intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn bậc THPT

Chia sẻ: Trần Thị Ta | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:32

35
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Về thực tiễn áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này trong nhà trường đã mang lại một kết quả khả quan rõ rệt. Phía giáo viên tham gia bồi dưỡng có được sự chủ động mạnh dạn , ít gặp những lúng túng và vướng mắc như trước đây khi chưa áp dụng chuyên đề. Chuyên đề đã tiết kiệm và rút ngắn được nhiều thời gian trong một thời lượng cho phép bồi dưỡng là quá ngắn mà vẫn đảm bảo được những kiến thức và kỹ năng cần thiết cho các em tham gia kỳ thi học sinh giỏi.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn bậc THPT

  1. SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC TRƯỜNG THPT NGUYỄN VIẾT XUÂN ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ BÁO CÁO  KẾT QUẢ NGHIÊN  CỨU, ỨNG  DỤNG SÁNG KIẾN   Tên sáng kiến: BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN                 BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG                                        Tác giả sáng kiến : Đào Thị Hằng                                             Mã sáng kiến :   22.51.01                                               Vĩnh Phúc, năm 2019
  2. MỤC LỤC 1. Lời giới thiệu...........................................................................................2 2. Tên sáng kiến...........................................................................................2 3. Tác giả sáng kiến................................................................................................2 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến......................................................................2 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến.......................................................................2 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử............................2 7. Mô tả bản chất của sáng kiến...................................................................2 7.1. Về lý do chọn đề tài...........................................................................3 7.2 Thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến...............................................4 7.3  Nội dung sáng kiến.............................................................................5 8. Những thông tin cần được bảo mật..................................................................26  9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến.................................................26 10  Đánh giá lợi ích thu được.................................................................................27 11. Bài học kinh nghiệm.........................................................................................27 12. Kết luận............................................................................................................27 13. Tài liệu tham khảo............................................................................................28 1
  3. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM  1 – Lời giới thiệu ­ Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi cấp học nào , môn học nào cũng vô  cùng quan trọng . Bồi dưỡng học sinh giỏi môn ngữ văn bậc THPT có đặc trưng  riêng đòi hỏi người thầy phải dày công nghiên cứu tài liệu , sắp xếp theo dạng   đề ,  hướng dẫn học sinh tìm hiểu tài liệu , tổng hợp và ứng dụng theo các dạng   .Với kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi nhiều năm tôi xin trình bày sáng kiến   Bồi dưỡng học sinh giỏi môn ngữ văn bậc THPT   2 ­ Tên sáng ki   ến:  BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN                 BẬC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG   3  Tác giả sáng kiến    ­  Họ và tên : Đào Thị Hằng     ­    Địa chỉ  tác giả sáng kiến : Trường THPT Nguyễn Viết Xuân – Vĩnh  Tường –                             Vĩnh Phúc.    ­ Số điện thoại : 0987.957.439     ­ Email: daohangnvx@gmail.com  4­ Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến      Đào Thị Hằng, Trường THPT Nguyễn Viết Xuân – Vĩnh Tường­ Vĩnh  Phúc 2
  4. 5– Lĩnh vực áp dụng sáng kiến : Giáo dục ở bậc trung học phổ thông . 6– Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Từ  tháng 8/2018 đến tháng 1/2019  7– Mô tả bản chất của sáng kiến:    ­ Tôi đưa ra cơ sở lý luận và minh họa cụ thể sáng  kiến này bằng kiến   thức và kinh nghiệm thực tế bồi dưỡng học sinh giỏi nhiều năm .           ­ Tôi đã áp dụng sáng kiến này vào ôn thi học sinh giỏi  ở đơn vị kết  quả thu được : học sinh hứng thú học tập ,thi học sinh giỏi thực tế kết quả   rất khả quan . 7.1, Về lý do chọn đề tài ;       Nghề dạy học là một nghề cao quý. Người giáo viên khi đã chọn nghề giáo  là đã thể hiện lòng yêu nghề. Người dạy học là kỹ sư xây đắp tâm hồn và mục  tiêu quan trọng là đào tạo ra những học sinh giỏi, những mầm mống tương lai   của đất nước. Nhưng một trong những niềm sung sướng vinh dự, hạnh phúc  nhất trong cuộc đời người giáo viên là đào tạo và bồi dưỡng được những học  sinh giỏi. Để có được học sinh giỏi thì ngòai năng lực, tố chất của học sinh còn   cần có công lao bồi dưỡng của người thầy là điều không thể  phủ  nhận được.   Là một giáo viên văn đứng lớp giảng dạy nhiều năm và đã từng tham gia bồi   dưỡng học sinh giỏi qua một số năm học tôi đã cảm nhận được điều đó. Mỗi  môn học trong nhà trường việc học và dạy đều có đặc thù riêng của nó. Môn  văn cũng không nằm ngòai lệ  đó. Phương pháp dạy và học văn đã được nói và  bàn luận rất nhiều từ trước đến nay. Học như thế nào cho tốt? dạy như thế nào   cho thật sự  có hiệu quả? Đó là điều băn khoăn trăn trở  của mỗi giáo viên dạy   môn văn khi đứng lớp. Một tiết dạy bình thường trên lớp cũng cần phải chuẩn   bị  kỹ  lưỡng mới có thể  dạy tốt được và mang lại hiệu quả  được. Nhưng một   tiết dạy bồi dưỡng  học sinh giỏi còn có yêu cầu cao hơn rất nhiều . Công tác  bồi dưỡng học sinh giỏi là nhiệm vụ  nặng nề  nhưng cũng rất đỗi vinh dự  cho   người giáo viên khi tham gia bồi dưỡng. Câu hỏi mà bất cứ  ai khi tham gia bồi   dưỡng học sinh giỏi cũng luôn đặt ra là làm thế nào cho thật sự đạt kết quả tốt    nhất trong khỏang thời gian hơn 2 tháng ngắn ngủi? Làm sao để các em phát huy   3
  5. hết năng lực của mình trên một thời gian làm bài trong mấy giờ ấn định ? Làm  thế  nàơ  để  công lao vất vả  của thầy và trò không bị  uổng phí ? Làm sao để  mang lại niềm vinh dự cho bản thân của các em và thành tích của nhà trường ?   Mối băn khoăn đó   luôn thường trực trong suy nghĩ của tôi trong những năm  Bằng tất cả mọi nỗ lực của mình trong suy nghĩ, tìm tòi, trao đổi, thảo luận với   các đồng nghiệp trong trường và các đồng nghiệp khác trong ngành giáo dục  cùng với việc cọ  xát thực sự  trong thực tiễn trải nghiệm công tác bồi dưỡng  học sinh giỏi văn ở khối 12 qua một số năm học, tôi mạnh dạn chia sẻ một số ý  kiến, suy nghĩ của mình. Bởi công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là khá quan trọng  và rất nặng trong thực tiễn giảng dạy. Mỗi giáo viên có một phương pháp, cách  thức riêng của mình. Bản thân tôi cũng đã lắng nghe ,suy  ngẫm và trao đổi với  một số thầy cô về công tác này. Nhưng đây là cái nhìn có những điểm giống và  chưa giống với ý kiến của một số  đồng nghiệp khác. Và thực tế  đây chính là   vấn đề  cũng  quan trọng nhưng chưa nhiều những sáng kiến kinh nghiệm   đề  cập tới. Vì vậy tôi mạnh dạn trình bày ý kiến về chuyên đề của mình với mong   ước và hy vọng là chia sẻ cùng nhau để góp phần trao đổi kinh nghiệm, học tập  lẫn nhau. Bằng những trải nghiệm của bản thân qua thực tiễn giảng dạy, tôi  mạnh dạn đề nghị sáng kiến kinh nghiệm: Bồi dưỡng học sinh giỏi môn ngữ   văn bậc THPT . 7.2 Thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến    7.2.    1 Thu   ận lợi:  ­ Các yếu tố chủ quan có ảnh hưởng tích cực tới đề tài: + Là nhóm trưởng và là giáo viên đứng lớp qua nhiều năm kinh nghiệm và   nghiên cứu giảng dạy, tôi dành nhiều thời gian và tâm huyết để nghiên cứu suy   ngẫm về chuyên môn, về tính hiệu quả của giờ lên lớp, đặc biệt là giờ dạy bồi  dưỡng học sinh giỏi. + Bản thân chịu khó tìm tòi, đọc tham khảo nhiều tài liệu, các tác phẩm văn học,   các sách nghiên cứu lý luận phê bình văn học, các sách báo khác. Tiếp cận với  các đề thi học sinh giỏi tỉnh, học sinh giỏi quốc gia, các đề học   sinh giỏi ở các  tỉnh khác.v.v... có ghi chép, tích lũy,cập nhật thường xuyên. 4
  6. + Bản thân  trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp trong và ngòai trường để học  hỏi và áp dụng vào quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi . ­ Yếu tố khách quan ảnh hưởng tích cực đến vấn đề liên quan đến đề tài: + Ban giám hiệu, lãnh đạo nhà trường có sự  quan tâm, động viên sâu sắc đúng   mức đến công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.  7.2. 2       Khó khăn : ­ Trường  ở  địa bàn nông thôn  tài liệu sách báo tham khảo  ở thư  viện còn hạn  chế. Chưa có đủ  tư  liệu để  học sinh và giáo viên tham khảo, nghiên cứu một   cách thoải mái, dễ dàng. ­ Tinh thần học tập và sự quan tâm của học sinh chưa cao về môn văn. Học sinh   sôi nổi tham gia vào đội tuyển học sinh giỏi văn ít so với các đội tuyển khác.  Nhiều học sinh giỏi một lúc nhiều bộ  môn có ý thức coi nhẹ  môn văn, có học   sinh không được chọn vào đội tuyển các môn tự  nhiên, môn anh văn mới chịu  vào đội tuyển văn.  7.2. 3 S   ố liệu thống kê:  Trước khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm thì kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi   qua một số năm học như sau: Từ 2007 – 2008 đội tuyển là 10 em nhưng chỉ đạt 2 giải khuyến khích  Từ 2009 – 2010  đội tuyển 10 em thì chỉ  có 3 em đạt giải khuyến khích. Nhưng sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào thực tiễn bồi dưỡng học sinh  giỏi từ 2011 đến nay thì kết quả thay đổi rõ rệt. Học sinh chủ động và lạc quan   khi tham gia vào đội tuyển ,học tập sôi nổi có hứng thú và tin tưởng vào kết quả  khi làm bài. Chủ động tích cực trong việc học tập, nghiên cứu trong sự giúp đỡ  hướng dẫn của giáo viên bồi dưỡng. Hàng năm có từ 10­12 em tham gia vào đội  tuyển đều đạt kết quả rất khả quan. Số lượng học sinh giỏi tỉnh tăng rất nhiều   so với trước đây. Liên tiếp trong nhiều năm đều có 4­ 6 em đạt giải và đặc biệt   đã có giải nhì , giải ba ... Đó là một điều đáng phấn khởi và khích lệ.   7.3     Nội dung sáng kiến :  5
  7.    7.3.    1. C   ơ  sở  lý luận : Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một nhiệm vụ  rất   quan trọng, lớn lao, khó khăn nhưng  rất đỗi vinh dự. Học sinh giỏi thường là  học sinh có tố chất đặc biệt khác các học sinh khác về kiến thức, khả năng cảm  thụ, khả năng tư duy và nhất là khả năng viết. Như vậy tiết dạy bồi dưỡng học   sinh giỏi đòi hỏi giáo viên phải có sự  chuẩn bị và đầu tư nhiều hơn là tiết dạy   bình thường trên lớp ,thậm chí phải có quá trình tích lũy kinh nghiệm qua thời   gian mới có thể  đạt hiệu quả  và thuyết phục học sinh ,làm cho các em thực sự  hứng thú và tin tưởng. Đó là yêu cầu của ban giám hiệu ,lãnh đạo nhà trường và   cũng là mục tiêu của người bồi dưỡng.Giáo viên tham gia bồi dưỡng phải có sự  học tập và trao dồi rất nhiều cùng với lòng nhiệt huyết, quyết tâm cao mới có   thể đáp ứng được yêu cầu của công việc.Bỡi vì đặc thù của học sinh giỏi là có  những điểm rất khác so với một học sinh bình thường từ kiến thức, tư duy cho  đến việc cảm nhận tác phẩm,kĩ năng viết v.v...Nghĩa là yêu cầu rất cao và khó  khi thực hiện nhiệm vụ  này để  làm sao đạt  kết quả  tốt .Với bề  dày thời gian  công tác giảng dạy và qua một số năm  bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 12 tôi nhận  thấy có một vài suy nghĩ về kinh nghiệm là làm sao trong vài tháng ít  ỏi mà có  thể  có được những thành công nhất định. Từ  các đồng nghiệp và qua trao đổi  một số trường, tôi cũng lắng nghe được ý kiến này, ý kiến khác song chưa thấy   có chuyên đề cụ thể nào trình bày về công tác bồi dưõng học sinh giỏi, hoặc có  trình bày  ở  những chuyên đề  có sự  liên quan nhưng chưa được phân tích đúng   mức. Vậy nên với chuyên đề này tôi mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ của mình   với mong muốn góp phần trao đổi kinh nghiệm, chia xẻ  học tập lẫn nhau để  cùng tiến bộ. Đó cũng là nội dung, mục  đích hướng tới của sáng kiến kinh  nghiệm .   7,3,    2. N   ội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của  sáng ki   ến  :           Biết rằng kiến thức, phương pháp để  tiếp nhận và tìm hiểu văn học vô   cùng phong phú , khó có thể  nói hết được. Mỗi giáo viên bồi dưỡng và người  tìm hiểu văn học đều có góc nhìn và cảm nhận riêng. Song trong khuôn khổ  chuyên đề này người viết chỉ đưa ra một số nội dung vấn đề mình tự nhận thấy  và rút ra được qua thực tiễn bồi dưỡng học sinh giỏi. Nội dung của chuyên đề  cụ thể như sau: 6
  8. ­ Giáo viên cung cấp cho học sinh những tên sách, danh mục sách, lọai sách và  yêu cầu học sinh tìm đọc ở thư viện và các nguồn khác. ­ Giáo viên bồi dưỡng phải có kế họach, phương pháp yêu cầu học sinh phải có   tinh thần tự  học, tự vận động là vấn đề  quan trọng trong thời gian bồi dưỡng.   Giáo viên phải có biện pháp kiểm tra, nắm bắt vấn đề tự học và nghiên cứu của   học sinh. ­ Giáo viên cung cấp cho học sinh và yêu cầu học sinh sưu tầm ghi chép vào một   cuốn vở  riêng những lời nhận định, đánh giá sắc nét, độc đáo của các nhà văn,  nhà thơ, nhà nghiên cứu lý luận phê bình văn học và những câu thơ, đọan thơ  hay của nhiều tác giả văn học qua các giai đọan văn học gắn với các chuyên đề  mà giáo viên bồi dưỡng. ­ Giáo viên lựa chọn một số chuyên đề  quan trọng gắn với chương trình thi để  giúp học sinh đi vào nắm bắt kiến thức của các chuyên đề  đó có chiều sâu và  rộng. ­ Chọn lọc một số  đề  thi qua các kỳ  thi học sinh giỏi tỉnh, có thể  đề  thi tòan   quốc qua một số  năm để  hướng dẫn học sinh cách tiếp cận đề, hiểu đề  nắm  yêu cầu đề ra, định hướng ,lập ý và tìm ý cho một bài văn nghị luận. ­ Ra đề và làm trên lớp, kể cả bài viết ở nhà để học sinh viết theo thời gian  ấn   định. Giáo viên chấm, phát hiện những  ưu và nhược điểm của mỗi học sinh.   Chữa lỗi bài làm của học sinh cẩn thận, đầy đủ. Giúp học sinh thấy và phát huy  những mặt tốt và khắc phục được những điểm còn hạn chế. *. Giáo viên cung cấp cho học sinh những tên sách, danh mục sách, lọai sách và   yêu cầu học sinh tìm đọc ở thư viện và các nguồn khác.        Sau khi đã tuyển chọn, lập đội tuyển học sinh giỏi, thời gian bồi dưỡng còn   hơn 2 tháng là đến ngày thi. Nhưng nếu xác định trước những học sinh sẽ  vào   đội tuyển lớp 12 từ cuối năm 11, từ khi nghỉ hè thì giáo viên sẽ  hướng dẫn cho   học sinh các lọai sách, tên sách để học sinh tìm đọc hoặc cho học sinh muợn đọc  một số sách cần thiết mà giáo viên có hoặc là mượn và trao đổi cùng các đồng   nghiệp. Đối với một học sinh giỏi thì yêu cầu kiến thức phải thực sự phong phú  và sâu rộng thì các em mới chủ  động ,mạnh dạn và phóng túng trong làm bài.  Kiến thức mỏng và nghèo nàn thì không thể  tránh khỏi những lúng túng,ngập   7
  9. ngượng trong bài viết. Các sách này có thể là các tác phẩm văn học của các tác  giả lớn mà các em đã được học chính khóa nhưng cần phải đọc nhiều ,biết rộng   hơn rất nhiều so với nội dung học  ở  sách giáo khoa. Chẳng hạn như  khi học  Nam Cao, một học sinh giỏi văn không chỉ  biết tác phẩm Chí Phèo, Đời Thừa,   Lão Hạc mà cần phải đọc rộng và am hiểu thêm nhiều truyện ngắn của Nam  Cao trước cách mạng tháng tám và cả sau cách mạng tháng tám. Ngòai việc nắm   và cảm thụ tác phẩm văn học học sinh còn cần phải đọc các sách nghiên cứu lý  luận phê bình về văn học mới thực sự có điều kiện thâm nhập một cách đầy đủ  về tác phẩm đó. Ví dụ  khi học thơ  mới với các bài thơ  Vội vàng, Đây mùa thu  tới, Thơ duyên của Xuân Diệu, Tràng giang của Huy Cận, Đây thôn Vĩ dạ  của   Hàn Mạc Tử  giáo viên không thể  không hướng dẫn học sinh đọc thêm các tập   thơ  của Xuân Diệu trước cách mạng tháng tám, tập thơ  Lửa Thiêng của Huy  Cận,các tập thơ của Hàn Mặc Tử  và cần đọc kỹ  cuốn Thi nhân Việt Nam của  Hòai Thanh – Hòai Chân để  học tập, cảm nhận những lời bình giảng độc đáo,  súc tích. Và còn nhiều những tài liệu nghiên cứu phê bình của các tác giả  nổi   tiếng khác về  văn học rất giá trị  mà học sinh cần phải đọc. Nói tóm lại không  đọc hay đọc ít là một hạn chế  rất lớn không tránh khỏi đối với một học sinh   giỏi. Đọc nhiều, đọc rộng sẽ phát huy được nhiều mặt tích cực nhất là ở những   học sinh có ít nhiều năng khiếu văn chương .        Thao tác đọc tác phẩm văn học và các tài liệu nghiên cứu phê bình văn học   là một họat động cực kỳ quan trọng trong yêu cầu của công tác bồi dưỡng. Giáo   viên đặc biệt phải hết sức quan tâm đối với học sinh và phải có cách đôn đốc  nhắc nhở, kiểm tra học sinh để các em có được những kiến thức cần thiết trong  quá trình làm bài. Nếu học sinh chưa có ý thức đọc theo hướng dẫn thì giáo viên  bồi dưỡng phải kiên quyết yêu cầu học sinh đọc.Và giáo viên phải có cách kiểm   tra để bắt buộc  học sinh đọc và thấy được ích lợi của việc đọc . Vì kiến thức   văn học phong phú, vững vàng là cơ  sở  và nền tảng đầu tiên để  học sinh viết  một bài văn tốt. *. Giáo viên bồi dưỡng phải có kế  họach, phương pháp yêu cầu học sinh phải   có tinh thần tự  học, tự  vận  động là vấn đề  quan trọng trong thời gian bồi   dưỡng. Giáo viên phải có biện pháp kiểm tra, nắm bắt vấn đề tự học và nghiên   cứu của học sinh. 8
  10.        Tự ôn và nắm vững lại kiến thức đã học, đã đọc ở các lớp dưới, đặc biệt là   học sinh giỏi 12 phải nắm vững kiến thức về  văn học hiện đại ,trung đại  ở  khối 11 và kể  cả khối 10 .Những kiến thức lớp dưới quan trọng như thơ mới,   các tác giả như là Nam Cao, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng. Kiến thức cơ bản   là cái gốc cần thiết tối thiểu cho học sinh giỏi trước khi muốn học và nghiên   cứu những kiến thức có bề rộng và chiều sâu. Vì thời lượng bồi dưỡng rất hạn   chế, giáo viên bồi dưỡng không thể làm việc được tất cả, nên phần ôn tập lại   những kiến thức căn bản đã học những năm trước thì yêu cầu học sinh phải tự  thực hiện. Điều này không khó đối với một học sinh giỏi. Khi giáo viên yêu cầu   học sinh tự  ôn tập, làm việc  ở  nhà thì giáo viên phải có sự  kiểm tra một cách   chặt chẽ, thường xuyên xem học sinh đã có ý thức học tập tốt chưa ? đã thực  hiện và nắm các yêu cầu về kiến thức mà mình dặn dò chưa ? nếu có học sinh  chưa thực hiện đầy đủ, còn có những lỗ  hổng kiến thức thì giáo viên phải đôn  đốc, nhắc nhở và có biện pháp cần thiết để học sinh làm việc. *. Giáo viên cung cấp cho học sinh và yêu cầu học sinh sưu tầm ghi chép vào   một cuốn sổ riêng những lời nhận định, đánh giá sắc nét, độc đáo của các nhà   văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu lý luận phê bình văn học và những câu thơ, đọan   thơ  hay của nhiều tác giả  văn học qua các giai đọan văn học gắn với các   chuyên đề mà giáo viên bồi dưỡng. Trong quá trình giảng dạy giáo viên yêu cầu học sinh sưu tầm ghi chép từ trong  sách vở, tài liệu những lời nhận định hay, những đánh giá độc đáo, đặc sắc của  những tác giả  tên tuổi về  tác phẩm văn học, về  vấn đề  mang tính lý luận văn  học, hay những câu thơ, đọan thơ, đọan văn hay của nhiều tác giả  được góp  nhặt, sưu tầm gắn với các chuyên đề  mà giáo viên bồi dưỡng. Nội dung này  giáo viên có thể yêu cầu học sinh ghi vào một cuổn tập riêng để các em đọc lại   nhiều lần vàghi nhớ. Những tư  liệu này thật quý giá đối với học sinh. Đôi khi   các em có những ý tưởng, suy nghĩ nhưng chưa biết cách diễn đạt nó một cách   sắc nét, khúc chiết để tạo ấn tượng cho người đọc. Vì vậy trích dẫn những tư  liệu văn học như  những câu thơ  hay phù hợp với nội dung vấn đề, những lời   nhận định đánh giá hợp lý, đúng chỗ này sẽ góp phần làm cho bài viết thêm khởi   sắc và giàu sức thuyết phục. 9
  11. Ví dụ  như  khi dạy chuyên đề  về  lý luận văn học, cụ  thể  là về  vai trò của văn  học đối với cuộc sống, mối quan hệ  giữa văn học và cuộc sống, vai trò của  người nghệ sĩ trong sáng tác văn chương, giáo viên bồi dưỡng yêu cầu học sinh   sưu tầm và chọn lọc những lời nhận định liên quan đến vấn đề này và tìm được  những lời nhận định có ý nghĩa và giá trị  nhất. Giáo viên có thể  cung cấp cho  học sinh một số lời nhận định sau: ­ “ Thơ chỉ trào ra  khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy”                                                                                       (Tố Hữu) ­ “ Cuộc đời là điểm xuất phát và cũng là đích đến của văn học”                                                                                       ( Tố Hữu) ­ “ Cuộc sống là mảnh đất màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi”                                                                                       ( PusKin) ­ “ Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”                                                                                      ( Biêlinxki) Và các tuyên ngôn nghệ  thuật có ý nghĩa sâu sắc trong các tác phẩm của Nam  Cao trước cách mạng tháng tám và của các tác giả khác. Ví dụ như: ­ “ Nghệ  thuật không thể  là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối.   Nghệ  thuật có thể chỉ  là những tiếng đau khổ  kia thóat ra từ  những kiếp sống   lầm than vang dội lên mạnh mẽ”                                                                                      ( Trăng sáng ­ Nam Cao) ­ “ Các ông muốn tiểu thuyết cứ thật là tiểu thuyết, tôi và các nhà văn cùng chí   hướng với tôi muốn tiểu thuyết phải là sự thật ở đời”                                                                                        ( Vũ Trọng Phụng) ­ “ Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người.   Mỗi tác phẩm văn học chỉ  là một lát cắt, một tờ  biên bản của chặng đời sống   con người ta trên con đường dài dằng dặc đi tìm cõi hòan thiện”                                                                                         ( Nguyễn Minh Châu) 10
  12. ­ “ Nghệ sĩ là con người biết khai thác ấn tượng riêng chủ  quan của mình, tìm   thấy trong những  ấn tượng đó cái giá trị  khái quát và biết làm cho những    ấn   tượng đó có được hình thức riêng”                                                                                            ( Mácximgorki) Và những câu thơ chứa đựng ý nghĩa biểu tượng sâu sắc:   ­ “ Nhà thơ như con ong kết trăm hoa thành một mật         Một mật ngọt thành, vạn chuyến ong bay”                                                                          ( Chế Lan Viên)  ­ “ Bài thơ anh, anh làm một nửa     Còn một nửa để mùa thu tự làm lấy”                                                                         ( Chế Lan Viên) “Khi tình cảm tự tìm cho nó hình thức thể hiện ra bên ngòai chúng ta có thơ”.                                                                         (RabinthatTago) Và rất nhiều những lời nhận định hay và giá trị khác về văn học, giáo viên giúp   học sinh sưu tầm, ghi chép. Tuy nhiên không phải những lời nhận định hay ý thơ  nào học sinh cũng đều hiểu. Nếu có những nhận định ý kiến nào mà học sinh  chưa hiểu hoặc hiểu chưa đầy đủ  thì giáo viên phân tích, giảng giải cho học  sinh rõ những nội dung ý nghĩa của vấn đề.  Những bài làm của học sinh giỏi muốn đạt giải cao thì bài viết phải có nhiều  yêu cầu khác nhau nhưng nhìn chung phải có phong cách, nét độc đáo và tạo  được ấn tượng riêng, thể hiện được những điều mà học sinh bình thường không  thể có được. Vì vậy những lời nhận định đánh giá hay những câu thơ, đọan thơ  hay sẽ là những dẫn chứng lý lẽ thuyết phục như một nốt nhấn, cũng có thể nó   là một lời chốt lại vấn đề hoặc đó là lời dẫn nhập giới thiệu vấn đề tạo không   khí sinh động hấp dẫn hơn là cách giới thiệu hay một lời kết bình thường không  ấn tượng gì mà thường thấy  ở học sinh trung bình và yếu. Ví dụ  trong chương   trình trước đây khi bồi dưỡng học sinh giỏi 12 về chuyên đề “ Nhật ký trong tù”  của Hồ Chí Minh học sinh sẽ  được nắm bắt về hình ảnh Bác qua Nhật ký trong  tù nào là một tâm hồn lớn, một trí tuệ lớn, một nhân cách lớn.v.v... qua một số  bài thơ  đã học  ở  sách giáo khoa và một số  bài thơ  khác trong tuyển tập được   11
  13. giáo viên  chọn lọc giới thiệu để  học sinh tiếp cận. Nhưng những câu thơ  có ý   nghĩa khái quát, giàu hình ảnh và ý nghĩa tư tưởng mà giáo viên có thể cung cấp,   giảng bình để học sinh cảm nhận sâu sắc thêm về Bác ­ người tù vĩ đại qua tập   thơ để có thể vận dụng vào bài làm. Chẳng hạn những câu thơ sau: ­ “ Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh Vần thơ Bác viết, vần thơ thép Mà vẫn mêng mông bát ngát tình”                                                         ( Hòang Trung Thông) ­ “ Lại thương nỗi đọa đày thân Bác Mười bốn trăng tê tái gông cùm Ôi chân yếu mắt mờ tóc bạc Mà thơ bay cánh hạc ung dung”                                                    ( Tố Hữu) Những nốt nhấn của những ý thơ như vậy là rất cần thiết cho phong cách trong    bài làm của học sinh giỏi. Thiếu nó bài viết cũng dễ kém phần tươi mát và cũng   dễ  trở  nên khô khan hoặc đơn điệu nhàm chán trong cách diễn đạt đều đều,  buồn tẻ  của học sinh trong biểu đạt suy nghĩ của mình. Đó chỉ  là đơn cử  một  vài ví dụ, còn lại là kiến thức mêng mông, rộng lớn mà người giáo viên bồi   dưỡng hướng dẫn học sinh phải có ý thức học tập vận dụng để  mang lại một   hiệu quả chất lượng, sinh động cho bài viết. d. Giáo viên lựa chọn một số chuyên đề quan trọng gắn với chương trình thi để   giúp học sinh đi vào nắm bắt kiến thức của các chuyên đề  đó có chiều sâu và   rộng. Có giáo viên cho rằng bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 12 thì rất khó đóan được nội  dung của đề  ra vì chương trình rất rộng. Biết đề  thi sẽ  ra  ở  phần nào mà bồi   dưỡng cho học sinh. Đó chính là sự  thật qua đề  ra của một số  năm, chẳng hạn   như đề ra trong kỳ thi học sinh giỏi vòng tỉnh  Vĩnh phúc  năm học 2016 – 2017   phần nghị luận văn học với đề tổng hợp rất rộng  : 12
  14. SỞ GD&ĐT VĨNH PHÚC KỲ THI CHỌN HSG LỚP 12 THPT NĂM HỌC 2016 –2017 ĐỀ CHÍNH THỨC ĐỀ THI MÔN: NGỮ VĂN Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian giao đề Câu 1. (3,0 điểm) Suy nghĩ của anh/chị về ý kiến: Ai cũng là thợ rèn số phận của chính mình. Câu 2. (7,0 điểm)  Cảm hứng về  đất nước qua các đoạn trích Đất Nước (trích Mặt  đường khát vọng) – Nguyễn Khoa Điềm, Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân, Ai  đã đặt tên cho dòng sông?– Hoàng Phủ Ngọc Tường.                                        (SGK Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2014) Đap an đê thi hoc sinh gioi môn Ng ́ ́ ̀ ̣ ̉ ữ văn lớp 12 A.  YÊU CẦU CHUNG – Giám khảo cần nắm được nội dung trình bày trong bài làm của thí sinh, tránh đếm ý cho   điểm. Vận dụng linh hoạt hướng dẫn chấm, sử dụng nhiều mức điểm một cách hợp lí,   khuyến khích những bài viết có cảm xúc, sáng tạo. – Học sinh có thể làm bài theo nhiều cách nhưng nếu đáp ứng những yêu cầu cơ bản của  đề, diễn đạt tốt vẫn cho điểm tối đa. – Điểm bài thi làm tròn đến 0,25 điểm. B.  YÊU CẦU CỤ THỂ Câu 1 (3,0 điểm) a. Về kĩ năng: – Biết cách làm bài văn nghị luận xã hội, bố cục rõ ràng, lập luận chặt chẽ, vận dụng tốt  các thao tác lập luận, dẫn chứng tiêu biểu, chọn lọc. – Bài viết trong sáng, mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp. b. Về kiến thức: Học sinh có thể bày tỏ những suy nghĩ khác nhau, nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau: Ý Nội dung Điểm 1 Dẫn dắt và giới thiệu vấn đề 0,25 2 Giải thích ý kiến 0,5 13
  15.   – Ai cũng là thợ  rèn số  phận của chính mình. Người làm nghề  chế  tạo   0,25 các vật dụng, công cụ sản xuất bằng kim loại. Chịu đựng gian khổ, vất     vả, bằng tài năng và kỹ  thuật, tình yêu và lòng kiên trì làm nên những    sản phẩm đẹp và có giá trị sử dụng. 0,25 – Người thợ  rèn số  phận của chính mình: Mỗi người cần trải qua vất   vả, gian nan để  nỗ  lực, kiên trì làm nên số  phận, nghĩa là cuộc sống,   hạnh phúc của chính mình. Mỗi người tự  làm mới mình để  cuộc đời  mình thêm giá trị, để sống tốt và hữu ích. 3 Bàn luận, mở rộng vấn đề 1,75 – Người thợ  rèn lựa chọn công việc nặng nhọc, đối mặt với lửa đỏ,  nước lạnh, dùng nhiều sức lực để tạo nên nhiều sản phẩm to nhỏ, tinh   xảo và vô cùng giá trị  cho con người. Công việc đòi hỏi sức khỏe, sự  dẻo dai, nghị  lực và đam mê của người thợ. Nhưng để  có sản phẩm  tuyệt vời hơn người khác, thợ  rèn còn cần chút khéo léo, bí quyết gia  truyền và nhiệt huyết. Từ  một miếng sắt thô sơ, nhờ  quyết tâm và chí   hướng, người thợ  rèn đã chế  tạo được cây kim nhỏ  bé, cây dao,…vô  cùng tiện ích và tinh xảo sống mãi với con người và thời gian. Thợ  rèn   làm nên những số phận các vật dụng đủ kích cỡ và chủng loại, đủ  hình   thù và chất liệu, đủ công năng thiết yếu cho con người. Người thợ giỏi   sẽ làm ra sản phẩm tốt nhất, dùng được lâu nhất. – Con người sinh ra, lớn lên và trưởng thành trải một quá trình lâu dài.  Chịu nhiều tác động bên ngoài tự  nhiên và xã hội, con người tự  hình  thành và phát triển theo bản năng giống nòi. Số  phận và tương lai của  mỗi người lại phụ  thuộc vào chính suy nghĩ, hành động và mục đích  sống của chính bản thân. Mỗi người lại chính là người thợ rèn số phận   của mình. Con người tự làm nên và quết định mình là ai và mình có cuộc   sống thế nào, tương lai thế nào?   – Người nghĩ đúng và làm đúng như  người thợ  rèn, chịu đựng và chấp  0,25 nhận tất cả  nóng, mệt, gian khổ  và khó khăn để  quai búa mãi, cắt gọt     mãi cuối cùng sẽ làm nên một sản phẩm ưng ý, hữu ích. Người nào dám    đương đầu với cực nhọc, vất vả và khó khăn để  tự rèn luyện, để  chấp   nhận đau đớn và khổ  sở, chấp nhận thử  thách để  tạo cho mình những    hiểu biết, khả năng thích nghi và nghị lực sống, người đó sẽ thành công,   0,25 sẽ đủ bản lĩnh tận hưởng chiến thắng. Họ tự làm nên số phận và hạnh  14
  16. phúc theo ý muốn nên thật tuyệt vời.   – Người mau chóng nản lòng và buông xuôi, đầu hàng khó nhọc, nhụt   1,0 chí và trông chờ  may rủi số  phận, cuối cùng anh ta chỉ  làm nô lệ  cho     cuộc đời nhàm chán và không hạnh phúc. Số phận của người sống thỏa     hiệp, bằng lòng với những gì sẵn có, nhàn nhã và êm đềm suốt cuộc   đời. Hạnh phúc nhỏ bé, tầm thường. – Người   chấp   nhận   lao   vào   gian   khổ   thử   thách,   hăng   hái   rèn   luyện  nhưng lại thiếu kiên trì, thiếu cần cù và quyết tâm, hay nản chí và dễ bỏ  dở  nửa chừng sẽ  không thể  làm được sản phẩm tốt, sẽ  làm cuộc đời   mình thêm khổ và rắc rối. Người thợ rèn thiếu ham mê và không đủ lòng  tin sẽ  biến số  phận của mình thành sản phẩm dở  dang bi quan và mệt  mỏi, hạnh phúc trở nên mỏng manh.   – Mỗi người có một số  phận và con đường đến tương lai khác nhau.   0,25 Nhưng số phận đó, con đường đó là do chính tự bản thân mình lựa chọn  và quyết định. Trong cuộc sống, bất kể ai sống và làm việc cũng phải  luôn có cái tâm, làm điều ác thì cuối cùng cũng phải trả giá. Khi làm bất  cứ  việc gì cũng phải cần cù, kiên nhẫn…Chính chúng ta là người thợ  rèn làm nên cuộc sống của mình. 4 Bài học nhận thức và hành động 0,5   – Việc tự rèn luyện, tự đổi mới để trở thành người có ích và hạnh phúc. 0,25 – Yếu tố quan trọng, quyết định là ở mỗi người, ở việc trau dồi ý thức   0,25 làm người. Các yếu tố xã hội, môi trường tự nhiên…đều cần thiết. Câu 2 (7,0 điểm) a. Về kĩ năng: – Biết cách làm bài văn nghị luận văn học, bố cục rõ ràng, vận dụng tốt các thao tác lập  luận. – Biết cách phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận. – Bài viết mạch lạc, trong sáng, có cảm xúc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ  pháp. b. Về kiến thức: Học sinh có thể  trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý cơ  bản   sau: 15
  17. Ý Nội dung Điểm 1 Dẫn dắt và giới thiệu vấn đề 0,5 2 Giải thích 1,0   Giải nghĩa ý kiến: (0,75 điểm)   – Cảm hứng thể  hiện những tâm trạng, tâm lí, cảm xúc, tình cảm rung  0,25 động trước một hiện thực trong cảnh huống xác định. Cảm hứng trong    sáng tác văn học là cảm xúc và hứng thú, tạo điều kiện để  óc tưởng     tượng, sáng tạo, khám phá những giá trị của đời sống và con người. 0,25 – Cảm hứng về đất nước trong văn học chính là những rung cảm, những   hiểu biết, những niềm vui tự hào, ngợi ca và xót xa đau thương về  quê    hương, đất nước Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai.   – Văn học Việt Nam hiện đại thế  kỷ  XX đã thể  hiện thành công cảm  0,25 hứng về đất nước trong nhiều tác phẩm. Các nhà thơ, nhà văn đã bày tỏ    chân thành cảm xúc về chiều sâu văn hóa, về lịch sử cội nguồn, về danh   thắng và vẻ hùng vĩ tươi đẹp của xứ sở quê hương.   – Các tác phẩm Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, Người lái đò sông    Đà của Nguyễn Tuân, Ai dã đặt tên cho dòng sông?của Hoàng Phủ Ngọc   0,25 Tường tuy khác nhau về thể  loại nhưng đã góp phần làm sâu sắc thêm    cảm hứng về đất nước Việt Nam. 3 Phân tích, bình luận qua 3 tác phẩm. 5,0 (Thí sinh có thể so sánh trên nét chung và riêng hoặc theo từng tác phẩm)   a. Những sự gặp gỡ cảm hứng về đất nước trong 3 tác phẩm (2,0 điểm)   (Cách này bài viết ngắn gọn và hấp dẫn nhưng đòi hỏi kỹ  năng tổng     hợp và khái quát tốt)   – Cảm hứng về  đất nước mang tư  tưởng mới, cách nhìn mới và hiện   1,0 đại. Ra đời trong thời kỳ chủ nghĩa yêu nước mang âm hưởng chủ nghĩa    anh hùng cách mạng cuối thế  kỷ  XX. Đất nước được khám phá rộng   lớn và toàn diện hơn, sâu sắc hơn.   + Bức tranh chân thực về thiên nhiên hùng vĩ nhưng vô cùng trữ tình, thơ    mộng. Chiều dài chiều rộng, quá khứ hiện tại và tương lai, cảnh đẹp và    giàu có với dòng sông Đà, sông Hương, với danh thắng từ Bắc vào Nam    đí đâu cũng thấy. Cảm hứng khám phá và ngợi ca bao trùm các chi tiết   16
  18. hình ảnh và ngôn ngữ.   + Bức tranh về lịch sử hào hùng, oanh liệt. Mỗi tác phẩm đều khơi lại     cảm xúc  vừa   đau thương vừa  tự   hào  về   lịch  sử   dụng và  giữ  nước.     Nguyễn Tuân vẽ  lại cuộc kháng chiến chống Pháp vẻ  vang, dựng lại    những con thuyền đuôi én thời Lý Trần; Nguyễn Khoa Điềm tái hiện   4000 năm lịch sử; Hoàng Phủ Ngọc Tường gắn sông Hương với truyền    thống lịc sử văn hóa cố đô và đánh giặc ngoại xâm…   – Tác phẩm nào cũng tràn đầy cảm xúc yêu thương, tự  hào; tràn đầy   1,0 nguồn cảm xúc nên giàu hình  ảnh, nhạc điệu; giàu triết lý suy tưởng;    giàu sức gợi cảm và lôi cuốn. Mỗi tác phẩm như bức tranh lụa đẹp rực   rỡ  sắc màu và đường nét được vẽ  tạo bằng thứ  ngôn ngữ  văn chương  tài hoa nghệ thuật. Giá trị nội dung và nghệ thuật của ba tác phẩm viết   về đất nước rất lâu dài. + Đất nước trừu tượng trở  nên gần gũi và thân thiết, gắn bó với mọi  người   b. Những phát hiện và sáng tạo khi viết về đất nước của mỗi tác phẩm:    (2,0 điểm). TS thể hiện hiểu biết về tác phẩm gắn với cảm hứng về    đất nước. 1,0 – Tùy bút Người lái đò sông Đà đã lấy cảm hứng về  con sông Đà thơ    mộng   trữ   tình   và   hung   bạo   để   khai   thác   đề   tài   về   quê   hương   đất  nước.Nhà văn đễ  khám phá vẻ  đẹp của thiên nhiên và con người Tây     Bắc, thứ vàng mười đã qua thử lửa theo thủy trình với vẻ đẹp hoang sơ    và dữ dội. Những ghềnh thác, hút nước trên sông; những bờ bãi như nỗi    niềm cổ  tích  ấu thơ; những cảnh đẹp nên thơ  được nhìn từ  nhiều góc    độ và suy tưởng đan xen quá khứ, hiện tại và cả tương lai tạo nên dòng  sông…như  một cố  nhân, như  người đàn bà kiều diễm với mái tóc trữ    tình làm nên trang sử vàng của miền Tây tổ quốc…Người lái đò trí dũng     và người nghệ sĩ chinh phục thác dữ, chinh phục thiên nhiên và gắn bó    đời đời với con sông Đà.  Trang văn câu từ mượt mà, sống động và vốn   hiểu biết phong phú, cùng với tài năng, tâm huyết của nhà văn bậc thầy     thể  tùy bút đã góp phần làm sống dậy tình yêu và niềm tự  hào về  đất   1,0 nước và con người nơi đây.(dẫn chứng chọn lọc, minh họa)   – Chương   V   của   trường   ca   Mặt   đường   khát   vọng   được   viết   trong    những năm tháng ác liệt của chiến trường Bình Trị  Thiên lại khám phá  17
  19. Đất Nước theo cảm nhận của người thanh niên thời đại mới gắn với    câu chuyện tình yêu lứa đôi. Đất nước bắt đầu với những gì quen thuộc    và bình dị, thân thương và thiêng liêng suốt chiều dài lịch sử  4000 năm    dựng nước và giữ  nước. Sự  mới lạ  và độc đáo khi khám phá đát nước   chính là tư tưởng đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại, của cá     nhân góp tài năng và sức lực làm nên dáng hình xứ sở với bao nhiêu tình     yêu mến thương…Cảm hứng trữ  tình riêng tư  hòa hợp với cảm hứng     chính trị, chương Đất Nước  đã có nhiều phát hiện thú vị  trên nhiều   phương diện địa lý, phong tục, lịch sử  và văn hóa dân gian. Ngôn ngữ    chính luận trở  nên mềm mại, chất tự  sự  kết hợp cảm xúc chân thành,     đằm thắm; hình  ảnh thơ  lạ  và thể  thơ  tự  do tạo nên sức hấp dẫn lôi     cuốn lớp thanh niên miền Nam vùng tạm chiếm nhờ  sắc điệu tình yêu    lứa đôi hòa quyện tình yêu tổ  quốc. Hạnh phúc của anh và em chính là  trách nhiệm đấu tranh giải phóng quê hương, xây dựng đất nước giàu   1,0 đẹp, bền vững. .(dẫn chứng chọn lọc, minh họa)   – Bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông? đã góp thêm và hoàn thiện cảm   hứng về đất nước. Áng văn xuôi lung linh sắc màu ngôn từ nghệ thuật,  giàu hình  ảnh và nhạc điệu thể  hiện tình yêu và tự  hào về  dòng sông   Hương. Nhà văn đã rút ruột tình cảm riêng với con sông vang bóng chảy  qua cố đô cổ kính và linh thiêng của các triều đại phong kiến để trở  về  với hiện tại soi hình dáng cầu Trường Tiền. Người khách thảng thốt về  tên con sông đẹp và quyến rũ từ thượng nguồn uốn lượn, hiền hòa với   những đường cong mềm mại, tình từ như người con gái trẻ  trung chảy  qua lăng tẩm cổ  xưa và màu xanh cây trái. Cảm hứng tự  hào về  dòng   Hương giang đẹp được tay bút hào hoa, viết bằng cả  trái tim thể  hiện  trong lối văn phóng khoáng, trong cảm xúc trữ tình và liên tưởng tình tứ  bất ngờ. .(dẫn chứng chọn lọc, minh họa) 4 Đánh giá, nâng cao vấn đề 0,5   – Cảm hứng về đất nước trở thành cảm hứng lớn và mãnh liệt đã được    thể hiện sinh động và hấp dẫn trong nhiều sáng tác văn học cách mạng  sau 1945. – Ba tác phẩm (…) giàu chất nhạc, chất họa, thể hiện tài năng của các  tác giả trong việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật để khám phá vẻ đẹp mới   lạ và thiêng liêng về đất nước. 18
  20. – Bài học về  trách nhiệm người cầm bút và người tiếp nhận khi thể  hiện tình yêu đất nước, con người và cuộc sống. Và đây là đề thi học sinh giỏi tỉnh Đồng Nai năm 2009 : “ Sự gặp gỡ tuyệt đẹp của tâm hồn và khí phách Việt Nam giữa Văn tế nghĩa sĩ   Cần Giuộc ( Nguyễn Đình Chiểu) và bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng)”. Đề ra như vậy thì rất nhiều giáo viên và học sinh thật bất ngờ, bởi nhiều năm   liền trước đây ít khi nào thi học sinh giỏi tỉnh  ở  Đồng Nai và  ở  các tỉnh khác  cũng như thi học sinh giỏi tòan quốc bằng nội dung của văn học trung đại. Bởi   vậy xác định nội dung ôn tập cho học sinh cũng là điều rất khó khăn của người   tham gia bồi dưỡng. Điều lo ngại nhất là sợ nội dung ôn tập bồi dưỡng cho học   sinh lại không đúng với đề  ra. Tuy vậy mỗi giáo viên bồi dưỡng đều phải có  định hướng về  kiến thức gắn với những chuyên đề  ôn tập cụ  thể  để  giúp học   sinh ôn tập có hiệu quả. Điều đó phụ thuộc vào suy nghĩ của từng giáo viên. Có   giáo viên chọn và xóay sâu vào chuyên đề này mà khai thác chưa kỹ ở chuyên đề  khác, hoặc cho rằng những chuyên đề  kia là không quan trọng nên không nhắc   nhở học sinh chú ý. Tuy nhiên theo tôi dù bồi dưỡng như thế nào giáo viên cũng   phải chọn ra một số  chuyên đề  mà mình cho là quan trọng nhất có thể  quy tụ  những nội dung kiến thức lớn và bao quát để  học sinh nắm bắt. Kinh nghiệm  bồi dưỡng trong những năm qua theo tôi thấy là như  vậy và đã áp dụng vào  trong thực tế bồi dưỡng. Cụ thể là một số chuyên đề mà tôi đã hướng dẫn học   sinh trong quá trình học tập như sau: Ví dụ  như  chuyên đề  về  Nam Cao và những sáng tác của Nam Cao. Điều đầu  tiên như đã nói ở phần trên là học sinh phải đọc rộng, nắm bắt những kiến thức   về  tác phẩm của Nam Cao, hiểu và cảm nhận về  nó cùng với việc đọc những  tài liệu nghiên cứu phê bình về Nam Cao đó là bước thứ nhất. Sau đó giáo viên   định hướng cho học sinh về  hai mảng sáng tác lớn của Nam Cao trước cách  mạng tháng tám đó là đề  tài về  người trí thức tiểu tư  sản và người nông dân  gắn với những tác phẩm cụ  thể. Người trí thức thì sống mòn mỏi, tha hóa về  nhân cách, người nông dân thì sống nghèo khổ, lầm than và sa   vào bần cùng  hóa, lưu manh hóa. Trên cơ sở những nội dung đó  giáo viên có thể giúp học sinh  khai thác phân tích những hình tượng nhân vật trong các truyện ngắn của Nam  Cao để học sinh hiểu và nắm bắt kỹ nội dung của vấn đề. Hoặc giáo viên cũng  19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2