SKKN: Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn bậc THPT
lượt xem 2
download
Về thực tiễn áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này trong nhà trường đã mang lại một kết quả khả quan rõ rệt. Phía giáo viên tham gia bồi dưỡng có được sự chủ động mạnh dạn , ít gặp những lúng túng và vướng mắc như trước đây khi chưa áp dụng chuyên đề. Chuyên đề đã tiết kiệm và rút ngắn được nhiều thời gian trong một thời lượng cho phép bồi dưỡng là quá ngắn mà vẫn đảm bảo được những kiến thức và kỹ năng cần thiết cho các em tham gia kỳ thi học sinh giỏi.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: SKKN: Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn bậc THPT
- SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC TRƯỜNG THPT NGUYỄN VIẾT XUÂN BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN Tên sáng kiến: BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Tác giả sáng kiến : Đào Thị Hằng Mã sáng kiến : 22.51.01 Vĩnh Phúc, năm 2019
- MỤC LỤC 1. Lời giới thiệu...........................................................................................2 2. Tên sáng kiến...........................................................................................2 3. Tác giả sáng kiến................................................................................................2 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến......................................................................2 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến.......................................................................2 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử............................2 7. Mô tả bản chất của sáng kiến...................................................................2 7.1. Về lý do chọn đề tài...........................................................................3 7.2 Thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến...............................................4 7.3 Nội dung sáng kiến.............................................................................5 8. Những thông tin cần được bảo mật..................................................................26 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến.................................................26 10 Đánh giá lợi ích thu được.................................................................................27 11. Bài học kinh nghiệm.........................................................................................27 12. Kết luận............................................................................................................27 13. Tài liệu tham khảo............................................................................................28 1
- BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1 – Lời giới thiệu Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi cấp học nào , môn học nào cũng vô cùng quan trọng . Bồi dưỡng học sinh giỏi môn ngữ văn bậc THPT có đặc trưng riêng đòi hỏi người thầy phải dày công nghiên cứu tài liệu , sắp xếp theo dạng đề , hướng dẫn học sinh tìm hiểu tài liệu , tổng hợp và ứng dụng theo các dạng .Với kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi nhiều năm tôi xin trình bày sáng kiến Bồi dưỡng học sinh giỏi môn ngữ văn bậc THPT 2 Tên sáng ki ến: BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 3 Tác giả sáng kiến Họ và tên : Đào Thị Hằng Địa chỉ tác giả sáng kiến : Trường THPT Nguyễn Viết Xuân – Vĩnh Tường – Vĩnh Phúc. Số điện thoại : 0987.957.439 Email: daohangnvx@gmail.com 4 Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến Đào Thị Hằng, Trường THPT Nguyễn Viết Xuân – Vĩnh Tường Vĩnh Phúc 2
- 5– Lĩnh vực áp dụng sáng kiến : Giáo dục ở bậc trung học phổ thông . 6– Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Từ tháng 8/2018 đến tháng 1/2019 7– Mô tả bản chất của sáng kiến: Tôi đưa ra cơ sở lý luận và minh họa cụ thể sáng kiến này bằng kiến thức và kinh nghiệm thực tế bồi dưỡng học sinh giỏi nhiều năm . Tôi đã áp dụng sáng kiến này vào ôn thi học sinh giỏi ở đơn vị kết quả thu được : học sinh hứng thú học tập ,thi học sinh giỏi thực tế kết quả rất khả quan . 7.1, Về lý do chọn đề tài ; Nghề dạy học là một nghề cao quý. Người giáo viên khi đã chọn nghề giáo là đã thể hiện lòng yêu nghề. Người dạy học là kỹ sư xây đắp tâm hồn và mục tiêu quan trọng là đào tạo ra những học sinh giỏi, những mầm mống tương lai của đất nước. Nhưng một trong những niềm sung sướng vinh dự, hạnh phúc nhất trong cuộc đời người giáo viên là đào tạo và bồi dưỡng được những học sinh giỏi. Để có được học sinh giỏi thì ngòai năng lực, tố chất của học sinh còn cần có công lao bồi dưỡng của người thầy là điều không thể phủ nhận được. Là một giáo viên văn đứng lớp giảng dạy nhiều năm và đã từng tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi qua một số năm học tôi đã cảm nhận được điều đó. Mỗi môn học trong nhà trường việc học và dạy đều có đặc thù riêng của nó. Môn văn cũng không nằm ngòai lệ đó. Phương pháp dạy và học văn đã được nói và bàn luận rất nhiều từ trước đến nay. Học như thế nào cho tốt? dạy như thế nào cho thật sự có hiệu quả? Đó là điều băn khoăn trăn trở của mỗi giáo viên dạy môn văn khi đứng lớp. Một tiết dạy bình thường trên lớp cũng cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng mới có thể dạy tốt được và mang lại hiệu quả được. Nhưng một tiết dạy bồi dưỡng học sinh giỏi còn có yêu cầu cao hơn rất nhiều . Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là nhiệm vụ nặng nề nhưng cũng rất đỗi vinh dự cho người giáo viên khi tham gia bồi dưỡng. Câu hỏi mà bất cứ ai khi tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi cũng luôn đặt ra là làm thế nào cho thật sự đạt kết quả tốt nhất trong khỏang thời gian hơn 2 tháng ngắn ngủi? Làm sao để các em phát huy 3
- hết năng lực của mình trên một thời gian làm bài trong mấy giờ ấn định ? Làm thế nàơ để công lao vất vả của thầy và trò không bị uổng phí ? Làm sao để mang lại niềm vinh dự cho bản thân của các em và thành tích của nhà trường ? Mối băn khoăn đó luôn thường trực trong suy nghĩ của tôi trong những năm Bằng tất cả mọi nỗ lực của mình trong suy nghĩ, tìm tòi, trao đổi, thảo luận với các đồng nghiệp trong trường và các đồng nghiệp khác trong ngành giáo dục cùng với việc cọ xát thực sự trong thực tiễn trải nghiệm công tác bồi dưỡng học sinh giỏi văn ở khối 12 qua một số năm học, tôi mạnh dạn chia sẻ một số ý kiến, suy nghĩ của mình. Bởi công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là khá quan trọng và rất nặng trong thực tiễn giảng dạy. Mỗi giáo viên có một phương pháp, cách thức riêng của mình. Bản thân tôi cũng đã lắng nghe ,suy ngẫm và trao đổi với một số thầy cô về công tác này. Nhưng đây là cái nhìn có những điểm giống và chưa giống với ý kiến của một số đồng nghiệp khác. Và thực tế đây chính là vấn đề cũng quan trọng nhưng chưa nhiều những sáng kiến kinh nghiệm đề cập tới. Vì vậy tôi mạnh dạn trình bày ý kiến về chuyên đề của mình với mong ước và hy vọng là chia sẻ cùng nhau để góp phần trao đổi kinh nghiệm, học tập lẫn nhau. Bằng những trải nghiệm của bản thân qua thực tiễn giảng dạy, tôi mạnh dạn đề nghị sáng kiến kinh nghiệm: Bồi dưỡng học sinh giỏi môn ngữ văn bậc THPT . 7.2 Thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến 7.2. 1 Thu ận lợi: Các yếu tố chủ quan có ảnh hưởng tích cực tới đề tài: + Là nhóm trưởng và là giáo viên đứng lớp qua nhiều năm kinh nghiệm và nghiên cứu giảng dạy, tôi dành nhiều thời gian và tâm huyết để nghiên cứu suy ngẫm về chuyên môn, về tính hiệu quả của giờ lên lớp, đặc biệt là giờ dạy bồi dưỡng học sinh giỏi. + Bản thân chịu khó tìm tòi, đọc tham khảo nhiều tài liệu, các tác phẩm văn học, các sách nghiên cứu lý luận phê bình văn học, các sách báo khác. Tiếp cận với các đề thi học sinh giỏi tỉnh, học sinh giỏi quốc gia, các đề học sinh giỏi ở các tỉnh khác.v.v... có ghi chép, tích lũy,cập nhật thường xuyên. 4
- + Bản thân trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp trong và ngòai trường để học hỏi và áp dụng vào quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi . Yếu tố khách quan ảnh hưởng tích cực đến vấn đề liên quan đến đề tài: + Ban giám hiệu, lãnh đạo nhà trường có sự quan tâm, động viên sâu sắc đúng mức đến công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. 7.2. 2 Khó khăn : Trường ở địa bàn nông thôn tài liệu sách báo tham khảo ở thư viện còn hạn chế. Chưa có đủ tư liệu để học sinh và giáo viên tham khảo, nghiên cứu một cách thoải mái, dễ dàng. Tinh thần học tập và sự quan tâm của học sinh chưa cao về môn văn. Học sinh sôi nổi tham gia vào đội tuyển học sinh giỏi văn ít so với các đội tuyển khác. Nhiều học sinh giỏi một lúc nhiều bộ môn có ý thức coi nhẹ môn văn, có học sinh không được chọn vào đội tuyển các môn tự nhiên, môn anh văn mới chịu vào đội tuyển văn. 7.2. 3 S ố liệu thống kê: Trước khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm thì kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi qua một số năm học như sau: Từ 2007 – 2008 đội tuyển là 10 em nhưng chỉ đạt 2 giải khuyến khích Từ 2009 – 2010 đội tuyển 10 em thì chỉ có 3 em đạt giải khuyến khích. Nhưng sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào thực tiễn bồi dưỡng học sinh giỏi từ 2011 đến nay thì kết quả thay đổi rõ rệt. Học sinh chủ động và lạc quan khi tham gia vào đội tuyển ,học tập sôi nổi có hứng thú và tin tưởng vào kết quả khi làm bài. Chủ động tích cực trong việc học tập, nghiên cứu trong sự giúp đỡ hướng dẫn của giáo viên bồi dưỡng. Hàng năm có từ 1012 em tham gia vào đội tuyển đều đạt kết quả rất khả quan. Số lượng học sinh giỏi tỉnh tăng rất nhiều so với trước đây. Liên tiếp trong nhiều năm đều có 4 6 em đạt giải và đặc biệt đã có giải nhì , giải ba ... Đó là một điều đáng phấn khởi và khích lệ. 7.3 Nội dung sáng kiến : 5
- 7.3. 1. C ơ sở lý luận : Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một nhiệm vụ rất quan trọng, lớn lao, khó khăn nhưng rất đỗi vinh dự. Học sinh giỏi thường là học sinh có tố chất đặc biệt khác các học sinh khác về kiến thức, khả năng cảm thụ, khả năng tư duy và nhất là khả năng viết. Như vậy tiết dạy bồi dưỡng học sinh giỏi đòi hỏi giáo viên phải có sự chuẩn bị và đầu tư nhiều hơn là tiết dạy bình thường trên lớp ,thậm chí phải có quá trình tích lũy kinh nghiệm qua thời gian mới có thể đạt hiệu quả và thuyết phục học sinh ,làm cho các em thực sự hứng thú và tin tưởng. Đó là yêu cầu của ban giám hiệu ,lãnh đạo nhà trường và cũng là mục tiêu của người bồi dưỡng.Giáo viên tham gia bồi dưỡng phải có sự học tập và trao dồi rất nhiều cùng với lòng nhiệt huyết, quyết tâm cao mới có thể đáp ứng được yêu cầu của công việc.Bỡi vì đặc thù của học sinh giỏi là có những điểm rất khác so với một học sinh bình thường từ kiến thức, tư duy cho đến việc cảm nhận tác phẩm,kĩ năng viết v.v...Nghĩa là yêu cầu rất cao và khó khi thực hiện nhiệm vụ này để làm sao đạt kết quả tốt .Với bề dày thời gian công tác giảng dạy và qua một số năm bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 12 tôi nhận thấy có một vài suy nghĩ về kinh nghiệm là làm sao trong vài tháng ít ỏi mà có thể có được những thành công nhất định. Từ các đồng nghiệp và qua trao đổi một số trường, tôi cũng lắng nghe được ý kiến này, ý kiến khác song chưa thấy có chuyên đề cụ thể nào trình bày về công tác bồi dưõng học sinh giỏi, hoặc có trình bày ở những chuyên đề có sự liên quan nhưng chưa được phân tích đúng mức. Vậy nên với chuyên đề này tôi mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ của mình với mong muốn góp phần trao đổi kinh nghiệm, chia xẻ học tập lẫn nhau để cùng tiến bộ. Đó cũng là nội dung, mục đích hướng tới của sáng kiến kinh nghiệm . 7,3, 2. N ội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của sáng ki ến : Biết rằng kiến thức, phương pháp để tiếp nhận và tìm hiểu văn học vô cùng phong phú , khó có thể nói hết được. Mỗi giáo viên bồi dưỡng và người tìm hiểu văn học đều có góc nhìn và cảm nhận riêng. Song trong khuôn khổ chuyên đề này người viết chỉ đưa ra một số nội dung vấn đề mình tự nhận thấy và rút ra được qua thực tiễn bồi dưỡng học sinh giỏi. Nội dung của chuyên đề cụ thể như sau: 6
- Giáo viên cung cấp cho học sinh những tên sách, danh mục sách, lọai sách và yêu cầu học sinh tìm đọc ở thư viện và các nguồn khác. Giáo viên bồi dưỡng phải có kế họach, phương pháp yêu cầu học sinh phải có tinh thần tự học, tự vận động là vấn đề quan trọng trong thời gian bồi dưỡng. Giáo viên phải có biện pháp kiểm tra, nắm bắt vấn đề tự học và nghiên cứu của học sinh. Giáo viên cung cấp cho học sinh và yêu cầu học sinh sưu tầm ghi chép vào một cuốn vở riêng những lời nhận định, đánh giá sắc nét, độc đáo của các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu lý luận phê bình văn học và những câu thơ, đọan thơ hay của nhiều tác giả văn học qua các giai đọan văn học gắn với các chuyên đề mà giáo viên bồi dưỡng. Giáo viên lựa chọn một số chuyên đề quan trọng gắn với chương trình thi để giúp học sinh đi vào nắm bắt kiến thức của các chuyên đề đó có chiều sâu và rộng. Chọn lọc một số đề thi qua các kỳ thi học sinh giỏi tỉnh, có thể đề thi tòan quốc qua một số năm để hướng dẫn học sinh cách tiếp cận đề, hiểu đề nắm yêu cầu đề ra, định hướng ,lập ý và tìm ý cho một bài văn nghị luận. Ra đề và làm trên lớp, kể cả bài viết ở nhà để học sinh viết theo thời gian ấn định. Giáo viên chấm, phát hiện những ưu và nhược điểm của mỗi học sinh. Chữa lỗi bài làm của học sinh cẩn thận, đầy đủ. Giúp học sinh thấy và phát huy những mặt tốt và khắc phục được những điểm còn hạn chế. *. Giáo viên cung cấp cho học sinh những tên sách, danh mục sách, lọai sách và yêu cầu học sinh tìm đọc ở thư viện và các nguồn khác. Sau khi đã tuyển chọn, lập đội tuyển học sinh giỏi, thời gian bồi dưỡng còn hơn 2 tháng là đến ngày thi. Nhưng nếu xác định trước những học sinh sẽ vào đội tuyển lớp 12 từ cuối năm 11, từ khi nghỉ hè thì giáo viên sẽ hướng dẫn cho học sinh các lọai sách, tên sách để học sinh tìm đọc hoặc cho học sinh muợn đọc một số sách cần thiết mà giáo viên có hoặc là mượn và trao đổi cùng các đồng nghiệp. Đối với một học sinh giỏi thì yêu cầu kiến thức phải thực sự phong phú và sâu rộng thì các em mới chủ động ,mạnh dạn và phóng túng trong làm bài. Kiến thức mỏng và nghèo nàn thì không thể tránh khỏi những lúng túng,ngập 7
- ngượng trong bài viết. Các sách này có thể là các tác phẩm văn học của các tác giả lớn mà các em đã được học chính khóa nhưng cần phải đọc nhiều ,biết rộng hơn rất nhiều so với nội dung học ở sách giáo khoa. Chẳng hạn như khi học Nam Cao, một học sinh giỏi văn không chỉ biết tác phẩm Chí Phèo, Đời Thừa, Lão Hạc mà cần phải đọc rộng và am hiểu thêm nhiều truyện ngắn của Nam Cao trước cách mạng tháng tám và cả sau cách mạng tháng tám. Ngòai việc nắm và cảm thụ tác phẩm văn học học sinh còn cần phải đọc các sách nghiên cứu lý luận phê bình về văn học mới thực sự có điều kiện thâm nhập một cách đầy đủ về tác phẩm đó. Ví dụ khi học thơ mới với các bài thơ Vội vàng, Đây mùa thu tới, Thơ duyên của Xuân Diệu, Tràng giang của Huy Cận, Đây thôn Vĩ dạ của Hàn Mạc Tử giáo viên không thể không hướng dẫn học sinh đọc thêm các tập thơ của Xuân Diệu trước cách mạng tháng tám, tập thơ Lửa Thiêng của Huy Cận,các tập thơ của Hàn Mặc Tử và cần đọc kỹ cuốn Thi nhân Việt Nam của Hòai Thanh – Hòai Chân để học tập, cảm nhận những lời bình giảng độc đáo, súc tích. Và còn nhiều những tài liệu nghiên cứu phê bình của các tác giả nổi tiếng khác về văn học rất giá trị mà học sinh cần phải đọc. Nói tóm lại không đọc hay đọc ít là một hạn chế rất lớn không tránh khỏi đối với một học sinh giỏi. Đọc nhiều, đọc rộng sẽ phát huy được nhiều mặt tích cực nhất là ở những học sinh có ít nhiều năng khiếu văn chương . Thao tác đọc tác phẩm văn học và các tài liệu nghiên cứu phê bình văn học là một họat động cực kỳ quan trọng trong yêu cầu của công tác bồi dưỡng. Giáo viên đặc biệt phải hết sức quan tâm đối với học sinh và phải có cách đôn đốc nhắc nhở, kiểm tra học sinh để các em có được những kiến thức cần thiết trong quá trình làm bài. Nếu học sinh chưa có ý thức đọc theo hướng dẫn thì giáo viên bồi dưỡng phải kiên quyết yêu cầu học sinh đọc.Và giáo viên phải có cách kiểm tra để bắt buộc học sinh đọc và thấy được ích lợi của việc đọc . Vì kiến thức văn học phong phú, vững vàng là cơ sở và nền tảng đầu tiên để học sinh viết một bài văn tốt. *. Giáo viên bồi dưỡng phải có kế họach, phương pháp yêu cầu học sinh phải có tinh thần tự học, tự vận động là vấn đề quan trọng trong thời gian bồi dưỡng. Giáo viên phải có biện pháp kiểm tra, nắm bắt vấn đề tự học và nghiên cứu của học sinh. 8
- Tự ôn và nắm vững lại kiến thức đã học, đã đọc ở các lớp dưới, đặc biệt là học sinh giỏi 12 phải nắm vững kiến thức về văn học hiện đại ,trung đại ở khối 11 và kể cả khối 10 .Những kiến thức lớp dưới quan trọng như thơ mới, các tác giả như là Nam Cao, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng. Kiến thức cơ bản là cái gốc cần thiết tối thiểu cho học sinh giỏi trước khi muốn học và nghiên cứu những kiến thức có bề rộng và chiều sâu. Vì thời lượng bồi dưỡng rất hạn chế, giáo viên bồi dưỡng không thể làm việc được tất cả, nên phần ôn tập lại những kiến thức căn bản đã học những năm trước thì yêu cầu học sinh phải tự thực hiện. Điều này không khó đối với một học sinh giỏi. Khi giáo viên yêu cầu học sinh tự ôn tập, làm việc ở nhà thì giáo viên phải có sự kiểm tra một cách chặt chẽ, thường xuyên xem học sinh đã có ý thức học tập tốt chưa ? đã thực hiện và nắm các yêu cầu về kiến thức mà mình dặn dò chưa ? nếu có học sinh chưa thực hiện đầy đủ, còn có những lỗ hổng kiến thức thì giáo viên phải đôn đốc, nhắc nhở và có biện pháp cần thiết để học sinh làm việc. *. Giáo viên cung cấp cho học sinh và yêu cầu học sinh sưu tầm ghi chép vào một cuốn sổ riêng những lời nhận định, đánh giá sắc nét, độc đáo của các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu lý luận phê bình văn học và những câu thơ, đọan thơ hay của nhiều tác giả văn học qua các giai đọan văn học gắn với các chuyên đề mà giáo viên bồi dưỡng. Trong quá trình giảng dạy giáo viên yêu cầu học sinh sưu tầm ghi chép từ trong sách vở, tài liệu những lời nhận định hay, những đánh giá độc đáo, đặc sắc của những tác giả tên tuổi về tác phẩm văn học, về vấn đề mang tính lý luận văn học, hay những câu thơ, đọan thơ, đọan văn hay của nhiều tác giả được góp nhặt, sưu tầm gắn với các chuyên đề mà giáo viên bồi dưỡng. Nội dung này giáo viên có thể yêu cầu học sinh ghi vào một cuổn tập riêng để các em đọc lại nhiều lần vàghi nhớ. Những tư liệu này thật quý giá đối với học sinh. Đôi khi các em có những ý tưởng, suy nghĩ nhưng chưa biết cách diễn đạt nó một cách sắc nét, khúc chiết để tạo ấn tượng cho người đọc. Vì vậy trích dẫn những tư liệu văn học như những câu thơ hay phù hợp với nội dung vấn đề, những lời nhận định đánh giá hợp lý, đúng chỗ này sẽ góp phần làm cho bài viết thêm khởi sắc và giàu sức thuyết phục. 9
- Ví dụ như khi dạy chuyên đề về lý luận văn học, cụ thể là về vai trò của văn học đối với cuộc sống, mối quan hệ giữa văn học và cuộc sống, vai trò của người nghệ sĩ trong sáng tác văn chương, giáo viên bồi dưỡng yêu cầu học sinh sưu tầm và chọn lọc những lời nhận định liên quan đến vấn đề này và tìm được những lời nhận định có ý nghĩa và giá trị nhất. Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh một số lời nhận định sau: “ Thơ chỉ trào ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy” (Tố Hữu) “ Cuộc đời là điểm xuất phát và cũng là đích đến của văn học” ( Tố Hữu) “ Cuộc sống là mảnh đất màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi” ( PusKin) “ Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật” ( Biêlinxki) Và các tuyên ngôn nghệ thuật có ý nghĩa sâu sắc trong các tác phẩm của Nam Cao trước cách mạng tháng tám và của các tác giả khác. Ví dụ như: “ Nghệ thuật không thể là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật có thể chỉ là những tiếng đau khổ kia thóat ra từ những kiếp sống lầm than vang dội lên mạnh mẽ” ( Trăng sáng Nam Cao) “ Các ông muốn tiểu thuyết cứ thật là tiểu thuyết, tôi và các nhà văn cùng chí hướng với tôi muốn tiểu thuyết phải là sự thật ở đời” ( Vũ Trọng Phụng) “ Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người. Mỗi tác phẩm văn học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của chặng đời sống con người ta trên con đường dài dằng dặc đi tìm cõi hòan thiện” ( Nguyễn Minh Châu) 10
- “ Nghệ sĩ là con người biết khai thác ấn tượng riêng chủ quan của mình, tìm thấy trong những ấn tượng đó cái giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng đó có được hình thức riêng” ( Mácximgorki) Và những câu thơ chứa đựng ý nghĩa biểu tượng sâu sắc: “ Nhà thơ như con ong kết trăm hoa thành một mật Một mật ngọt thành, vạn chuyến ong bay” ( Chế Lan Viên) “ Bài thơ anh, anh làm một nửa Còn một nửa để mùa thu tự làm lấy” ( Chế Lan Viên) “Khi tình cảm tự tìm cho nó hình thức thể hiện ra bên ngòai chúng ta có thơ”. (RabinthatTago) Và rất nhiều những lời nhận định hay và giá trị khác về văn học, giáo viên giúp học sinh sưu tầm, ghi chép. Tuy nhiên không phải những lời nhận định hay ý thơ nào học sinh cũng đều hiểu. Nếu có những nhận định ý kiến nào mà học sinh chưa hiểu hoặc hiểu chưa đầy đủ thì giáo viên phân tích, giảng giải cho học sinh rõ những nội dung ý nghĩa của vấn đề. Những bài làm của học sinh giỏi muốn đạt giải cao thì bài viết phải có nhiều yêu cầu khác nhau nhưng nhìn chung phải có phong cách, nét độc đáo và tạo được ấn tượng riêng, thể hiện được những điều mà học sinh bình thường không thể có được. Vì vậy những lời nhận định đánh giá hay những câu thơ, đọan thơ hay sẽ là những dẫn chứng lý lẽ thuyết phục như một nốt nhấn, cũng có thể nó là một lời chốt lại vấn đề hoặc đó là lời dẫn nhập giới thiệu vấn đề tạo không khí sinh động hấp dẫn hơn là cách giới thiệu hay một lời kết bình thường không ấn tượng gì mà thường thấy ở học sinh trung bình và yếu. Ví dụ trong chương trình trước đây khi bồi dưỡng học sinh giỏi 12 về chuyên đề “ Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh học sinh sẽ được nắm bắt về hình ảnh Bác qua Nhật ký trong tù nào là một tâm hồn lớn, một trí tuệ lớn, một nhân cách lớn.v.v... qua một số bài thơ đã học ở sách giáo khoa và một số bài thơ khác trong tuyển tập được 11
- giáo viên chọn lọc giới thiệu để học sinh tiếp cận. Nhưng những câu thơ có ý nghĩa khái quát, giàu hình ảnh và ý nghĩa tư tưởng mà giáo viên có thể cung cấp, giảng bình để học sinh cảm nhận sâu sắc thêm về Bác người tù vĩ đại qua tập thơ để có thể vận dụng vào bài làm. Chẳng hạn những câu thơ sau: “ Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh Vần thơ Bác viết, vần thơ thép Mà vẫn mêng mông bát ngát tình” ( Hòang Trung Thông) “ Lại thương nỗi đọa đày thân Bác Mười bốn trăng tê tái gông cùm Ôi chân yếu mắt mờ tóc bạc Mà thơ bay cánh hạc ung dung” ( Tố Hữu) Những nốt nhấn của những ý thơ như vậy là rất cần thiết cho phong cách trong bài làm của học sinh giỏi. Thiếu nó bài viết cũng dễ kém phần tươi mát và cũng dễ trở nên khô khan hoặc đơn điệu nhàm chán trong cách diễn đạt đều đều, buồn tẻ của học sinh trong biểu đạt suy nghĩ của mình. Đó chỉ là đơn cử một vài ví dụ, còn lại là kiến thức mêng mông, rộng lớn mà người giáo viên bồi dưỡng hướng dẫn học sinh phải có ý thức học tập vận dụng để mang lại một hiệu quả chất lượng, sinh động cho bài viết. d. Giáo viên lựa chọn một số chuyên đề quan trọng gắn với chương trình thi để giúp học sinh đi vào nắm bắt kiến thức của các chuyên đề đó có chiều sâu và rộng. Có giáo viên cho rằng bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 12 thì rất khó đóan được nội dung của đề ra vì chương trình rất rộng. Biết đề thi sẽ ra ở phần nào mà bồi dưỡng cho học sinh. Đó chính là sự thật qua đề ra của một số năm, chẳng hạn như đề ra trong kỳ thi học sinh giỏi vòng tỉnh Vĩnh phúc năm học 2016 – 2017 phần nghị luận văn học với đề tổng hợp rất rộng : 12
- SỞ GD&ĐT VĨNH PHÚC KỲ THI CHỌN HSG LỚP 12 THPT NĂM HỌC 2016 –2017 ĐỀ CHÍNH THỨC ĐỀ THI MÔN: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian giao đề Câu 1. (3,0 điểm) Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến: Ai cũng là thợ rèn số phận của chính mình. Câu 2. (7,0 điểm) Cảm hứng về đất nước qua các đoạn trích Đất Nước (trích Mặt đường khát vọng) – Nguyễn Khoa Điềm, Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân, Ai đã đặt tên cho dòng sông?– Hoàng Phủ Ngọc Tường. (SGK Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2014) Đap an đê thi hoc sinh gioi môn Ng ́ ́ ̀ ̣ ̉ ữ văn lớp 12 A. YÊU CẦU CHUNG – Giám khảo cần nắm được nội dung trình bày trong bài làm của thí sinh, tránh đếm ý cho điểm. Vận dụng linh hoạt hướng dẫn chấm, sử dụng nhiều mức điểm một cách hợp lí, khuyến khích những bài viết có cảm xúc, sáng tạo. – Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách nhưng nếu đáp ứng những yêu cầu cơ bản của đề, diễn đạt tốt vẫn cho điểm tối đa. – Điểm bài thi làm tròn đến 0,25 điểm. B. YÊU CẦU CỤ THỂ Câu 1 (3,0 điểm) a. Về kĩ năng: – Biết cách làm bài văn nghị luận xã hội, bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, vận dụng tốt các thao tác lập luận, dẫn chứng tiêu biểu, chọn lọc. – Bài viết trong sáng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. b. Về kiến thức: Học sinh có thể bày tỏ những suy nghĩ khác nhau, nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau: Ý Nội dung Điểm 1 Dẫn dắt và giới thiệu vấn đề 0,25 2 Giải thích ý kiến 0,5 13
- – Ai cũng là thợ rèn số phận của chính mình. Người làm nghề chế tạo 0,25 các vật dụng, công cụ sản xuất bằng kim loại. Chịu đựng gian khổ, vất vả, bằng tài năng và kỹ thuật, tình yêu và lòng kiên trì làm nên những sản phẩm đẹp và có giá trị sử dụng. 0,25 – Người thợ rèn số phận của chính mình: Mỗi người cần trải qua vất vả, gian nan để nỗ lực, kiên trì làm nên số phận, nghĩa là cuộc sống, hạnh phúc của chính mình. Mỗi người tự làm mới mình để cuộc đời mình thêm giá trị, để sống tốt và hữu ích. 3 Bàn luận, mở rộng vấn đề 1,75 – Người thợ rèn lựa chọn công việc nặng nhọc, đối mặt với lửa đỏ, nước lạnh, dùng nhiều sức lực để tạo nên nhiều sản phẩm to nhỏ, tinh xảo và vô cùng giá trị cho con người. Công việc đòi hỏi sức khỏe, sự dẻo dai, nghị lực và đam mê của người thợ. Nhưng để có sản phẩm tuyệt vời hơn người khác, thợ rèn còn cần chút khéo léo, bí quyết gia truyền và nhiệt huyết. Từ một miếng sắt thô sơ, nhờ quyết tâm và chí hướng, người thợ rèn đã chế tạo được cây kim nhỏ bé, cây dao,…vô cùng tiện ích và tinh xảo sống mãi với con người và thời gian. Thợ rèn làm nên những số phận các vật dụng đủ kích cỡ và chủng loại, đủ hình thù và chất liệu, đủ công năng thiết yếu cho con người. Người thợ giỏi sẽ làm ra sản phẩm tốt nhất, dùng được lâu nhất. – Con người sinh ra, lớn lên và trưởng thành trải một quá trình lâu dài. Chịu nhiều tác động bên ngoài tự nhiên và xã hội, con người tự hình thành và phát triển theo bản năng giống nòi. Số phận và tương lai của mỗi người lại phụ thuộc vào chính suy nghĩ, hành động và mục đích sống của chính bản thân. Mỗi người lại chính là người thợ rèn số phận của mình. Con người tự làm nên và quết định mình là ai và mình có cuộc sống thế nào, tương lai thế nào? – Người nghĩ đúng và làm đúng như người thợ rèn, chịu đựng và chấp 0,25 nhận tất cả nóng, mệt, gian khổ và khó khăn để quai búa mãi, cắt gọt mãi cuối cùng sẽ làm nên một sản phẩm ưng ý, hữu ích. Người nào dám đương đầu với cực nhọc, vất vả và khó khăn để tự rèn luyện, để chấp nhận đau đớn và khổ sở, chấp nhận thử thách để tạo cho mình những hiểu biết, khả năng thích nghi và nghị lực sống, người đó sẽ thành công, 0,25 sẽ đủ bản lĩnh tận hưởng chiến thắng. Họ tự làm nên số phận và hạnh 14
- phúc theo ý muốn nên thật tuyệt vời. – Người mau chóng nản lòng và buông xuôi, đầu hàng khó nhọc, nhụt 1,0 chí và trông chờ may rủi số phận, cuối cùng anh ta chỉ làm nô lệ cho cuộc đời nhàm chán và không hạnh phúc. Số phận của người sống thỏa hiệp, bằng lòng với những gì sẵn có, nhàn nhã và êm đềm suốt cuộc đời. Hạnh phúc nhỏ bé, tầm thường. – Người chấp nhận lao vào gian khổ thử thách, hăng hái rèn luyện nhưng lại thiếu kiên trì, thiếu cần cù và quyết tâm, hay nản chí và dễ bỏ dở nửa chừng sẽ không thể làm được sản phẩm tốt, sẽ làm cuộc đời mình thêm khổ và rắc rối. Người thợ rèn thiếu ham mê và không đủ lòng tin sẽ biến số phận của mình thành sản phẩm dở dang bi quan và mệt mỏi, hạnh phúc trở nên mỏng manh. – Mỗi người có một số phận và con đường đến tương lai khác nhau. 0,25 Nhưng số phận đó, con đường đó là do chính tự bản thân mình lựa chọn và quyết định. Trong cuộc sống, bất kể ai sống và làm việc cũng phải luôn có cái tâm, làm điều ác thì cuối cùng cũng phải trả giá. Khi làm bất cứ việc gì cũng phải cần cù, kiên nhẫn…Chính chúng ta là người thợ rèn làm nên cuộc sống của mình. 4 Bài học nhận thức và hành động 0,5 – Việc tự rèn luyện, tự đổi mới để trở thành người có ích và hạnh phúc. 0,25 – Yếu tố quan trọng, quyết định là ở mỗi người, ở việc trau dồi ý thức 0,25 làm người. Các yếu tố xã hội, môi trường tự nhiên…đều cần thiết. Câu 2 (7,0 điểm) a. Về kĩ năng: – Biết cách làm bài văn nghị luận văn học, bố cục rõ ràng, vận dụng tốt các thao tác lập luận. – Biết cách phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận. – Bài viết mạch lạc, trong sáng, có cảm xúc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. b. Về kiến thức: Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau: 15
- Ý Nội dung Điểm 1 Dẫn dắt và giới thiệu vấn đề 0,5 2 Giải thích 1,0 Giải nghĩa ý kiến: (0,75 điểm) – Cảm hứng thể hiện những tâm trạng, tâm lí, cảm xúc, tình cảm rung 0,25 động trước một hiện thực trong cảnh huống xác định. Cảm hứng trong sáng tác văn học là cảm xúc và hứng thú, tạo điều kiện để óc tưởng tượng, sáng tạo, khám phá những giá trị của đời sống và con người. 0,25 – Cảm hứng về đất nước trong văn học chính là những rung cảm, những hiểu biết, những niềm vui tự hào, ngợi ca và xót xa đau thương về quê hương, đất nước Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai. – Văn học Việt Nam hiện đại thế kỷ XX đã thể hiện thành công cảm 0,25 hứng về đất nước trong nhiều tác phẩm. Các nhà thơ, nhà văn đã bày tỏ chân thành cảm xúc về chiều sâu văn hóa, về lịch sử cội nguồn, về danh thắng và vẻ hùng vĩ tươi đẹp của xứ sở quê hương. – Các tác phẩm Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, Ai dã đặt tên cho dòng sông?của Hoàng Phủ Ngọc 0,25 Tường tuy khác nhau về thể loại nhưng đã góp phần làm sâu sắc thêm cảm hứng về đất nước Việt Nam. 3 Phân tích, bình luận qua 3 tác phẩm. 5,0 (Thí sinh có thể so sánh trên nét chung và riêng hoặc theo từng tác phẩm) a. Những sự gặp gỡ cảm hứng về đất nước trong 3 tác phẩm (2,0 điểm) (Cách này bài viết ngắn gọn và hấp dẫn nhưng đòi hỏi kỹ năng tổng hợp và khái quát tốt) – Cảm hứng về đất nước mang tư tưởng mới, cách nhìn mới và hiện 1,0 đại. Ra đời trong thời kỳ chủ nghĩa yêu nước mang âm hưởng chủ nghĩa anh hùng cách mạng cuối thế kỷ XX. Đất nước được khám phá rộng lớn và toàn diện hơn, sâu sắc hơn. + Bức tranh chân thực về thiên nhiên hùng vĩ nhưng vô cùng trữ tình, thơ mộng. Chiều dài chiều rộng, quá khứ hiện tại và tương lai, cảnh đẹp và giàu có với dòng sông Đà, sông Hương, với danh thắng từ Bắc vào Nam đí đâu cũng thấy. Cảm hứng khám phá và ngợi ca bao trùm các chi tiết 16
- hình ảnh và ngôn ngữ. + Bức tranh về lịch sử hào hùng, oanh liệt. Mỗi tác phẩm đều khơi lại cảm xúc vừa đau thương vừa tự hào về lịch sử dụng và giữ nước. Nguyễn Tuân vẽ lại cuộc kháng chiến chống Pháp vẻ vang, dựng lại những con thuyền đuôi én thời Lý Trần; Nguyễn Khoa Điềm tái hiện 4000 năm lịch sử; Hoàng Phủ Ngọc Tường gắn sông Hương với truyền thống lịc sử văn hóa cố đô và đánh giặc ngoại xâm… – Tác phẩm nào cũng tràn đầy cảm xúc yêu thương, tự hào; tràn đầy 1,0 nguồn cảm xúc nên giàu hình ảnh, nhạc điệu; giàu triết lý suy tưởng; giàu sức gợi cảm và lôi cuốn. Mỗi tác phẩm như bức tranh lụa đẹp rực rỡ sắc màu và đường nét được vẽ tạo bằng thứ ngôn ngữ văn chương tài hoa nghệ thuật. Giá trị nội dung và nghệ thuật của ba tác phẩm viết về đất nước rất lâu dài. + Đất nước trừu tượng trở nên gần gũi và thân thiết, gắn bó với mọi người b. Những phát hiện và sáng tạo khi viết về đất nước của mỗi tác phẩm: (2,0 điểm). TS thể hiện hiểu biết về tác phẩm gắn với cảm hứng về đất nước. 1,0 – Tùy bút Người lái đò sông Đà đã lấy cảm hứng về con sông Đà thơ mộng trữ tình và hung bạo để khai thác đề tài về quê hương đất nước.Nhà văn đễ khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc, thứ vàng mười đã qua thử lửa theo thủy trình với vẻ đẹp hoang sơ và dữ dội. Những ghềnh thác, hút nước trên sông; những bờ bãi như nỗi niềm cổ tích ấu thơ; những cảnh đẹp nên thơ được nhìn từ nhiều góc độ và suy tưởng đan xen quá khứ, hiện tại và cả tương lai tạo nên dòng sông…như một cố nhân, như người đàn bà kiều diễm với mái tóc trữ tình làm nên trang sử vàng của miền Tây tổ quốc…Người lái đò trí dũng và người nghệ sĩ chinh phục thác dữ, chinh phục thiên nhiên và gắn bó đời đời với con sông Đà. Trang văn câu từ mượt mà, sống động và vốn hiểu biết phong phú, cùng với tài năng, tâm huyết của nhà văn bậc thầy thể tùy bút đã góp phần làm sống dậy tình yêu và niềm tự hào về đất 1,0 nước và con người nơi đây.(dẫn chứng chọn lọc, minh họa) – Chương V của trường ca Mặt đường khát vọng được viết trong những năm tháng ác liệt của chiến trường Bình Trị Thiên lại khám phá 17
- Đất Nước theo cảm nhận của người thanh niên thời đại mới gắn với câu chuyện tình yêu lứa đôi. Đất nước bắt đầu với những gì quen thuộc và bình dị, thân thương và thiêng liêng suốt chiều dài lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước. Sự mới lạ và độc đáo khi khám phá đát nước chính là tư tưởng đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại, của cá nhân góp tài năng và sức lực làm nên dáng hình xứ sở với bao nhiêu tình yêu mến thương…Cảm hứng trữ tình riêng tư hòa hợp với cảm hứng chính trị, chương Đất Nước đã có nhiều phát hiện thú vị trên nhiều phương diện địa lý, phong tục, lịch sử và văn hóa dân gian. Ngôn ngữ chính luận trở nên mềm mại, chất tự sự kết hợp cảm xúc chân thành, đằm thắm; hình ảnh thơ lạ và thể thơ tự do tạo nên sức hấp dẫn lôi cuốn lớp thanh niên miền Nam vùng tạm chiếm nhờ sắc điệu tình yêu lứa đôi hòa quyện tình yêu tổ quốc. Hạnh phúc của anh và em chính là trách nhiệm đấu tranh giải phóng quê hương, xây dựng đất nước giàu 1,0 đẹp, bền vững. .(dẫn chứng chọn lọc, minh họa) – Bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông? đã góp thêm và hoàn thiện cảm hứng về đất nước. Áng văn xuôi lung linh sắc màu ngôn từ nghệ thuật, giàu hình ảnh và nhạc điệu thể hiện tình yêu và tự hào về dòng sông Hương. Nhà văn đã rút ruột tình cảm riêng với con sông vang bóng chảy qua cố đô cổ kính và linh thiêng của các triều đại phong kiến để trở về với hiện tại soi hình dáng cầu Trường Tiền. Người khách thảng thốt về tên con sông đẹp và quyến rũ từ thượng nguồn uốn lượn, hiền hòa với những đường cong mềm mại, tình từ như người con gái trẻ trung chảy qua lăng tẩm cổ xưa và màu xanh cây trái. Cảm hứng tự hào về dòng Hương giang đẹp được tay bút hào hoa, viết bằng cả trái tim thể hiện trong lối văn phóng khoáng, trong cảm xúc trữ tình và liên tưởng tình tứ bất ngờ. .(dẫn chứng chọn lọc, minh họa) 4 Đánh giá, nâng cao vấn đề 0,5 – Cảm hứng về đất nước trở thành cảm hứng lớn và mãnh liệt đã được thể hiện sinh động và hấp dẫn trong nhiều sáng tác văn học cách mạng sau 1945. – Ba tác phẩm (…) giàu chất nhạc, chất họa, thể hiện tài năng của các tác giả trong việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật để khám phá vẻ đẹp mới lạ và thiêng liêng về đất nước. 18
- – Bài học về trách nhiệm người cầm bút và người tiếp nhận khi thể hiện tình yêu đất nước, con người và cuộc sống. Và đây là đề thi học sinh giỏi tỉnh Đồng Nai năm 2009 : “ Sự gặp gỡ tuyệt đẹp của tâm hồn và khí phách Việt Nam giữa Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ( Nguyễn Đình Chiểu) và bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng)”. Đề ra như vậy thì rất nhiều giáo viên và học sinh thật bất ngờ, bởi nhiều năm liền trước đây ít khi nào thi học sinh giỏi tỉnh ở Đồng Nai và ở các tỉnh khác cũng như thi học sinh giỏi tòan quốc bằng nội dung của văn học trung đại. Bởi vậy xác định nội dung ôn tập cho học sinh cũng là điều rất khó khăn của người tham gia bồi dưỡng. Điều lo ngại nhất là sợ nội dung ôn tập bồi dưỡng cho học sinh lại không đúng với đề ra. Tuy vậy mỗi giáo viên bồi dưỡng đều phải có định hướng về kiến thức gắn với những chuyên đề ôn tập cụ thể để giúp học sinh ôn tập có hiệu quả. Điều đó phụ thuộc vào suy nghĩ của từng giáo viên. Có giáo viên chọn và xóay sâu vào chuyên đề này mà khai thác chưa kỹ ở chuyên đề khác, hoặc cho rằng những chuyên đề kia là không quan trọng nên không nhắc nhở học sinh chú ý. Tuy nhiên theo tôi dù bồi dưỡng như thế nào giáo viên cũng phải chọn ra một số chuyên đề mà mình cho là quan trọng nhất có thể quy tụ những nội dung kiến thức lớn và bao quát để học sinh nắm bắt. Kinh nghiệm bồi dưỡng trong những năm qua theo tôi thấy là như vậy và đã áp dụng vào trong thực tế bồi dưỡng. Cụ thể là một số chuyên đề mà tôi đã hướng dẫn học sinh trong quá trình học tập như sau: Ví dụ như chuyên đề về Nam Cao và những sáng tác của Nam Cao. Điều đầu tiên như đã nói ở phần trên là học sinh phải đọc rộng, nắm bắt những kiến thức về tác phẩm của Nam Cao, hiểu và cảm nhận về nó cùng với việc đọc những tài liệu nghiên cứu phê bình về Nam Cao đó là bước thứ nhất. Sau đó giáo viên định hướng cho học sinh về hai mảng sáng tác lớn của Nam Cao trước cách mạng tháng tám đó là đề tài về người trí thức tiểu tư sản và người nông dân gắn với những tác phẩm cụ thể. Người trí thức thì sống mòn mỏi, tha hóa về nhân cách, người nông dân thì sống nghèo khổ, lầm than và sa vào bần cùng hóa, lưu manh hóa. Trên cơ sở những nội dung đó giáo viên có thể giúp học sinh khai thác phân tích những hình tượng nhân vật trong các truyện ngắn của Nam Cao để học sinh hiểu và nắm bắt kỹ nội dung của vấn đề. Hoặc giáo viên cũng 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
SKKN: Bồi dưỡng học sinh giỏi giải Toán trên máy tính cầm tay
0 p | 1104 | 363
-
SKKN: Xây dựng hệ thống bài tập nhóm Oxi để bồi dưỡng học sinh giỏi Hóa học ở trường THPT
36 p | 619 | 167
-
SKKN: Một số phương pháp giải hệ phương trình không mẫu mực dùng bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 9
41 p | 622 | 154
-
SKKN: Bồi dưỡng học sinh giỏi Địa lí lớp 11 - Phần khái quát nền kinh tế xã hội thế giới
29 p | 768 | 142
-
SKKN: Biện pháp chỉ đạo công tác bồi dưỡng học sinh giỏi - học sinh năng khiếu ở trường TH Ngư Thuỷ Bắc
19 p | 1395 | 115
-
SKKN: Một số biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý khối 9 theo hướng bền vững
18 p | 981 | 107
-
SKKN: Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán lớp 2
23 p | 623 | 101
-
SKKN: Bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 9 với dạng bài tập P2O5 tác dụng với NaOH hoặc KOH
13 p | 492 | 99
-
SKKN: Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Hóa học
35 p | 402 | 95
-
SKKN: Một số giải pháp chỉ đạo chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi trong nhà trường
9 p | 968 | 91
-
SKKN: Một số kinh nghiệm tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi thực hành bộ môn Hóa học lớp 8
36 p | 699 | 89
-
SKKN: Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh vận dụng tốt các cấu trúc câu để làm bài tập phần chuyển đổi câu trong bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Anh
33 p | 286 | 36
-
SKKN: Một số kinh nghiệm chỉ đạo giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi môn Toán, Tiếng Việt lớp 5.
10 p | 155 | 18
-
SKKN: Vai trò thành viên hội đồng bộ môn trong việc tư vấn giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 9 ở các trường Trung học Cơ sở huyện An Phú
76 p | 133 | 16
-
SKKN: Làm thế nào để bồi dưỡng học sinh giỏi có hiệu quả
9 p | 189 | 14
-
SKKN: Công tác quản lý bồi dưỡng học sinh giỏi các cấp ở trung tâm GDTX số 1 thành phố Lào Cai
11 p | 118 | 9
-
SKKN: Bồi dưỡng học sinh giỏi toán 9, phần phương trình bậc cao
31 p | 98 | 8
-
SKKN: Một số biện pháp tổ chức, chỉ đạo nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi tại trường THCS Lê Quý Đôn
27 p | 61 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn