SKKN: Một số phương pháp giúp học sinh chủ động tích cực trong học tập bộ môn Văn
lượt xem 2
download
Mục tiêu của đề tài là Nhằm tạo ra sự hợp tác, đối thoại giữa giáo viên và học sinh thông qua tác phẩm, khích lệ tinh thần tự học ở học sinh, giúp học sinh hứng thú với bài học khi chính các em là người chủ động khám phá tác phẩm. Xây dựng một không khí học tập sôi động với tinh thần chung là thỏa mái, nhẹ nhàng, không áp lực, không căng thẳng nhưng vẫn đạt được những hiệu quả nhất định.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: SKKN: Một số phương pháp giúp học sinh chủ động tích cực trong học tập bộ môn Văn
- Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Bộ môn văn là một môn có vị trí quan trọng trong chương trình Giáo dục nói chung và trong trường THPT nói riêng, đó là một trong hai môn chính phải thi tốt nghiệp và tính điểm hệ số nhân đôi đối với các khối chuyên ban. Chính vì vậy, bộ môn Văn có vai trò quan trọng quyết định tới kết quả của học sinh. Tuy nhiên, môn Văn đã và đang mất dần vị trí của mình. Một thực tế đáng buồn rằng: Hiện nay, đa số các em học sinh không thích và yêu môn Văn nữa. Vì sao lại như vậy? Trong một số trường THPT có hẳn một ban C dành cho các em yêu thích các môn Khoa học xã hội nhưng đa số các em học ban C không phải vì yêu thích mà vì không theo được ban A, B nên đành học ban C theo kiểu “Chuột chạy cùng sào mới vào ban C”, còn các em yêu thích học Văn thì lại không chọn Văn, cho dù có chọn học ban C thì khi thi Đại học các em cũng ít hoặc không theo ban C. Theo khảo sát tình hình học tập và tâm tư của các em hiện nay phần lớn đều cho rằng học văn không đem lại thu nhập cao, khó xin việc... trong khi nhu cầu xã hội đang cần là phát triển về kinh tế, ngân hàng, hay các kỹ sư, bác sĩ… với những trường đang được coi mà “mốt” và thời thượng. Vì thế đa phần học sinh mải mê theo ban A, B mà vô tình “bỏ rơi” ban C. Các em học Văn theo kiểu “chống đối” chỉ học đủ điểm để lên lớp và đỗ tốt nghiệp. Hiện nay, đa phần học sinh “chống chọi” với môn Văn bằng cách sắm cho mình một quyển “Để học tốt” cất sẵn trong cặp, học sinh soạn bài cũng chỉ mang tính chất đối phó với thầy cô…Học sinh không cần đọc văn bản, không cần cảm thụ và chỉ cần “tự vệ” bằng cách đó. Thậm chí, học sinh còn không cần quan tâm tới điểm số của môn học vì bản thân các em không cho môn Văn là quan trọng với mình. Một bộ phận học sinh thích học Văn thì lại lắc đầu vì cách dạy Văn của cô giáo khiến cho các em không còn thích và yêu Văn nữa. Chính vì vậy người giáo viên dạy văn cần linh hoạt áp dụng các phương pháp dạy học mới vào trong quá trình giảng dạy. Có rất nhiều giáo viên ứng dụng công nghệ vào trong quá trình giảng dạy, đây là một hình thức mới gây sự chú ý và tò mò của học sinh đối với bài giảng. Tuy nhiên, áp dụng như thế nào cho phù hợp và hiệu quả nhất cũng là một vấn đề khó. Vì nếu giáo viên sử dụng không khéo học sinh sẽ chú ý 1/23
- Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn nhiều đến hiệu ứng, phông nền, hình ảnh mà cô giáo sử dụng nhiều hơn là nội dung bài giảng. Và để soạn thảo một bài dạy bằng PowerPoint giáo viên sẽ mất rất nhiều công chuẩn bị và soạn giảng, chính vì vậy mà đa số giáo viên rất ngại soạn giáo án điện tử, phần lớn giáo viên thường chọn cách giảng truyền thống. Ngoài việc ứng dụng công nghệ, một số giáo viên cũng đổi mới phương pháp dạy học của mình, thay vì việc đọc chép các thầy cô để cho học sinh chủ động tiếp cận với văn bản tác phẩm qua các hình thức như: Đóng kịch (đối với các vở kịch), đọc phân vai đối với các tác phẩm tự sự…Học sinh được tiếp cận tác phẩm theo cách cảm nhận của mình, học sinh trao đổi, tranh luận về các vấn đề xoay quanh các tác phẩm. Cuối cùng giáo viên là người chốt lại vấn đề, định hướng cho học sinh cách hiểu đúng tác phẩm… Người giáo viên dạy Văn phải là một người thực sự yêu nghề, một người nhạy cảm, tinh tế để cảm thụ cái hay, cái đẹp của tác phẩm đồng thời cũng là một người dẫn đường để đưa học sinh đến với văn chương. Môn Văn là một môn học quan trọng nó không chỉ cung cấp tri thức cho học sinh như các môn học khác mà môn Văn còn góp phần định hướng, hình thành nhân cách cho học sinh. Học văn giúp chúng ta biết yêu cái đẹp, ghét cái xấu, giúp chúng ta hiểu được giá trị của cuộc sống. Có ý kiến của một thầy giáo cho rằng: Cần trả lại đúng vị trí của môn Văn bằng cách đưa môn Văn và môn Toán là hai môn thi bắt buộc trong kì thi Đại học, cách đó chắc chắn sẽ ít nhiều đem lại hiệu quả, sẽ giúp học sinh học Văn nhiều hơn nhưng chưa hẳn đã khiến học sinh thêm yêu Văn. Với mong muốn trong một tương lai không xa, Văn học sẽ trở về vị trí vốn có của nó, tôi mạnh dạn đề xuất “ Một số phương pháp giúp học sinh chủ động tích cực trong học tập bộ môn Văn”. 2. Mục đích Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của việc học bộ môn Văn trong nhà trường cũng như tình hình giảng dạy hiện nay mong muốn đề ra một số phương pháp để tạo nguồn cảm hứng, khơi dậy lòng yêu thích môn học trong học sinh. Phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong cách học cũng như để các em có thể tự do cảm thụ tác phẩm theo cách hiểu của mình không gò bó, khuôn sáo. 2
- Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn Nhằm tạo ra sự hợp tác, đối thoại giữa giáo viên và học sinh thông qua tác phẩm, khích lệ tinh thần tự học ở học sinh, giúp học sinh hứng thú với bài học khi chính các em là người chủ động khám phá tác phẩm. Học sinh được phát huy nhiều khả năng của mình trong quá trình chuẩn bị bài, tham gia các hoạt động trong tiết học cũng như được quyền bày tỏ chính kiến của mình về tác phẩm trước tập thể. Xây dựng một không khí học tập sôi động với tinh thần chung là thỏa mái, nhẹ nhàng, không áp lực, không căng thẳng nhưng vẫn đạt được những hiệu quả nhất định. 3. Đối tượng và phạm vi thực hiện Học sinh khối 10 (10A7, 10A8), 11 (11A10) trong phạm vi giáo viên giảng dạy ở trường THPT. 4. Kế hoạch nghiên cứu Thực hiện đề tài trong năm học: Từ tháng 8 năm 2014 đến tháng 4 năm 2015 5. Phương pháp thực hiện Sử dụng phương pháp liên ngành kết hợp giữa văn học, lịch sử và giáo dục lối sống, rèn luyện các thao tác kỹ năng mềm cho học sinh. Áp dụng những kĩ năng và nguyên tắc chung về chuyên môn để tiến hành thực hiện các tiết học theo đúng quy trình và yêu cầu của bộ giáo dục. 6. Ý nghĩa của đề tài Với đề tài “Đề xuất một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Văn” giúp cho quá trình giảng dạy có một bước thay đổi phù hợp với yêu cầu thực tiễn của việc học và dạy hiện nay. Góp phần vào quá trình đổi mới trong dạy học nâng cao khả năng tiếp cận văn bản của học sinh, tạo môi trường học tập sôi nổi, chủ động, tích cực làm tăng khí thế học tập của học sinh trong môi trường học tập nói chung. Góp phần vào sự đổi mới phương pháp trong môi trường sư phạm nói chung. 3/23
- Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn B. PHẦN NỘI DUNG I. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận Bàn về vị trí của người thầy, W.A.Walde cho rằng: “Thầy giáo bình thường chỉ biết thuật lại, thầy giáo giỏi thì giải thích, thầy giáo xuất sắc thì chứng minh, còn người thầy vĩ đại thì mở lối chỉ đường”. Quả là, người thầy đạt đến độ vĩ đại phải là người biết “mở lối chỉ đường”, tức là biết gợi mở cho học sinh học tập, biết đánh thức tiềm năng nơi học sinh và đặc biệt là rèn luyện cho học sinh tính tích cực, chủ động sáng tạo trong học tập. Hiện nay, trong các trường học, phương pháp giảng dạy của các thầy cô đã được đổi mới. Quan điểm lấy học sinh là trung tâm, giáo viên chỉ là người hướng dẫn, gợi mở đã đem đến cho giáo dục những thành tích đáng kể. Với học sinh, hành trình đến với chân trời tri thức là con đường đẹp đẽ nhưng cũng rất gian nan. Để có thể đi đến đích nhất thiết phải chọn cho mình một thái độ học tập đúng đắn và hợp lí. Nhà bác học Đác Uyn từng nói: “ Tất cả những gì có giá trị một chút tôi đều thu nhận được bằng cách tự học”. Vậy tự học là gì? Là phương pháp lấy sự chủ động, tích cực của bản thân người học làm yếu tố cốt lõi, căn bản. Nhất là với phương pháp này, người học có thể lựa chọn được những gì phù hợp với năng lực và nhu cầu bản thân. Trên cơ sở lựa chọn ấy, người tiếp nhận cũng sẽ lựa chọn tốt nhất và vận dụng hiệu quả nhất kiến thức thu được cho những mục đích học tập cụ thể. Đây chính là con đường, cách học hiệu quả để chiếm lĩnh tri thức lớn nhất làm giàu vốn hiểu biết của bản thân. Đổi mới phương pháp dạy học là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới giáo dục trung học hiện nay. Luật Giáo dục (Điều 28) đã nêu: Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Như vậy, tích cực hóa chính là một tập hợp các hoạt động nhằm chuyển biến vị trí của người học từ thụ động sang chủ động, từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang đối tượng tìm kiếm tri thức để nâng cao hiệu quả học tập. Tất cả các phương pháp nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh đều được coi là phương pháp dạy học tích cực. 4
- Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn 2. Cơ sở thực tiễn Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy rằng: Đa số các em học sinh đến với môn Ngữ Văn không phải vì yêu thích mà xuất phát từ những động cơ khác nhau (đối phó, bị ép buộc, để đáp ứng một điều kiện nào đó trong thi cử, hay để đánh giá kết quả học tập...). Bởi vậy, hầu hết các em học sinh đến với môn Ngữ Văn đều có thái độ thờ ơ, thiếu tích cực và chủ động trong học tập. Thái độ này biểu hiện chủ yếu ở các phương diện sau: Trong việc chuẩn bị bài trước khi đến lớp: Hiện nay, việc giảng dạy bộ môn Ngữ Văn của hầu hết các giáo viên trong trường THPT đều gặp khó khăn trong việc đảm bảo khung thời gian theo quy định (mất thời gian cho việc đọc văn bản và gợi mở), khó khăn trong việc khơi gợi và định hướng cho học sinh...Điều này xuất phát từ thực trạng chuẩn bị bài và hoàn thiện bài tập trước khi đến lớp. Đa phần các em ít đọc văn bản, soạn bài và hoàn thiện bài tập trước khi đến lớp. Thậm chí, còn có những em không bao giờ đọc văn bản, soạn bài hay làm bài tập. Cũng bởi vậy mà học sinh thường lơ mơ và không biết gì (dù là những điều cơ bản nhất như: tên tác phẩm, tác giả, nhân vật chính hay tóm tắt tác phẩm...) khi đi vào tìm hiểu tác phẩm. Ví dụ: Trước khi học bài "Chữ người tử tù", tôi hỏi: tác giả của tác phẩm là ai? Xuất xứ? Nhân vật chính? Học sinh chẳng những trả lời sai mà còn không trả lời được: Tác giả là Nam Cao. Và không trả lời được hai vế còn lại. Trong việc học tập ở trên lớp: Bên cạnh một số học sinh tích cực và hứng thú với tiết học thì đa phần các em rất thờ ơ, thiếu tích cực trong việc tiếp thu và xây dựng bài học. Trong tiết học, có em thì ngủ gật, có em thì mang các môn khác ra học, có em thì nói chuyện chứ không tập trung vào bài học và định hướng của giáo viên...Đặc biệt, sự hợp tác của học sinh với giáo viên là rất hạn chế. Học sinh ít xung phong xây dựng bài hoặc bày tỏ quan điểm ý kiến riêng của bản thân. Nếu bị giáo viên gọi thì học sinh thường có chung câu trả lời: Em không biết; em chưa nghĩ ra; hoặc là em cũng có ý kiến giống bạn... Và nếu tiếp tục nhận được sự gợi mở từ giáo viên thì học sinh thường ít tập trung và quan tâm đến lời định hướng ấy. Thậm chí, có những đơn vị kiến thức rất cơ bản, có sẵn trong sách giáo khoa, giáo viên chỉ rõ đoạn, rõ trang và học sinh biết nhưng cũng không có một cánh tay nào xung 5/23
- Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn phong. Trong quá trình luyện tập và củng cố bài học: Học sinh rất lười làm bài, lười suy nghĩ. Việc mà các em thường làm trong hoạt động này là: ngồi chờ, nói chuyện và chép bài sau khi giáo viên chữa. Xuất phát từ thực trạng trên, tôi đã tiến hành khảo sát và thu được kết quả như sau: 6
- Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn Bảng thống kê kết quả học tập Sĩ số Trước thử nghiệm (Đầu học kì I) Lớp Giỏi khá Trung bình Yếu 3 10 27 4 10A7 44 (6,8%) (23%) (51%) (9,2%) 2 8 24 6 10A8 40 (5%) (20%) (60%) (15%) 0 5 26 6 11A10 37 (0%) (13,5%) (70,3%) (16,2%) Bảng thống kê kết quả khảo sát về thái độ học tập bộ môn Trước thử nghiệm (Đầu học kì I) Lớp Sĩ số Chủ động Thụ động Thờ ơ 10 30 4 10A7 44 (22,5%) (68,5%) (9%) 8 29 3 10A8 40 (20%) (72,5%) (7,5%) 4 23 10 11A10 37 (10,8%) (62,2%) (27%) 7/23
- Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn II. M ỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP CHỦ YẾU 1. Quy trình thực hiện phương pháp tạo sự tích cực chủ động trong học sinh 1.1. Quy trình hình thành ý tưởng Xây dựng môn học theo cách thức tập trung mọi hoạt động về phía học sinh xuất phát từ chương trình giáo dục kỹ năng nhóm trong các sinh hoạt tập thể hiện nay. Giáo viên cũng giống như người điều khiển chương trình có nhiệm vụ điều hành một tiết học hay một buổi thảo luận mà trung tâm không phải là mình. Xuất phát từ thực tiễn các hoạt động đội, nhóm trong các phong trào cho thấy học sinh rất hứng khởi với cách thức chơi mà học, đa phần học sinh hiện nay thích tự mình khám phá, tìm hiểu môn học và muốn được thể hiện mình hơn là bị áp đặt từ nhiều phía. Với xu hướng phát triển không ngừng của hệ thống Internet như hiện nay để học sinh tự tìm hiểu bài bằng nhiều phương thức là một vấn đề không khó mà còn tạo ra được một sân chơi trong giờ học cho các em. Theo xu thế phát triển chung của xã hội, học sinh không chỉ đơn thuần trong suy nghĩ mà các em luôn muốn được khẳng định mình trước tập thể nhất là sự cạnh tranh trong điểm số giữa các nhóm hay vì màu cờ sắc áo của nhóm mình mà học sinh càng hăng say trong các tiết học. Để thu hút được học sinh vào bài giảng cần có một hình thức học tập phù hợp với tâm lý lứa tuổi và môi trường học tập của học sinh một cách cụ thể như: thuyết trình nhóm bằng hình thức đối đáp qua lại giữa các học sinh, thuyết trình nhóm bằng mẩu chuyện vui xoay quanh bài học, kịch hóa tác phẩm theo cách cảm nhận riêng của học sinh vẫn giữ được nội dung nhưng mang màu sắc và tính chất đổi mới tùy theo cách nhìn tác phẩm của các em. Thông thường, học sinh hiện nay vốn hiếu động không thích bị gò ép vào những khuôn mẫu nhất định nên việc mở rộng vấn đề hay tóm lược vấn đề của bài học theo cách truyền thống đã không còn có sự phù hợp. Học sinh luôn đòi hỏi học nhưng phải được đi đôi với chơi, do đó việc kết hợp giữa hình thức học và một số trò chơi lồng ghép xoay xung quanh bài học sẽ có tác dụng giúp học sinh nắm được cốt lõi của bài và ấn tượng về bài học. Có thể nói các chương trình truyền hình ngày càng nở rộ với rất nhiều Game show và bản thân học sinh có đã có cả một hệ thống các Game vừa chơi, vừa học cho 8
- Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn thấy cách học truyền thống xuất phát từ một phía có thể làm học sinh dễ nhàm chán và bỏ rơi bộ môn Văn. Học sinh luôn có nhu cầu chơi cao hơn học do đó đưa các trò chơi vào bài học vừa giúp học sinh phát huy được tính năng động, tích cực trong bài học của mình đồng thời làm cho các em không còn cảm thấy nhàm chán với bộ môn Văn. 1.2. Quy trình thực hiện ở mỗi lớp Để thực hiện được phương pháp học mà chơi trước hết giáo viên phải là người có sự đầu tư suy nghĩ, có sự đầu tư về thời gian và biết cách tổ chức nhóm hoạt động cũng như có sự thay đổi trong giáo án giảng dạy. Tùy vào điều kiện và hoàn cảnh mỗi lớp cũng như không khí học tập hay tâm lý học sinh trong lớp dạy mà có cách thức thực hiện sao cho phù hợp, kế hoạch giảng dạy theo hình thức mới phải được đưa ra trao đổi thảo luận và bàn bạc giữa giáo viên và lớp ngay từ đầu năm học. Giúp học sinh nắm được cách thức học tập một cách cụ thể, chi tiết và tạo cho các em nguồn hứng khởi giống như đang bước vào một thế giới mới ngay từ đầu. Học sinh cũng cần được bày tỏ quan điểm của mình về cách dạy và học phù hợp với các em, theo đó giáo viên sẽ điều chỉnh cách dạy sao cho học sinh thấy hứng khởi theo đúng tâm lý các em đồng thời người dạy cũng phải suy nghĩ để tạo ra cách thức để giảng dạy mới. Giáo viên cần khơi gợi sự tò mò cho học sinh về cách thức học tập theo mô hình mình đặt ra và liên tục duy trì khí thế trong lớp học bằng sự thay đổi không ngừng, biến hóa qua mỗi tiết. Từng bước dẫn dắt học sinh vào bài giảng bằng chính sự hoạt động của các em, kích thích tinh thần học tập của học sinh bằng chính khả năng của học sinh. Với những học sinh có khả năng hài hước sẽ được phân công chuẩn bị những mẩu chuyện vui gần với bài học tạo tinh thần thỏa mái, hứng khởi trong lớp học. Giáo viên cũng phải tự trang bị cho mình những câu chuyện thú vị để ứng biến với bài giảng và bản thân giáo viên cũng phải tự mình họa theo các em nhưng chỉ dừng lại ở mức độ nhất định. Học sinh đang trong lúc vui vẻ sẽ bị giáo viên đặt những câu hỏi bất ngờ xoáy vào bài học theo hình thức đi từ xa đến gần có thể bằng một loạt những câu hỏi trắc nghiệm buộc các em phải phản ứng nhanh để ghi cho mình những điểm cộng. Với rất nhiều phương pháp được áp dụng tùy thuộc vào thời lượng bài giảng theo quy định trong mỗi tuần sẽ đưa ra hình thức 9/23
- Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn phù hợp do đó làm kích thích tính chủ động trong tiếp cận bài học của học sinh phù hợp với tâm lý lứa tuổi. 1.3 Quy trình thí nghiệm các phương pháp Từ quá trình hình thành ý tưởng tới khi thực hiện phải trải qua thử nghiệm bằng cách thức tiến hành tại một vài lớp nhất định trong thời gian hai tuần đầu tiên về các cách thức giảng dạy theo ý tưởng của giáo viên. Cần xem xét đánh giá được mức độ hoạt động của từng lớp để chon ra những phương pháp cuốn hút các em cho phù hợp. Chẳng hạn với các lớp học sinh thích hoạt động theo phương thức làm nhóm học tập, giáo viên cần phân chia nhóm và giao trách nhiệm công việc cụ thể cho các thành viên trong nhóm đó khuyến khích tính sáng tạo của nhóm bằng các điểm cộng thêm ngoài phần điểm theo quy định. Tuy nhiên, có một số lớp học sinh lại có thiên hướng ưa hoạt động cá nhân, với những lớp này cần thiết là tổ chức giảng dạy theo hình thức phát huy vai trò của cá nhân trong các tiết học bằng phương thức tổ chức các game nhỏ nhỏ giống như giải ô chữ, đoán nội dung hay tìm câu chủ điểm, tìm ý chính…với hình thức này học sinh phát huy được tính chủ động của cá nhân mỗi học sinh. Cũng có thể mở rộng hoạt động chơi với tác phẩm đối với các lớp chỉ thích hoạt động theo nhóm nhỏ 3 tới 5 học sinh, mỗi nhóm này sẽ tự chuẩn bị câu hỏi xoay xung quanh nội dung tác phẩm đã được yêu cầu chuẩn bị sẵn ở nhà và đưa ra buộc nhóm kia phải trả lời trong thời gian quy định và ngược lại, giáo viên sẽ đóng vai trò giám khảo cho cuộc thi giữa hai bên để giảng giải những thắc mắc hay đáp án các em đưa ra chưa thật sự hợp lý. Các nhóm khác ngoài hai nhóm nhỏ này sẽ được cộng điểm bổ sung nếu như câu hỏi được nhóm chơi trả lời không chính xác. Như vậy, để có thể ứng dụng các phương pháp tạo sự hứng khởi, chủ động trong học sinh giáo viên cần phảo có sự thí điểm trước ở từng lớp và thực hiện theo từng giai đoạn sao cho phù hợp với tình hình học tập chung của lớp đó. 2. Phương pháp cụ thể giúp học sinh chủ động tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn 2.1. Hoạt động nhóm học tập lớn 10
- Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn Giáo viên tiến hành chia nhóm học tập ngay từ đầu năm học thường là 10 thành viên, đặt tên cho mỗi nhóm theo ý muốn của mình, biến mỗi học sinh trở thành một giáo viên trong tiết học của mình cụ thể như sau: Giáo viên hướng dẫn nhóm học sinh chuẩn bị bài trước khi lên lớp bao gồm tất cả các nội dung sẽ nói đến trong bài học từ phần giới thiệu cho tới khi kết thúc. Phần chuẩn bị này bắt buộc tất cả các học sinh phải chuẩn bị nhưng mỗi tổ sẽ chuyên sâu hơn nội dung của tổ mình. Các buổi trình bày của học sinh được phân theo các tổ học tập trong lớp bắt đầu từ tổ đầu tiên đến tổ cuối cùng, mỗi thành viên trong tổ phải lên trình bày bài giảng ít nhất một lần theo hình thức xoay vòng, có thể là trên lớp với phương tiện là phấn, bảng, có thể là sử dụng phòng nghe nhìn thiết kế nội dung bài giảng bằng Powerpoint và trình bày theo cách chuẩn bị của mình. Trong khi một học sinh trong nhóm học tập đóng vai trò giáo viên lên giảng bài thì các thành viên còn lại sẽ theo dõi nội dung bài giảng để chuẩn bị cho cuộc thảo luận xoay quanh nội dung học sinh vừa trình bày. Đối với những bài giảng văn học, học sinh vừa kết hợp thuyết trình vừa đặt ra các câu hỏi ngược lại cho các tổ khác cùng suy nghĩ để sau khi kết thúc phần bài giảng của nhóm mình, học sinh thuyết trình sẽ yêu cầu các nhóm còn lại trả lời câu hỏi. Sau phần trả lời các câu hỏi của các nhóm khác, thành viên trong nhóm thuyết trình; phải có nhận xét trước câu trả lời và giảng giải về câu hỏi của mình đặt ra. Phần trình bày của học sinh kết thúc, toàn thể lớp sẽ dành một tràng pháo tay thật lớn để chúc mừng bạn mình đã hoàn thành và bắt đầu vào cuộc thảo luận với những nội dung: Nhận xét ưu và khuyết điểm của người trình bày, nội dung trình bày, các em phải học kỹ năng khen trước chê sau. Các tổ còn lại sẽ thay phiên nhau đặt câu hỏi cho tổ có thành viên vừa trình bày, các thành viên trong tổ trình bày phải có nhiệm vụ bảo vệ bài giảng của mình bằng cách đưa ra các luận điểm để cho các nhóm khác thấy được sự chuẩn bị kĩ lưỡng của nhóm mình cho đến khi giáo viên thấy ổn thì bắt đầu nhận xét và đặt thêm câu hỏi cho người thuyết trình để xem mức độ hiểu bài tới đâu. Học sinh sẽ ghi phần nội dung bài giảng sau khi đã có sự chọn lọc, chốt ý của giáo viên. Trong phần này giáo viên đóng vài trò dẫn dắt, điều khiển các hoạt động của học sinh để nội dung bài học đi đúng hướng và đúng thời gian cho phép. 11/23
- Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn Ví dụ minh họa: Khi hướng dẫn học sinh giải quyết bài tập 1 – tiết “Ôn tập văn học trung đại Việt Nam” – Sách giáo khoa Ngữ Văn 11 – Tập 1 (trang 77), Tôi tiến hành phương pháp thảo luận nhóm. Hoạt động nhóm diễn ra như sau: Quá trình chuẩn bị: Hướng dẫn học sinh chuẩn bị ở nhà: Giáo viên hướng dẫn các nhóm học sinh ( 4 nhóm) lập bảng thống kê các tác giả, tác phẩm trong chương trình Ngữ Văn lớp 11 gồm các cột: Thứ tự, tác giả, tác phẩm, thể loại, nội dung, đặc sắc nghệ thuật, giai đoạn, ghi chú. Phần ghi chú học sinh ghi rõ tác phẩm thể hiện chủ yếu đặc điểm lớn nào về nội dung của văn học trung đại (chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân đạo, cảm hứng thế sự). Bảng thống kê thể hiện trên giấy khổ lớn để lớp có thể theo dõi. Học sinh chuẩn bị bảng thống kê các tác phẩm văn học trung đại đã làm khi tổng kết phần văn học trong chương trình 10 mang đến lớp để có dữ liệu so sánh. Thực hành trên lớp: Giáo viên yêu cầu các nhóm học sinh treo bảng thống kê theo mẫu vào những vị trí đã chuẩn bị sẵn. Ví dụ: 12
- Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn TÁC PHẨM, THỂ NỘI DUNG ĐẶC SẮC GIAI TT GHI CHÚ TÁC LOẠI CHÍNH NGHỆ THUẬT ĐOẠN GIẢ 1 Vào Kí Bức Quan sát Văn học Cảm phủ trung tranh sinh tỉ mỉ, ghi chép thế kỉ hứng thế chúa đại động về cuộc trung thực, tả XVII – sự Trịnh( sống xa hoa cảnh sinh Nửa đầu ................. Thượng quyền quý động, lựa chon thế kỉ . kinh kí nơi phủ chúa chi tiết đặc XIX sự) – Trịnh và thái sắc, đan xen ............... Lê Hữu độ coi thường tác phẩm thơ . Trác. danh lợi của ca. ........ tác giả. ........... ..... Sau đó, giáo viên gọi một số học sinh của các nhóm đọc nội dung thống kê từng tác phẩm nhóm mình đã làm, cứ như thế cho đến hết. Ví dụ học sinh A đọc thống kê về đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh, học sinh B trình bày tiếp về tác phẩm Tự tình.. Giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra nhận xét từ bảng thống kê bằng cách đặt câu hỏi cho 4 nhóm: Nhóm 1: Vậy nhìn vào bảng trên, em nhận thấy so với giai đoạn trước, nội dung yêu nước trong văn học Trung Đại Việt Nam ở giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX có những biểu hiện gì mới? Nhóm 2: Từ các tác phẩm của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, kết hợp với một số tác phẩm văn học trung đại giai đoạn thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX, em có nhận xét gì về nội dung nhân đạo trong văn học trung đại Việt Nam ở bước phát triển này? Nhóm 3: Cảm hứng thế sự đã được thể hiện như thế nào trong đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”? 13/23
- Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn Nhóm 4: Tại sao nói với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc thì lần đầu tiên trong văn học dân tộc có một tượng đài bi tráng và bất tử về người anh hùng nông dân nghĩa sĩ? Học sinh các nhóm lần lượt trả lời và cuối cùng giáo viên tổng kết, đánh giá cho điểm. 2.2. Game show học tập Với phương pháp này có rất nhiều hình thức tiến hành, có thể thực hiện sau phần thuyết trình của các nhóm đã kết thúc, để chốt lại giáo viên có thể đưa ra trò chơi giải ô chữ để chốt lại vấn đề của bài học nhằm tạo ấn tượng cho học sinh, đồng thời cũng tránh sự nhàm chán, mệt mỏi khi phải tập trung quá nhiều cho phần tranh luận đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi. Cũng có hình thức sử dụng trò chơi khác trong bài học, giáo viên phân công nhiệm vụ cho mỗi tổ chuẩn bị một trò chơi xoay xung quanh nội dung phần bài của nhóm mình chuẩn bị giống như chương trình chiếc nón kì diệu. Các thành viên trong tổ khác có nhiệm vụ tham gia giải đáp các ô chữ, tìm ra đúng nội dung theo sự gợi ý của nhóm chuẩn bị. Sau khi ô chữ đã được mở ra, nhiệm vụ của nhóm chuẩn bị là sẽ giảng giải về nội dung chuẩn bị của nhóm mình về bài học đã được thâu tóm trong trò chơi để các nhóm khác hiểu được nội dung tác phẩm. Với cách thức này không cần phải sử dụng phòng nghe nhìn mà có thể làm trực tiếp trên lớp. Tuy nhiên không nhất thiết phải là các nhóm, giáo viên sẽ tự soạn bộ câu hỏi theo chương trình ai là triệu phú cho chơi cả lớp trước khi đi vào nội dung chính của tác phẩm trên cơ sở đã yêu cầu các em đọc trước ở nhà. Câu hỏi được đặt ra theo mức độ từ dễ đến khó buộc học sinh phải nắm được nội dung tác phẩm mới hoàn thành được các câu hỏi một cách thông suốt. Việc hoàn tất các câu trả lời cũng là kết thúc cho một bài giảng, mỗi câu hỏi được mở ra giáo viên sẽ giảng giải nội dung có liên quan đến câu hỏi đó trước khi học sinh đi vào câu hỏi tiếp theo. Với phương pháp này, mỗi cá nhân học sinh sẽ phải chủ động trong câu trả lời của mình và thông qua đó có thể bao quát hết được các học sinh trong lớp. Ví dụ minh họa: Tổ chức giải ô chữ trong bài ôn tập văn học dân gian: đây là ô chữ tôi sử dụng hiệu quả trong bài Ôn tập văn học dân gian lớp 10. Sau khi 14
- Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn tìm được 6 ô chữ hàng ngang, học sinh sẽ tìm được ô chữ hàng dọc – cụm từ gồm 6 chữ cái, là một đặc trưng cơ bản của văn học dân gian: 1 C Ổ T Í C H 2 D Ậ Y 3 P Ê N Ê L Ố P 15/23
- Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn 4 G I Ả I T R Í 5 S Ử T H I 6 K Ể Hệ thống câu hỏi như sau: 1. Thể loại phản ánh những xung đột xã hội, cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, chính nghĩa và gian tà? (6 chữ cái) 16
- Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn 2. Đây là từ còn thiều trong câu ca dao: Nửa đêm trở...trông trời?( gồm 3 chữ cái) 3. Nhân vật chính trong đoạn trích Uy – lit – xơ trở về? (gồm 7 chữ cái) 4. Thể loại nào mà hình thức lưu truyền là hát – kể? (gồm 5 chữ cái) 5. Một trong những mục đích của truyện cười? (gồm 6 chữ cái) 6. Hình thức lưu truyền chủ yếu của truyện cười là gì? (gồm 2 chữ cái) 7. Ô hàng dọc: là một đặc trưng cơ bản của văn học dân gian? (gồm 6 chữ cái). 2.3 Kịch hóa tác phẩm Thông thường các tác phẩm ngữ văn tương đối đa dạng với nhiều thể loại, mỗi thể loại có những đặc trưng riêng cho nên giáo viên có thể căn cứ vào đó tạo ra một phương pháp mới để lôi cuốn học sinh. Với hình thức kịch hóa thực chất cũng là một sân chơi cho học sinh thể hiện tài năng của mình. Nội dung này có thể thực hiện bằng hình thức đối với những tác phẩm ngắn như những câu chuyện cười trong phần dành cho học sinh khối 10, giáo viên khuyến khích học sinh có khả năng kể lại câu chuyện mà khiến cho cả lớp có thể cười nghiêng ngả lên độc thoại về tác phẩm. Phần trình bày của học sinh kết thúc, học sinh đó sẽ đặt ra một loại các câu hỏi liên quan đến tác phẩm đã được chuẩn bị trước ở nhà và chỉ định các học sinh khác trong lớp tham gia trả lời các hỏi này. Quá trình giải đáp các câu hỏi học sinh sẽ nhận được sự hỗ trợ từ phía giáo viên, sau mỗi câu hỏi của học sinh kể chuyện được trả lời giáo viên sẽ đặt thêm câu hỏi bổ sung đi sâu vào tác phẩm đồng thời chốt ý luôn. Đối với những tác phẩm văn học dài, mang kịch tính giáo viên sẽ lấy tinh thần xung phong của các nhóm, thông thường một nhóm sẽ phụ trách một tác phẩm, các em sẽ đóng những phân đoạn quan trọng xuyên suốt tác phẩm trong thời gian 10. Với hình thức kịch hóa này buộc nhóm thực hiện phải viết lại kịch bản tác phẩm thành những lời thoại phù hợp với những phân cảnh và phân chia nhân vật hợp lý. Nhóm kịch hóa sẽ có nhiệm vụ thuyết minh về các nhân vật gắn với các nội dung trong tác phẩm trong lúc các nhóm khác sẽ đặt câu hỏi để đối thoại với nhóm kịch hóa này. Mỗi nhân vật tương ứng với một học sinh và tự học sinh đó phải bảo vệ được nhân vật mình trước các câu hỏi đưa ra. Hình thức kịch hóa tuy không mới nhưng cách thức làm sẽ thể hiện được sự năng động, sáng tạo của học sinh và cách thể hiện nhân vật cũng cho thấy được sự cảm thụ tác phẩm của các em. Đối với các nhóm không tham 17/23
- Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn gia phần kịch hóa thì đây cũng là dịp để các em thấy được khả năng của bạn mình đồng thời có ấn tượng về tác phẩm ở một khía cạnh khác so với cách thức thuyết trình thông thường. Ngoài ra, một vài tác phẩm có lời thoại kịch cá nhân học sinh sẽ được mời phân vai giống như các diễn viên trên sân khấu nhưng không phải đóng kịch mà chủ yếu thể hiện qua lời thoại. Cách nhấn nhá phù hợp với nhân vật của học sinh cũng tạo ra ấn tượng rất lớn về tác phẩm đối với các học sinh khác. Trong phần thể hiện này, học sinh phải trả lời được câu hỏi của giáo viên về nhân vật và các em có quyền đặt câu hỏi trực diện cho các bạn còn lại trong lớp cùng tham gia vào bài giảng. Ví dụ minh họa: Khi tìm hiểu văn bản “Tình yêu và thù hận” (Rô – mê – ô và Giu – li – ét), trong phần đọc – hiểu văn bản, thay vì gọi một học sinh đứng lên đọc, tôi đã hướng dẫn các em học sinh đóng kịch. Quá trình ấy diễn ra như sau: Hướng dẫn học sinh chuẩn bị: Thời gian hướng dẫn: đảm bảo thời gian các em học sinh có đủ thời gian để chuẩn bị (3 tuần trước khi diễn ra tiết học). Lựa chọn và phân vai học sinh tham gia (3 học sinh): Một học sinh đóng vai: Rô – mê –ô Một học sinh đóng vai: Giu – li – ét Một học sinh làm người dẫn chuyện. Lựa chọn lời thoại: dựa vào đặc điểm của đoạn trích: dung lượng ít, lời thoại ngắn và dễ nhớ nên đa phần lời thoại được giữ lại. Riêng lời thoại 1, cắt bớt và chỉ giữ lại đoạn “Ấy...nhỉ”. Ngoài ra giáo viên còn định hướng trước cho học sinh ngữ điệu của từng lời thoại (dựa vào bối cảnh và tâm trạng nhân vật). Thực hiện trên lớp: học sinh trình bày phần chuẩn bị; giáo viên nhận xét và cho điểm. 2.4. Quyền lợi của học sinh Học sinh ngoài vấn đề yêu thích môn học, đối với các em điểm số cũng khá quan trọng. để khích lệ tinh thần học tập tích cực, các em sẽ có cột điểm cộng và cột điểm trừ. Giáo viên tính điểm cộng cho nhóm và người trình bày. Nếu nhóm bảo vệ được bài giảng đến cùng thì sẽ giữ được trọn vẹn số điểm cộng, nếu không trả lời được câu hỏi của nhóm khác thì điểm cộng được 18
- Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn chuyển qua người đặt câu hỏi và giải đáp câu hỏi đó (học sinh đã đưa ra câu hỏi đúng nội dung bài, bắt buộc phải có cả câu trả lời cho câu hỏi đó khi nhóm thuyết trình không trả lời được thì đứng lên giảng giải cũng phải trọng tâm và đúng nội dung). Nếu nhóm nào không chuẩn bị bài tốt và không có tinh thần đoàn kết nhóm thì sẽ bị điểm trừ. Có những nhóm mặc dù các em có thực hiện nội dung của mình nhưng không đáp ứng được yêu cầu đặt ra sẽ không có điểm cộng và nhóm phải tích lũy điểm thông qua tác phẩm khác. Tương tự như vậy, trong phầm Game show mỗi câu trả lời đúng theo tinh thần xung phong các em sẽ được đánh một dấu cộng do lớp phó học tập của lớp sẽ phụ trách, đối với những học sinh trả lời đúng nhưng không phải tự nguyên mà bị kêu lên các em sẽ không được cộng điểm trừ khi các em trả lời đúng 3 câu liên tiếp mới được tính điểm cộng. Phần kịch hóa hình thức cộng điểm cao hơn so với các nội dung trên bao gồm: Những cá nhân trực tiếp tham gia đóng kịch các em sẽ được cộng gấp đôi dù có hay hoặc không hay, có đạt hoặc không đạt các em vẫn được cộng điểm do quá trình phải tập luyện. Ngược lại những học sinh không đọc tác phẩm sau khi nhóm kịch đã trình diễn xong mà không đặt ra được câu hỏi cho bài học hay không có sự đối thoại, tranh luận với nhóm kịch xoay quanh các nhân vật và tác phẩm sẽ bị 1 điểm trừ. Giáo viên là người giữ vai trò định hướng cho học sinh đi đúng trọng tâm, vấn đề thể hiện của học sinh. Trước mỗi bài kiểm tra 15 phút, giáo viên sẽ hệ thống lại toàn bộ điểm cộng của học sinh trong suốt thời gian trước đó và quy đổi ra điểm số cụ thể, tối đa nhất là cộng 1,5đ. Giáo viên sẽ công khai điểm số cộng, trừ trước lớp, phần điểm cộng chỉ được áp dụng cho điểm miệng và 15 phút. Như vậy, với hình thức cộng điểm cũng là một cách để học sinh luôn phấn đấu nỗ lực không ngừng trong quá trình học tập. 19/23
- Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn 3. KẾT QUẢ THỰC HIỆN Kết quả chung: Hầu hết các em học sinh nắm được cách thức học tập một cách cụ thể, chi tiết và tạo cho các em nguồn hứng khởi giống như đang bước vào một thế giới mới ngay từ đầu. Điều này góp phần kích thích tinh thần học tập của các em bằng chính khả năng của mình. Cũng vì vậy mà số học sinh tích cực chủ động ngày càng có xu hướng tăng, số học sinh thụ động, chống đối, thờ ơ với môn học giảm rõ rệt. Điều này thể hiện rất rõ trong việc chuẩn bị bài trước khi đến lớp; tinh thần tích cực, trách nhiệm trong việc tổ chức các game show và việc hoàn thành thuyết trình nhóm. Với phương pháp tạo hứng thú và nâng cao khả năng tự lĩnh hội kiến thức cho học sinh, giáo viên đã tạo nên được những tiết học phong phú, hấp dẫn học sinh. Đặc biệt, học sinh bước đầu ý thức được vai trò và tầm quan trọng bộ môn để từ đó có thái độ học tập tích cực chủ động hơn. Cùng với sự thay đổi tích cực trong nhận thức thì kết quả học tập của các em cũng được nâng cao rõ rệt. Nhất là kết quả ấy lại là sự phản ánh một cách trung thực nỗ lực cố gắng của các em. Bảng thống kê kết quả học tập theo hướng tích cực chủ động với môn học: Sau thử nghiệm ( Cuối học kì II) Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình 9 23 12 10A7 44 (20,5%) (51,9%) (27,6%) 10A8 40 6 19 15 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
SKKN: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 viết được một đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu.
16 p | 1601 | 394
-
SKKN: Một số phương pháp giúp học sinh lớp 4 và 5 học tốt phân môn tập đọc nhạc
15 p | 1275 | 203
-
SKKN: Một số phương pháp giúp học sinh giải bài tập về kiểu xâu
20 p | 768 | 192
-
SKKN: Một số biện pháp giúp HS lớp 1 học tốt giải Toán có lời văn
59 p | 1594 | 189
-
SKKN: Một số phương pháp giúp học sinh lớp 3 vẽ tốt hình dáng người
15 p | 858 | 152
-
SKKN: Một số phương pháp kích thích hứng thú học tập của học sinh qua môn vật lý
10 p | 1226 | 142
-
SKKN: Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn Toán lớp 4
15 p | 1404 | 100
-
SKKN: Một số biện pháp giúp học sinh lĩnh hội kiến thức và yêu thích môn Vật lý
8 p | 426 | 67
-
SKKN: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 viết chữ rõ ràng, sạch đẹp
26 p | 458 | 56
-
SKKN: Một số biện pháp giúp HS xây dựng các cách mở bài, kết bài trong Tập làm văn lớp 4
29 p | 370 | 44
-
SKKN: Một số phương pháp nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường THCS
21 p | 411 | 41
-
SKKN: Một số phương pháp giải phương trình nguyên bậc hai hai ẩn
14 p | 173 | 26
-
SKKN: Một số biện pháp giúp học sinh hứng thú học môn mĩ thuật theo phương pháp Đan Mạch
11 p | 594 | 21
-
SKKN: Một số phương pháp chứng minh Tứ giác nội tiếp và cách vận dụng
32 p | 342 | 20
-
SKKN: Một số phương pháp giúp học sinh học tốt phần thơ hiện đại - Ngữ Văn 9
26 p | 276 | 20
-
SKKN: Một số phương pháp dạy Ngữ âm- từ vựng để phát triển kỹ năng giao tiếp tiếng Anh cho học sinh trường THPT Than Uyên.
27 p | 50 | 9
-
SKKN: Một số phương pháp dạy Ngữ âm- từ vựng để phát triển kỹ năng giao tiếp tiếng Anh cho học sinh trường THPT Than Uyên
27 p | 133 | 7
-
SKKN: Một số phương pháp giải phương trình vô tỉ trong cấu trúc đề thi THPT quốc gia
23 p | 56 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn