Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Vận dụng giáo dục STEM trong dạy học môn Khoa học lớp 5
lượt xem 19
download
Sáng kiến kinh nghiệm "Vận dụng giáo dục STEM trong dạy học môn Khoa học lớp 5" tìm hiểu về phương pháp dạy học môn Khoa học gắn với giáo dục STEM từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy. Giúp học sinh có hứng thú với môn Khoa học: Các bài học đều hướng tới việc vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các vấn đề thực tiễn, học sinh được hoạt động, trải nghiệm và thấy được ý nghĩa của tri thức với cuộc sống, nhờ đó sẽ nâng cao hứng thú học tập của học sinh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Vận dụng giáo dục STEM trong dạy học môn Khoa học lớp 5
- PHẦN I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang làm thay đổi căn bản cuộc sống của chúng ta, tạo ra những cơ hội rất lớn nhưng cũng đặt ra những thách thức không nhỏ cho mỗi quốc gia. Nó đã và đang diễn ra một cách nhanh chóng, làm ảnh hưởng mạnh mẽđến mọi lĩnh vực của đờisống xã hội và giáo dục cũng không ngoại lệ. Điều này đặt ra cho ngành Giáo dục một sứ mệnh to lớn là chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Trong kỉ nguyên số hóa, giáo dục sẽ thay đổi sâu rộng từ môi trường giáo dục đến vai trò của người dạy, người học. Vì thế đòi hỏi giáo viên phải thay đổi phương pháp dạy, học sinh phải thay đổi cách học.Để thực hiện được nhiệm vụ này, rất cần thiết phải đưa giáo dục STEM vào nhà trường, bởi những ưu thế của giáo dục STEM trong dạy học là rất lớn, góp phần tích cực trong việc đổi mới phương pháp dạy học đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông mới 2018. Thông qua quá trình học giúp các em tự lĩnh hội được kiến thức, kĩ năng và có khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết các vấn đề thực tế.Nhưng làm thế nào để vận dụng giáo dục STEM mang lại hiệu quả trong trường Tiểu học? Là một giáo viên, tôi luôn trăn trở để tìm giải pháp đổi mới nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền giáo dụcnước nhà. Trong chương trình Tiểu học, mỗi môn học có một vai trò riêng, đều đem đến cho học sinh những nguồn kiến thức cơ bản khác nhau và rèn cho các em những kĩ năng, thái độ nhất định. Môn Khoa học là một môn học có vai trò vô cùng quan trọng, không chỉ cung cấp cho các em kiến thức về môi trường tự nhiên, xã hội, con người mà còn khơi dậy trí tò mò khoa học, bước đầu tạo cho học sinh cơ hội tìm hiểu, khám phá thế giới tự nhiên, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Nhưng thực tế hiện nay, trong giảng dạy môn Khoa học có nhiều bài học sinh phải học và ghi nhớ rất nhiều, nhưng khả năng vận dụng vào đời sống thực tiễn lại rất hạn chế. Thêm vào đó là sự quá tải đến từ nội dung còn nặng lý thuyết, chưa thiết thực; phương pháp dạy học còn nặng về thuyết trình; thời lượng học nhiều khi chưa tương thích với nội dung.Chính vì vậy mà cần phải đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học cần phải gắn nội dung bài học với những vấn đề thực tiễn và giáo viên tổ chức hoạt động để học sinh tìm hiểu và giải quyết được vấn đề, thông qua đó tiếp thu tri thức một cách chủ động. Dạy học Khoa học theo giáo dục STEM là một hướng giáo dục phù hợp giúp HS phát triển đầy đủ các năng lực đặc thù và năng lực cốt lõi theo mục tiêu của chương trình GDPT mới. Xuất phát từ lý do đó, với tinh thần ham học hỏi, tôi xin mạnh dạn nghiên cứu và
- quyết định chọn đề tài: “Vận dụng giáo dục STEM trong dạy học môn Khoa học lớp 5”. 2. Mục đích nghiên cứu - Tìm hiểu về phương pháp dạy học môn Khoa học gắn với giáo dục STEM từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy. - Giúp học sinh có hứng thú với môn Khoa học: Các bài học đều hướng tới việc vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các vấn đề thực tiễn, HS được hoạt động, trải nghiệm và thấy được ý nghĩa của tri thức với cuộc sống, nhờ đó sẽ nâng cao hứng thú học tập của học sinh. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Đối tượng:Học sinh lớp 5. - Phạm vi nghiên cứu:Các bài học theo định hướng STEM trong dạy học Khoa học lớp 5. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nội dung chương trình môn Khoa học lớp 5. - Biện pháp đưa giáo dục STEM vào môn Khoa học lớp 5. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích tài liệu. - Phương pháp khảo sát. - Phương pháp thống kê, phân tích đánh giá. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm. 6. Thời gian nghiên cứu - Năm học 2022 – 2023, từ tháng 10 năm 2022 đến tháng 3 năm 2023. 2
- 3 PHẦN II. NỘI DUNG 1.Cơ sở lí luận 1.1. Khái niệm STEM, giáo dục STEM STEM là thuật ngữ được ghép từ các chữ cái đầu tiên của từ Science (Khoa học),Technology (Công nghệ), Engineering (Kĩ thuật) và Mathematics (Toán học) đề cậpđến cách tiếp cận liên môn trong học tập và dạy học tích hợp trong các lĩnh vực khoahọc, công nghệ, kĩ thuật và toán học.Bốn lĩnh vực này được mô tả như sau: Khoa học được hiểu là tri thức về khoa học tự nhiên, tư duy khoa học và quytrình nghiên cứu khoa học. Trong đó người học nhận biết, mô tả, giải thích và dựđoán về các sự vật, hiện tượng và quy luật tự nhiên, dựa trên những bằng chứng rõràng thu được từ quan sát và thực nghiệm. Công nghệ được hiểu là tri thức có hệ thống về quy trình và kĩ thuật dùng để xửlí thông tin, chế biến vật liệu (trong đó bao gồm kiến thức, thiết bị, phương pháp vàcác hệ thống sử dụng) trong việc tạo ra các sản phẩm. Thành tố công nghệ trong giáodục STEM ở trường phổ thông được hiểu là kiến thức, kĩ năng môn Công nghệ, cáccông cụ, thiết bị hay quy trình đã được thiết lập/ sử dụng trong quá trình triển khaitạo thành sản phẩm. Kĩ thuật được hiểu là lĩnh vực khoa học vận dụng các thành tựu của toán học,khoa học tự nhiên để giải quyết các vấn đề thực tiễn, đáp ứng nhu cầu của cuộc sống.Kết quả của nghiên cứu kĩ thuật góp phần tạo ra các giải pháp, sản phẩm, công nghệmới. Thành tố kĩ thuật gồm nội dung/ kiến thức về kĩ thuật thực hiện có thể nằmtrong môn Công nghệ, Mĩ thuật (ở cấp tiểu học), có thể là vẽ kĩ thuật, thiết kế kĩthuật, quy trình thiết kế kĩ thuật. Toán học nghiên cứu về hình thái cấu trúc, trật tự và quan hệ của các đối tượngtoán học, được phát triển từ các thực hành cơ bản như đếm, đo lường và mô tả hìnhdạng của các vật thể. Toán học còn liên quan đến lí luận logic và tính toán định lượng. Thành tố toán học trong giáo dục STEM bao gồm kiến thức, kĩ năng toán học, tư duytoán học, giải quyết vấn đề toán học. Như vậy, giáo dục STEM là mô hình giáo dục dựa trên cách tiếp cận liên môn, giúp học sinh áp dụng các kiến thức Khoa học, Công nghệ, Kĩ
- thuật và Toán học vào giải quyết một số vấn đề thực tiễn trong bối cảnh cụ thể.Thay vì dạy bốn môn học như các đối tượng tách biệt và rời rạc, STEMkết hợp chúng thành một mô hình học tập gắn kết dựa trên các ứng dụng thực tế. Qua đó, học sinh vừa học được kiến thức khoa học, vừa học được cách vận dụng kiến thức đó vàothực tiễn. Giáo dục STEM đề cao việc hình thành và phát triển năng lực giải quyết vấn đề cho người học. Những học sinh học theo cách tiếp cận giáo dục STEM đều có những ưu thế nổi bật như: kiến thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ và toán học chắc chắn; có khả năng sáng tạo, tư duy logic; hiệu suất học tập và làm việc vượt trội và có cơ hội phát triển các kỹ năng mềm toàn diện hơn trong khi không hề gây cảm giác nặng nề, quá tải đối với học sinh. Giáo dục STEM vận dụng phương pháp học tập chủ yếu dựa trên thực hành và các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, các phương pháp giáo dục tiến bộ, linh hoạt nhất như học qua dự án - chủ đề, học qua trò chơi và đặc biệt phương pháp học lý thuyết gắn với thực hành luôn được áp dụng triệt để cho các môn học tích hợp STEM. 1.2. Xu thế tất yếu của giáo dục STEM trong dạy học môn Khoa học Chương trình giáo dục phổ thông 2018 định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh, mục tiêu của chương trình nhằm trả lời cho câu hỏi: “Học xong chương trình học sinh làm được gì?” Chính vì vậy cần phải đổi mớiphương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển phẩm chấtvà năng lực học sinh.Do đó, giáo dục STEM trong giai đoạn giáo dục cơ bản, đặc biệt là ở cấp tiểu học, có mục tiêu là tạo cơ hội để học sinh tích hợp kiến thức, kĩ năng ở các môn học đặcthù cho giáo dục STEM như môn Tự nhiên và Xã hội (lớp 1 đến lớp 3) hay mônKhoa học (lớp 4, lớp 5) với các môn Toán, Mĩ thuật, Tin học, Công nghệ; từ đó vậndụng kiến thức, kĩ năng có được này để giải quyết các vấn đề thực tiễn trong từngchủ đề giáo dục STEM. Bên cạnh đó, trong những năm qua, Đảng, Chính phủ, Bộ giáo dục và Đào tạo đã có nhiều văn bản chỉ đạo hướng dẫn thực hiện và đổi mới giáo dục đặc biệt là Công văn 909/BGDĐT-GDTH về việc hướng dẫn tổ chức hoạt động giáo dục STEM trong giáo dục Tiểu học. Có thể nói giáo dục STEM là mô hình phù hợp với mục tiêu và phương pháp dạy học hiện nay. Vai trò của vận dụng kiến thức vào thực tiễn không chỉ thể hiện ở chỗ học sinh có kĩ năng vận dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề 4
- 5 liên quan đến nội dung bài học mà còn giải quyết các vấn đề thực tiễn đa dạng trong cuộc sống, theo hướng “học đi đôi với hành”, lí thuyết gắn với thực tiễn, nhà trường gắn với xã hội. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi chúng ta đang thực hiện chương trình GDPT 2018 trong đó chú trọng đến việc dạy học phát triển năng lực học sinh, dạy học gắn với thực tế cuộc sống và lồng ghép giáo dục STEM. 2. Cơ sở thực tiễn Môn Khoa học ở lớp 4,5 được xây dựng trên cơ sở tiếp thu những kiến thức về Tự nhiên và xã hội ở các lớp 1,2,3. Nội dung chương trình được cấu trúc đồng tâm, mở rộng và nâng cao theo 3 chủ đề: + Con người và xã hội + Vật chất và năng lượng + Thực vật và động vật + Môi trường và tài nguyên thiên nhiên (Có thêm ở lớp 5). Việc dạy môn Khoa học không chỉ nhằm tích lũy kiến thức đơn thuần mà còn nhằm dạy cho học sinh tập làm quen với các tư duy chặt chẽ mang tính khoa học, hình thành cho học sinh những năng lực cần thiết với thực tế cuộc sống và tiếp tục học tập sau này.Nhưng thực tế hiện nay, trong giảng dạy môn Khoa học, nhiều bài học sinh phải học và ghi nhớ rất nhiều, nhưng khả năng vận dụng vào đời sống thực tiễn lại rất hạn chế. Học sinh không được trải nghiệm thực tế nên việc tiếp thu kiến thức khoa học trở nên nặng nề.Hơn nữa, trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy một số em còn thụ động trong việc chuẩn bị bài ở nhà, nhút nhát khi tham gia các hoạt động nhóm, thiếu tự tin trong giao tiếp và ngại bày tỏ ý kiến riêng. Đối với chương trình dạy môn Khoa học hiện hành, tôi nhận thấy nội dung sách giáo khoa kênh chữ nhiều, kênh hình ít, còn nặng về lý thuyết và chưa lôi cuốn được học sinh trong quá trình tìm hiểu để phát hiện ra kiến thức mới của bài học.Đồng thời học sinh cũng ít được trải nghiệm, tự mình tạo ra các sản phẩm từ những vật liệu thân thiện, gần gũi với đời sống các em. Một số em còn chưa biết vận dụng kiến thức đã học vào thực hành làm một số đồ vật theo nội dung từng bài học,kĩ năng quan sát, thuyết trình còn hạn chế.Chính vì vậy mà
- đôi khi tiết học trở nên trầm lắng, học sinh lĩnh hội kiến thức một cách thụ động, không hứng thú trong học tập, việc học và chuẩn bị bài ở nhà chưa tự giác. Năm học 2022-2023, tôi được phân công phụ trách lớp 5A5 với 54 học sinh. Ngay từ đầu năm học, tôi đã tiến hành khảo sát học sinh trong lớp về sự hứng thú, cách thức học tập môn Khoa học và thu được kết quả như sau: Kết quả Câu Nội dung Số lượng Tỉ lệ (HS) (%) 1 Sự hứng thú của HS khi học môn Khoa học ở mức độ: Rất thích 7 13 Thích 10 18,5 Bình thường 25 46,3 Không thích 12 22,2 2 HS thích môn Khoa học vì: Môn học có nhiều chủ đề 8 14,8 Bài học sinh động, thầy cô vui vẻ, dễ hiểu 15 27,8 Kiến thức dễ nắm bắt 14 25,9 6
- 7 Kiến thức gắn với thực tế cuộc sống 17 31,5 3 Trong giờ học môn Khoa học, HS thích được học thông qua các hoạt động: Nghe giảng, phát biểu ý kiến, thảo luận và làm 24 44,4 việc Được thực hiện các thí nghiệm thực hành để hiểu 30 55,6 sâu kiến thức về khoa học Kết quả khảo sát cho thấy số lượng học sinh yêu thích môn Khoa học khá thấp, chỉ chiếm 31,5%.Các em thích học vì môn Khoa học chủ yếu là do giáo viên dạy, do kiến thức gần gũi với cuộc sống.Vẫn còn 24 em vẫn thích cách học theo lối truyền thống, do vậy mà các em ít có yếu tố đam mê nghiên cứu, kĩ năng thực hành, thuyết trình cũng hạn chế. Đó là lí do tôi muốn đưa giáo dục STEM vào để giảng dạy kết hợp phương pháp dạy học truyền thống. 3. Các biện pháp đã tiến hành 3.1. Biện pháp 1:Xây dựng kế hoạch dạy học lồng ghép giáo dục STEM phù hợp với điều kiện thực tế Đểdạy học môn Khoa học gắn với giáo dục STEM đạt hiệu quả, trước hết tôi tiến hành rà soát chương trình môn học, các hoạt động trong từng bài có thể vận dụng dạy lồng ghép STEM. Sau đó cùng tổ khối chuyên môn tập trung thống nhất các bài, thảo luận để lựa chọn hình thức, phương pháp phù hợp với đối tượng học sinhcủa mình. Chúng tôi lên kế hoạch dạy học từng bài gắn với dạy học STEM có thể dạy trong 1, 2 hoặc 3 tiết, đưa dạy học STEM vào sinh hoạt chuyên môn để tổ khối, đồng nghiệp và Ban giám hiệu cùng dự giờ rút kinh nghiệm. Tham gia chuyên đề cấp trường, cấp huyện để học tập lẫn nhau. Lựa chọn các chủ đề dạy học theo định hướng STEM được lồng ghép trong một tiết học trên lớp hoặc tổ chức trong một hoạt động trải nghiệm trong, ngoài lớp. Ví dụ: Khi dạy bài 31: Chất dẻo: Để lập kế hoạch bài này, tôi đề ra mục tiêu cho học sinh cần nắm được tính chất, công dụng và cách bảo quản đồ dùng bằng chất dẻo; thực hành làm
- được các sản phẩm từ chất dẻo. Về phần thực hành, tôi yêu cầu học sinh chuẩn bị các vật liệu dễ kiếm như: chai nhựa, vỏ hộp sữa chua, ống hút,... và nghiên cứu cách làm các sản phẩm từ các nguyên liệu đó theo nhóm 4 ở nhà. Tôi dành cho học sinh 1 tiết để các em thực hành trải nghiệm.Sau khi đã khám phá các kiến thức theo mục tiêu của bài học thì việc lồng ghép giáo dục STEM trong bài này nhằm phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh, khơi gợi niềm say mê nghiên cứu khoa học của các em.Tôi cho HS chia sẻ về những nguyên liệu mà nhóm mình đã chuẩn bị và ý tưởng về sản phẩm các em sẽ làm. Sau đó, các em sẽ được thực hành làm sản phẩm với các dụng cụ đã chuẩn bị. Sau khi học sinh thực hành xong, tôi cho các emtrưng bày, chia sẻ về sản phẩm của nhóm mình. Các sản phẩm của các em rất phong phú, đa dạng và sáng tạo. Có em làm những chiếc ống đựng bút, chậu cây, những con vật đáng yêu từ vỏ chai, vỏ hộp sữa chua. Thậm chí, có những em còn làm cả mô hình chiếc xe tăng từ ống hút,...Mặc dù một số sản phẩm chưa được đồng đều, chưa đẹp mắt nhưng điều đó không quan trọng bằngviệc quá trình các em làm ra sản phẩm cũng là một sự cố gắng.Bản thân tôi luôntrân trọng những nỗ lực mà các em đã làm được. Thông qua cách làm này tôi nhận thấy học sinh rất hứng thú với hoạt động trải nghiệm và sáng tạo vì các em được bộc lộ những kiến thức, kĩ năng tổng hợp của một số môn học như Toán học, Khoa học, Kĩ thuật...hơn nữa còn giúp các em nuôi dưỡng những ước mơ trở thành những nhà khoa học trong tương lai. Với việc xây dựng lồng ghép giáo dục STEM vào các bài dạy một cách phù hợp với điều kiện thực tế của học sinh, bằng các vật liệu tái chế, dễ tìm, thân thiện với môi trường các em đã tạo ra được nhiều sản phẩm bằng chính đôi bàn tay khéo léo của mình. 3.2. Biện pháp 2:Hướng dẫn học sinh cách chuẩn bị, nghiên cứu bài học môn Khoa học khi thực hiện lồng ghép giáo dục STEM Sự chuẩn bị đồ dùng dạy học của giáo viên và chuẩn bị đồ dùng học tập, nghiên cứu bài học của học sinh đối với mỗi tiết học là vô cùng quan trọng, ảnh hưởng lớn đến sự thành công của tiết học đặc biệt là những tiết dạy có lồng ghép STEM.Vì vậy giáo viên cần dành nhiều thời gian cho sự chuẩn bị hoặc nghiên cứu kĩ bài học để giao cho học sinh chuẩn bị những kiến thức, đồ dùng cần cho tiết học. Để chuẩn bị cho bài học tiếp theo, tôi thường đặt ra cho HS các câu hỏi 8
- 9 và tình huống thực tế liên quan đến bài học mới mà các em chưa biết để khơi dậy sự tò mò và khám phá của học sinh.Sau đó, tôi đều yêu cầu các em về nhà đọc trước bàitrong sách giáo khoa; sưu tầm thêm tư liệu hoặc tranh ảnh liên quan đến nội dung bài học. Với những tiết thực hành làm sản phẩm STEM, tôi giao nhiệm vụ cho các em về nhà chuẩn bị các nguyên liệu, dụng cụ cần thiết, sau đó nghiên cứu để đưa ra những phương án chế tạo ra sản phẩm. Đầu buổi học, các em cùng bàn sẽ kiểm tra lẫn nhau về sự chuẩn bị của mình, sau đó báo cáo lại cho nhóm trưởng về sự chuẩn bịbài cũng như các tư liệu, tranh ảnh mà bạn cùng bàn với mình đã sưu tầm được. Đến đầu mỗi tiết học, các nhóm trưởng sẽ báo cáo lại cho giáo viên. Căn cứ vào đó, tôi sẽ tặng hoa thi đua cho các tổ, cuối tuần vào tiết sinh hoạt lớp sẽ tổng kết, tuyên dương những cá nhân, những tổ có ý thức học tập tốt, chuẩn bị bài chu đáo. Từ đó nâng cao ý thức tự học, tự chuẩn, nghiên cứu bị bài của học sinh. Việc chuẩn bị trước bài học của học sinh là rất quan trọng trong mọi loại hình giáo dục, đặc biệt là trong các tiết học lồng ghép STEM. Sau khi thực hiện biện pháp này, tôi thấy các tiết học đều có hiệu quả hơn hẳn. Việc chuẩn bị trước bài học giúp học sinh sẵn sàng tiếp thu kiến thức và tham gia vào các hoạt động thực hành. Các em đều tự tin hơn trong quá trình học tập và thực hành, thoải mái đóng góp ý kiến và tham gia vào các hoạt động học tập.Việc chuẩn bị trước bài học còn giúp học sinh phát triển khả năng tư duy và giải quyết vấn đề. Học sinh có thể dành thời gian để nghiên cứu và tìm hiểu về các sản phẩm liên quan đến bài học, từ đó giúp các em áp dụng kiến thức vào các hoạt động thực hành một cách dễ dàng, chính xác hơn. Ví dụ:Khi dạy bài 53:Cây con mọc lên từ hạt: Trước khoảng một tuần, tôi yêu cầu học sinh ươm hạt đậu xanh, đậu đen, lạc... vào bông ẩm hoặc cát ẩm khoảng 4 - 5 ngày và mang đến lớp. Mục đích của việc này là giúp các em quan sát, theo dõi quá trình phát triển của cây con từ hạt. Từ đó các em sẽ khắc sâu hơn về kiến thức trồng cây và nắm được các điều kiện nảy mầm của hạt. Hay với bài 54: Cây con mọc lên từ một số bộ phận của cây mẹ: Tôi cho học sinh sưu tầm tranh ảnh hoặc cây con mọc lên từ các bộ phận của cây mẹ rất gần gũi với đời sống của các em. Ví dụ những cây mọc ra từ thân cây mẹ như cây mía, cây sắn; cây con mọc lên từ củ như củ hành, củ tỏi,
- củ gừng, củ khoai, ....Việc làm này thật sự hiệu quả, bởi thay vì các em chỉ tìm hiểu kiến thức thông qua lý thuyết trong sách giáo khoa hay do giáo viên truyền đạt, tiết học trầm lắng, chỉ có một số em phát biểu xây dựng bài thì giờ đây với sự chuẩn bị về cả kiến thức lẫn đồ dùng học tập, tôi nhận thấy đa số học sinh tham gia các hoạt động học tập sôi nổi hơn, tiếp nhận thông tin bài học chủ động hơn, ghi nhớ nội dung bài nhanh hơn. Đồng thời thông qua cách tổ chức các hoạt động trong bài dạy của giáo viên, học sinh được lĩnh hội kiến thức, vận dụng vào thực tiễn cuộc sống một cách linh hoạt và hiệu quả. Ảnh: Học sinh quan sát cây con mọc lên từ một số bộ phận của cây mẹ 3.3. Biện pháp 3:Tổ chức các hoạt động trải nghiệm STEM cho học sinh Ngoài dạy các bài học lồng ghép giáo dục STEM trong buổi học chính khóa, tôi còn tổ chức cho học sinh tham gia hoạt động trải nghiệm STEM thông qua việc tổ chức “Ngày hội STEM”. Tôi tổ chức các không gian trải nghiệm STEM trong lớp học; tạo không gian cho các em trưng bày và giới thiệu một số sản phẩm mà mình đã làm được. Việc đầu tiên tôi bắt tay làm là tìm hiểu về hứng thú của các em khi tham gia hoạt động trải nghiệm STEM, các em có nhu cầu, mong muốn gì với những vật liệu dễ kiếm, điều gì các em chưa biết để xây dựng nên những mô hình hấp dẫn, thú vị, phù hợp và thoả mãn những nhu cầu của các em. Từ những thực tiễn 10
- 11 trên, bản thân tôi luôn suy nghĩ tìm tòi, nghiên cứu, tham khảo tài liệu để tìm ra những nội dung hoạt động ngoại khóa có ứng dụng phương pháp giáo dục STEM cho học sinh. Trước tiên tôi phải nghiên cứu chương trình, cập nhật thông tin từ chuyên đề, trên mạng Internet, tự bồi dưỡng chuyên môn, tìm hiểu một số kiến thức về STEM, về các hoạt động có thể áp dụng được phương pháp STEM. Từ đó, trên cơ sở những định hướng, gợi ý về nội dung, hình thức, phương pháp tổ chức học tập, tôi đã xây dựng kế hoạch nhằm thực hiện được hoạt động trải nghiệm.Thông qua các tiết học lồng ghép STEM, các em đã tạo ra những sản phẩm có chất lượng để tham gia trưng bày trong“Ngày hội STEM”. Trong ngày hội các em được tìm hiểu về các sản phẩm mình đã tạo ra như: quạt mini để tạo ra gió,khẩu trang để chống khói, bụi, dịch bệnh; bình lọc nước bằng than củi, cát; máy hút bụi mini, mô hình thuyền chạy bằng năng lượng nước, mô hình cối xay gió,…
- Ảnh: Học sinh tham gia “Ngày hội STEM” cấp lớp Hoạt động trải nghiệm STEM là biện pháp hữu hiệu khơi dậy niềm đam mê khoa học của học sinh. Ở đó, các em có cơ hội tham gia vào các hoạt động khoa học, khám phá các thí nghiệm, ứng dụng khoa học, kỹ thuật trong thực tiễn đời sống khác nhau. Hoạt động này dành cho những học sinh có năng lực, sở thích và hứng thú với các hoạt động tìm tòi, khám phá khoa học, kỹ thuật giải quyết các vấn đề thực tiễn; thông qua quá trình tổ chức dạy học các bài học STEM và hoạt động trải nghiệmSTEM phát hiện các học sinh có năng khiếu để bồi dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi học sinh tham gia nghiên cứu khoa học, kĩ thuật. 3.4. Biện pháp 4:Tạo hứng thú, khơi dậy niềm đam mê cho học sinh qua môn Khoa học gắn với giáo dục STEM Trong chương trình giáo dục tiểu học, muốn khuyến khích và nuôi dưỡng niềm đam mê khoa học cho học sinh, bên cạnh việc chia sẻ những tấm gương các nhà khoa học vĩ đại thì các hoạt động thực tế cũng đóng vai trò không kém phần quan trọng. Tôi thường gắn khoa học với cuộc sống thường ngày thông qua việc khuyến khích học sinh vận dụng những kiến thức đã học để tạo ra những sản phẩm thiết thực cho cuộc sống hàng ngày từ đơn giản đến phức 12
- 13 tạp.Học sinh thường sẽ cảm thấy hứng thú hơn khi môn học được áp dụng vào cuộc sống thực tế. Vì vậy, giáo viên có thể tạo ra các hoạt động thực tế, dự án nghiên cứu dựa trên các vấn đề xã hội, môi trường, khoa học công nghệ trong cuộc sống để giúp học sinh hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của môn Khoa học và giáo dục STEM. Thông qua hoạt động STEM sẽ giúp khơi dậy niềm đam mê khoa học của học sinh và khuyến khích các em dám nghĩ, dám làm, vận dụng khoa học vào đời sống thực tiễn với các hoạt động “ học mà chơi, chơi mà học.” Qua những tiết dạy lồng ghép STEM, từ những vật liệu dễ tìm, dễ kiếm, thân thiện với môi trường, học sinh được vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, tự mình trải nghiệm để tạo ra các sản phẩm bằng đôi bàn tay khéo léo, tư duy, óc sáng tạo và bước đầu tạo ra được các sản phẩm có tính thẩm mĩ cao. Qua đó dần dần hình thành ở các em tính năng động, mạnh dạn trước tập thể, tạo cho các em tinh thần hợp tác, chia sẻ trong các họat động nhóm ; bước đầu hình thành cho học sinh tập làm nhà khoa học trẻ; khơi dậy niềm đam mê, hứng thú trong học tập,khuyến khích các em dám nghĩ, dám làm, vận dụng khoa học vào đời sống thực tiễn với các hoạt động “ học mà chơi, chơi mà học”. Ví dụ: Khi dạy bài Lắp mạch điện đơn giản: Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu về vật dẫn điện, vật cách điện và nguyên lí hoạt động của một mạch điện, tôi sẽ tổ chức cho học sinh tham gia hoạt động tạo đồ vật, đồ chơi (đèn ngủ, quạt mini, máy hút bụi mini,...) có thể hoạt động được nhờ mạch điện đơn giản từ những nguyên liệu, đồ dùng mà các con đã chuẩn bị. Phát triển bốn kĩ năng dựa trên bốn thành tố của phương pháp STEM: Khoa học, kỹ thuật, công nghệ, toán học.
- Ảnh: Sản phẩm máy hút bụi mini học sinh làm được sau khi học xong bài Lắp mạch điện đơn giản Từ việc học sinh được vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống thông qua các hoạt động trải nghiệm, tự mình tạo ra các sản phẩm từ những vật dụng, thân thiện với môi trường, gần gũi với đời sống của các em, tôi nhận thấy các em rất sôi nổi, tích cực, tự tư duy, tìm tòi sáng tạo trong giờ học, tạo nên không khí thi đua nhau trong học tập.Qua đó cho thấy được sự thành công lớn của tiết dạy chỉ có được khigiáo viên tạo được hứng thú và niềm đam mê cho học sinh trong học tập, đồng thời với giải pháp tạo hứng thú, khơi dậy niềm đam mê cho học sinh qua môn Khoa học gắn với giáo dục STEM, học sinh được tìm hiểu kiến thức mới trong bài học, vận dụng vào thực hành, tạo ra các sản phẩm theo nội dung yêu cầu của từng bài học,đặt nền móng cho những phát minh khoa học trong tương lai. 4. Kết quả SKKN Qua những biện pháp tôi đã áp dụng ở trên khi dạy học môn Khoa học lồng ghép với giáo dục STEM trong một số tiết học, tôi nhận thấy học sinh lớp tôi đã có nhiều tiến bộ trong học tập. Trong tất cả các tiết học, các em rất hứng thú, chủ động trong việc nghiên cứu sách giáo khoa, các tài liệu học tập để tiếp nhận và vận dụng kiến thức thông qua các hoạt động. Việc học sinh tích cực, chủ động hơn trong việc lĩnh hội, tìm tòi kiến thức mới giúp các em tiếp thu kiến thức tốt hơn, ghi nhớ kiến thức sâu hơn. Các em tự mình tạo ra các sản phẩm theo nội 14
- 15 dung yêu cầu bài học một cách sáng tạo, đẹp và có tính thẩm mĩ.Sau gần một năm học, các kĩ năng mềm củahọc sinh cũng đã tiến bộ rõ rệt, có những em đứng trước đám đông trình bày rấttốt, còn đượccả lớp đặt biệt danh là “chuyên gia”. Khả năng thực hành của của các em sau khi được trải nghiệm học những tiết học lồng ghép STEM cũng tốthơn hẳn khi học theo hình thức truyền thống. Học sinhchủ động hơn trong mọi việc, khả năng tự làm việc cũng như hợp tác nhóm cũng tốt hơn.Đặc biệt là những em ham tìm tòi khám phá, các emkhông chỉ dừng lại ở những giờ học STEMmà cònthỏa sức sáng tạo làm ra các sản phẩm phục vụ chocuộc sống hàng ngày.Sau hơn một học kì, mức độ yêu thích môn Khoa học của học sinh lớp tôi đã thay đổi rõ rệt. Đa số các em thấy yêu thích khoa học hơn, việc lĩnh hội kiến thức khoa học không còn nặng nề mà trở nên hấp dẫn và bổ ích đối với các em. Chất lượng môn Khoa học thay đổi không chỉ thấy rõ ở những bài học áp dụng với phương phápdạy học gắn với giáo dục STEM nói riêng mà chất lượng môn Khoa học nói chung cũng có sự thay đổi tích cực. Bảng số liệu kết quả học tập môn Khoa học của học sinh lớp 5A5 (năm học 2022 - 2023) Thời Số HS Hoàn Hoàn Chưa hoàn thành điểm thành thành Giữa HKI 46 18 33,3% 36 66,7% 0 0 Cuối HKI 46 26 48,1% 28 51,9% 0 0 Giữa HKII 46 32 59,3% 22 40,7% 0 0
- PHẦN III. KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận Việc áp dụng lồng ghép STEM vào dạy học không phải là việc làm một sớm một chiều mà là cả một quá trình áp dụng, thay đổi phương pháp dạy học. Giáo viên không nên đòi hỏi ở các em quá nhiều mà cần nhìn nhận vào những cố gắng, nỗ lực ở các em. Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, thành công tuy nhỏ nhưng tôi ý thức được rằng để giúp các em học sinh học tốt môn Khoa học, đòi hỏi giáo viêndành nhiều thời gian, công sức nghiên cứu soạn giảng, có lòng nhiệt tình với học sinh và tâm huyết với nghề. Thầy cô giáo đã miệt mài, tận tụyxây dựng nội dung bài học phù hợp với từng đối tượng học sinh thì sẽ giúp các emphát triển tư duy, óc sáng tạo, tạo được hứng thú, niềm đam mê với môn Khoa học. Có thể nói, bước đầu thành công trong việc dạy lồng ghép giáo dục STEM trong mônKhoa học cho học sinh lớp 5 là nguồn động viên rất lớn cho tôi. Tôi sẽ đem kinh nghiệm này tiếp tục áp dụng để giảng dạy môn Khoa học ở các năm sau, với mong muốn lớn nhất của tôi là giúp học sinh nâng cao chất lượng môn Khoa học và khả năng ứng dụng kiến thức khoa học vào đời sống. Tuy nhiên những biện pháp mà tôi đã áp dụng trên, tuỳ đối tượng học sinh cũng cần có sự vận dụng một cách khéo léo, sáng tạo của giáo viên. Phương pháp giáo dục STEM còn khá mới mẻ và có nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau trong giảng dạy và học tập nên cần được sự quan tâm của toàn xã hội. Nhưng tôi tin rằng nếu chúng ta dốc hết tâm huyết, tận tụy với học sinh, soạn giảng nghiêm túc thì chắc chắn sẽ gặt hái được thành công. 2. Khuyến nghị: Để dạy học lồng ghép giáo dục STEM vào môn Khoa học ở lớp 5 đạt hiệu quả, tôi xin có vài đề nghị sau: 2.1. Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo Thanh Trì: - Thường xuyên tổ chức các chuyên đề dạy học về những phương pháp dạy học mới, trong đó có mô hình dạy học theo định hướng STEM để giáo viên có điều kiện học hỏi, trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ. 2.2. Đối với nhà trường: - Thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn, sinh hoạt chuyên môn về việc tổ chức các hoạt độnggiáo dục STEM trong từng khối lớp. - Khuyến khích và tạo điều kiện để đội ngũ giáo viên không ngừng học hỏi, đổi mới, nghiên cứu, tìm tòi các giải pháp hay ứng dụng vào giảng dạy. 16
- 17 2.3. Đối với giáo viên: - Mỗi giáo viên cần xác định vai trò chủ đạo của mình trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Trước mỗi bài dạy cần tìm hiểu kĩ nội dung bài học, sưu tầm tư liệu phục vụ cho bài giảng; lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinhđặc biệt là luôn linh hoạt và sáng tạo trong dạy học lồng ghép giáo dục STEM. - Luôn chủ động tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tìm tòi, sáng tạo trong giảng dạy để có những giải pháp hay được chia sẻ rộng rãi góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh. Trên đây, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số ý kiến nhằm giúp cho giáo viên và học sinh dạy - học khoa học theo định hướng giáo dục STEM. Tôi rất mong nhận được sự quan tâm góp ý của các cấp lãnh đạo và bạn bè đồng nghiệpđể tôi tiến bộ hơn và thêm kinh nghiệm giảng dạy. Tôi xin chân thành cảm ơn! Thanh Trì, ngày 12 tháng 4 năm 2023 Tôi xin cam đoan nội dung SKKN của bản thân, không sao chép của người khác. Nếu vi phạm tôi Người viết Nguyễn Thanh Hảo
- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.SGK Khoa học5 - Nhà xuất bản Giáo dục 2. SGV Khoa học 5 - Nhà xuất bản Giáo dục 3.Tài liệu Tập huấn triển khai thực hiện thí điểm giáo dục STEM theo chương trình GDPT 2018 - Sở GD và ĐT Hà Nội 4. Trang web: https://stemtieuhoc.edu.vn/ 5. Các tài liệu liên quan đến giáo dục STEM sưu tầm trên mạng internet.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Cách hướng dẫn giải toán tìm X ở bậc Tiểu học
30 p | 2235 | 370
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý sự thay đổi trường Tiểu học Krông Ana
18 p | 434 | 67
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
21 p | 215 | 30
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hiệu quả hoạt động trải nghiệm ở trường tiểu học
17 p | 187 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao hoạt động của thư viện trường học nhằm xây dựng thói quen đọc sách cho học sinh trường Tiểu học Ngọc Lâm
18 p | 163 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tập đọc
15 p | 148 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thiết kế một số trò chơi học tập trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1
17 p | 174 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 4 trong môn Tiếng Việt
49 p | 122 | 15
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh lớp 5
20 p | 167 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao chất lượng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng trong giải toán có lời văn
27 p | 126 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng học toán cho học sinh lớp 1A2, lớp 1a4, lớp 1A6 trường Tiểu học Thị Trấn
33 p | 163 | 10
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học Mỹ Thuỷ
12 p | 101 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Làm thế nào để đẩy mạnh hoạt động thư viện
23 p | 133 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp phát triển các bài hát nhằm mục đích gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học
17 p | 127 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Xây dựng đội ngũ, hoạt động phù hợp mang lại hiệu quả và thiết thực trong dạy và học ở Trường tiểu học An Lộc A
14 p | 55 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt bài thể dục phát triển chung
24 p | 188 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Giáo dục thể chất theo định hướng tích hợp các môn học nhằm phát huy năng lực học sinh tiểu học
23 p | 145 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1
27 p | 64 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn