I. PHẦN MỞ ĐẦU<br />
I.1. Lý do chọn đề tài<br />
Ngữ văn là một môn học rất quan trọng trong hệ thống các môn học ở cấp <br />
THCS. Mục tiêu của môn Ngữ văn là sự cụ thể hóa mục tiêu giáo dục nói chung, <br />
chú trọng dạy chữ, dạy người và hướng nghiệp. Cụ thể, môn học Ngữ văn nhấn <br />
mạnh ba mục tiêu chính sau: Thứ nhât rang b<br />
́ ị những kiến thức phổ thông, cơ bản, <br />
hiện đại, có tính hệ thống về ngôn ngữ và văn học – trọng tâm là tiếng Việt và văn <br />
học Việt Nam – phù hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo <br />
nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thứ hai, hình <br />
thành và phát triển ở học sinh các năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp nhận văn bản, <br />
cảm thụ thẩm mỹ, phương pháp học tập tư duy, đặc biệt là phương pháp tự học, <br />
năng lực ứng dụng những điều đã học vào cuộc sống. Thứ ba, bồi dưỡng cho học <br />
sinh tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa, tình yêu gia đình, thiên nhiên, đất nước, <br />
lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lập, tự cường, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần <br />
dân chủ nhân văn, giáo dục cho học sinh trách nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị <br />
hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc và <br />
nhân loại”. Viêc day hoc môn Ng<br />
̣ ̣ ̣ ữ Ngữ văn con la giup cho hoc sinh co đ<br />
̀ ̀ ́ ̣ ́ ược <br />
nhưng nh<br />
̃ ưng ky năng giao tiêp, s<br />
̃ ̃ ́ ự tự tin trinh bay tr<br />
̀ ̀ ươc đông ng<br />
́ ười; giup cac em<br />
́ ́ <br />
́ ̉ ̃ ưng vang, dam bay to y kiên, suy nghi cua minh. Do vây, viêc nâng cao<br />
co ban linh v ̃ ̀ ́ ̀ ̉ ́ ́ ̃ ̉ ̀ ̣ ̣ <br />
́ ượng day hoc môn Ng<br />
chât l ̣ ̣ ữ văn la vô cung quan trong.<br />
̀ ̀ ̣<br />
̣ ̣ ̣<br />
Tuy vây, trong viêc hoc môn Ng ữ văn hiên nay noi chung, nhi<br />
̣ ́ ều em rất rụt <br />
rè trong giao tiếp, không dám bày tỏ ý kiến, suy nghĩ … của mình trước lớp, thiếu <br />
chủ động, tích cực trong việc tiếp thu kiến thức bài học. Chât l ́ ượng hoc tâp <br />
̣ ̣ ở <br />
nhưng l<br />
̃ ơp đai tra ch<br />
́ ̣ ̀ ưa được như mong muôn. V́ ậy làm thế nào để phát huy tính <br />
tích cực chủ động của học sinh trong học tập là câu hỏi mà các thầy cô giáo trong <br />
đó có bản thân chúng tôi luôn trăn trở và tìm hướng trả lời.<br />
Xuất phát từ nhu cầu và mong muốn của bản thân chung tôi trong quá trình<br />
́ <br />
dạy học là nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn trong chương trình dạy học <br />
môn Ngữ văn lớp 9 ở trường phổ thông, do đó chung tôi l<br />
́ ựa chọn nghiên cứu đề tài <br />
̣ ́ để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập <br />
"Biên phap<br />
môn Ngư văn l<br />
̃ ơp 9 <br />
́ ở trương THCS Buôn Trâp<br />
̀ ́ ".<br />
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài<br />
a. Mục tiêu của đề tài<br />
1<br />
Chia sẻ cùng các thầy cô giáo một số kinh nghiệm nhằm phát huy tính tích <br />
cực, chủ động của học sinh thông qua việc vận dụng phương pháp dạy học tích <br />
cực trong giảng dạy phân môn Đoc – Hiêu văn ban thuôc môn Ng<br />
̣ ̉ ̉ ̣ ữ văn cấp THCS, <br />
góp phần nâng cao chất lượng bộ môn, tạo niềm say mê, hứng thú cho các em <br />
trong học tập.<br />
b. Nhiệm vụ của đề tài<br />
Trình bày cụ thể những việc cần làm và làm như thế nào để tạo điều kiện <br />
cho học sinh phát triển tư duy sáng tạo, phát huy tính chủ động, tích cực trong học <br />
tập.<br />
I.3. Đối tượng nghiên cứu<br />
Từ thực tế việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh trường THCS <br />
Buôn Trấp. Đặc biệt là việc dạy và học môn Ngữ văn ở hoc sinh l<br />
̣ ơp 9, chung tôi<br />
́ ́ <br />
tiên hanh nghiên c<br />
́ ̀ ưu nh<br />
́ ưng biên phap day hoc tich, viêc ap dung biên phap day hoc<br />
̃ ̣ ́ ̣ ̣ ́ ̣ ́ ̣ ̣ ́ ̣ ̣ <br />
̣ ́ ́ ực chu đông cua hoc sinh.<br />
nay trong viêc phat huy tinh tich c<br />
̀ ́ ̉ ̣ ̉ ̣<br />
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu<br />
Phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy phân Đoc – Hiêu văn ban cua<br />
̀ ̣ ̉ ̉ ̉ <br />
môn Ngữ văn lơp 9.<br />
́<br />
I.5. Phương pháp nghiên cứu<br />
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: các tài liệu viết về các phương pháp dạy <br />
học tích cực, giáo án Ngữ văn của giáo viên.<br />
Phương pháp điều tra thực tế: thông qua thực tế giảng dạy và các tiết dự <br />
giờ của đồng nghiệp.<br />
Phương pháp thu thập thông tin: thu thập thông tin từ đồng nghiệp, từ học <br />
sinh.<br />
Phương pháp xử lý thông tin thông qua đối chiếu, so sánh, phân tích, tổng <br />
hợp.<br />
II. PHẦN NỘI DUNG<br />
1. Cơ sở lí luận<br />
Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến giáo dục nói <br />
chung và vấn đề đổi mới PPDH trong trường trung học nói riêng. Vấn đề này đã <br />
được đề cập nhiều lần trong các văn kiện Đại hội Đảng, trong Luật Giáo dục. <br />
Đặc biệt, trong thông báo kết luận của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị <br />
<br />
2<br />
quyết Trung ương 2 (khóa VIII), phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến <br />
năm 2020 đã chỉ rõ “ Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học, khắc phục cơ <br />
bản lối truyền thụ một chiều. Phát huy PPDH tích cực, sáng tạo, hợp tác, giảm <br />
thời gian giảng lý thuyết, tăng thời gian tự học, tự tìm hiểu cho học sinh, giáo <br />
viên; gắn bó chặt chẽ giữa học lý thuyết và thực hành, đào tạo gắn với nghiên cứu <br />
khoa học, sản xuất và đời sống”.<br />
Thực tế cho thấy: hoạt động đổi mới PPDH chỉ có thể thành công khi giáo <br />
viên có động lực hành động và chuyển hóa được từ ý chí trở thành tình cảm và tinh <br />
thần trách nhiệm đối với học sinh, đối với nghề dạy học.<br />
Các chuyên đề về đổi mới PPDH được đưa ra tập huấn luôn là cơ sở cho <br />
giáo viên nghiên cứu, vận dụng một cách chủ động, tích cực, sáng tạo phù hợp với <br />
đặc trưng bộ môn, phù hợp với yêu cầu của từng bài học, giúp học sinh phát triển <br />
và rèn luyện các kỹ năng cần thiết như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xử lý thông tin, <br />
giải quyết các tình huống, kỹ năng thực hành …<br />
2. Thực trạng<br />
1.2. Thuận lợi, khó khăn<br />
a) Thuận lợi:<br />
Phòng Giáo dục và Đào tạo, Ban giám hiệu nhà trường rất tích cực trong <br />
việc chỉ đạo đổi mới PPDH.<br />
Trường THCS Buôn Trấp có 13 giáo viên được đào tạo chuyên ngành Ngữ <br />
văn (trong đó có 11 giáo viên đứng lớp và 02 cán bộ quản lý), được biên chế thành <br />
một tổ chuyên môn nên dễ có điều kiện trao đổi, học hỏi nhau về kiến thức cũng <br />
như kinh nghiệm giảng dạy bộ môn.<br />
Sinh hoạt của tổ chuyên môn đã dần đi vào chiều sâu và đạt hiệu cao (tổ <br />
đã giành nhiều thời gian cho việc bàn bạc, thảo luận cách dạy các bài (nội dung) <br />
dài, khó …), năng lực chuyên môn của giáo viên ngày càng được khẳng định. <br />
Công nghệ thông tin phát triển cùng với sự bùng nổ của Internet nên việc <br />
tìm hiểu, khai thác thông tin về lĩnh vực bộ môn, phân môn, bài dạy trên mạng <br />
ngày càng dễ dàng và thuận lợi.<br />
Giáo viên thường xuyên được tập huấn hoặc tiếp thu chuyên đề về đổi <br />
mới PPDH nói chung và đổi mới PPDH đối với môn Ngữ văn nói riêng. Đa số giáo <br />
viên đã chủ động vận dụng khá hiệu quả các PPDH tích cực vào quá trình lên lớp.<br />
<br />
3<br />
b) Khó khăn: <br />
Thói quen sử dụng PPDH truyền thống ở một số giáo viên còn nặng nề.<br />
Một số bài học, tiết học, nội dung kiến thức còn nặng so với thời gian quy <br />
định tại PPCT.<br />
Cơ sở vật chất chưa thực sự đáp ứng yêu cầu dạy và học.<br />
Một số học sinh chưa thật hứng thú với môn học, còn có thói quen ỉ lại, <br />
dựa dẫm vào bạn; thiếu mạnh dạn, chủ động, tích cực, sáng tạo trong học tập.<br />
2.2. Thành công, hạn chế<br />
a) Thành công: <br />
Thông qua đàm thoại, sự quan tâm hướng dẫn của giáo viên, kỹ năng nói của <br />
học sinh đã được nâng lên rõ rệt, học sinh tự tin và mạnh dạn hơn trong giao tiếp; <br />
tích cực, chủ động hơn trong học tập. Một số học sinh yếu trong lớp đã chủ động <br />
giơ tay phát biểu, bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình trước thầy cô và các bạn <br />
trong lớp.<br />
b) Hạn chế: <br />
Khó kiểm soát quá trình học tập của học sinh (có nhiều tình huống bất ngờ <br />
nảy sinh từ câu trả lời của học sinh), nếu giáo viên không chú ý, giờ học dễ bị <br />
chệch hướng.<br />
Giáo viên cần phải có sự chuẩn bị công phu, mất nhiều thời gian.<br />
2.3. Mặt mạnh, mặt yếu<br />
a) Mặt mạnh: Có thể áp dụng cho nhiều cấp học, lớp học với nhiều đối <br />
tượng học sinh.<br />
Đây là PPDH tích cực đã được nhiều giáo viên áp dụng thành công.<br />
b) Mặt yếu: Giờ học sẽ bị nhàm chán nếu giáo viên không biết kết hợp các <br />
phương pháp, hình thức tổ chức dạy học một cách hợp lý.<br />
2.4 Các nguyên nhân, các yếu tố tác động<br />
a) Nguyên nhân thành công:<br />
Phòng Giáo dục và Đào tạo, Ban giám hiệu nhà trường rất tích cực trong <br />
việc chỉ đạo đổi mới PPDH.<br />
Bản thân chúng tôi được tham gia nhiều đợt tập huấn về đổi mới PPDH do <br />
<br />
<br />
4<br />
ngành tổ chức, đã từng tham gia giảng dạy ở các khối lớp, được làm quen với <br />
nhiều đối tượng học sinh, được nghe rất nhiều tâm sự từ phía CMHS, học sinh … <br />
về bộ môn. <br />
Đề tài này đã được áp dụng trong nhiều năm học nên trong quá trình vận <br />
dụng đã có sự ghi nhận, đúc rút kinh nghiệm và điều chỉnh cho phù hợp với học <br />
sinh.<br />
Có sự cộng lực của các giáo viên dạy Ngữ văn tại trường.<br />
b) Nguyên nhân hạn chế:<br />
Thời gian đầu tư cho bài soạn còn hạn chế (do quá nhiều công việc cùng <br />
phải làm trong cùng một thời điểm).<br />
Sử dụng phương pháp này rất cần đến nghệ thuật giao tiếp của giáo viên.<br />
Một số học sinh chưa thực sự cố gắng trong học tập, thiếu m ạnh d ạn <br />
trong<br />
giao tiếp, nhiều khi tỏ ra e dè, không tự tin, ít đầu tư thời gian cho việc chuẩn bị <br />
bài ở nhà.<br />
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề thực trạng mà đề tài đã đặt ra.<br />
Thực tế giảng dạy cho chúng ta thấy: trong một lớp học đại trà, số học sinh <br />
học khá, giỏi môn Ngữ văn, tích cực tham gia vào các hoạt động học tập còn <br />
chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn. Bên cạnh đó, còn nhiều học sinh thiếu cố gắng trong <br />
học tập, thụ động trong việc tiếp thu kiến thức, hạn chế về khả năng diễn đạt, <br />
thậm chí có những học sinh thuộc vào diện “hết thuốc chữa”, giáo viên đành cho <br />
“ngủ yên” để khỏi ảnh hưởng lớp. Phương pháp tổ chức hoạt động học tập <br />
của học sinh theo hướng học sinh – đối tượng của hoạt động “dạy” trở thành <br />
chủ thể của hoạt động “học là một PPDH tích cực – “phương thuốc” khá hữu <br />
hiệu nhằm kích thích tư duy độc lập của học sinh, dạy học sinh cách tự suy nghĩ, <br />
lôi cuốn học sinh tham gia vào bài học, làm cho không khí lớp học sôi nổi, sinh <br />
động, kích thích hứng thú học tập, lòng tự tin của các em, rèn cho các em năng lực <br />
diễn đạt, mạnh dạn bày tỏ sự hiểu biết của mình, biết chú ý lắng nghe và hiểu ý <br />
diễn đạt của người khác. Tạo môi trường học tập thân thiện để học sinh có điều <br />
kiện giúp đỡ lẫn nhau. Học sinh kém có điều kiện học tập các bạn trong nhóm, <br />
cùng các bạn trong nhóm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Thông qua đàm thoại, <br />
dạy học tích cực, giáo viên sẽ nhanh chóng thu thập được thông tin phản hồi từ <br />
phía người học, duy trì và kiểm soát được hành vi của học sinh. Học sinh sẽ có <br />
5<br />
được niềm vui khi mình được trực tiếp tham gia khám phá, tìm hiểu và nắm bắt <br />
kiến thức mới thông qua sự hướng dẫn của thầy cô giáo.<br />
3. Giải pháp, biện pháp <br />
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp<br />
Giúp các thầy cô giáo cùng dạy môn Ngữ văn hiểu rõ hơn về mục đích của<br />
việc dạy học tích cực; có thêm kinh nghiệm trong việc thiết kế hệ thống câu hỏi <br />
và đặt câu hỏi cũng như tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tính tích cực, <br />
chủ động của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng bộ môn, tạo niềm say mê, <br />
hứng thú cho các em trong học tập.<br />
3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp<br />
Từ y th<br />
́ ưc vê tâm quan trong cua viêc phat huy tinh tich c<br />
́ ̀ ̀ ̣ ̉ ̣ ́ ́ ́ ực chu đông cua hoc<br />
̉ ̣ ̉ ̣ <br />
sinh trong học tập va t<br />
̀ ừ thực trang cua viêc day hoc môn Ng<br />
̣ ̉ ̣ ̣ ̣ ữ văn lớp 9 ở trương<br />
̀ <br />
THCS THCS Buôn Trâp, nh ́ ưng năm qua chung tôi đa cô găng tim toi, vân dung<br />
̃ ́ ̃ ́ ́ ̀ ̀ ̣ ̣ <br />
Biên phap <br />
̣ ́ để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập môn <br />
Ngư văn <br />
̃ ̀ ươc đâu đa thây hiêu qua. Cung tôi xin trinh bay cach nôi dung va cach<br />
va b ́ ̀ ̃ ́ ̣ ̉ ́ ̀ ̀ ́ ̣ ̀ ́ <br />
thưc th<br />
́ ực hiên giai phap, biên phap nh<br />
̣ ̉ ́ ̣ ́ ư sau:<br />
1. Biện pháp tổ chức hoạt động học tập của học sinh theo hướng học <br />
sinh – đối tượng của hoạt động “dạy” trở thành chủ thể của hoạt động <br />
“học”. <br />
Trước hết, cần đẩy mạnh đổi mới phương pháp dạy và học. Giáo viên phải <br />
chú trọng đến phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Trong đó học sinh <br />
dưới sự tổ chức, gợi mở, dẫn dắt của giáo viên tự mình chiếm lĩnh tác phẩm, tự <br />
rút ra những kết luận, những bài học cần thiết cho mình với sự chủ động tối đa.<br />
Theo chúng tôi, trong giờ dạy văn bản, giáo viên cần tổ chức, dẫn dắt cho <br />
học sinh theo bốn cấp độ sau đây:<br />
Thứ nhất, giúp học sinh tri giác, cảm thụ văn bản, hiểu ngôn ngữ, tình tiết, <br />
cốt truyện, thể loại... để có thể cảm nhận được hình tượng nghệ thuật trong sự <br />
toàn vẹn của các chi tiết, các liên hệ.<br />
Thứ hai, giúp học sinh tiếp xúc với ý đồ sáng tạo của nghệ sĩ, thâm nhập <br />
vào hệ thống hình tượng như là sự kết tinh sâu sắc của tư tưởng, tình cảm tác giả.<br />
Thứ ba, giúp học sinh đưa hình tượng nghệ thuật vào văn cảnh đời sống và <br />
kinh nghiệm sống của mình để thể nghiệm, đồng cảm.<br />
6<br />
Thứ tư, giúp học sinh nâng cấp lý giải tác phẩm lên cấp quan niệm và tính <br />
hệ thống, hiểu được vị trí của tác phẩm trong lịch sử văn hóa, tư tưởng, đời sống <br />
và truyền thống nghệ thuật.<br />
Có như vậy, học sinh mới thấy hứng thú và cảm thấy mình cũng là người <br />
“đồng sáng tạo” với tác giả, như quan điểm của mỹ học tiếp nhận. <br />
Ví dụ: Khi dạy văn bản Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long, giáo viên <br />
phải giúp học sinh tri giác, cảm thụ được: văn bản Lặng lẽ Sa Pa có cốt truyện <br />
rất đơn giản, xoay quanh một cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa ông họa sĩ già, cô kĩ sư <br />
trẻ và anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn thuộc Sa Pa. Nhân <br />
vật Chính – anh thanh niên – chỉ xuất hiện trong chốc lát nhưng đã để lại cho các <br />
nhân vật khác và đọc giả những tình cảm tốt đẹp. Nhân vật anh thanh niên trở <br />
thành một hình tượng nghệ thuật kết tinh sâu sắc tư tưởng, tình cảm của nhà văn. <br />
Hình ảnh anh thanh niên đã và đang là tấm gương sáng về tinh thần lao động, về <br />
suy nghĩ và lối sống cao đẹp để thế hệ trẻ mọi thời đại noi theo.<br />
Với những yêu cầu cao trong công việc đổi mới phương pháp, người giáo <br />
viên phải nâng cao trình độ và bản lĩnh. Truyền thụ tri thức, rèn luyện kĩ năng đã <br />
khó, hướng dẫn cách cảm thụ, lối tư duy cho học sinh còn khó bội phần. Sự cập <br />
nhật tri thức phải luôn đi đôi với nâng cao trình độ sư phạm. Một khi đã quán triệt <br />
tinh thần coi học sinh là chủ thể tiếp nhận, tất yếu giáo viên sẽ phải đối diện với <br />
sự đa dạng, phức tạp trong tư duy, trong cách phát ngôn của các em. <br />
2. Biện pháp tổ chức hoạt động tự học của học sinh: rèn luyện cho học <br />
sinh có được phương pháp, kĩ năng: đọc, tóm tắt, phân tích tác phẩm, viết <br />
bài…<br />
Dựa vào các mục biên soạn trong SGK để hướng dẫn học sinh chuẩn bị <br />
bài Với người dạy và người học hiện nay ở nước ta, SGK là công cụ có tính <br />
chất pháp lí. Nội dung kiểm tra, thi cử bắt đầu và xuất phát từ chương trình và <br />
Sách giáo khoa. Nói cách khác dạy và học không thể thoát li chương trình và Sách <br />
giáo khoa. Phần Đọc văn trong SGK ở chương trình THCS hiện nay thường được <br />
biên soạn theo một cấu trúc cố định với những mục rõ ràng, với trình tự gồm các <br />
mục: Tên bài – Kết quả cần đạt – Tên văn bản – Chú thích – Đọc – Hiểu văn bản <br />
– Ghi nhớ Luyên tập. Để chuẩn bị bài, nhất thiết học sinh phải có trong tay quyển <br />
SGK và tự làm việc với sách theo hướng dẫn của thầy cô giáo. Trang bị SGK đầy <br />
đủ, học sinh thường xuyên đọc sách, bám sát tất cả các mục ở trong SGK, mỗi <br />
7<br />
mục có một vai trò cụ thể. Đặc biệt, HS phải chú trọng đến mục Đọc – hiểu văn <br />
bản sau mỗi văn bản. Đây là mục quan trọng có tác dụng định hướng tìm hiểu văn <br />
bản cho cả người học và người dạy. Ở mục hướng dẫn học bài này có nhiều câu <br />
hỏi được sắp xếp theo hệ thống. Dựa vào hệ thống câu hỏi này để giáo viên <br />
hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài một cách phù hợp, thiết thực và có hiệu quả. Bắt <br />
đầu từ SGK là một định hướng khoa học trong việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị <br />
bài cho giờ Đọc văn. Chăng han<br />
̉ ̣<br />
Gắn với từng bài học cụ thể phù hợp với đặc trưng thể loại để hướng <br />
dẫn học sinh chuẩn bị bài. <br />
Mỗi bài học, mỗi văn bản được phân bố với một số lượng thời gian nhất <br />
định trong bảng phân phối chương trình. Vì thế, giáo viên nhất thiết phải gắn với <br />
từng bài học, từng văn bản với số tiết quy định cụ thể để hướng dẫn học sinh <br />
cách thức nội dung, mức độ soạn bài phù hợp. Chẳng hạn với những bài học trong <br />
một tiết thì có cách hướng dẫn chuẩn bị bài gọn, nhẹ hơn so với bài hai tiết. Giáo <br />
viên cũng cần phải xem xét đặc điểm, tính chất của từng văn bản cụ thể để yêu <br />
cầu học sinh chuẩn bị: Thơ khác với văn xuôi. Mặt khác, hiện nay định hướng <br />
giảng dạy phần Văn theo phương pháp mới đặc biệt chú trọng yêu cầu tích hợp và <br />
đặc trưng thể loại. Xuất phát từ yêu cầu tích hợp cũng như ý thức về việc bám sát <br />
đặc trưng thể loại là định hướng đúng đắn cung cấp tri thức đọc hiểu cho học <br />
sinh, mà trước hết là ở khâu giúp các em chuẩn bị tốt bài ở nhà. Chẳng hạn khi <br />
dạy văn bản Chuân bi hanh trang vao thê ky m<br />
̉ ̣ ̀ ̀ ́ ̉ ới (Ngữ văn 9) giáo viên phải <br />
hướng dẫn cho các em nắm vững đặc trưng của văn nghị luận để học sinh dễ tiếp <br />
xúc với văn bản. Bên cạnh đó khi dạy giáo viên nhất thiết phải tích hợp với hoan ̀ <br />
̉ ́ ươc va ban chât cua con ng<br />
canh đât n ́ ̀ ̉ ́ ̉ ươi Viêt Nam<br />
̀ ̣ để làm rõ nhưng măt manh, măt<br />
̃ ̣ ̣ ̣ <br />
́ ̉<br />
yêu cua con ng ươi Viêt Nam<br />
̀ ̣ ta. Từ đó giao duc<br />
́ ̣ cho thế hệ trẻ biêt cân phai lam gi<br />
́ ̀ ̉ ̀ ̀ <br />
̉ ́<br />
đê gop phân xây đât n<br />
̀ ́ ước.<br />
Giáo viên nắm chắc ý đồ của người soạn SGK ở phần hướng dẫn học bài <br />
sau mỗi văn bản.<br />
Ở mỗi văn bản, mỗi bài học cụ thể có những mục đích khác nhau. Trong <br />
Sách giáo khoa Ngữ văn sau tên mỗi văn bản là mục kết quả cần đạt. Đây là phạm <br />
vi kiến thức trọng tâm bài học mà học sinh cần nắm được. Để đạt được kết quả <br />
đó người soạn sách đã có những định hướng đọc hiểu cho cả người dạy và người <br />
học ở mục hướng dẫn học bài. Để tổ chức cho học sinh đọc hiểu văn bản sát hợp, <br />
<br />
8<br />
một yêu cầu vô cùng quan trọng là giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh chuẩn <br />
bị bài ở nhà đúng trọng tâm như yêu cầu ở mục kết quả cần đạt. Ví dụ, khi học <br />
đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, để học sinh hiểu và cảm nhận sâu sắc tâm <br />
trạng buồn nhớ, lo lắng, đau khổ của Thúy Kiều, giáo viên yêu cầu học sinh khi <br />
soạn bài cần đọc kĩ đoạn thơ nói về nỗi nhớ về người thân; đoạn thơ nói về tâm <br />
trạng buồn, lo lắng, đau khổ của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích. Hiểu được <br />
mục đích của người soạn Sách giáo khoa ở phần hướng dẫn học bài sau mỗi văn <br />
bản sẽ giúp giáo viên xác định phương pháp dạy học phù hợp từng bài học cụ thể. <br />
Chẳng hạn, với mục đích đồng sáng tạo ở bạn đọc, trong phần hướng dẫn học bài <br />
của văn bản Chuyện người con gái Nam Xương, sách giáo khoa Ngữ văn 9 có <br />
nêu câu hỏi: <br />
Vì sao Vũ Nương phải chịu nỗi oan khuất?( Nỗi oan khuất của Vũ Nương <br />
có nhiều nguyên nhân: Do cuộc hôn nhân giữa TS và VN có phần không bình <br />
đẳng; Do trương sinh đa nghi, hồ đồ, độc đoán dẫn đến cái chết oan nghiệt <br />
của VN) <br />
Từ đó em cảm nhận được điều gì về thân phận của người phụ nữ dưới chế độ <br />
phong kiến?( Người phụ nữ đức hạnh trong xã hội cũ không được bênh vực, <br />
che chở, họ luôn bị đối xử bất công và chịu nhiều oan trái) Từ câu hỏi hướng <br />
dẫn này, giáo viên có thể lồng phương pháp vấn đáp, đàm thoại bên cạnh các <br />
phương pháp khác. Tất nhiên để đàm thoại được ở trên lớp thì giáo viên phải <br />
hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài trước ở nhà... <br />
Hướng dẫn học sinh đọc Sách giáo khoa và trả lời câu hỏi trong Sách giáo <br />
khoa. <br />
Để giúp học sinh có sự chuẩn bị hiệu quả trước khi bước vào giờ học văn <br />
bản, giáo viên cần có những định hướng cho học sinh trong các hoạt động tiếp xúc <br />
với Sách giáo khoa, tập cho các em biết gia công tìm tòi, sáng tạo trong quá trình <br />
lĩnh hội tri thức. Hướng dẫn học sinh soạn bài ở nhà trước hết và quan trọng nhất <br />
vẫn là yêu cầu các em trả lời các câu hỏi ở phần Hướng dẫn học bài. Việc đọc <br />
Sách giáo khoa như đã nói trên trước hết là để trả lời được các câu hỏi này. Tuy <br />
vậy, muốn công việc này của các em đạt hiệu quả đòi hỏi giáo viên phải có những <br />
cách thức, biện pháp phù hợp. Giáo viên vừa yêu cầu vừa khuyến khích, động viên <br />
các em tự trả lời các câu hỏi trong phần hướng dẫn theo cách hiểu của mình, tránh <br />
viêc ghi lại, chép lại theo sách giải một cách đối phó, thụ động. Trong quá trình <br />
9<br />
soạn bài chỗ nào các em chưa hiểu hay còn thắc mắc, giáo viên yêu cầu các em <br />
chú ý ghi lại hoặc gạch chân, đánh dấu để có thể trao đổi trong quá trình đọc hiểu <br />
văn bản trên lớp. Một điều nữa không kém phần quan trọng là khi hướng dẫn học <br />
sinh trả lời các câu hỏi trong Sách giáo khoa, giáo viên cần hướng các em vào <br />
những ý trọng tâm, câu hỏi trọng tâm, điều này rất có ích cho việc đọc hiểu văn <br />
bản ở trên lớp. Muốn làm được điều này giáo viên phải có đầu tư suy nghĩ trước <br />
một bước. Và như vậy, việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà sẽ mang lại <br />
hiệu quả hơn. Chẳng hạn khi soạn bài Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải) giáo viên <br />
yêu cầu các em chú ý và trả lời kỹ những vấn đề sau: Cảm xúc của tác giả trước <br />
vẻ đẹp và sức sống về mùa xuân của thiên nhiên và mùa xuân của đất nước như <br />
thế nào? Đoạn thơ “Ta làm con chim hót…Dù là khi tóc bạc” gợi cho em những <br />
cảm nghĩ gì về ý nghĩa cuộc sống của mỗi con người? (Với câu hỏi 1 giáo viên đã <br />
giúp học sinh tìm hiểu nội dung đoạn thơ 1 và 2 của bài thơ, câu hỏi 2 giúp <br />
học sinh tìm hiểu nội dung khổ thơ thứ 3 trong bài; Nếu học sinh về nhà <br />
chuẩn bị tốt theo các câu hỏi mà giáo viên đã cho khi lên lớp các em sẽ tiếp thu <br />
bài rất nhanh)<br />
Như vậy, việc hướng dẫn học sinh đọc Sách giáo khoa và trả lời câu hỏi là <br />
việc làm vô cùng quan trọng, bởi đây là một bước chuẩn bị trước làm cơ sở cho <br />
việc đọc tác phẩm trên lớp. Nếu giáo viên làm tốt bước này thì khâu lên lớp sẽ <br />
nhẹ nhàng hơn, giờ học sôi nổi hơn và tất nhiên hiệu quả giờ học sẽ cao hơn. <br />
Hướng dẫn học sinh lập dàn ý khái quát sơ đồ tư duy cho bài học. <br />
Từ những hiểu biết của bản thân, học sinh tự lập thành sơ đồ, thành những <br />
dàn ý theo suy nghĩ của mình. Điều ấy có nghĩa rằng sau khi đọc phân tích, học <br />
sinh cần phải tổng hợp, tái tạo lại cấu trúc của bài học. Ghi chép tóm tắt những gì <br />
và như thế nào là phụ thuộc vào hiểu biết và kinh nghiệm của từng người. Điều <br />
quan trọng là người học phải tự mình nêu lại được các thông tin quan trọng đã tiếp <br />
nhận bằng từ ngữ riêng theo cách của mình. <br />
Tổ chức phân công từng vấn đề cụ thể cho từng nhóm học sinh. <br />
Sau khi kết thúc một giờ học công việc thường thấy từ trước tới nay là giáo<br />
viên dặn dò học sinh về nhà học bài và chuẩn bị bài mới cho giờ học tiếp theo. <br />
Đây thường là việc làm lấy lệ máy móc, qua loa, làm cho xong. Vì thế tính hiệu <br />
quả thấp. Kinh nghiệm cho thấy đối với học sinh THCS giao việc càng cụ thể thì <br />
10<br />
tính hiệu quả càng cao. Vì vậy, tổ chức phân công vấn đề cho học sinh chuẩn bị <br />
trước là bước đệm rất quan trọng cho bài học mới đạt kết quả. Để việc làm này <br />
có chất lượng giáo viên phải thực hiện những bước sau: <br />
+ Chuẩn bị trước các vấn đề. <br />
+ Chia nhóm.<br />
+ Phân công vấn đề cụ thể cho từng nhóm. <br />
Chẳng hạn khi dạy văn bản “Đồng chí” (Ngữ văn 9) của Chính Hữu ngoài <br />
việc học sinh chuẩn bài theo phần hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa, giáo <br />
viên có thể chuẩn bị trước các vấn đề sau để giao cho học sinh và yêu cầu mỗi <br />
nhóm phải chuẩn bị kĩ phần việc của nhóm mình. Giáo viên chia lớp làm ba nhóm <br />
mỗi nhóm phải có nhóm trưởng, nhóm phó để đôn đốc các thành viên và chịu trách <br />
nhiệm chung cho cả nhóm. Phần việc giao cho mỗi nhóm như sau: Nhận xét về cơ <br />
sở của tình đồng chí. (Nhóm 1) Tìm những hiện biểu hiện của tình đồng chí. <br />
(Nhóm 2) Tình đồng chí có những vẻ đẹp tiêu biểu nào?(Nhóm 3). Khi đã phân <br />
công học sinh về nhà chuẩn bị như trên thì khi lên lớp, giáo viên giảng bài học sinh <br />
sẽ dễ tiếp thu và sau tiết học các em sẽ dễ dàng thành lập được sơ đồ tư duy như <br />
sau: <br />
Sơ đồ tư duy về bài thơ “Đồng chí”:<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Có thể khẳng định rằng, nếu công việc này được giáo viên làm một cách <br />
đều đặn và tâm huyết thì giờ học văn bản sẽ đạt được kết quả như mong đợi. Ưu <br />
điểm của cách làm này là tiết kiệm được thời gian khi lên lớp, phát huy được cách <br />
học hợp tác, vấn đề trọng tâm của bài học sẽ được mổ xẻ một cách sâu sắc hơn.. <br />
<br />
11<br />
Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở một số tiết học tác phẩm văn chương <br />
cụ thể:<br />
Bài 1 : Chuyện người con gái Nam Xương. <br />
+ Giáo viên lưu ý học sinh khi chuẩn bị bài cần soan kỹ câu số 2,3,4 và 5 <br />
trong phần hướng dẫn học bài để cùng thảo luận, tranh luận ở trên lớp.<br />
+ Tưởng tượng cảnh Vũ Nương sau khi chết xuống thủy cung và được giải <br />
oan…<br />
+ Tìm một số bài thơ, truyện viết về số phận người phụ nữ trong xã hôi cũ.<br />
Bài 2: Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải) Giáo viên hướng dẫn HS chuẩn bị <br />
kĩ vấn đề sau khi soạn bài này để trao đổi trên lớp: <br />
+ Suy nghĩ về quan niệm sống của nhà thơ được thể hiện trong bài thơ.<br />
+ Mỗi người bày tỏ quan niệm sống của mình trong thời đại hiện nay. <br />
3. Biện pháp tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.<br />
* Đối với giáo viên: <br />
Phải nắm vững nội dung bài giảng và trọng tâm bài dạy để đặt câu hỏi <br />
hướng vào nội dung bài học. Việc đặt câu hỏi phải phù hợp với từng đối tượng <br />
học sinh cụ thể, từng lớp học, từng điều kiện có thể có. Tránh đặt câu hỏi máy <br />
móc, hỏi cho có, tránh lạm dụng trong việc đặt câu hỏi để rơi vào tình trạng dạy <br />
học hỏi đáp máy mọc đơn điệu. <br />
Việc đặt câu hỏi phải phù hợp với phương pháp giảng dạy mà mình đã lựa <br />
chọn: Nêu vấn đề, đàm thoại, giảng bình…và lượng câu hỏi phải hết sức hợp lí. <br />
Nội dung câu hỏi phải đảm bảo các yêu cầu về cung cấp kiến thức; rèn luyện kĩ <br />
năng; giáo dục tư tưởng, nhân cách ở học sinh. <br />
Điều quan trọng nhất đối với giáo viên là khâu soạn giáo án. Để giáo án có <br />
chất lượng phải có hệ thống câu hỏi chuẩn, hợp lí. Các câu hỏi trọng tâm của bài <br />
giảng phải cho học sinh nắm trước trong câu hỏi chuẩn bị bài ở nhà. <br />
* Đối với học sinh: <br />
Khâu soạn bài: Học sinh đọc văn bản, chuẩn bị bài theo câu hỏi mà giáo <br />
viên <br />
đã cho, đã hướng dẫn. Tuỳ loại câu hỏi giáo viên phân công học sinh chuẩn bị theo <br />
tổ, nhóm, hoặc theo cá nhân.<br />
<br />
12<br />
Tham gia xây dựng bài: Động viên khích lệ học sinh bằng điểm số khi các <br />
em tham gia xây dựng bài. Tạo không khí đối thoại thoải mái trong tiết học giữa <br />
thầy và trò, giữa học sinh với học sinh, tranh luận giữa các nhóm học sinh với nhau <br />
để phát huy tư duy sáng tạo của học sinh, tránh việc áp đặt kiến thức mang tính <br />
chủ quan của người dạy, cần trân trọng khen ngợi, động viên những khám phá <br />
phát hiện độc đáo mới lạ của các em trong quá trình tìm hiểu tác phẩm văn học.<br />
Hứng thú học tập là ngọn nguồn giúp cho học sinh cảm thụ sâu sắc giá trị <br />
của đời sống văn hoá nhân loại. Phát huy trí lực, chú trọng tới hứng thú học tập <br />
của học sinh là hướng đi tích cực của phương pháp dạy học văn hiện nay. Tuy <br />
nhiên, để biến những lý luận trên thành hiện thực đòi hỏi người thầy ngoài tri thức <br />
khoa học cần phải có lòng yêu nghề, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục và đào tạo <br />
và phải có thêm niềm tin vào học sinh, những chủ nhân tương lai của đất nước.<br />
Từ mục tiêu trên, chúng tôi mạnh dạn đưa ra những biện pháp trong việc lựa <br />
chọn hệ thống câu hỏi nhằm tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập <br />
hợp tác, phát huy tư duy, sáng tạo của học sinh như sau: <br />
a. Yêu cầu của các loại câu hỏi: <br />
Câu hỏi phải gợi mở để tìm tòi vấn đề, phải đạt được mục đích kích <br />
thích sự cảm thụ của học sinh với tác phẩm, phải gây được những phản ứng <br />
bên trong của học sinh. <br />
Không nên đưa những dạng câu hỏi mà chỉ yêu cầu học sinh trả lời có hoặc <br />
không. Ví dụ: Khi giảng văn bản Bố của Ximông (Ngữ văn 9) chúng ta không nên <br />
đặt những câu hỏi như: Đọc xong văn bản, em thấy chị Blăng sốt có phải là một <br />
người phụ nữ hư hỏng không? Mà chúng ta phải đặt những câu hỏi nhằm giúp các <br />
em tìm kiếm, phát hiện: Qua hình ảnh ngôi nhà của chị Blăng sốt, thái độ của chị <br />
đối với khách và nỗi lòng của chị khi nghe con nói em cảm nhận chị là người như <br />
thế nào?(Chị Blăng –sốt là người phụ nữ một thời lầm lỡ khiến Xi – mông trở <br />
thành đứa con không có bố. Nhưng thực ra chị là người phụ nữ đức hạnh, <br />
đứng đắn, nghiêm túc)<br />
Câu hỏi phải tác động đến cảm xúc và rung động thẩm mỹ, đặc biệt là <br />
tác động đến trực giác của học sinh. <br />
Ở dạng câu hỏi này giáo viên phải biết chọn lựa những chi tiết nghệ thuật <br />
đặc sắc, có tác dụng thẫm mỹ cao. Ví dụ: Cách sử dụng các từ “Ta làm” ở 3 câu <br />
<br />
13<br />
thơ trong khổ thơ thứ 3 trong bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải gợi tả <br />
được điều gì? (Điệp ngữ “ta làm”diễn tả một cách tha thiết khát vọng được <br />
hòa nhập vào cuộc sống của đất nước, được cống hiến phần tốt đẹp – dù <br />
nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước.)<br />
Hình ảnh “con chim, cành hoa, nốt trầm” trong đoạn thơ có ý nghĩa gì? <br />
(Hình ảnh con chim, nhành hoa, nốt trầm đó là những hình ảnh đẹp, giản dị <br />
nhưng có một ý nghĩa lớn lao: Tác giả muốn nói lên ước nguyện phải đóng <br />
góp những gì tươi đẹp nhất cho cuộc đời, cho đất nước, dù đó là sự cống hiến <br />
khiêm nhường, giản dị. Điều đó không chỉ ước muốn của riêng tác giả mà là <br />
của tất cả mọi người, tất cả chúng ta. Thông qua việc chuyển đổi đại từ “tôi’ <br />
sang “ta”, nguyện ước riêng đã trở thành nguyện ước chung)<br />
Câu hỏi phải hướng vào thao tác tư duy: Phân tích, tổng hợp, khái quát. <br />
Chẳng hạn khi củng cố bài hay kiểm tra bài cũ học sinh cần tránh những câu <br />
hỏi như sau: Em hãy đọc thuộc lòng bài thơ và cho biết nội dung, nghệ thuật của <br />
bài. Dạng câu hỏi này không có tác dụng phát huy sự sáng tạo, tính tích cực của <br />
học sinh vì chỉ cần chăm chỉ học thuộc phần ghi nhớ cuối sách giáo khoa chứ <br />
không cần tư duy nhiều là học sinh trả lời được. Hơn nữa, câu hỏi này sẽ gây cho <br />
học sinh thói quen có hại đó là thói quen học thuộc một cách máy móc.<br />
Có thể thay dạng câu hỏi này bằng một câu hỏi có sức gợi hơn. Ví dụ: Để <br />
kiểm tra kiến thức cũ bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu trong chương trình Ngữ <br />
văn lớp 9 thì giáo viên có thể hỏi như sau:<br />
1. Qua bài thơ “Nói với con”, em thích nhất đoạn thơ nào? Vì sao? Hãy đọc <br />
đoạn thơ đó với ngữ điệu sao cho phù hợp với những điều mà em vừa giải thích?<br />
( Học sinh có thể trả lời em thích khổ thơ nào trong bài thơ cũng được. Miễn <br />
là các em giải thích được lí do mình thích và đọc thuộc lòng đúng đoạn thơ đó)<br />
2. Em có nhận xét gì về cách sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh của tác giả trong <br />
bài thơ? Cách viết đó có tác dụng gì trong việc thể hiện nội dung bài? Từ đó, em <br />
hãy khái quát tư tưởng chủ đề của bài thơ. (Qua bài thơ “Nói với con”, bằng từ <br />
ngữ, hình ảnh giàu sức gợi cảm, Y Phương đã thể hiện tình cảm gia đình ấm <br />
cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân <br />
tộc mình. Bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một <br />
<br />
14<br />
dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương <br />
và ý chí vươn lên trong cuộc sống)<br />
Với những câu hỏi này, đòi hỏi học sinh phải có sự hiểu biết, cảm thụ sâu <br />
sắc<br />
về tác phẩm đồng thời phải có cách trả lời sao cho đáp ứng được yêu cầu của câu <br />
hỏi. Loại câu hỏi này vừa giúp giáo viên đánh giá được kiến thức, sự cảm thụ vừa <br />
rèn luyện kĩ năng diễn đạt trong môn Ngữ văn đồng thời cũng phát huy được tư <br />
duy sáng tạo, tính tích cực, chủ động của học sinh. Sở dĩ như vậy vì học sinh phải <br />
dựa vào quá trình phân tích tác phẩm để nhận biết những chi tiết nghệ thuật mà <br />
tác giả sử dụng (đây là yêu cầu nhận biết). Sau khi nhận biết, học sinh phải lí giải <br />
được tác dụng của những chi tiết nghệ thuật ấy tức là phải lí giải được câu hỏi <br />
viết để làm gì? (đây là yêu cầu tư duy, cảm thụ). Cuối cùng học sinh phải chủ <br />
động tổng hợp khái quát những vấn đề do chính học sinh đã phân tích ở trên.<br />
Phải có câu hỏi then chốt, trọng tâm với mục đích yêu cầu của bài, <br />
tránh đưa ra những câu hỏi chung chung mơ hồ, vụn vặt không có sự tư duy, <br />
sáng tạo. <br />
Ví dụ: Khi dạy bài “Cố Hương” (Ngữ văn 9 Lỗ Tấn) chúng ta có thể đặt <br />
câu hỏi: Qua sự thay đổi của nhân vật Nhuận Thổ và hình ảnh Cố hương đã phản <br />
ánh điều gì? Với câu hỏi này giáo viên giúp học sinh cảm nhận được bức tranh <br />
hiện thực của xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ thật thê lương ảm đạm; Con người <br />
sa sút cả về tâm hồn lẫn tính cách. Đó chính là tinh thần phê phán xã hội phong <br />
kiến một cách sâu sắc của Lỗ Tấn.<br />
Hệ thống câu hỏi phải được sắp đặt hợp lý, được xác định phù hợp <br />
với đối tượng và phân loại đối tượng.<br />
Kiểm tra bài cũ ở các đối tượng học sinh giáo viên tổ chức như sau:<br />
Tổ chức trò chơi ai nhanh hơn:<br />
Giáo viên phổ biến luật chơi: Cô sẽ cho các em xem một số hình ảnh và sau <br />
đó chúng ta sẽ trả lời các câu hỏi phía dưới. Ai có câu trả lời đúng, nhanh nhất sẽ <br />
được cộng thêm điểm.<br />
Để tổ chức kiểm tra bài cũ theo phương pháp này giáo viên sưu tầm những <br />
hình ảnh phục vụ tốt cho kiến thức cần kiểm tra, sau đó trình chiếu cho học sinh <br />
<br />
<br />
15<br />
xem rồi đặt câu hỏi. Ví dụ: Để kiểm tra bài “Những ngôi sao xa xôi” trong chương <br />
trình Ngữ văn lớp 9, giáo viên cho các em xem hình ảnh sau:<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Đặt các câu hỏi:<br />
Hình ảnh các em vừa xem đại diện cho thế hệ nào trong cuộc kháng chiến <br />
chống Mĩ cứu nước?<br />
Em biết về họ qua văn bản nào đã được học trong chương trình Ngữ văn <br />
lớp 9? <br />
Từ đó hãy giới thiệu những phẩm chất đáng quý nhất về họ mà em biết. <br />
Qua những vẻ đẹp đó của họ em học tập được điều gì ? <br />
(Hình ảnh trên đại diện cho những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến <br />
đường Trường Sơn thời chống Mĩ, qua văn bản “Những ngôi sao xa xôi” của <br />
nữ nhà văn Lê Minh Khuê. Họ là những cô gái xinh xắn, đáng yêu, tuổi đời <br />
mười tám, đôi mươi. Họ sống lạc quan, hồn nhiên, yêu đời, yêu quê hương, <br />
đất nước sâu sắc. Giàu tình yêu thương đồng đội và rất dũng cảm. Họ sẵn <br />
16<br />
sàng hy sinh cuộc đời mình để cứu nước... Đó là những phẩm chất đáng quý <br />
của các cô gái thanh niên xung phong thời chống Mĩ mà chúng ta phải học <br />
tập).<br />
Với cách tổ chức và sử dụng các câu hỏi trên, giáo viên sẽ rất dễ dàng kiểm <br />
tra được các đối tượng học sinh. Hai câu đầu dành cho học sinh yếu, trung bình; <br />
hai câu sau dành cho đối tượng học sinh khá, giỏi. <br />
Tóm lại, yêu cầu của câu hỏi trong giờ giảng văn phải vừa tạo ra sự kích <br />
thích, vừa tác động đến nhận thức, tư duy của học sinh. Việc đưa ra câu hỏi phải <br />
căn cứ vào nội dung bài học, vào đối tượng học sinh, vào điều kiện khách quan… <br />
để có cách đặt câu hỏi, cách lựa chọn hình thức câu hỏi và sử dụng lượng câu hỏi <br />
thích hợp giúp các em lĩnh hội tác phẩm văn chương một cách hiệu quả nhất.<br />
4. Các dạng câu hỏi sử dụng trong giờ học văn bản. <br />
Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức của học sinh, kết hợp phương <br />
pháp dạy học, có thể phân ra các loại câu hỏi sau: <br />
(1) Câu hỏi tái hiện : Giáo viên đặt ra những câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh <br />
nhớ lại kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Loại câu <br />
hỏi này giúp học sinh tái hiện thế giới nghệ thuật của tác phẩm như: Các hình <br />
ảnh, hình tượng, chi tiết nghệ thuật, nhân vật, bức tranh đời sống qua sự phản <br />
ảnh…Các câu hỏi này có khả năng khơi dậy sự liên tưởng, tưởng tượng trong quá <br />
trình tiếp nhận ở học sinh. Đó là một biện pháp được sử dụng khi cần đặt mối <br />
liên hệ giữa kiến thức đã học với kiến thức sắp học, hoặc củng cố kiến thức vừa <br />
mới học. <br />
Ví dụ: Khi dạy văn bản Làng của Kim Lân (văn 9 tập 1), giáo viên có thể <br />
hỏi: Trước khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, tâm trạng của ông Hai như thế <br />
nào? Tâm trạng đó được thể hiện qua những hành động nào ? <br />
+ HS điểm qua một vài chi tiết như: <br />
Ông khoe làng ông giàu đẹp <br />
Không khí cách mạng của làng sôi nổi.<br />
Ông buộc phải tản cư, ở nơi tản cư ông luôn khoe về làng mình. <br />
Khi kể , ông kể say sưa, 2 con mắt sáng, cái mặt biến chuyển.<br />
Khi đi tản cư ông nhớ làng, nhớ hoạt động kháng chiến.<br />
Ông nghe được nhiều tin hay tin chiến thắng của quân ta, ruột gan ông <br />
múa lên vui quá.<br />
17<br />
+ HS cảm nhận: Tất cả thể hiện tâm trạng vui sướng, tự hào, hãnh diện <br />
ông Hai về làng quê của mình khi tham gia hoạt động kháng chiến.<br />
(2) Câu hỏi yêu cầu giải thích, minh hoạ: Loại câu hỏi này nhằm mục <br />
đích làm sáng tỏ một khái niệm, đề tài nào đó. Giáo viên lần lượt nêu ra những câu <br />
hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ để giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Phương <br />
pháp này được áp dụng có hiệu quả trong một số trường hợp như khi Giáo viên <br />
biểu diễn phương tiện trực quan (băng ghi hình, máy chiếu) <br />
Ví dụ: Em hãy quan sat cac b<br />
́ ́ ưc tranh và đ<br />
́ ọc lại bài thơ “Sang thu” của Hưũ <br />
̉<br />
Thinh?<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
(3) Câu hỏi tìm tòi (vấn đáp phát hiện) <br />
Đây là loại câu hỏi trọng tâm nhất trong một giờ học văn. Sự cảm thụ tác <br />
phẩm của học sinh phải qua con đường của nhận thức. Để học sinh nắm bắt <br />
chính xác tác phẩm, người giáo viên phải đặt những câu hỏi khơi dậy tư duy ở các <br />
em. Cần tổ chức việc trao đổi ý kiến kể cả tranh luận giữa thầy với cả lớp, <br />
giữa trò với trò, thông qua đó các em nắm được tri thức mới do chính mình tìm tòi <br />
phát hiện. Hệ thống câu hỏi được sắp đặt hợp lý nhằm phát hiện, đặt ra và giải <br />
quyết một vấn đề xác định, buộc học sinh phải liên tục cố gắng, tìm tòi lời giải <br />
đáp. Trong vấn đáp tìm tòi, hệ thống câu hỏi của người thầy giữ vai trò chỉ đạo, <br />
18<br />
quyết định chất lượng lĩnh hội của lớp học.Trật tự logic của các câu hỏi hướng <br />
dẫn học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, quy luật của hiện <br />
tượng, kích thích tính tích cực tìm tòi, sự ham muốn hiểu biết ở các em. Ở đây giáo <br />
viên là người tổ chức sự tìm tòi còn học sinh là người tự lực phát hiện kiến thức <br />
mới, vì vậy kết thúc cuộc đàm thoại học sinh có được niềm vui của sự khám phá, <br />
vừa nắm được kiến thức mới, vừa nắm được cách thức đi tới kiến thức đó, <br />
trưởng thành thêm một bước về trình độ tư duy. Cuối đoạn đàm thoại, Giáo viên <br />
cần biết vận dụng các ý kiến của học sinh để kết luận vấn đề đặt ra, dĩ nhiên là <br />
có bổ sung, chỉnh lí khi cần thiết. Làm được như vậy, học sinh càng hứng thú, tự <br />
tin vì thấy trong kết luận của thầy có phần đóng góp ý kiến của mình. <br />
Để học sinh tìm tòi được kiến thức trong giờ học văn bản, có thể đưa ra <br />
nhiều dạng câu hỏi khác nhau: <br />
* Câu hỏi nêu vấn đề: Câu hỏi nêu vấn đề có liên quan chặt chẽ đến vấn <br />
đề và tình huống có vấn đề. Loại câu hỏi này phải làm rõ được vấn đề tiềm ẩn <br />
trong tác phẩm, phải gây hứng thú nhận thức cho học sinh và phải động viên, <br />
khuyến khích học sinh giải quyết vấn đề đã nêu. <br />
Ví dụ 1: Khi dạy bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải (Ngữ Văn 9 tập <br />
2), Giáo viên có thể hỏi: hình ảnh: Từng giọt long lanh rơi <br />
Tôi đưa tay tôi hứng .<br />
Có người cho rằng đây là giọt mưa mùa xuân, giọt sương xuân. Có người lại <br />
cho rằng đó là giọt âm thanh của tiếng chim. Em tán thành ý kiến nào? Vì sao?<br />
Câu hỏi này đặt ra khi phân tích phần đầu của bài thơ. Để giúp HS giải <br />
quyết được vấn đề trên, GV có thể gợi mở giúp cho HS thấy được mối liên hệ <br />
giữa 2 câu thơ này với 2 câu thơ trước. Với cum từ “Tôi đưa tay tôi hứng” HS cảm <br />
nhận đượctiếng chim đang vang xa bỗng gần lại, rõ ràng, tròn trịa như kết thành <br />
những giọt sương óng ánh sắc màu thật tuyệt. Ở đây có sự chuyển đổi cảm giác: <br />
từ thính giác sang thị giác rồi xúc giác đưa tay hứng. Thể hiện niềm say mê, sự <br />
nâng niu trân trọng của tác giả trước vẻ đẹp mùa xuân. Tuy nhiên dù hiểu thế nào <br />
(giọt mưa mùa xuân, sương xuân hay giọt âm thanh của tiếng chim) thì đó cũng là <br />
sự cảm nhận vô cùng tài hoa, tinh tế của nhà thơ.<br />
Ví dụ 2: Nói về chi tiết chiếc bóng trong tác phẩm "Chuyện người con gái <br />
Nam Xương" của Nguyễn Dữ, có ý kiến cho rằng: "Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn <br />
lớn". Em có ý kiến gì về vấn đề trên?<br />
19<br />
Câu hỏi này đặt ra khi phân tích hình ảnh chiếc bóng. Giáo viên giúp HS giải <br />
quyết vấn đề bằng những câu hỏi gợi mở để tìm ra giá trị nội dung và nghệ thuật <br />
của chi tiết chiếc bóng. HS có thể nêu được một số ý như sau:<br />
a. Giá trị nội dung:<br />
"Chiếc bóng" tô đậm thêm nét đẹp phẩm chất của Vũ Nương trong vai trò ng<br />
ười vợ, người mẹ. Đó là nỗi nhớ thương, sự thuỷ chung, ước muốn đồng nhất "xa <br />
mặt nhưng không cách lòng" với người chồng nơi chiến trận; đó là tấm lòng người <br />
mẹ muốn khoả lấp sự trống vắng, thiếu hụt tình cảm người cha trong lòng đứa con <br />
thơ bé bỏng.<br />
"Chiế