắc phải vẽ hình trong giải bài toán về tính diện tích. Chúng tôi tiếp tục tìm hiểu kĩ năng vẽ hình bài toán bằng các đoạn thẳng của các em bằng câu hỏi: Khi vẽ hình bằng đoạn thẳng, lỗi nào sau đây em thường mắc phải: Tỉ lệ đoạn thẳng không đều nhau; Không ghi đầy đủ các dữ kiện; Cả hai ý trên. Kết quả thu được như sau: Lỗi mắc phải trong khi tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng
- Lỗi SL % 1 Vẽ hình không chính xác 10 39,4 2 Không ghi đầy đủ các dữ kiện 7 20,6 3 Cả hai ý trên 7 20,6 Qua bảng số liệu ta có thể nhận thẫy lỗi phổ biến nhất khi các em sử dụng đoạn thẳng để vẽ hình bài toán là vẽ hình không chính xác và không ghi đầy đủ các dữ kiện (20,6%). Điều này phản ánh các em chưa có kĩ năng thể hiện mỗi quan hệ của các đại lượng của bài toán bằng hình vẽ; khi vẽ các em chưa chú y đến tỉ lệ của các đoạn thẳng nhiều em vẽ theo kiểu áng chừng. Mặc khác các em hay bỏ quên các dữ kiện của bài toán nên không thể hiện ở trên sơ đồ dẫn đến gây khó khăn trong việc tìm hướng giải quyết bài toán. * Kĩ năng viết câu lời giải và biến đổi công thức của học sinh. Qua tìm hiểu vần đề này bằng câu hỏi: Em đánh giá kĩ năng viết câu lời giải của mình là? Với 4 mức độ: Rất tốt; Tốt; Trung bình; chưa đạt. Chúng tôi thu được kết quả như sau: Kĩ năng viết câu lời giải của học sinh Mức độ Rất tốt Tốt Bình Chưa đạt thường Số lượng 12 10 7 5 % 35,3 29,4 20,6 14,7 Ngoài ra để tìm hiểu thêm về vấn đề này tôi tiến hành kiểm tra ngẫu nhiên 20 cuốn vở em tự ôn luyện Toán 5 của 34 học sinh lớp 5B. Sau khi kiểm tra các câu lời giải của các em chúng tôi nhận thấy có các lỗi phổ biến như sau: Câu lời giải bị phê là dài dòng và còn thiếu (9 hs chiếm 26,5%.) Quên ghi dấu ngoặc ở tên đơn vị và quên ghi đáp số chiếm (7 hs chiếm 20,6%) Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy kĩ năng viết câu lời giải của các em còn một số hạn chế. Một số em chưa viết tốt câu lời giải (7 hs chiếm 20,6%) thậm chí một số em còn ở mức độ chưa đạt (5hs chiếm 14,7%). Nhiều em khi viết câu lời giải cách diễn đạt còn vụng về và chưa đạt yêu cầu của bài ra. Một lỗi nữa mà các em hay mắc là quên ghi tên đơn vị và quên ghi đáp số (26,5%). Điều này chứng tỏ nhiều em chưa chú ý đến việc rèn luyện kĩ năng trình bày và viết câu lời giải. Một số em còn vụng về trong quá trình biến đổi công thức. Ví dụ: Tính diện tích hình tròn khi biết chu vi của chúng. c. Đánh giá thực trạng kĩ năng giải toán về diện tích các hình trong chương trình Toán của lớp 5 Trường tiểu học Qua quá trình điều tra chúng tôi rút ra được một số các kết luận sau: Đa số học sinh đều nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng
- giải toán về diện tích các hình. Tuy nhiên việc rèn luyện này chưa được thực hiện một cách nghiêm túc, liên tục và có hệ thống. Nhiều em học sinh vẽ hình chưa chính xác, nhận dạng hình còn chậm. Khi phân tích bài toán đa phần các em suy nghĩ theo hướng “suy luận xuôi”, tức là đi từ cái đã cho đến đến cái phải tìm. Tuy nhiên việc phối hợp các hướng suy luận khác nhau của các em vẫn còn hạn chế, vì trong thực tế có nhiếu bài toán phải suy nghĩ theo hướng ngược lại hoặc kết hợp nhiều cách khác nhau thì mới tìm ra hướng giải. Kĩ năng suy luận công thức của các em còn hạn chế. Nhiều em trong lời giải vẫn dài dòng và còn thiếu. Điều này vừa thể hiện khả năng ngôn ngữ của các em trong cách diễn đạt, vừa cho thấy các em chưa nắm vững các yêu cầu của bài toán. Một số em chưa xác định được tên đơn vị đo độ dài và đo diện tích. Một số em vấn chưa có thói quen kiểm tra lại các phép tính hay bài giải sau khi thực hiện. Nếu có cách thực hiện của các em nhiều khi chưa đảm bảo được nguyên tắc việc thử lại. Khả năng khai thác và đặt đề toán mới từ các bài đã cho của các em còn hạn chế . Điều này thể hiện các em chưa có thói quen, ý thức được việc khái thác các bài toán mới, tự đặt ra những yêu cầu mới cho bản thân; Hơn nữa điều này còn thể hiện trong các tiết giảng dạy hệ thống bài tập của giáo viên chưa chú ý đến kĩ năng đặt đề toán hay khai thác bài toán theo nhiều hướng khác nhau. Mặt khác qua điểu tra tôi cũng nhận thấy rằng tuy trong việc hướng dẫn giải bài cho học sinh nhiều phương pháp tóm tắt khác nhau cho một bài toán chưa được giáo viên lưu ý giới thiệu; phần công việc của học sinh trong việc tóm tắt bài toán lại được giáo viên làm thay các em, làm hạn chế vai trò chủ động của học sinh. Hình thức giải toán thông qua trò chơi toán học chưa được giáo viên quan tâm tổ chức khiến nhiều tiết học có không khí nặng nề, học sinh trong tìnhtrạng phải nhận nhiệm vụ, thiếu tích cực trong luyện tập. 2.2. Dạy học toán có nội dung về tính diện tích các hình trong chương trình Toán lớp 5. a. Mục tiêu dạy học giải toán về diện tích các hình trong chương trình Toán 5 Dạy học giải toán về diện tích các hình lớp 5 giúp học sinh củng cố, rèn luyện kiến thức và kĩ năng về tính toán trong chương trình Toán 5, rèn kĩ năng trình bày, kĩ năng, diễn đạt, kĩ năng phát hiện và giải quyết vấn đề gần gũi với cuộc sống. Yêu cầu cần đạt được của mỗi học sinh lớp 5 là: Học sinh biết quy trình giải bài toán về diện tích các hình. Hiểu được phương pháp đặc thù đối với mỗi hình đó số tình huống thực tiễn đơn giản có liên quan. *.Giải toán về tính diện tích các hình. Trong Toán 5, các bài toán về tính diện tích các hình ( hình vuông, hình chữ nhật,
- hình tam giác, hình thang, hình tròn; tính diện tích xung quanh, diện tích toàn phần, thể tích, hình hộp chữ nhật, hình lập phương). Đặc biệt là các bài toán về tính diện tích ruộng đất thực tế liên quan đến việc phân chia một hình thành các hình khác để tính được diện tích. Với nội dung này, Toán 5 đã giúp học sinh hình thành cách tính chủ yếu dựa vào trực quan, cắt ghép hình. Chẳng hạn: Dạy diện tích xung quanh của hình hộp chữ nhật bằng cách triển khai trên đồ dùng trực quan để học sinh nhận thấy diện tích xung quanh của hình hộp chữ nhật chính là diện tích của một hình chữ nhật lớn vừa triển khai được. Khi áp dụng công thức để tính diện tích thì phép tính giải trong mỗi bước tính thường là phải tính “ giá trị của biểu thức chữ”, do đó khi trình bày bài giải học sinh không phải viết kết quả của phép tính trung gian mà ghi ngay kết quả của biểu thức. Chẳng hạn: Một hình hộp chữ nhật có chiều dài 20 cm, chiều rộng 12 cm, chiều cao 10 cm. Tính diện tích xung quanh của hình hộp chữ nhật đó. Bài giải Diện tích xung quanh của hình hộp chữ nhật là: ( 20 + 12 ) x 2 x 10 = 640 (cm2) Đáp số: 640 cm2 Học sinh không phải viết kết quả phép tính: 20 + 12 = 32; 32 x 2 =64; 64 x 10 =640. Khi viết bài giải các bài toán có nội dung hình học, thông thường HS không phải vẽ hình đối với những bài mà khi tính,diện tích, chỉ áp dụng công thức để tính. Đối với những bài toán mà yêu cầu theo đề bài cần phải vẽ hình thì HS cần phải vẽ hình khi làm bài. 2.3. Các giải pháp nâng cao kĩ năng giải toán về tính diện tích một số hình cho học sinh lớp 5 trường tiểu học Toán học vốn rất trừu tượng và mang tính khái quát cao. Việc thực hiện các kĩ năng tính toán với 4 phép tính cộng từ nhận, chia là không khó đối với đa số học sinh. Nhưng trong các bài toán về tính diện tích thì việc lựa chọn các phép tính phù hợp lại không đơn giản tí nào bởi vì chúng ẩn náu đằng sau những câu chữ. Do đó giải toán về tính diện tích đối với đa số học sinh nói chung và học sinh lớp 5 nói riêng là không dễ. Dạy học giải toán về tính diện tích là một trong những con đường hình thành và phát triển tư duy của học sinh ( phát hiện và tự giải quyết vấn đề, tự nhận xét). Để đạt được mục đích trên người giáo viên phải thực hiện các yêu cầu sau: GV cần phải tổ chức cho HS hoạt động học (theo cá nhân, cặp đôi, nhóm hay cả lớp) cùng với hoạt động tự nhận xét và nhận xét sản phẩm của bạn hay nhóm bạn, qua đó HS có thể tự chiếm lĩnh nội dung kiến thức, rèn kĩ năng cần thiết.Khi HS thực hiện hoạt động học thì GV thực hiện các hoạt động đánh giá (quan sát, tư
- vấn, hướng dẫn HS, nhận xét…). Để có thể tổ chức cho HS hoạt động học được hiệu quả, GV cần phải xác định rõ mục tiêu hay yêu cầu cần đạt và nội dung bài học, từ đó thiết kế thành các hoạt động học và hoạt động đánh giá (nhận xét, tự nhận xét…) để HS thực hiện. GV tổ chức hoạt động dạy học Toán cùng với hoạt động đánh giá để góp phần hình thành, phát triển năng lực và phẩm chất cho HS. Trong quá trình tổ chức hoạt động học và đánh giá học sinh trong giờ học Toán, để thực hiện yêu cầu “vì sự tiến bộ của HS”, GV phải được chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong toàn bộ giờ học nói riêng và quá trình giảng dạy nói chung. Với trách nhiệm của mình, cùng với năng lực sẵn có và sự tâm huyết nghề nghiệp, yêu thương HS, việc đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và đánh giá học sinh trong dạy học môn Toán ở tiểu học sẽ giúp HS tiến bộ trong học tập môn Toán, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học. Sau đây tôi xin đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn trên: Giải pháp 1. Khảo sát phân loại chất lượng đầu năm Khảo sát chất lượng đầu năm. Ghi kết quả khảo sát. Phân loại đối tượng học sinh. Lựa chọn biện pháp phụ đạo trong các tiết toán. Giải pháp 2. Hoạt động nắm vững các khái niệm toán học, cấu trúc phép tính, các thuật ngữ: Bài toán về tính diện tích nêu các vấn đề thường gặp trong đời sống , các vấn đề đó gắn liền với nội dung( khái niệm, cấu trúc, thuật ngữ) toán học. Do vậy giáo viên cần cho học sinh nắm vững khái niệm thuật ngữ toán học. Hướng dẫn học sinh giải toán và nêu thành các bài toán điển hình ( bài toán có phương pháp giải thống nhất). Giải pháp 3. Hoạt động hình thành và rèn kĩ năng giải toán về diện tích các hình. Sau khi đã giải được bài toán thì học sinh phải có khả năng khái quát và rèn luyện năng lực giải toán. Giáo viên có thể tiến hành hoạt động này như sau: Yêu cầu học sinh tìm cách giải khác cho bài toán. Đưa một vài đề toán thiếu hoặc thừa dữ kiện hoặc điều kiện của bài toán Tổ chức cho học sinh lập đề toán tương tự với bài toán đã giải hoặc lập bài toán ngược với bài toán đã giải. Rèn luyện cho học sinh có kĩ năng lập bài toán dựa vào tóm tắt hoặc dựa vào lời
- giải. Đề xuất. a/ Cần phân hoá trình độ, đối tượng học sinh có thể phân hoá như sau : + Đối với học sinh năng lực còn hạn chế : Tạo tình huống để các em tri giác nhận dạng các bài tập, giúp các em nhận diện các bài tập hình học qua việc phân tích đặc điểm dạng bài tập bằng con đường trực giác , nhận dạng góc , cạnh. . . + Đối với học sinh năng lực bình thường : Ở trình độ này đã có thể thực hiện được các bài tập có tính lôgích giữa các tính chất của các hình và bản thân các hình . Một số bài tập có tính chất định nghĩa hình. Còn những tính chất khác sẽ được xây dựng bằng suy diễn, Hình thành hệ thống câu hỏi từ định nghĩa đến các tính chất của các hình : Hình bình hành , hình thoi . . . . . + Đối với học sinh năng lực tốt :Các em nhận dạng bài tập một cách nhanh nhẹn thực hiện tư duy trừu tượng . Tự đặt câu hỏi gợi mở vấn đề trong các bài tập dần dần tiến tới xây dựng hệ thống tư duy suy diễn trừu tượng. Sau khi đã phân hoá đối tượng cần tổ chức đa dạng phong phú giúp học sinh lĩnh hội kiến thức và thành thạo kĩ năng . Điều này có nghĩa là phải tổ chức cho học sinh hoạt động một cách tính cực. Học sinh là người tham gia vào các hoạt động ấy, chúng tự tìm tòi , tự khám phá . . . tổ chức cho các em tự học , tự đọc sách ,cách lấy thông tin, cách phân tích và hiểu thông tin. Những câu hỏi những tình huống của giái viên có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với học sinh , làm cho học sinh hứng thú, tó mò học sinh tìm hiểu câu trả lời đúng, tạo niềm tin chiến thắng cho các em. Giáo viên quan tâm đồng đều tới các đối tượng học sinh trong lớp, chấm chữa tay đôi với những học sinh còn hạn chế và luôn có những lời động viên, nhắc nhở để các em tiến bộ hơn. b/Trong quá trình dạy học giải toán về tính diện tích các hình giáo viên cần hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh tri thức để học sinh biết cách vẽ hình chính xác, nắm chắc các bước giải, vận dụng giải đúng bài. Giáo viên phải yêu cầu học sinh tư duy vận dụng thành thạo các công thức tính diện tích của các hình. Điều này sẽ giúp học sinh có khả năng giải quyết bài toán nhanh và chính xác. c/ Trong quá trình thực hiện bài giải, học sinh còn gặp khó khăn ở câu lời giải, do vậy học sinh phải đọc kĩ đề bài và xác định xem bài toán yêu cầu gì? Dựa vào câu hỏi đó để ghi câu lời giải cho phù hợp. e/ Về phía giáo viên: Giáo viên cần nắm bắt phương pháp giảng dạy mới phù hợp với nội dung sách. Trước khi lên lớp, giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung bài, tìm ra cách giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức bằng con đường ngắn nhất và dự kiến các sai lầm để giúp học sinh tiếp nhận kiến thức nhẹ nhàng, dễ hiểu và
- không có những sai lầm đáng tiếc. Giải pháp 4. Tăng cường hoạt động thực hành luyện tập Muốn giỏi toán nói chung và giỏi toán về diện tích các hình nói riêng thì không có còn đường nào khác ngoài việc tăng cường thực hành luyện tập. Việc giải các bài tập trong sách giáo khoa là cần thiết tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở đó thì kĩ năng của các em khó lòng có thể nâng cao được. Bởi vì đa số các bài toán trong sách giáo khoa Toán đều là những bài toán cơ bản mang tính chất vận dụng công thức là có thể giải được. Do đó các em nên tiếp cận với các bài toán khác ở các sách tham khảo, vở em tự ôn luyện toán. Điều đó sẽ nâng cao khả năng giải toán của em. Đối với mỗi bài toán các em không phải lúc nào cũng phải tóm tắt đề toán. Tuy nhiên các em nên tập thói quen tóm tắt bài toán trước khi bắt tay vào giải. Việc tóm tắt sẽ giúp cho chúng ta thấy được mối quan hệ giữa các đại lượng từ đó định hướng cách giải. Đến khi thành thạo các em có thể không cần ghi ra giấy mà bước này chỉ cần nhẩm trong đầu. Trong quá trình luyện tập nếu các em còn mắc số lỗi về diễn đạt câu lời giải, kĩ năng vẽ hình và biểu diễn các dữ kiện của bài toán thì cần nhớ các cách sau sẽ giúp các em sớm khắc phục được điều đó. Khi viết cầu lời giải các em cần nhớ rằng đó là câu khẳng định không phải là câu hỏi, các cách mà em có thể áp dụng: Cách 1: Quan sát các câu lời giải của các bạn và cô giáo để đã trình bày và xem câu nào gọn và đủ ý thì học theo. Cách 2: Khi giải trên lớp cần nêu một số cách trả lời khác nhau cho cùng một phép tính để cô giáo và các bạn góp ý rồi tự mình sửa chữa. Thời gian rèn kĩ năng thực hành trong tiết về diện tích trong khoảng thời gian từ 20 đến 25 phút trong một tiết dạy hình thành kiến thức mới, thời gian rèn kĩ năng thực hành trong tiết luyện tập khoảng từ 30 đến 35 phút. Để đảm bảo thời gian trong lĩnh hội kiến thức và củng cố kiến thức, cần chọn các hình thức tổ chức hoạt động trọng tâm, thao tác kĩ thuật chính xác, đưa ra các tình huống và xử lí tình huống cụ thể , ít diễn giải, không làm thay học sinh. * Giải pháp 5. Nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng và phương tiện dạy học trong dạy diện tích các hình: Thật vậy, các phương tiện dạy học hỗ trợ không nhỏ đến hiệu quả khi sử dụng phương pháp dạy học tiểu học. Điều này phụ thuộc nhiều vào cơ sở vật chất và các đồ dùng dạy học ở mỗi nhà trường. Giáo viên cần chú ý sử dụng tối đa các phương tiện dạy học hiện có để giờ học đạt hiệu quả cao về chất lượng. Đồ
- dùng trực quan luôn gắn liền với phương pháp dạy học ở tiểu học. Để nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng và phương tiện dạy học trong dạy diện tích các hình trrong chương trình Toán 5, GV cần lưu ý những vấn đề sau: Giáo viên cần khai thác triệt để bộ đồ dùng dạy học dùng cho Toán 5. Nghiên cứu và sử dụng tối đa hiệu quả bộ đồ dùng dành cho giáo viên và học sinh. Qua các tiết thao giảng, sinh hoạt chuyên môn, giáo viên cùng nhau trao đổi, vận dụng các hình thức tổ chức dạy học phù hợp với hoạt động sử dụng đồ dùng Toán 5. Vận dụng công nghệ thông tin vào soạn giảng một cách nhạy bén, linh động, song không quá lạm dụng trong các tiết lên lớp; qua sử dụng đồ dùng, hình thành cho học sinh kĩ năng tự học, phát huy tính sáng tạo, tìm tòi qua việc sử dụng đồ dùng. * Giải pháp 6: Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh: Tham mưu với Ban giám hiệu mời phụ huynh họp ( sau khi khảo sát, phân loại đối tượng ) thông qua yêu cầu của môn Toán. Thông báo cho từng phụ huynh biết con mình chưa hoàn thành ở mặt nào chưa giải được diện tích của hình nào, từ đó hướng dẫn phụ huynh biện pháp giúp đỡ các em học tập ở nhà. Thăm gia đình hoặc thường xuyên trao đổi với phụ huynh qua công nghệ thông tin ( Zalo, zoom, facebook…), điện thoại. ải pháp 7: * Gi Sử dụng các phương pháp dạy học hiệu quả. Hình thành phương pháp tự học, tăng cường các hoạt động tự tìm kiếm tri thức và ứng dụng tri thức vào cuộc sống: a. Để giúp học sinh trong giải toán về tính diện tích các hình nhằm phát triển năng lực và phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, tôi đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau như: 1. Phương pháp quan sát: Đây là phương pháp giúp ta quan sát thái độ, hành vi của học sinh, phát hiện ra những hành vi, cử chỉ của học sinh trong học tập, sinh hoạt... Từ đó phát huy năng lực và tính tích cực, tự giác của học sinh. 2. Phương pháp thực nghiệm: Khi tiến hành nghiên cứu tạo ra một số tình huống, những hoàn cảnh, những điều kiện rất gần gũi của cuộc sống để đưa đối tượng vào vấn đề, từ đó nghiên cứu thu lại được những tư liệu cần thiết. Đây là một phương pháp hết sức quan trọng và rất cần thiết trong nghiên cứu khoa học. 3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: Qua phương pháp này làm cho người giáo viên thấy được những thiếu sót và những chỗ hổng của học sinh để có phương pháp làm cho hoạt động của mình đạt chất lượng cao. 4. Phương pháp tổng hợp kinh nghiệm: Nhờ phương pháp này mà người nghiên cứu có thể tổng hợp, đúc rút kinh nghiệm của giáo viên chỉ đạo về việc phát huy
- tính tích cực, tự giác, độc lập của học sinh qua các mặt hoạt động học tập, lao động, sinh hoạt tập thể và hoạt động ngoại khoá, từ đó rút ra bài học và nêu được những biện pháp khắc phục và đề xuất. 5. Phương pháp đàm thoại: Với học sinh tiểu học, phương pháp đàm thoại trò chuyện là một hình thức tốt nhất để giáo viên có thể gần gũi các em, đồng thời thăm hỏi trò chuyện với một số phụ huynh học sinh. Qua đó chúng ta có thể biết tâm sự, tình cảm, nguyện vọng của các em về việc học ở lớp cũng như việc học ở nhà của các em như thế nào? Để từ đó, giáo viên có phương pháp và hình thức tổ chức dạy học thích hợp nhằm làm cho người dạy đạt kết quả tốt nhất. 6. Phương pháp thống kê, tính toán: Phương pháp thống kê tính toán, qua những thông tin tài liệu thu thập được, tôi đã vận dụng phương pháp này để thống kê lại tình hình và tính toán các số liệu cần thiết để biết được chất lượng học tập của học sinh thời gian sau so với thời gian trước như thế nào? Trong các dạng toán về tính diện tích các hình ở lớp 5, tôi chú ý vận dụng phương pháp dạy học tích cực: PPDHTC là một phương pháp dạy học toán mà ở đó người GV sử dụng một nhóm PP giáo dục và dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của người học đồng thời chống lại thói quen học tập thụ động của người học. b. Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học Không có một phương pháp dạy học toàn năng phù hợp với mọi mục tiêu và nội dung dạy học. Mỗi phương pháp và hình thức dạy học có những ưu, nhựơc điểm và giới hạn sử dụng riêng. Vì vậy việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học trong toàn bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học. Dạy học toàn lớp, dạy học nhóm, nhóm đôi và dạy học cá thể là những hình thức xã hội của dạy học cần kết hợp với nhau, mỗi một hình thức có những chức năng riêng. Tình trạng độc tôn của dạy học toàn lớp và sự lạm dụng phương pháp thuyết trìnhcần được khắc phục, đặc biệt thông qua làm việc nhóm. c. Vận dụng dạy học giải quyết vấn đề Dạy học giải quyết vấn đề (dạy học nêu vấn đề, dạy học nhận biết và giải quyết vấn đề) là quan điểm dạy học nhằm phát triển năng lực tư duy, khả năng nhận biết và giải quyết vấn đề. Học được đặt trong một tình huống có vấn đề, đó là tình huống chứa đựng mâu thuẫn nhận thức, thông qua việc giải quyết vấn đề, giúp học sinh lĩnh hội tri thức, kỹ năng và phương pháp nhận thức. Dạy học giải quyết vấn đề là con đường cơ bản để phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh, có thể áp dụng trong nhiều hình thức dạy học với những mức độ tự lực khác nhau của học sinh.
- Các tình huống có vấn đề là những tình huống khoa học chuyên môn, cũng có thể là những tình huống gắn với thực tiễn. Trong thực tiễn dạy học hiện nay, d ạy học giải quyết vấn đề thường chú ý đến những vấn đề khoa học chuyên môn mà ít chú ý hơn đến các vấn đề gắn với thực tiễn. Tuy nhiên nếu chỉ chú trọng việc giải quyết các vấn đề nhận thức trong khoa học chuyên môn thì học sinh vẫn chưa được chuẩn bị tốt cho việc giải quyết các tình huống thực tiễn. Vì vậy bên cạnh dạy học giải quyết vấn đề, lý luận dạy học còn xây dựng quan điểm dạy học theo tình huống. Ví dụ: Dạy bài diện tích hình tam giác: Học sinh chuẩn bị 1 tờ giấy a4 hình chữ nhật, dùng thước và bút chì kẻ 1 đoạn thẳng nối 2 góc đối diện và cắt đôi thành 2 hình tam giác vuông. Cho học sinh tìm mối liên hệ giữa chiều cao hình tam giác vuông và chiều rộng hình chữ nhật, giữa 2 hình tam giác vuông khi ghép lại sẽ như thế nào so với hình chữ nhật. Diện tích hình chữ nhật là chiều dài nhân chiều rộng. Vậy tại sao khi tính diện tích hình tam giác vuông ta lại lấy chiều dài cạnh đáy nhân chiều cao chia 2. Đây là một số vấn đề giáo viên nêu ra cho học sinh giải quyết. d. Vận dụng dạy học theo tình huống Dạy học theo tình huống là một quan điểm dạy học, trong đó việc dạy học được tổ chức theo một chủ đề phức hợp gắn với các tình huống thực tiễn cuộc sống và nghề nghiệp. Quá trình học tập được tổ chức trong một môi trường học tập tạo điều kiện cho học sinh kiến tạo tri thức theo cá nhân và trong mối tương tác xã hội của việc học tập. Các chủ đề dạy học phức hợp là những chủ đề có nội dung liên quan đến nhiều môn học hoặc lĩnh vực tri thức khác nhau, gắn với thực tiễn. Trong nhà trường, các môn học được phân theo các môn khoa học chuyên môn, còn cuộc sống thì luôn diễn ra trong những mối quan hệ phức hợp. Vì vậy sử dụng các chủ đề dạy học phức hợp góp phần khắc phục tình trạng xa rời thực tiễn của các môn khoa học chuyên môn, rèn luyện cho học sinh năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp, liên môn. Phương pháp nghiên cứu trường hợp là một phương pháp dạy học điển hình của dạy học theo tình huống, trong đó học sinh tự lực giải quyết một tình huống điển hình, gắn với thực tiễn thông qua làm việc nhóm. Vận dụng dạy học theo các tình huống gắn với thực tiễn là con đường quan trọng để gắn việc đào tạo trong nhà trường với thực tiễn đời sống, góp phần khắc phục tình trạng giáo dục hàn lâm, xa rời thực tiễn hiện nay của nhà trường phổ thông. Tuy nhiên, nếu các tình huống được đưa vào dạy học là những tình huống mô
- phỏng lại, thì chưa phải tình huống thực. Nếu chỉ giải quyết các vấn đề trong phòng học lý thuyết thì học sinh cũng chưa có hoạt động thực tiễn thực sự, chưa có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành. đ. Vận dụng dạy học định hướng hành động Dạy học định hướng hành động là quan điểm dạy học nhằm làm cho hoạt động trí óc và hoạt động chân tay kết hợp chặt chẽ với nhau. Trong quá trình học tập, học sinh thực hiện các nhiệm vụ học tập và hoàn thành các sản phẩm hành động, có sự kết hợp linh hoạt giữa hoạt động trí tuệ và hoạt động tay chân. Đây là một quan điểm dạy học tích cực hoá và tiếp cận toàn thể. Vận dụng dạy học định hướng hành động có ý nghĩa quan trọng cho việc thực hiện nguyên lý giáo dục kết hợp lý thuyết với thực tiễn, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội. Dạy học theo dự án là một hình thức điển hình của dạy học định hướng hành động, trong đó học sinh tự lực thực hiện trong nhóm một nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn với các vấn đề thực tiễn, kết hợp lý thuyết và thực hành, có tạo ra các sản phẩm có thể công bố. Trong dạy học theo dự án có thể vận dụng nhiều lý thuyết và quan điểm dạy học hiện đại như lý thuyết kiến tạo, dạy học định hướng học sinh, dạy học hợp tác, dạy học tích hợp, dạy học khám phá, sáng tạo, dạy học theo tình huống và dạy học định hướng hành động. h. Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp lý hỗ trợ dạy học: Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học, nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiệm, thực hành trong dạy học. Việc sử dụng các phương tiện dạy học cần phù hợp với mối quan hệ giữa phương tiện dạy học và phương pháp dạy học. Hiện nay, việc trang bị các phương tiện dạy học mới cho các trường phổ thông từng bước được tăng cường. Tuy nhiên các phương tiện dạy học tự làm của giáo viên luôn có ý nghĩa quan trọng, cần được phát huy. Đa phương tiện và công nghệ thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là phương tiện dạy học trong dạy học hiện đại. Đa phương tiện và công nghệ thông tin có nhiều khả năng ứng dụng trong dạy học. Bên cạnh việc sử dụng đa phương tiện như một phương tiện trình diễn, cần tăng cường sử dụng các phần mềm dạy học cũng như các phương pháp dạy học sử dụng mạng điện tử (ELearning). Phương tiện dạy học mới cũng hỗ trợ việc tìm ra và sử dụng các phương pháp dạy học mới. Webquest là một ví dụ về phương pháp dạy học mới với phương tiện mới là dạy học sử dụng mạng điện tử, trong đó học sinh khám phá tri thức trên mạng một cách có định hướng.
- i. Sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo Kỹ thuật dạy học là những cách thức hành động của của giáo viên và học sinh trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học. Các kỹ thuật dạy học là những đơn vị nhỏ nhất của phương pháp dạy học. Có những kỹ thuật dạy học chung, có những kỹ thuật đặc thù của từng phương pháp dạy học, ví dụ kỹ thuật đặt câu hỏi trong đàm thoại. Ngày nay người ta chú trọng phát triển và sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học như “động não”, “tia chớp”, “bể cá”, XYZ, Bản đồ tư duy… k. Bồi dưỡng phương pháp học tập tích cực cho học sinh Phương pháp học tập một cách tự lực đóng vai trò quan trọng trong việc tích cực hoá, phát huy tính sáng tạo của học sinh. Có những phương pháp nhận thức chung như phương pháp thu thập, xử lý, đánh giá thông tin, phương pháp tổ chức làm việc, phương pháp làm việc nhóm, có những phương pháp học tập chuyên biệt của từng bộ môn. Bằng nhiều hình thức khác nhau, cần luyện tập cho học sinh các phương pháp học tập chung và các phương pháp học tập trong bộ môn. Trong phương pháp học, điều cốt lõi là phương pháp tự học. Để đạt được yêu cầu này trong chỉ đạo dạy học nội dung diện tích các hình, giáo viên phải tạo ra hàng loạt các mâu thuẫn để lôi kéo học sinh tự ý thức tiếp nhận và tìm tòi cách giải quyết. Để đạt được mục tiêu trên, giáo viên phải có kĩ năng sử dụng tốt thiết bị đồ dùng trực quan, có kĩ năng tạo tình huống cố vấn đề, dựa vào những điều các em đã biết, đã học để gợi mở và dẫn dắt. Trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được hình thành bởi những hoạt động thuần túy cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy trò, trò trò, tạo mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường đi tới những tri thức mới. Hình thức hoạt động học tập này diễn ra trong tất cả các tiết học nói chung và học về diện tích các hình trong chương trình toán lớp 5 nói riêng. Các dấu hiệu tích cực trong học toán gồm: HS hăng hái phát biểu ý kiến. Không bằng lòng lời giải của cô và của bạn Không bằng lòng với một cách giải quyết duy nhất Thường hay thắc mắc, đặt ra câu hỏi và đòi hỏi được giải đáp, hay chia sẻ suy nghĩ với bạn. Thường hay ngơ ngác trên lớp và suy nghĩ về vấn đề liên quan. Học sinh còn tự giác, chủ động làm bài, tự học, trao đổi nhận xét bài với bạn .
- Trong dạy học người giáo viên cần: * Tổ chức lớp học: Bố trí vật dụng trong lớp học sao cho hài hoà theo số lượng học sinh trong lớp Khoảng cách giữa các nhóm không quá chật. Chú ý đảm bảo ánh sáng. * Không khí làm việc trong lớp học: GV cần xây dựng không khí làm việc và mối quan hệ giữa các học sinh dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và đối xử công bằng, bình đẳng giữa các HS trong lớp. Tránh tuyệt đối luôn khen ngoại quá mức một vài HS nào đó hoặc để cho cá HS có năng lực tốt trong lớp luôn làm thay công việc của cả nhóm mà không tạo cơ hội làm việc cho các học sinh khác. * Giúp học sinh bộc lộ quan niệm ban đầu Vì là lần đầu tiên được hỏi đến nên học sinh ngại nói, sợ sai và sợ bị chê cười. Do đó, giáo viên cần khuyến khích học sinh trình bày ý kiến của mình. Chấp nhận và tôn trọng những quan điểm sai của học sinh khi trình bày biểu tượng ban đầu. Không nên vội vàng khen những ý kiến đúng vì sẽ làm ức chế các HS khác muốn trình bày ý kiến của mình. * Tổ chức hoạt động thảo luận cho học sinh Thảo luận được thực hiện ở nhiều thời điểm trong dạy học bằng phương pháp bàn tay nặn bột. Có hai hình thức thảo luận: thảo luận nhóm nhỏ và thảo luận nhóm lớn. Tuyệt đối không được nhận xét ngay là ý kiến của nhóm này đúng hay ý kiến của nhóm khác sai. Cho phép học sinh thảo luận tự do, tuy nhiên giáo viên cần hướng dẫn học sinh tới các kết luận khoa học chính xác của bài học. Hình thành một số quy ước “lệnh” cho lớp học để học tập và chuyển các hoạt động nhanh và khoa học. Đây cũng là rèn luyện năng lực cho học sinh và học sinh luôn có thói quen làm việc theo lệnh. Quan sát học sinh làm việc một cách cụ thể (nhìn được, nghe được các nhóm thảo luận gì, câu trả lời, các lời đánh giá của nhóm khác và phản biện của nhóm về đánh giá của nhóm bạn). Tuyệt đối đảm bảo học sinh không chép kết quả của bạn khác. * Thực hiện phương pháp này không thể nóng vội, cần thực hiện từng bước để tạo thói quen cho học sinh, lúc đó việc dạy học theo hướng phát triển năng lực của người học sẽ dễ dàng và đem lại hiệu quả cao. Cân nhắc từng chủ đề trước khi đưa ra. Tùy vào từng đối tượng học sinh. Đảm bảo khung chương trình, chuẩn kiến thức kỹ năng.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Cách hướng dẫn giải toán tìm X ở bậc Tiểu học
30 p | 2235 | 370
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 432 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 215 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 186 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 162 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 173 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 121 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 167 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn
27 p | 126 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 163 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 100 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 130 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 127 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Xây dựng đội ngũ, hoạt động phù hợp mang lại hiệu quả và thiết thực trong dạy và học ở Trường tiểu học An Lộc A
14 p | 55 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt bài thể dục phát triển chung
24 p | 186 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 145 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1
27 p | 62 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn