intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Biện pháp để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập môn Ngữ văn lớp 9 ở trường THCS Buôn Trấp

Chia sẻ: Lê Thị Trà Giang | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:35

135
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài nhằm chia sẻ cùng các thầy cô giáo một số kinh nghiệm nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh thông qua việc vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy phân môn Đọc – Hiểu văn bản thuộc môn Ngữ văn cấp THCS, góp phần nâng cao chất lượng bộ môn, tạo niềm say mê, hứng thú cho các em trong học tập.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Biện pháp để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập môn Ngữ văn lớp 9 ở trường THCS Buôn Trấp

I. PHẦN MỞ ĐẦU<br /> I.1. Lý do chọn đề tài<br /> Ngữ văn là một môn học rất quan trọng trong hệ thống các môn học  ở cấp <br /> THCS. Mục tiêu của môn Ngữ  văn là sự  cụ thể hóa mục tiêu giáo dục nói chung, <br /> chú trọng dạy chữ, dạy người và hướng nghiệp. Cụ  thể, môn học Ngữ  văn nhấn  <br /> mạnh ba mục tiêu chính sau: Thứ nhât rang b<br /> ́ ị những kiến thức phổ thông, cơ bản,  <br /> hiện đại, có tính hệ thống về ngôn ngữ và văn học – trọng tâm là tiếng Việt và văn  <br /> học Việt Nam – phù hợp với trình độ  phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo <br /> nhân lực trong thời kỳ  công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thứ hai, hình <br /> thành và phát triển ở học sinh các năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp nhận văn bản, <br /> cảm thụ thẩm mỹ, phương pháp học tập tư duy, đặc biệt là phương pháp tự  học,  <br /> năng lực ứng dụng những điều đã học vào cuộc sống. Thứ ba, bồi dưỡng cho học  <br /> sinh tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa, tình yêu gia đình, thiên nhiên, đất nước,  <br /> lòng tự  hào dân tộc, ý chí tự  lập, tự  cường, lý tưởng xã hội chủ  nghĩa, tinh thần <br /> dân chủ nhân văn, giáo dục cho học sinh trách nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị <br /> hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng và phát huy các giá trị  văn hóa của dân tộc và <br /> nhân loại”. Viêc day hoc môn Ng<br /> ̣ ̣ ̣ ữ Ngữ văn con la giup cho hoc sinh co đ<br /> ̀ ̀ ́ ̣ ́ ược  <br /> nhưng nh<br /> ̃ ưng ky năng giao tiêp, s<br /> ̃ ̃ ́ ự  tự  tin trinh bay tr<br /> ̀ ̀ ươc đông ng<br /> ́ ười; giup cac em<br /> ́ ́  <br /> ́ ̉ ̃ ưng vang, dam bay to y kiên, suy nghi cua minh. Do vây, viêc nâng cao<br /> co ban linh v ̃ ̀ ́ ̀ ̉ ́ ́ ̃ ̉ ̀ ̣ ̣  <br /> ́ ượng day hoc môn Ng<br /> chât l ̣ ̣ ữ văn la vô cung quan trong.<br /> ̀ ̀ ̣<br /> ̣ ̣ ̣<br />   Tuy vây, trong viêc hoc môn Ng ữ văn hiên nay noi chung, nhi<br /> ̣ ́ ều em rất rụt  <br /> rè trong giao tiếp, không dám bày tỏ ý kiến, suy nghĩ … của mình trước lớp, thiếu  <br /> chủ  động, tích cực trong việc tiếp thu kiến thức bài học. Chât l ́ ượng hoc tâp <br /> ̣ ̣ ở  <br /> nhưng l<br /> ̃ ơp đai tra ch<br /> ́ ̣ ̀ ưa được như  mong muôn. V́ ậy làm thế  nào để  phát huy tính  <br /> tích cực chủ động của học sinh trong học tập là câu hỏi mà các thầy cô giáo trong  <br /> đó có bản thân chúng tôi luôn trăn trở và tìm hướng trả lời.<br /> Xuất phát từ nhu cầu và mong muốn của bản thân chung tôi trong quá trình<br /> ́  <br /> dạy học là nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn trong chương trình dạy học <br /> môn Ngữ văn lớp 9 ở trường phổ thông, do đó chung tôi l<br /> ́ ựa chọn nghiên cứu đề tài <br /> ̣ ́  để  phát huy tính tích cực, chủ  động của học sinh trong học tập  <br /> "Biên phap<br /> môn Ngư văn l<br /> ̃ ơp 9 <br /> ́ ở trương THCS Buôn Trâp<br /> ̀ ́ ".<br /> I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài<br /> a. Mục tiêu của đề tài<br /> 1<br /> Chia sẻ  cùng các thầy cô giáo một số  kinh nghiệm nhằm phát huy tính tích <br /> cực, chủ  động của học sinh thông qua việc vận dụng phương pháp dạy học tích <br /> cực trong giảng dạy phân môn Đoc – Hiêu văn ban thuôc môn Ng<br /> ̣ ̉ ̉ ̣ ữ văn cấp THCS, <br /> góp phần nâng cao chất lượng bộ  môn, tạo niềm say mê, hứng thú cho các em  <br /> trong học tập.<br /> b. Nhiệm vụ của đề tài<br /> Trình bày cụ thể những việc cần làm và làm như  thế nào để  tạo điều kiện <br /> cho học sinh phát triển tư duy sáng tạo, phát huy tính chủ động, tích cực trong học <br /> tập.<br /> I.3. Đối tượng nghiên cứu<br /> Từ thực tế  việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh trường THCS  <br /> Buôn Trấp. Đặc biệt là việc dạy và học môn Ngữ văn ở  hoc sinh l<br /> ̣ ơp 9, chung tôi<br /> ́ ́  <br /> tiên hanh nghiên c<br /> ́ ̀ ưu nh<br /> ́ ưng biên phap day hoc tich, viêc ap dung biên phap day hoc<br /> ̃ ̣ ́ ̣ ̣ ́ ̣ ́ ̣ ̣ ́ ̣ ̣  <br /> ̣ ́ ́ ực chu đông cua hoc sinh.<br /> nay trong viêc phat huy tinh tich c<br /> ̀ ́ ̉ ̣ ̉ ̣<br /> I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu<br /> Phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy phân Đoc – Hiêu văn ban cua<br /> ̀ ̣ ̉ ̉ ̉  <br /> môn Ngữ văn lơp 9.<br /> ́<br /> I.5. Phương pháp nghiên cứu<br /> ­ Phương pháp nghiên cứu tài liệu: các tài liệu viết về các phương pháp dạy  <br /> học tích cực, giáo án Ngữ văn của giáo viên.<br /> ­ Phương pháp điều tra thực tế: thông qua thực tế giảng dạy và các tiết dự <br /> giờ của đồng nghiệp.<br /> ­ Phương pháp thu thập thông tin: thu thập thông tin từ đồng nghiệp, từ học  <br /> sinh.<br /> ­ Phương pháp xử  lý thông tin thông qua đối chiếu, so sánh, phân tích, tổng <br /> hợp.<br /> II. PHẦN NỘI DUNG<br /> 1. Cơ sở lí luận<br /> Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến giáo dục nói <br /> chung và vấn đề  đổi mới PPDH trong trường trung học nói riêng. Vấn đề  này đã <br /> được đề  cập nhiều lần trong các văn kiện Đại hội Đảng, trong Luật Giáo dục. <br /> Đặc biệt, trong thông báo kết luận của Bộ  Chính trị  về  tiếp tục thực hiện Nghị <br /> <br /> 2<br /> quyết Trung ương 2 (khóa VIII), phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến  <br /> năm 2020 đã chỉ  rõ  “ Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học, khắc phục cơ  <br /> bản lối truyền thụ  một chiều. Phát huy PPDH tích cực, sáng tạo, hợp tác, giảm  <br /> thời gian giảng lý thuyết, tăng thời gian tự  học, tự  tìm hiểu cho học sinh, giáo  <br /> viên; gắn bó chặt chẽ giữa học lý thuyết và thực hành, đào tạo gắn với nghiên cứu  <br /> khoa học, sản xuất và đời sống”.<br /> Thực tế  cho thấy: hoạt động đổi mới PPDH chỉ  có thể  thành công khi giáo  <br /> viên có động lực hành động và chuyển hóa được từ ý chí trở thành tình cảm và tinh <br /> thần trách nhiệm đối với học sinh, đối với nghề dạy học.<br /> Các chuyên đề  về  đổi mới PPDH được đưa ra tập huấn luôn là cơ  sở  cho  <br /> giáo viên nghiên cứu, vận dụng một cách chủ động, tích cực, sáng tạo phù hợp với <br /> đặc trưng bộ môn, phù hợp với yêu cầu của từng bài học, giúp học sinh phát triển  <br /> và rèn luyện các kỹ năng cần thiết như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xử lý thông tin,  <br /> giải quyết các tình huống, kỹ năng thực hành …<br /> 2. Thực trạng<br /> 1.2. Thuận lợi, khó khăn<br /> a) Thuận lợi:<br /> ­ Phòng Giáo dục và Đào tạo, Ban giám hiệu nhà trường rất tích cực trong  <br /> việc chỉ đạo đổi mới PPDH.<br /> ­ Trường THCS Buôn Trấp có 13 giáo viên được đào tạo chuyên ngành Ngữ <br /> văn (trong đó có 11 giáo viên đứng lớp và 02 cán bộ quản lý), được biên chế thành <br /> một tổ chuyên môn nên dễ có điều kiện trao đổi, học hỏi nhau về kiến thức cũng  <br /> như kinh nghiệm giảng dạy bộ môn.<br /> ­ Sinh hoạt của tổ chuyên môn đã dần đi vào chiều sâu và đạt hiệu cao (tổ <br /> đã giành nhiều thời gian cho việc bàn bạc, thảo luận cách dạy các bài (nội dung) <br /> dài, khó …), năng lực chuyên môn của giáo viên ngày càng được khẳng định. <br /> ­ Công nghệ  thông tin phát triển cùng với sự bùng nổ  của Internet nên việc  <br /> tìm hiểu, khai thác thông tin về  lĩnh vực bộ  môn, phân môn, bài dạy trên mạng  <br /> ngày càng dễ dàng và thuận lợi.<br /> ­ Giáo viên thường xuyên được tập huấn hoặc tiếp thu chuyên đề  về  đổi <br /> mới PPDH nói chung và đổi mới PPDH đối với môn Ngữ văn nói riêng. Đa số giáo  <br /> viên đã chủ động vận dụng khá hiệu quả các PPDH tích cực vào quá trình lên lớp.<br /> <br /> 3<br /> b) Khó khăn: <br /> ­ Thói quen sử dụng PPDH truyền thống ở một số giáo viên còn nặng nề.<br /> ­ Một số bài học, tiết học, nội dung kiến thức còn nặng so với thời gian quy  <br /> định tại PPCT.<br /> ­ Cơ sở vật chất chưa thực sự đáp ứng yêu cầu dạy và học.<br /> ­ Một số  học sinh chưa thật hứng thú với môn học, còn có thói quen  ỉ  lại,  <br /> dựa dẫm vào bạn; thiếu mạnh dạn, chủ động, tích cực, sáng tạo trong học tập.<br /> 2.2. Thành công, hạn chế<br /> a) Thành công: <br /> Thông qua đàm thoại, sự quan tâm hướng dẫn của giáo viên, kỹ năng nói của  <br /> học sinh đã được nâng lên rõ rệt, học sinh tự tin và mạnh dạn hơn trong giao tiếp;  <br /> tích cực, chủ động hơn trong học tập. Một số học sinh yếu trong lớp đã chủ động  <br /> giơ  tay phát biểu, bày tỏ  ý kiến, quan điểm của mình trước thầy cô và các bạn <br /> trong lớp.<br /> b) Hạn chế: <br /> ­ Khó kiểm soát quá trình học tập của học sinh (có nhiều tình huống bất ngờ <br /> nảy sinh từ  câu trả  lời của học sinh), nếu giáo viên không chú ý, giờ  học dễ  bị <br /> chệch hướng.<br /> ­ Giáo viên cần phải có sự chuẩn bị công phu, mất nhiều thời gian.<br /> 2.3. Mặt mạnh, mặt yếu<br /> a) Mặt mạnh: Có thể  áp dụng cho nhiều cấp học, lớp học với nhiều đối  <br /> tượng học sinh.<br /> Đây là PPDH tích cực đã được nhiều giáo viên áp dụng thành công.<br /> b) Mặt yếu: Giờ học sẽ bị nhàm chán nếu giáo viên không biết kết hợp các  <br /> phương pháp, hình thức tổ chức dạy học một cách hợp lý.<br /> 2.4 Các nguyên nhân, các yếu tố tác động<br /> a) Nguyên nhân thành công:<br /> ­ Phòng Giáo dục và Đào tạo, Ban giám hiệu nhà trường rất tích cực trong  <br /> việc chỉ đạo đổi mới PPDH.<br /> ­ Bản thân chúng tôi được tham gia nhiều đợt tập huấn về đổi mới PPDH do <br /> <br /> <br /> 4<br /> ngành tổ  chức, đã từng tham gia giảng dạy  ở  các khối lớp, được làm quen với <br /> nhiều đối tượng học sinh, được nghe rất nhiều tâm sự từ phía CMHS, học sinh …  <br /> về bộ môn. <br /> ­ Đề  tài này đã được áp dụng trong nhiều năm học nên trong quá trình vận  <br /> dụng đã có sự  ghi nhận, đúc rút kinh nghiệm và điều chỉnh cho phù hợp với học  <br /> sinh.<br /> ­ Có sự cộng lực của các giáo viên dạy Ngữ văn tại trường.<br /> b) Nguyên nhân hạn chế:<br /> ­ Thời gian đầu tư  cho bài soạn còn hạn chế  (do quá nhiều công việc cùng <br /> phải làm trong cùng một thời điểm).<br /> ­ Sử dụng phương pháp này rất cần đến nghệ thuật giao tiếp của giáo viên.<br /> ­ Một số  học sinh chưa thực sự  cố  gắng trong học tập, thiếu m ạnh d ạn  <br /> trong<br /> giao tiếp, nhiều khi tỏ  ra e dè, không tự  tin, ít đầu tư  thời gian cho việc chuẩn bị <br /> bài ở nhà.<br /> 2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề thực trạng mà đề tài đã đặt ra.<br /> Thực tế giảng dạy cho chúng ta thấy: trong một lớp học đại trà, số học sinh <br /> học khá, giỏi môn Ngữ  văn, tích cực tham gia vào các hoạt động học tập còn <br /> chiếm tỷ  lệ  rất khiêm tốn. Bên cạnh đó, còn nhiều học sinh thiếu cố  gắng trong  <br /> học tập, thụ  động trong việc tiếp thu kiến thức, hạn chế  về  khả năng diễn đạt, <br /> thậm chí có những học sinh thuộc vào diện “hết thuốc chữa”, giáo viên đành cho <br /> “ngủ  yên” để  khỏi  ảnh hưởng lớp.  Phương  pháp tổ  chức hoạt động học tập  <br /> của học sinh theo hướng học sinh – đối tượng của hoạt động “dạy” trở thành  <br /> chủ  thể của hoạt động “học  là một PPDH tích cực – “phương thuốc” khá hữu <br /> hiệu nhằm kích thích tư duy độc lập của học sinh, dạy học sinh cách tự  suy nghĩ, <br /> lôi cuốn học sinh tham gia vào bài học, làm cho không khí lớp học sôi nổi, sinh <br /> động, kích thích hứng thú học tập, lòng tự tin của các em, rèn cho các em năng lực <br /> diễn đạt, mạnh dạn bày tỏ sự hiểu biết của mình, biết chú ý lắng nghe và hiểu ý <br /> diễn đạt của người khác. Tạo môi trường học tập thân thiện để  học sinh có điều <br /> kiện giúp đỡ  lẫn nhau. Học sinh kém có điều kiện học tập các bạn trong nhóm, <br /> cùng các bạn trong nhóm hoàn thành nhiệm vụ  được giao. Thông qua đàm thoại, <br /> dạy học tích cực, giáo viên sẽ  nhanh chóng thu thập được thông tin phản hồi từ <br /> phía người học, duy trì và kiểm soát được hành vi của học sinh. Học sinh sẽ  có <br /> 5<br /> được niềm vui khi mình được trực tiếp tham gia khám phá, tìm hiểu và nắm bắt <br /> kiến thức mới thông qua sự hướng dẫn của thầy cô giáo.<br /> 3. Giải pháp, biện pháp <br /> 3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp<br /> Giúp các thầy cô giáo cùng dạy môn Ngữ văn hiểu rõ hơn về mục đích của<br /> việc dạy học tích cực;  có thêm kinh nghiệm trong việc thiết kế hệ thống câu hỏi <br /> và đặt câu hỏi cũng như tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tính tích cực,  <br /> chủ  động của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng bộ môn, tạo niềm say mê, <br /> hứng thú cho các em trong học tập.<br /> 3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp<br /> Từ y th<br /> ́ ưc vê tâm quan trong cua viêc phat huy tinh tich c<br /> ́ ̀ ̀ ̣ ̉ ̣ ́ ́ ́ ực chu đông cua hoc<br /> ̉ ̣ ̉ ̣  <br /> sinh trong học tập va t<br /> ̀ ừ thực trang cua viêc day hoc môn Ng<br /> ̣ ̉ ̣ ̣ ̣ ữ văn lớp 9 ở  trương<br /> ̀  <br /> THCS THCS Buôn Trâp, nh ́ ưng năm qua chung tôi đa cô găng tim toi, vân dung<br /> ̃ ́ ̃ ́ ́ ̀ ̀ ̣ ̣  <br /> Biên phap <br /> ̣ ́ để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập môn  <br /> Ngư văn <br /> ̃ ̀ ươc đâu đa thây hiêu qua. Cung tôi xin trinh bay cach nôi dung va cach<br /> va b ́ ̀ ̃ ́ ̣ ̉ ́ ̀ ̀ ́ ̣ ̀ ́  <br /> thưc th<br /> ́ ực hiên giai phap, biên phap nh<br /> ̣ ̉ ́ ̣ ́ ư sau:<br /> 1. Biện pháp tổ  chức hoạt động học tập của học sinh theo hướng học  <br /> sinh  –  đối  tượng  của  hoạt  động “dạy”  trở  thành chủ  thể   của  hoạt  động  <br /> “học”. <br />     ­ Trước hết, cần đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy và học. Giáo viên phải  <br /> chú trọng đến phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Trong đó học sinh  <br /> dưới sự  tổ  chức, gợi mở, dẫn dắt của giáo viên tự  mình chiếm lĩnh tác phẩm, tự <br /> rút ra những kết luận, những bài học cần thiết cho mình với sự chủ động tối đa.<br /> Theo chúng tôi, trong giờ  dạy văn bản, giáo viên cần tổ  chức, dẫn dắt cho  <br /> học sinh theo bốn cấp độ sau đây:<br /> Thứ nhất, giúp học sinh tri giác, cảm thụ văn bản, hiểu ngôn ngữ, tình tiết, <br /> cốt truyện, thể  loại... để  có thể  cảm nhận được hình tượng nghệ  thuật trong sự <br /> toàn vẹn của các chi tiết, các liên hệ.<br /> Thứ  hai, giúp học sinh tiếp xúc với ý đồ  sáng tạo của nghệ  sĩ, thâm nhập <br /> vào hệ thống hình tượng như là sự kết tinh sâu sắc của tư tưởng, tình cảm tác giả.<br /> Thứ ba, giúp học sinh đưa hình tượng nghệ thuật vào văn cảnh đời sống và <br /> kinh nghiệm sống của mình để thể nghiệm, đồng cảm.<br /> 6<br /> Thứ  tư, giúp học sinh nâng cấp lý giải tác phẩm lên cấp quan niệm và tính <br /> hệ thống, hiểu được vị trí của tác phẩm trong lịch sử văn hóa, tư tưởng, đời sống <br /> và truyền thống nghệ thuật.<br />      Có như  vậy, học sinh mới thấy hứng thú và cảm thấy mình cũng là người  <br /> “đồng sáng tạo” với tác giả, như quan điểm của mỹ học tiếp nhận. <br /> Ví dụ: Khi dạy văn bản Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long, giáo viên <br /> phải giúp học sinh tri giác, cảm thụ  được: văn bản Lặng lẽ  Sa Pa có cốt truyện <br /> rất đơn giản, xoay quanh một cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa ông họa sĩ già, cô kĩ sư <br /> trẻ và anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn thuộc Sa Pa. Nhân <br /> vật Chính – anh thanh niên – chỉ xuất hiện trong chốc lát nhưng đã để  lại cho các  <br /> nhân vật khác và đọc giả  những tình cảm tốt đẹp. Nhân vật anh thanh niên trở <br /> thành một hình tượng nghệ thuật kết tinh sâu sắc tư tưởng, tình cảm của nhà văn. <br /> Hình  ảnh anh thanh niên đã và đang là tấm gương sáng về  tinh thần lao động, về <br /> suy nghĩ và lối sống cao đẹp để thế  hệ trẻ mọi thời đại noi theo.<br />        ­ Với những yêu cầu cao trong công việc đổi mới phương pháp, người giáo  <br /> viên phải nâng cao trình độ  và bản lĩnh. Truyền thụ tri thức, rèn luyện kĩ năng đã <br /> khó, hướng dẫn cách cảm thụ, lối tư duy cho học sinh còn khó bội phần. Sự  cập <br /> nhật tri thức phải luôn đi đôi với nâng cao trình độ sư phạm. Một khi đã quán triệt <br /> tinh thần coi học sinh là chủ thể tiếp nhận, tất yếu giáo viên sẽ phải đối diện với  <br /> sự đa dạng, phức tạp trong tư duy, trong cách phát ngôn của các em. <br />  2. Biện pháp tổ chức hoạt động tự học của học sinh: rèn luyện cho học  <br /> sinh có được phương pháp, kĩ năng: đọc, tóm tắt, phân tích tác phẩm, viết  <br /> bài…<br /> ­ Dựa vào các mục biên soạn trong SGK để  hướng dẫn học sinh chuẩn bị  <br /> bài  Với người dạy và người học hiện nay  ở  nước ta, SGK là công cụ  có tính <br /> chất pháp lí. Nội dung kiểm tra, thi cử  bắt đầu và xuất phát từ  chương trình và  <br /> Sách giáo khoa. Nói cách khác dạy và học không thể thoát li chương trình và Sách <br /> giáo khoa. Phần Đọc văn trong SGK ở chương trình THCS hiện nay thường được <br /> biên soạn theo một cấu trúc cố  định với những mục rõ ràng, với trình tự  gồm các  <br /> mục: Tên bài – Kết quả cần đạt – Tên văn bản – Chú thích  – Đọc – Hiểu văn bản  <br /> – Ghi nhớ­ Luyên tập. Để chuẩn bị bài, nhất thiết học sinh phải có trong tay quyển  <br /> SGK và tự làm việc với sách theo hướng dẫn của thầy cô giáo. Trang bị SGK đầy <br /> đủ, học sinh thường xuyên đọc sách, bám sát tất cả  các mục  ở  trong SGK, mỗi  <br /> 7<br /> mục có một vai trò cụ thể. Đặc biệt, HS phải chú trọng đến mục Đọc – hiểu văn <br /> bản sau mỗi văn bản. Đây là mục quan trọng có tác dụng định hướng tìm hiểu văn  <br /> bản cho cả người học và người dạy. Ở mục hướng dẫn học bài này có nhiều câu <br /> hỏi được sắp xếp theo hệ  thống. Dựa vào hệ  thống câu hỏi này để  giáo viên  <br /> hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài một cách phù hợp, thiết thực và có hiệu quả. Bắt  <br /> đầu từ SGK là một định hướng khoa học trong việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị <br /> bài cho giờ Đọc văn. Chăng han<br /> ̉ ̣<br /> ­ Gắn với từng bài học cụ  thể  phù hợp với đặc trưng thể  loại để  hướng  <br /> dẫn học sinh chuẩn bị bài. <br /> Mỗi bài học, mỗi văn bản được phân bố  với một số  lượng thời gian nhất  <br /> định trong bảng phân phối chương trình. Vì thế, giáo viên nhất thiết phải gắn với  <br /> từng bài học, từng văn bản với số  tiết quy định cụ  thể  để  hướng dẫn học sinh  <br /> cách thức nội dung, mức độ soạn bài phù hợp. Chẳng hạn với những bài học trong <br /> một tiết thì có cách hướng dẫn chuẩn bị bài gọn, nhẹ hơn so với bài hai tiết. Giáo <br /> viên cũng cần phải xem xét đặc điểm, tính chất của từng văn bản cụ  thể  để  yêu <br /> cầu học sinh chuẩn bị: Thơ  khác với văn xuôi. Mặt khác, hiện nay định hướng  <br /> giảng dạy phần Văn theo phương pháp mới đặc biệt chú trọng yêu cầu tích hợp và <br /> đặc trưng thể loại. Xuất phát từ yêu cầu tích hợp cũng như ý thức về việc bám sát  <br /> đặc trưng thể  loại là định hướng đúng đắn cung cấp tri thức đọc hiểu cho học <br /> sinh, mà trước hết là  ở  khâu giúp các em chuẩn bị  tốt bài  ở  nhà. Chẳng hạn khi  <br /> dạy văn bản  Chuân bi hanh trang vao thê ky m<br /> ̉ ̣ ̀ ̀ ́ ̉ ới  (Ngữ  văn  9)   giáo viên phải <br /> hướng dẫn cho các em nắm vững đặc trưng của văn nghị luận để học sinh dễ tiếp  <br /> xúc với văn bản. Bên cạnh đó khi dạy giáo viên nhất thiết phải tích hợp với hoan ̀ <br /> ̉ ́ ươc va ban chât cua con ng<br /> canh đât n ́ ̀ ̉ ́ ̉ ươi Viêt Nam<br /> ̀ ̣  để làm rõ nhưng măt manh, măt<br /> ̃ ̣ ̣ ̣ <br /> ́ ̉<br /> yêu cua con ng ươi Viêt Nam<br /> ̀ ̣  ta. Từ đó giao duc<br /> ́ ̣  cho thế hệ trẻ biêt cân phai lam gi<br /> ́ ̀ ̉ ̀ ̀ <br /> ̉ ́<br /> đê gop phân xây đât n<br /> ̀ ́ ước.<br /> ­  Giáo viên nắm chắc ý đồ của người soạn SGK ở phần hướng dẫn học bài  <br /> sau mỗi văn bản.<br /> Ở  mỗi văn bản, mỗi bài học cụ  thể  có những mục đích khác nhau. Trong <br /> Sách giáo khoa Ngữ văn sau tên mỗi văn bản là mục kết quả cần đạt. Đây là phạm  <br /> vi kiến thức trọng tâm bài học mà học sinh cần nắm được. Để  đạt được kết quả <br /> đó người soạn sách đã có những định hướng đọc­ hiểu cho cả người dạy và người <br /> học ở mục hướng dẫn học bài. Để tổ chức cho học sinh đọc hiểu văn bản sát hợp,  <br /> <br /> 8<br /> một yêu cầu vô cùng quan trọng là giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh chuẩn  <br /> bị  bài  ở  nhà đúng trọng tâm như  yêu cầu  ở  mục kết quả  cần đạt. Ví dụ, khi học <br /> đoạn trích Kiều  ở  lầu Ngưng Bích, để  học sinh hiểu và cảm nhận sâu sắc tâm <br /> trạng buồn ­ nhớ, lo lắng, đau khổ của Thúy Kiều, giáo viên yêu cầu học sinh khi <br /> soạn bài cần đọc kĩ đoạn thơ nói về nỗi nhớ về người thân; đoạn thơ  nói về tâm  <br /> trạng buồn, lo lắng, đau khổ  của Thúy Kiều khi  ở  lầu Ngưng Bích. Hiểu được <br /> mục đích của người soạn Sách giáo khoa ở phần hướng dẫn học bài sau mỗi văn <br /> bản sẽ giúp giáo viên xác định phương pháp dạy học phù hợp từng bài học cụ thể.  <br /> Chẳng hạn, với mục đích đồng sáng tạo ở bạn đọc, trong phần hướng dẫn học bài <br /> của văn bản Chuyện người con gái Nam Xương, sách giáo khoa Ngữ  văn 9 có <br /> nêu câu hỏi: <br />     Vì sao Vũ Nương phải chịu nỗi oan khuất?( Nỗi oan khuất của Vũ Nương  <br /> có nhiều nguyên nhân: Do cuộc hôn nhân giữa TS và VN có phần không bình  <br /> đẳng; Do trương sinh đa nghi, hồ  đồ, độc đoán dẫn đến cái chết oan nghiệt  <br /> của VN) <br />   Từ  đó em cảm nhận được điều gì về  thân phận của người phụ nữ dưới chế độ  <br /> phong kiến?( Người phụ  nữ  đức hạnh trong xã hội cũ không được bênh vực,  <br /> che chở, họ luôn bị đối xử  bất công và chịu nhiều oan trái) Từ  câu hỏi hướng <br /> dẫn này, giáo viên  có thể  lồng phương pháp vấn đáp, đàm thoại bên cạnh các <br /> phương pháp khác. Tất nhiên để  đàm thoại được  ở  trên lớp thì giáo viên phải <br /> hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài trước ở nhà... <br /> ­ Hướng dẫn học sinh đọc Sách giáo khoa và trả lời câu hỏi trong Sách giáo  <br /> khoa. <br /> Để  giúp học sinh có sự  chuẩn bị hiệu quả trước khi bước vào giờ  học văn <br /> bản, giáo viên cần có những định hướng cho học sinh trong các hoạt động tiếp xúc <br /> với Sách giáo khoa, tập cho các em biết gia công tìm tòi, sáng tạo trong quá trình  <br /> lĩnh hội tri thức. Hướng dẫn học sinh soạn bài ở nhà trước hết và quan trọng nhất  <br /> vẫn là yêu cầu các em trả  lời các câu hỏi  ở  phần Hướng dẫn học bài. Việc đọc  <br /> Sách giáo khoa như đã nói trên trước hết là để  trả  lời được các câu hỏi này. Tuy <br /> vậy, muốn công việc này của các em đạt hiệu quả đòi hỏi giáo viên phải có những <br /> cách thức, biện pháp phù hợp. Giáo viên vừa yêu cầu vừa khuyến khích, động viên <br /> các em tự trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn theo cách hiểu của mình, tránh  <br /> viêc ghi lại, chép lại theo sách giải một cách đối phó, thụ  động. Trong quá trình  <br /> 9<br /> soạn bài chỗ  nào các em chưa hiểu hay còn thắc mắc, giáo viên yêu cầu các em  <br /> chú ý ghi lại hoặc gạch chân, đánh dấu để có thể trao đổi trong quá trình đọc hiểu  <br /> văn bản trên lớp. Một điều nữa không kém phần quan trọng là khi hướng dẫn học  <br /> sinh trả  lời các câu hỏi trong Sách giáo khoa, giáo viên cần hướng các em vào <br /> những ý trọng tâm, câu hỏi trọng tâm, điều này rất có ích cho việc đọc hiểu văn <br /> bản ở trên lớp. Muốn làm được điều này giáo viên phải có đầu tư  suy nghĩ trước  <br /> một bước. Và như  vậy, việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở  nhà sẽ  mang lại <br /> hiệu quả hơn. Chẳng hạn khi soạn bài Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải) giáo viên <br /> yêu cầu các em chú ý và trả lời kỹ những vấn đề sau:  Cảm xúc của tác giả trước  <br /> vẻ đẹp và sức sống về mùa xuân của thiên nhiên và mùa xuân của đất nước như  <br /> thế  nào? Đoạn thơ  “Ta làm con chim hót…Dù là khi tóc bạc” gợi cho em những  <br /> cảm nghĩ gì về ý nghĩa cuộc sống của mỗi con người? (Với câu hỏi 1 giáo viên đã  <br /> giúp học sinh tìm hiểu nội dung đoạn thơ  1 và 2 của bài thơ, câu hỏi 2 giúp  <br /> học sinh tìm hiểu nội dung khổ  thơ  thứ  3 trong bài; Nếu học sinh về  nhà  <br /> chuẩn bị tốt theo các câu hỏi mà giáo viên đã cho khi lên lớp các em sẽ tiếp thu  <br /> bài rất nhanh)<br />      Như vậy, việc hướng dẫn học sinh đọc Sách giáo khoa và trả lời câu hỏi là <br /> việc làm vô cùng quan trọng, bởi đây là một bước chuẩn bị  trước làm cơ  sở  cho  <br /> việc đọc tác phẩm trên lớp. Nếu giáo viên làm tốt bước này thì khâu lên lớp sẽ <br /> nhẹ nhàng hơn, giờ học sôi nổi hơn và tất nhiên hiệu quả giờ học sẽ cao hơn. <br /> ­ Hướng dẫn học sinh lập dàn ý khái quát sơ đồ tư duy cho bài học. <br /> Từ những hiểu biết của bản thân, học sinh tự lập thành sơ đồ, thành những <br /> dàn ý theo suy nghĩ của mình. Điều  ấy có nghĩa rằng sau khi đọc phân tích, học <br /> sinh cần phải tổng hợp, tái tạo lại cấu trúc của bài học. Ghi chép tóm tắt những gì  <br /> và như  thế  nào là phụ  thuộc vào hiểu biết và kinh nghiệm của từng người. Điều <br /> quan trọng là người học phải tự mình nêu lại được các thông tin quan trọng đã tiếp  <br /> nhận bằng từ ngữ riêng theo cách của mình. <br /> ­ Tổ chức phân công từng vấn đề cụ thể cho từng nhóm học sinh. <br /> Sau khi kết thúc một giờ học công việc thường thấy từ trước tới nay là giáo<br /> viên dặn dò học sinh về  nhà học bài và chuẩn bị  bài mới cho giờ  học tiếp theo.  <br /> Đây thường là việc làm lấy lệ  máy móc, qua loa, làm cho xong. Vì thế  tính hiệu  <br /> quả thấp. Kinh nghiệm cho thấy đối với học sinh THCS giao việc càng cụ thể thì <br /> 10<br /> tính hiệu quả càng cao. Vì vậy, tổ  chức phân công vấn đề  cho học sinh chuẩn bị <br /> trước là bước đệm rất quan trọng cho bài học mới đạt kết quả. Để  việc làm này  <br /> có chất lượng giáo viên phải thực hiện những bước sau: <br /> + Chuẩn bị trước các vấn đề. <br /> + Chia nhóm.<br /> +  Phân công vấn đề cụ thể cho từng nhóm. <br /> Chẳng hạn khi dạy văn bản “Đồng chí” (Ngữ văn 9) của Chính Hữu ngoài <br /> việc học sinh chuẩn bài theo phần hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa, giáo <br /> viên có thể  chuẩn bị  trước các vấn đề  sau để  giao cho học sinh và yêu cầu mỗi  <br /> nhóm phải chuẩn bị kĩ phần việc của nhóm mình. Giáo viên chia lớp làm ba nhóm <br /> mỗi nhóm phải có nhóm trưởng, nhóm phó để đôn đốc các thành viên và chịu trách  <br /> nhiệm chung cho cả nhóm. Phần việc giao cho mỗi nhóm như sau:  Nhận xét về cơ  <br /> sở  của tình đồng chí.  (Nhóm 1)  Tìm những hiện biểu hiện của tình đồng chí.  <br /> (Nhóm 2)   Tình đồng chí có những vẻ  đẹp  tiêu biểu nào?(Nhóm 3). Khi đã phân <br /> công học sinh về nhà chuẩn bị như trên thì khi lên lớp, giáo viên giảng bài học sinh <br /> sẽ dễ tiếp thu và sau tiết học các em sẽ dễ dàng thành lập được sơ đồ tư duy như <br /> sau:             <br />   Sơ đồ tư duy về bài thơ “Đồng chí”:<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Có thể  khẳng định rằng, nếu công việc này được giáo viên làm một cách  <br /> đều đặn và tâm huyết thì giờ học văn bản sẽ đạt được kết quả như mong đợi. Ưu  <br /> điểm của cách làm này là tiết kiệm được thời gian khi lên lớp, phát huy được cách  <br /> học hợp tác, vấn đề trọng tâm của bài học sẽ được mổ xẻ một cách sâu sắc hơn.. <br /> <br /> 11<br /> ­ Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở một số tiết học tác phẩm văn chương  <br /> cụ thể:<br />  Bài 1 :   Chuyện người con gái Nam Xương. <br /> + Giáo viên lưu ý học sinh khi chuẩn bị  bài cần soan kỹ  câu số  2,3,4 và 5  <br /> trong phần hướng dẫn học bài để cùng thảo luận, tranh luận ở trên lớp.<br /> + Tưởng tượng cảnh Vũ Nương sau khi chết xuống thủy cung và được giải  <br /> oan…<br /> + Tìm một số bài thơ, truyện viết về số phận người phụ nữ trong xã hôi cũ.<br /> Bài 2:   Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải) Giáo viên hướng dẫn HS chuẩn bị <br /> kĩ  vấn đề sau khi soạn bài này để trao đổi trên lớp: <br /> + Suy nghĩ về quan niệm sống của nhà thơ được thể hiện trong bài thơ.<br /> + Mỗi người bày tỏ quan niệm sống của mình trong thời đại hiện nay. <br /> 3. Biện pháp tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.<br /> *  Đối với giáo viên: <br /> ­ Phải nắm vững nội dung bài giảng và trọng tâm bài dạy để  đặt câu hỏi  <br /> hướng vào nội dung bài học. Việc đặt câu hỏi phải phù hợp với từng đối tượng <br /> học sinh cụ  thể, từng lớp học, từng điều kiện có thể  có. Tránh đặt câu hỏi máy  <br /> móc, hỏi cho có, tránh lạm dụng trong việc đặt câu hỏi để  rơi vào tình trạng dạy  <br /> học hỏi đáp máy mọc đơn điệu. <br /> ­ Việc đặt câu hỏi phải phù hợp với phương pháp giảng dạy mà mình đã lựa <br /> chọn: Nêu vấn đề, đàm thoại, giảng bình…và lượng câu hỏi phải hết sức hợp lí. <br /> Nội dung câu hỏi phải đảm bảo các yêu cầu về cung cấp kiến thức; rèn luyện kĩ  <br /> năng; giáo dục tư tưởng, nhân cách ở học sinh. <br /> ­ Điều quan trọng nhất đối với giáo viên là khâu soạn giáo án. Để giáo án có  <br /> chất lượng phải có hệ thống câu hỏi chuẩn, hợp lí. Các câu hỏi trọng tâm của bài <br /> giảng phải cho học sinh nắm trước trong câu hỏi chuẩn bị bài ở nhà. <br /> * Đối với học sinh: <br /> ­ Khâu soạn bài: Học sinh đọc văn bản, chuẩn bị  bài theo câu hỏi mà giáo <br /> viên <br /> đã cho, đã hướng dẫn. Tuỳ loại câu hỏi giáo viên phân công học sinh chuẩn bị theo  <br /> tổ, nhóm, hoặc theo cá nhân.<br /> <br /> 12<br /> ­ Tham gia xây dựng bài: Động viên khích lệ học sinh bằng điểm số khi các  <br /> em tham gia xây dựng bài. Tạo không khí đối thoại thoải mái trong tiết học giữa  <br /> thầy và trò, giữa học sinh với học sinh, tranh luận giữa các nhóm học sinh với nhau <br /> để  phát huy tư  duy sáng tạo của học sinh, tránh việc áp đặt kiến thức mang tính  <br /> chủ  quan của người dạy, cần trân trọng khen ngợi, động viên những khám phá  <br /> phát hiện độc đáo mới lạ của các em trong quá trình tìm hiểu tác phẩm văn học.<br /> Hứng thú học tập là ngọn nguồn giúp cho học sinh cảm thụ  sâu sắc giá trị <br /> của đời sống văn hoá nhân loại. Phát huy trí lực, chú trọng tới hứng thú học tập <br /> của học sinh là hướng đi tích cực của phương pháp dạy học văn hiện nay. Tuy <br /> nhiên, để biến những lý luận trên thành hiện thực đòi hỏi người thầy ngoài tri thức <br /> khoa học cần phải có lòng yêu nghề, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục và đào tạo  <br /> và phải có thêm niềm tin vào học sinh, những chủ nhân tương lai của đất nước.<br /> Từ mục tiêu trên, chúng tôi mạnh dạn đưa ra những biện pháp trong việc lựa <br /> chọn hệ thống câu hỏi nhằm tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập  <br /> hợp tác, phát huy tư duy, sáng tạo của học sinh như sau: <br /> a. Yêu cầu của các loại câu hỏi: <br /> ­ Câu hỏi phải gợi mở để  tìm tòi vấn đề, phải đạt được mục đích kích  <br /> thích sự cảm thụ của học sinh với tác phẩm, phải gây được những phản ứng  <br /> bên trong của học sinh. <br /> Không nên đưa những dạng câu hỏi mà chỉ yêu cầu học sinh trả lời có hoặc <br /> không. Ví dụ: Khi giảng văn bản Bố của Xi­mông (Ngữ văn 9) chúng ta không nên <br /> đặt những câu hỏi như: Đọc xong văn bản, em thấy chị Blăng­ sốt có phải là một  <br /> người phụ nữ hư hỏng không? Mà chúng ta phải đặt những câu hỏi nhằm giúp các <br /> em tìm kiếm, phát hiện: Qua hình ảnh ngôi nhà của chị Blăng ­sốt, thái độ của chị <br /> đối với khách và nỗi lòng của chị khi nghe con nói em cảm nhận chị là người như  <br /> thế nào?(Chị Blăng –sốt là người phụ nữ một thời lầm lỡ khiến Xi – mông trở  <br /> thành đứa con không có bố. Nhưng thực ra chị  là người phụ  nữ  đức hạnh,  <br /> đứng đắn, nghiêm túc)<br /> ­ Câu hỏi phải tác động đến cảm xúc và rung động thẩm mỹ, đặc biệt là  <br /> tác động đến trực giác của học sinh. <br />     Ở dạng câu hỏi này giáo viên phải biết chọn lựa những chi tiết nghệ thuật  <br /> đặc sắc, có tác dụng thẫm mỹ cao. Ví dụ: Cách sử dụng các từ “Ta làm” ở 3 câu  <br /> <br /> 13<br /> thơ  trong khổ  thơ  thứ  3 trong bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải gợi tả  <br /> được điều gì?  (Điệp ngữ  “ta làm”diễn tả  một cách tha thiết khát vọng được  <br /> hòa nhập vào cuộc sống của đất nước, được cống hiến phần tốt đẹp – dù  <br /> nhỏ bé­ của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước.)<br />   Hình ảnh “con chim, cành hoa, nốt trầm” trong đoạn thơ có ý nghĩa gì? <br /> (Hình  ảnh con chim, nhành hoa, nốt trầm đó là những hình  ảnh đẹp, giản dị  <br /> nhưng có một ý nghĩa lớn lao: Tác giả  muốn nói lên  ước nguyện  phải đóng  <br /> góp những gì tươi đẹp nhất cho cuộc đời, cho đất nước, dù đó là sự cống hiến  <br /> khiêm nhường, giản dị. Điều đó không chỉ   ước muốn của riêng tác giả  mà là  <br /> của tất cả mọi người, tất cả chúng ta. Thông qua việc chuyển đổi đại từ “tôi’  <br /> sang “ta”, nguyện ước riêng đã trở thành nguyện ước chung)<br /> ­ Câu hỏi phải hướng vào thao tác tư duy: Phân tích, tổng hợp, khái quát.  <br />        Chẳng hạn khi củng cố bài hay kiểm tra bài cũ học sinh cần tránh những câu <br /> hỏi như sau: Em hãy đọc thuộc lòng bài thơ và cho biết nội dung, nghệ  thuật của <br /> bài. Dạng câu hỏi này không có tác dụng phát huy sự  sáng tạo, tính tích cực của <br /> học sinh vì chỉ  cần chăm chỉ  học thuộc phần ghi nhớ  cuối sách giáo khoa chứ <br /> không cần tư duy nhiều là học sinh trả lời được. Hơn nữa, câu hỏi này sẽ gây cho <br /> học sinh thói quen có hại đó là thói quen học thuộc một cách máy móc.<br />        Có thể thay dạng câu hỏi này bằng một câu hỏi có sức gợi hơn.  Ví dụ: Để <br /> kiểm tra kiến thức cũ bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu trong chương trình Ngữ <br /> văn lớp 9 thì giáo viên có thể hỏi như sau:<br />        1. Qua bài thơ “Nói với con”, em thích nhất đoạn thơ nào? Vì sao? Hãy đọc  <br /> đoạn thơ đó với ngữ điệu sao cho phù hợp với những điều mà em vừa giải thích?<br /> ( Học sinh có thể trả lời em thích khổ thơ nào trong bài thơ cũng được. Miễn  <br /> là các em giải thích được lí do mình thích và đọc thuộc lòng đúng đoạn thơ đó)<br />      2. Em có nhận xét gì về cách sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh của tác giả trong  <br /> bài thơ? Cách viết đó có tác dụng gì trong việc thể hiện nội dung bài? Từ đó, em  <br /> hãy khái quát tư tưởng  chủ đề của bài thơ. (Qua bài thơ “Nói với con”, bằng từ  <br /> ngữ, hình ảnh giàu sức gợi cảm, Y Phương đã thể hiện tình cảm gia đình ấm  <br /> cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân  <br /> tộc mình. Bài thơ  giúp ta hiểu thêm về  sức sống và vẻ  đẹp tâm hồn của một  <br /> <br /> 14<br /> dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương  <br /> và ý chí vươn lên trong cuộc sống)<br />    Với những câu hỏi này, đòi hỏi học sinh phải có sự  hiểu biết, cảm thụ sâu <br /> sắc<br />  về tác phẩm đồng thời phải có cách trả lời sao cho đáp ứng được yêu cầu của câu <br /> hỏi. Loại câu hỏi này vừa giúp giáo viên đánh giá được kiến thức, sự cảm thụ vừa  <br /> rèn luyện kĩ năng diễn đạt trong môn Ngữ  văn đồng thời cũng phát huy được tư <br /> duy sáng tạo, tính tích cực, chủ động của học sinh. Sở dĩ như vậy vì học sinh phải  <br /> dựa vào quá trình phân tích tác phẩm để  nhận biết những chi tiết nghệ  thuật mà <br /> tác giả sử dụng (đây là yêu cầu nhận biết). Sau khi nhận biết, học sinh phải lí giải <br /> được tác dụng của những chi tiết nghệ  thuật  ấy tức là phải lí giải được câu hỏi  <br /> viết để làm gì? (đây là yêu cầu tư  duy, cảm thụ). Cuối cùng học sinh phải chủ <br /> động tổng hợp khái quát những vấn đề do chính học sinh đã phân tích ở trên.<br />   ­ Phải có câu hỏi then chốt, trọng tâm với mục đích yêu cầu của bài,  <br /> tránh đưa ra những câu hỏi chung chung mơ hồ, vụn vặt không có sự  tư  duy,  <br /> sáng tạo. <br />              Ví dụ: Khi dạy bài “Cố Hương” (Ngữ văn  9­ Lỗ Tấn) chúng ta có thể đặt <br /> câu hỏi: Qua sự thay đổi của nhân vật Nhuận Thổ và hình ảnh Cố hương đã phản <br /> ánh điều gì?  Với câu hỏi này giáo viên giúp học sinh cảm nhận được bức tranh  <br /> hiện thực của xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ thật thê lương ảm đạm; Con người  <br /> sa sút cả  về  tâm hồn lẫn tính cách. Đó chính là tinh thần phê phán xã hội phong  <br /> kiến một cách sâu sắc của Lỗ Tấn.<br />   ­ Hệ  thống câu hỏi phải được sắp đặt hợp lý, được xác định phù hợp  <br /> với đối tượng và phân loại đối tượng.<br />   Kiểm tra bài cũ ở các đối tượng học sinh giáo viên tổ chức như sau:<br />   Tổ chức trò chơi ai nhanh hơn:<br />   Giáo viên phổ biến luật chơi: Cô sẽ cho các em xem một số hình ảnh và sau <br /> đó chúng ta sẽ trả lời các câu hỏi phía dưới. Ai có câu trả lời đúng, nhanh nhất sẽ <br /> được cộng thêm điểm.<br />      Để tổ  chức kiểm tra bài cũ theo phương pháp này giáo viên sưu tầm những  <br /> hình  ảnh phục vụ tốt cho kiến thức cần kiểm tra, sau đó trình chiếu cho học sinh  <br /> <br /> <br /> 15<br /> xem rồi đặt câu hỏi. Ví dụ: Để kiểm tra bài “Những ngôi sao xa xôi” trong chương  <br /> trình Ngữ văn lớp 9, giáo viên cho các em xem hình ảnh sau:<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Đặt các câu hỏi:<br /> Hình  ảnh các em vừa xem đại diện cho thế  hệ nào trong cuộc kháng chiến  <br /> chống Mĩ cứu nước?<br />        Em biết về họ  qua văn bản nào đã được học trong chương trình Ngữ  văn  <br /> lớp 9? <br /> Từ đó hãy giới thiệu những phẩm chất đáng quý nhất về họ mà em biết. <br />           Qua những vẻ đẹp đó của họ em học tập được điều gì ?  <br /> (Hình  ảnh trên đại diện cho những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến  <br /> đường Trường Sơn thời chống Mĩ, qua văn bản “Những ngôi sao xa xôi” của  <br /> nữ  nhà văn Lê Minh Khuê. Họ  là những cô gái xinh xắn, đáng yêu, tuổi đời  <br /> mười tám, đôi mươi. Họ  sống lạc quan, hồn nhiên, yêu đời, yêu quê hương,  <br /> đất nước sâu sắc. Giàu tình yêu thương đồng đội và rất dũng cảm. Họ  sẵn  <br /> 16<br /> sàng hy sinh cuộc đời mình để  cứu nước... Đó là những phẩm chất đáng quý  <br /> của các cô gái thanh niên xung phong thời chống Mĩ mà chúng ta phải học  <br /> tập).<br />   Với cách tổ chức và sử dụng các câu hỏi trên, giáo viên sẽ rất dễ dàng kiểm <br /> tra được các đối tượng học sinh. Hai câu đầu dành cho học sinh yếu, trung bình; <br /> hai câu sau dành cho đối tượng học sinh khá, giỏi. <br />    Tóm lại, yêu cầu của câu hỏi trong giờ  giảng văn phải vừa tạo ra sự  kích  <br /> thích, vừa tác động đến nhận thức, tư duy của học sinh. Việc đưa ra câu hỏi phải <br /> căn cứ vào nội dung bài học, vào đối tượng học sinh, vào điều kiện khách quan… <br /> để có cách đặt câu hỏi, cách lựa chọn hình thức câu hỏi và sử dụng lượng câu hỏi  <br /> thích hợp giúp các em lĩnh hội tác phẩm văn chương một cách hiệu quả nhất.<br /> 4.  Các dạng câu hỏi sử dụng trong giờ học văn bản. <br /> Căn cứ  vào tính chất hoạt động nhận thức của học sinh, kết hợp phương  <br /> pháp dạy học, có thể phân ra các loại câu hỏi sau: <br /> (1) Câu hỏi tái hiện : Giáo viên đặt ra những câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh <br /> nhớ lại kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Loại câu  <br /> hỏi này giúp học sinh tái hiện thế  giới nghệ  thuật của tác phẩm như: Các hình <br /> ảnh, hình tượng, chi tiết nghệ  thuật, nhân vật, bức tranh đời sống qua sự  phản  <br /> ảnh…Các câu hỏi này có khả năng khơi dậy sự liên tưởng, tưởng tượng trong quá <br /> trình tiếp nhận  ở  học sinh. Đó là một biện pháp được sử  dụng khi cần đặt mối <br /> liên hệ giữa kiến thức đã học với kiến thức sắp học, hoặc củng cố kiến thức vừa  <br /> mới học. <br /> Ví dụ: Khi dạy văn bản Làng của Kim Lân (văn 9 tập 1), giáo viên có thể <br /> hỏi: Trước khi nghe tin làng Chợ  Dầu theo giặc, tâm trạng của ông Hai như  thế  <br /> nào? Tâm trạng đó được thể hiện qua những hành động nào ? <br /> + HS điểm qua một vài chi tiết như: <br /> ­ Ông khoe làng ông giàu đẹp <br /> ­ Không khí cách mạng của làng sôi nổi.<br /> ­ Ông buộc phải tản cư, ở nơi tản cư ông luôn khoe về làng mình. <br /> ­ Khi kể , ông kể say sưa, 2 con mắt sáng, cái mặt biến chuyển.<br /> ­ Khi đi tản cư ông nhớ làng, nhớ hoạt động kháng chiến.<br /> ­ Ông nghe được nhiều tin hay tin chiến thắng của quân ta, ruột gan ông  <br /> múa lên vui quá.<br /> 17<br /> + HS cảm nhận: Tất cả  thể  hiện tâm trạng vui  sướng, tự  hào, hãnh diện <br /> ông Hai về làng quê của mình khi tham gia hoạt động kháng chiến.<br /> (2)  Câu hỏi yêu cầu giải thích, minh hoạ: Loại câu hỏi này nhằm mục <br /> đích làm sáng tỏ một khái niệm, đề tài nào đó. Giáo viên lần lượt nêu ra những câu <br /> hỏi kèm theo những ví dụ  minh hoạ  để  giúp học sinh dễ  hiểu, dễ  nhớ. Phương  <br /> pháp này được áp dụng có hiệu quả  trong một số  trường hợp như  khi Giáo viên <br /> biểu diễn phương tiện trực quan (băng ghi hình, máy chiếu) <br /> Ví dụ: Em hãy quan sat cac b<br /> ́ ́ ưc tranh và đ<br /> ́ ọc lại bài thơ “Sang thu” của Hưũ  <br /> ̉<br /> Thinh?<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> (3) Câu hỏi tìm tòi (vấn đáp phát hiện) <br /> Đây là loại câu hỏi trọng tâm nhất trong một giờ  học văn. Sự  cảm thụ  tác <br /> phẩm của học sinh phải qua con đường của nhận thức. Để  học sinh nắm bắt  <br /> chính xác tác phẩm, người giáo viên phải đặt những câu hỏi khơi dậy tư duy ở các  <br /> em. Cần tổ  chức việc trao đổi ý kiến ­ kể  cả  tranh luận ­ giữa thầy với cả lớp,  <br /> giữa trò với trò, thông qua đó các em nắm được tri thức mới do chính mình tìm tòi <br /> phát hiện. Hệ  thống câu hỏi được sắp đặt hợp lý nhằm phát hiện, đặt ra và giải <br /> quyết một vấn đề  xác định, buộc học sinh phải liên tục cố  gắng, tìm tòi lời giải <br /> đáp. Trong vấn đáp tìm tòi, hệ  thống câu hỏi của người thầy giữ  vai trò chỉ  đạo, <br /> 18<br /> quyết định chất lượng lĩnh hội của lớp học.Trật tự  logic của các câu hỏi hướng  <br /> dẫn học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự  vật, quy luật của hiện  <br /> tượng, kích thích tính tích cực tìm tòi, sự ham muốn hiểu biết ở các em. Ở đây giáo <br /> viên là người tổ chức sự tìm tòi còn học sinh là người tự lực phát hiện kiến thức  <br /> mới, vì vậy kết thúc cuộc đàm thoại học sinh có được niềm vui của sự khám phá,  <br /> vừa  nắm   được   kiến thức  mới,  vừa   nắm  được  cách  thức   đi  tới  kiến  thức   đó, <br /> trưởng thành thêm một bước về  trình độ  tư  duy. Cuối đoạn đàm thoại, Giáo viên <br /> cần biết vận dụng các ý kiến của học sinh để  kết luận vấn đề  đặt ra, dĩ nhiên là <br /> có bổ  sung, chỉnh lí khi cần thiết. Làm được như vậy, học sinh càng hứng thú, tự <br /> tin vì thấy trong kết luận của thầy có phần đóng góp ý kiến của mình. <br /> Để  học sinh tìm tòi được kiến thức trong giờ  học văn bản, có thể  đưa ra <br /> nhiều dạng câu hỏi khác nhau: <br /> * Câu hỏi nêu vấn đề: Câu hỏi nêu vấn đề  có liên quan chặt chẽ đến vấn <br /> đề  và tình huống có vấn đề. Loại câu hỏi này phải làm rõ được vấn đề  tiềm  ẩn <br /> trong tác phẩm, phải gây hứng thú nhận thức cho học sinh và phải động viên,  <br /> khuyến khích học sinh giải quyết vấn đề đã nêu. <br /> Ví dụ 1: Khi dạy  bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải (Ngữ Văn 9 tập <br /> 2), Giáo viên có thể hỏi: hình ảnh: Từng giọt long lanh rơi <br />                                                   Tôi đưa tay tôi hứng .<br /> Có người cho rằng đây là giọt mưa mùa xuân, giọt sương xuân. Có người lại <br /> cho rằng đó là giọt âm thanh của tiếng chim. Em tán thành ý kiến nào? Vì sao?<br /> Câu hỏi này đặt ra khi phân tích phần đầu của bài thơ. Để  giúp HS giải <br /> quyết được vấn đề  trên, GV có thể  gợi mở  giúp cho HS thấy được mối liên hệ <br /> giữa 2 câu thơ này với 2 câu thơ trước. Với cum từ “Tôi đưa tay tôi hứng” HS cảm <br /> nhận đượctiếng chim đang vang xa bỗng gần lại, rõ ràng, tròn trịa như  kết thành  <br /> những giọt sương óng ánh sắc màu thật tuyệt. Ở đây có sự chuyển đổi cảm giác: <br /> từ  thính giác sang thị  giác rồi xúc giác­ đưa tay hứng. Thể  hiện niềm say mê, sự <br /> nâng niu trân trọng của tác giả trước vẻ đẹp mùa xuân. Tuy nhiên dù hiểu thế nào  <br /> (giọt mưa mùa xuân, sương xuân hay giọt âm thanh của tiếng chim) thì đó cũng  là <br /> sự cảm nhận vô cùng tài hoa, tinh tế của nhà thơ.<br /> Ví dụ  2: Nói về chi tiết chiếc bóng trong tác phẩm "Chuyện người con gái <br /> Nam Xương" của Nguyễn Dữ, có ý kiến cho rằng: "Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn <br /> lớn". Em có ý kiến gì về vấn đề trên?<br /> 19<br /> Câu hỏi này đặt ra khi phân tích hình ảnh chiếc bóng. Giáo viên giúp HS giải  <br /> quyết vấn đề bằng những câu hỏi gợi mở để tìm ra giá trị nội dung và nghệ  thuật  <br /> của chi tiết chiếc bóng. HS có thể nêu được một số ý như sau:<br />  a. Giá trị nội dung:<br /> ­ "Chiếc bóng" tô đậm thêm nét đẹp phẩm chất của Vũ Nương trong vai trò ng­<br /> ười vợ, người mẹ. Đó là nỗi nhớ thương, sự thuỷ chung, ước muốn đồng nhất "xa <br /> mặt nhưng không cách lòng" với người chồng nơi chiến trận; đó là tấm lòng người <br /> mẹ muốn khoả lấp sự trống vắng, thiếu hụt tình cảm người cha trong lòng đứa con <br /> thơ bé bỏng.<br /> ­ "Chiế
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2