intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một số phương pháp giúp học sinh chủ động tích cực trong học tập bộ môn Văn

Chia sẻ: Trần Thị Ta | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:29

47
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là Nhằm tạo ra sự hợp tác, đối thoại giữa giáo viên và học sinh thông qua tác phẩm, khích lệ tinh thần tự học ở học sinh, giúp học sinh hứng thú với bài học khi chính các em là người chủ động khám phá tác phẩm. Xây dựng một không khí học tập sôi động với tinh thần chung là thỏa mái, nhẹ nhàng, không áp lực, không căng thẳng nhưng vẫn đạt được những hiệu quả nhất định.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một số phương pháp giúp học sinh chủ động tích cực trong học tập bộ môn Văn

  1. Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài Bộ môn văn là một môn có vị trí quan trọng trong chương trình Giáo dục  nói chung và trong trường THPT nói riêng, đó là một trong hai môn chính phải  thi tốt nghiệp và tính điểm hệ số nhân đôi đối với các khối chuyên ban. Chính  vì vậy, bộ môn Văn có vai trò quan trọng quyết định tới kết quả của học sinh.   Tuy nhiên, môn Văn đã và đang mất dần vị  trí của mình. Một thực tế  đáng  buồn rằng: Hiện nay, đa số các em học sinh không thích và yêu môn Văn nữa.   Vì sao lại như vậy?  Trong một số trường THPT có hẳn một ban C dành cho các em yêu thích   các môn Khoa học xã hội nhưng đa số  các em học ban C không phải vì yêu   thích mà vì không theo được ban A, B nên đành học ban C theo kiểu “Chuột   chạy cùng sào mới vào ban C”, còn các em yêu thích học Văn thì lại không   chọn Văn, cho dù có chọn học ban C thì khi thi Đại học các em cũng ít hoặc   không theo ban C. Theo khảo sát tình hình học tập và tâm tư của các em hiện  nay phần lớn đều cho rằng học văn không đem lại thu nhập cao, khó xin  việc... trong khi nhu cầu xã hội đang cần là phát triển về kinh tế, ngân hàng,   hay các kỹ  sư, bác sĩ… với những trường đang được coi mà “mốt” và thời  thượng. Vì thế  đa phần học sinh mải mê theo ban A, B mà vô tình “bỏ  rơi”   ban C. Các em học Văn theo kiểu “chống đối” chỉ học đủ điểm để lên lớp và   đỗ tốt nghiệp.  Hiện nay, đa phần học sinh “chống chọi” với môn Văn bằng cách sắm   cho mình một quyển “Để học tốt” cất sẵn trong cặp, học sinh soạn bài cũng  chỉ  mang tính chất đối phó với thầy cô…Học sinh không cần đọc văn bản,   không cần cảm thụ và chỉ cần “tự vệ” bằng cách đó. Thậm chí, học sinh còn   không cần quan tâm tới điểm số  của môn học vì bản thân các em không cho  môn Văn là quan trọng với mình. Một bộ phận học sinh thích học Văn thì lại  lắc đầu vì cách dạy Văn của cô giáo khiến cho các em không còn thích và yêu  Văn nữa. Chính vì vậy người giáo viên dạy văn cần linh hoạt áp dụng các  phương pháp dạy học mới vào trong quá trình giảng dạy.  Có rất nhiều giáo viên  ứng dụng công nghệ  vào trong quá trình giảng  dạy, đây là một hình thức mới gây sự chú ý và tò mò của học sinh đối với bài  giảng. Tuy nhiên, áp dụng như thế nào cho phù hợp và hiệu quả nhất cũng là   một vấn đề  khó. Vì nếu giáo viên sử  dụng không khéo học sinh sẽ  chú ý  1/23
  2. Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn nhiều đến hiệu  ứng, phông nền, hình  ảnh mà cô giáo sử  dụng nhiều hơn là   nội dung bài giảng.  Và để  soạn thảo một bài dạy bằng PowerPoint giáo viên sẽ  mất rất  nhiều công chuẩn bị và soạn giảng, chính vì vậy mà đa số  giáo viên rất ngại  soạn giáo án điện tử, phần lớn giáo viên thường chọn cách giảng truyền   thống.   Ngoài   việc   ứng   dụng   công   nghệ,   một   số   giáo   viên   cũng   đổi   mới  phương pháp dạy học của mình, thay vì việc đọc chép các thầy cô để cho học   sinh chủ  động tiếp cận với văn bản tác phẩm qua các hình thức như: Đóng  kịch (đối với các vở kịch), đọc phân vai đối với các tác phẩm tự sự…Học sinh   được tiếp cận tác phẩm theo cách cảm nhận của mình, học sinh trao đổi,  tranh luận về  các vấn đề  xoay quanh các tác phẩm. Cuối cùng giáo viên là  người chốt lại vấn đề, định hướng cho học sinh cách hiểu đúng tác phẩm…  Người  giáo viên dạy Văn phải là một người thực sự  yêu nghề, một   người nhạy cảm, tinh tế để cảm thụ cái hay, cái đẹp của tác phẩm đồng thời  cũng là một người dẫn đường để đưa học sinh đến với văn chương. Môn Văn  là một môn học quan trọng nó không chỉ  cung cấp tri thức cho học sinh như  các môn học khác mà môn Văn còn góp phần định hướng, hình thành nhân  cách cho học sinh. Học văn giúp chúng ta biết yêu cái đẹp, ghét cái xấu, giúp  chúng ta hiểu được giá trị  của cuộc sống. Có ý kiến của một thầy giáo cho   rằng: Cần trả  lại đúng vị  trí của môn Văn bằng cách đưa môn Văn và môn  Toán là hai môn thi bắt buộc trong kì thi Đại học, cách đó chắc chắn sẽ  ít   nhiều đem lại hiệu quả, sẽ giúp học sinh học Văn nhiều hơn nhưng chưa hẳn  đã khiến học sinh thêm yêu Văn.  Với mong muốn trong một tương lai không xa, Văn học sẽ  trở  về  vị  trí  vốn có của nó, tôi mạnh dạn đề  xuất “ Một số  phương pháp giúp học sinh   chủ động tích cực trong học tập bộ môn Văn”.  2. Mục đích  Xuất phát từ  nhu cầu thực tiễn của việc học bộ  môn Văn trong nhà  trường cũng như  tình hình giảng dạy hiện nay mong muốn  đề  ra một số  phương pháp để tạo nguồn cảm hứng, khơi dậy lòng yêu thích môn học trong  học sinh. Phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong cách học cũng  như để các em có thể tự do cảm thụ tác phẩm theo cách hiểu của mình không  gò bó, khuôn sáo.  2
  3. Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn Nhằm tạo ra sự  hợp tác, đối thoại giữa giáo viên và học sinh thông qua  tác phẩm, khích lệ tinh thần tự học ở học sinh, giúp học sinh hứng thú với bài  học khi chính các em là người chủ động khám phá tác phẩm.  Học sinh được phát huy nhiều khả năng của mình trong quá trình chuẩn  bị  bài, tham gia các hoạt động trong tiết học cũng như  được quyền bày tỏ  chính kiến của mình về tác phẩm trước tập thể.  Xây dựng một không khí học tập sôi động với tinh thần chung là thỏa  mái, nhẹ nhàng, không áp lực, không căng thẳng nhưng vẫn đạt được những  hiệu quả nhất định.  3. Đối tượng và phạm vi thực hiện Học sinh khối 10 (10A7, 10A8), 11 (11A10) trong phạm vi giáo viên giảng  dạy ở trường THPT. 4. Kế hoạch nghiên cứu Thực hiện đề tài trong năm học: Từ tháng 8 năm 2014 đến tháng 4 năm  2015 5. Phương pháp thực hiện Sử  dụng phương pháp liên ngành kết hợp giữa văn học, lịch sử  và giáo  dục lối sống, rèn luyện các thao tác kỹ năng mềm cho học sinh.  Áp dụng những kĩ năng và nguyên tắc chung về chuyên môn để tiến hành  thực hiện các tiết học theo đúng quy trình và yêu cầu của bộ giáo dục. 6. Ý nghĩa của đề tài Với đề  tài  “Đề  xuất một số  phương pháp giúp học sinh chủ  động,   tích cực trong học tập bộ  môn Văn”  giúp cho quá trình giảng dạy có một  bước thay đổi phù hợp với yêu cầu thực tiễn của việc học và dạy hiện nay. Góp phần vào quá trình đổi mới trong dạy học nâng cao khả  năng tiếp  cận văn bản của học sinh, tạo môi trường học tập sôi nổi, chủ động, tích cực   làm tăng khí thế học tập của học sinh trong môi trường học tập nói chung.        Góp phần vào sự  đổi mới phương pháp trong môi trường sư  phạm nói   chung. 3/23
  4. Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn B. PHẦN NỘI DUNG I. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí luận Bàn về  vị  trí của người thầy, W.A.Walde cho rằng:   “Thầy giáo bình   thường chỉ biết thuật lại, thầy giáo giỏi thì giải thích, thầy giáo xuất sắc thì   chứng minh, còn người thầy vĩ đại thì mở lối chỉ đường”. Quả là, người thầy  đạt đến độ  vĩ đại phải là người biết “mở lối chỉ đường”, tức là biết gợi mở  cho học sinh học tập, biết đánh thức tiềm năng nơi học sinh và đặc biệt là rèn  luyện cho học sinh tính tích cực, chủ động sáng tạo trong học tập. Hiện nay,   trong các trường học, phương pháp giảng dạy của các thầy cô đã được đổi  mới. Quan điểm lấy học sinh là trung tâm, giáo viên chỉ là người hướng dẫn,   gợi mở đã đem đến cho giáo dục những thành tích đáng kể. Với học sinh, hành trình đến với chân trời tri thức là con đường đẹp đẽ  nhưng cũng rất gian nan. Để có thể đi đến đích nhất thiết phải chọn cho mình   một thái độ học tập đúng đắn và hợp lí. Nhà bác học Đác Uyn từng nói: “  Tất   cả  những gì có giá trị  một chút tôi đều thu nhận được bằng cách tự  học”.  Vậy tự  học là gì? Là phương pháp lấy sự  chủ  động, tích cực của bản thân  người học làm yếu tố cốt lõi, căn bản. Nhất là với phương pháp này, người  học có thể  lựa chọn được những gì phù hợp với năng lực và nhu cầu bản  thân. Trên cơ sở  lựa chọn  ấy, người tiếp nhận cũng sẽ  lựa chọn tốt nhất và  vận dụng hiệu quả nhất kiến thức thu được cho những mục đích học tập cụ  thể. Đây chính là con đường, cách học hiệu quả  để  chiếm lĩnh tri thức lớn   nhất làm giàu vốn hiểu biết của bản thân. Đổi mới phương pháp dạy học là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới giáo   dục trung học hiện nay. Luật Giáo dục (Điều 28) đã nêu: Phương pháp giáo   dục phổ  thông phải phát huy tính tích cực, chủ  động, tự  giác, sáng tạo của   học sinh; phù hợp với đặc điểm của lớp học, môn học; bồi dưỡng phương   pháp tự  học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động   đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.  Như vậy, tích  cực hóa chính là một tập hợp các hoạt động nhằm chuyển biến vị  trí của  người học từ  thụ  động sang chủ  động, từ  đối tượng tiếp nhận tri thức sang   đối   tượng   tìm   kiếm   tri   thức   để   nâng   cao   hiệu   quả   học   tập.   Tất   cả   các  phương pháp nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh đều được  coi là phương pháp dạy học tích cực. 4
  5. Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn 2. Cơ sở thực tiễn Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy rằng: Đa số  các em học sinh  đến với môn Ngữ  Văn không phải vì yêu thích mà xuất phát từ  những động  cơ khác nhau (đối phó, bị ép buộc, để đáp ứng một điều kiện nào đó trong thi  cử, hay để đánh giá kết quả học tập...). Bởi vậy, hầu hết các em học sinh đến với môn   Ngữ  Văn đều có thái độ  thờ  ơ, thiếu tích cực và chủ  động trong học tập. Thái độ  này biểu hiện chủ yếu ở các phương diện sau: Trong việc chuẩn bị bài trước khi đến lớp: Hiện nay, việc giảng dạy bộ  môn Ngữ  Văn của hầu hết các giáo viên trong trường THPT đều gặp khó  khăn trong việc đảm bảo khung thời gian theo quy định (mất thời gian cho   việc đọc văn bản và gợi mở), khó khăn trong việc khơi gợi và định hướng cho  học sinh...Điều này  xuất phát từ thực trạng chuẩn bị bài và hoàn thiện bài tập  trước khi đến lớp. Đa phần các em ít đọc văn bản, soạn bài và hoàn thiện bài  tập trước khi đến lớp. Thậm chí, còn có những em không bao giờ  đọc văn   bản, soạn bài hay làm bài tập. Cũng bởi vậy mà học sinh thường lơ  mơ  và   không biết gì (dù là những điều cơ bản nhất như: tên tác phẩm, tác giả, nhân   vật chính hay tóm tắt tác phẩm...) khi đi vào tìm hiểu tác phẩm. Ví dụ: Trước khi học bài "Chữ  người tử  tù", tôi hỏi: tác giả  của tác  phẩm là ai? Xuất xứ? Nhân vật chính? Học sinh chẳng những trả  lời sai mà  còn không trả  lời được: Tác giả  là Nam Cao. Và không trả  lời được hai vế  còn lại. Trong việc học tập  ở  trên lớp: Bên cạnh một số  học sinh tích cực và   hứng thú với tiết học thì đa phần các em rất thờ  ơ, thiếu tích cực trong việc  tiếp thu và xây dựng bài học. Trong tiết học, có em thì ngủ  gật, có em thì   mang các môn khác ra học, có em thì nói chuyện chứ không tập trung vào bài   học và định hướng của giáo viên...Đặc biệt, sự hợp tác của học sinh với giáo  viên là rất hạn chế. Học sinh ít xung phong xây dựng bài hoặc bày tỏ  quan  điểm ý kiến riêng của bản thân. Nếu bị giáo viên gọi thì học sinh thường có  chung câu trả lời: Em không biết; em chưa nghĩ ra; hoặc là em cũng có ý kiến  giống bạn... Và nếu tiếp tục nhận được sự  gợi mở  từ  giáo viên thì học sinh  thường ít tập trung và quan tâm đến lời định hướng ấy. Thậm chí, có những   đơn vị  kiến thức rất cơ  bản, có sẵn trong sách giáo khoa, giáo viên chỉ  rõ  đoạn, rõ trang và học sinh biết nhưng cũng không có một cánh tay nào xung   5/23
  6. Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn phong. Trong quá trình luyện tập và củng cố  bài học: Học sinh rất lười làm  bài, lười suy nghĩ. Việc mà các em thường làm trong hoạt động này là: ngồi  chờ, nói chuyện và chép bài sau khi giáo viên chữa. Xuất phát từ  thực trạng trên, tôi đã tiến hành khảo sát và thu được kết   quả như sau:  6
  7. Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn Bảng thống kê kết quả học tập Sĩ số Trước thử nghiệm (Đầu học kì I) Lớp Giỏi khá Trung bình Yếu 3 10 27 4 10A7 44 (6,8%) (23%) (51%) (9,2%) 2 8 24 6 10A8 40 (5%) (20%) (60%) (15%) 0 5 26 6 11A10 37 (0%) (13,5%) (70,3%) (16,2%) Bảng thống  kê kết quả khảo sát về thái độ học tập bộ môn Trước thử nghiệm (Đầu học kì I) Lớp Sĩ số Chủ động Thụ động Thờ ơ 10 30 4 10A7 44 (22,5%) (68,5%) (9%) 8 29 3 10A8 40 (20%) (72,5%) (7,5%) 4 23 10 11A10 37 (10,8%) (62,2%) (27%) 7/23
  8. Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn  II.  M   ỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP CHỦ YẾU  1. Quy trình thực hiện phương pháp tạo sự tích cực chủ động trong học  sinh 1.1. Quy trình hình thành ý tưởng Xây dựng môn học theo cách thức tập trung mọi hoạt động về  phía học  sinh xuất phát từ chương trình giáo dục kỹ năng nhóm trong các sinh hoạt tập   thể  hiện nay. Giáo viên cũng giống như  người điều khiển chương trình có  nhiệm vụ điều hành một tiết học hay một buổi thảo luận mà trung tâm không  phải là mình. Xuất phát từ thực tiễn các hoạt động đội, nhóm trong các phong   trào cho thấy học sinh rất hứng khởi với cách thức chơi mà học, đa phần học   sinh hiện nay thích tự  mình khám phá, tìm hiểu môn học và muốn được thể  hiện mình hơn là bị  áp đặt từ  nhiều phía. Với xu hướng phát triển không  ngừng của hệ  thống Internet như hiện nay để  học sinh tự  tìm hiểu bài bằng  nhiều phương thức là một vấn đề  không khó mà còn tạo ra được một sân  chơi trong giờ học cho các em.  Theo xu thế  phát triển chung của xã hội, học sinh không chỉ  đơn thuần  trong suy nghĩ mà các em luôn muốn được khẳng định mình trước tập thể  nhất là sự cạnh tranh trong điểm số giữa các nhóm hay vì màu cờ sắc áo của  nhóm mình mà học sinh càng hăng say trong các tiết học. Để thu hút được học  sinh vào bài giảng cần có một hình thức học tập phù hợp với tâm lý lứa tuổi  và môi trường học tập của học sinh một cách cụ  thể  như: thuyết trình nhóm  bằng hình thức đối đáp qua lại giữa các học sinh, thuyết trình nhóm bằng   mẩu chuyện vui xoay quanh bài học, kịch hóa tác phẩm theo cách cảm nhận  riêng của học sinh vẫn giữ được nội dung nhưng mang màu sắc và tính chất  đổi mới tùy theo cách nhìn tác phẩm của các em.  Thông thường, học sinh hiện nay vốn hiếu động không thích bị gò ép vào   những khuôn mẫu nhất định nên việc mở  rộng vấn đề  hay tóm lược vấn đề  của bài học theo cách truyền thống đã không còn có sự  phù hợp. Học sinh   luôn đòi hỏi học nhưng phải được đi đôi với chơi, do đó việc kết hợp giữa   hình thức học và một số trò chơi lồng ghép xoay xung quanh bài học sẽ có tác   dụng giúp học sinh nắm được cốt lõi của bài và ấn tượng về bài học. Có thể  nói các chương trình truyền hình ngày càng nở rộ với rất nhiều Game show và  bản thân học sinh có đã có cả một hệ thống các Game vừa chơi, vừa học cho   8
  9. Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn thấy cách học truyền thống xuất phát từ  một phía có thể  làm học sinh dễ  nhàm chán và bỏ rơi bộ môn Văn. Học sinh luôn có nhu cầu chơi cao hơn học   do đó đưa các trò chơi vào bài học vừa giúp học sinh phát huy được tính năng  động, tích cực trong bài học của mình đồng thời làm cho các em không còn  cảm thấy nhàm chán với bộ môn Văn. 1.2. Quy trình thực hiện ở mỗi lớp Để thực hiện được phương pháp học mà chơi trước hết giáo viên phải là   người có sự  đầu tư  suy nghĩ, có sự  đầu tư  về  thời gian và biết cách tổ  chức  nhóm hoạt động cũng như có sự thay đổi trong giáo án giảng dạy.  Tùy vào điều kiện và hoàn cảnh mỗi lớp cũng như không khí học tập hay   tâm lý học sinh trong lớp dạy mà có cách thức thực hiện sao cho phù hợp, kế  hoạch giảng dạy theo hình thức mới phải được đưa ra trao đổi thảo luận và   bàn bạc giữa giáo viên và lớp ngay từ đầu năm học. Giúp học sinh nắm được  cách thức học tập một cách cụ  thể, chi tiết và tạo cho các em nguồn hứng  khởi giống như đang bước vào một thế giới mới ngay từ đầu. Học sinh cũng  cần được bày tỏ quan điểm của mình về cách dạy và học phù hợp với các em,  theo đó giáo viên sẽ điều chỉnh cách dạy sao cho học sinh thấy hứng khởi theo   đúng tâm lý các em đồng thời người dạy cũng  phải suy nghĩ để  tạo ra cách  thức để giảng dạy mới.  Giáo viên cần khơi gợi sự tò mò cho học sinh về cách thức học tập theo  mô hình mình đặt ra và liên tục duy trì khí thế trong lớp học bằng sự thay đổi  không ngừng, biến hóa qua mỗi tiết. Từng bước dẫn dắt học sinh vào bài   giảng bằng chính sự  hoạt động của các em, kích thích tinh thần học tập của   học sinh bằng chính khả năng của học sinh. Với những học sinh có khả năng   hài hước sẽ được phân công chuẩn bị những mẩu chuyện vui gần với bài học  tạo tinh thần thỏa mái, hứng khởi trong lớp học. Giáo viên cũng phải tự trang  bị cho mình những câu chuyện thú vị  để  ứng biến với bài giảng và bản thân  giáo viên cũng phải tự  mình họa theo các em nhưng chỉ  dừng lại  ở  mức độ  nhất định. Học sinh đang trong lúc vui vẻ  sẽ  bị  giáo viên đặt những câu hỏi  bất ngờ  xoáy vào bài học theo hình thức đi từ  xa đến gần có thể  bằng một  loạt những câu hỏi trắc nghiệm buộc các em phải phản ứng nhanh để ghi cho   mình những điểm cộng. Với rất nhiều phương pháp được áp dụng tùy thuộc   vào thời lượng bài giảng theo quy định trong mỗi tuần sẽ  đưa ra hình thức  9/23
  10. Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn phù hợp do đó làm kích thích tính chủ  động trong tiếp cận bài học của học  sinh phù hợp với tâm lý lứa tuổi.  1.3  Quy trình thí nghiệm các phương pháp Từ  quá  trình  hình  thành   ý  tưởng  tới  khi  thực  hiện  phải  trải  qua  thử  nghiệm bằng cách thức tiến hành tại một vài lớp nhất định trong thời gian hai  tuần đầu tiên về  các cách thức giảng dạy theo ý tưởng của giáo viên. Cần   xem xét đánh giá được mức độ  hoạt động của từng lớp để  chon ra những   phương pháp cuốn hút các em cho phù hợp. Chẳng hạn với các lớp học sinh  thích hoạt động theo phương thức làm nhóm học tập, giáo viên cần phân chia   nhóm và giao trách nhiệm công việc cụ thể cho các thành viên trong nhóm đó   khuyến khích tính sáng tạo của nhóm bằng các điểm cộng thêm ngoài phần  điểm theo quy định.  Tuy nhiên, có một số  lớp học sinh lại có thiên hướng  ưa hoạt động cá   nhân, với những lớp này cần thiết là tổ  chức giảng dạy theo hình thức phát  huy vai trò của cá nhân trong các tiết học bằng phương thức tổ chức các game  nhỏ  nhỏ  giống như  giải ô chữ, đoán nội dung hay tìm câu chủ  điểm, tìm ý   chính…với hình thức này học sinh phát huy được tính chủ  động của cá nhân  mỗi học sinh. Cũng có thể mở rộng hoạt động chơi với tác phẩm  đối với các  lớp chỉ thích hoạt động theo nhóm nhỏ  3 tới 5 học sinh, mỗi nhóm này sẽ  tự  chuẩn bị câu hỏi xoay xung quanh nội dung tác phẩm đã được yêu cầu chuẩn  bị sẵn ở nhà và đưa ra buộc nhóm kia phải trả lời trong thời gian quy định và   ngược lại, giáo viên sẽ  đóng vai trò giám khảo cho cuộc thi giữa hai bên để  giảng giải những thắc mắc hay đáp án các em đưa ra chưa thật sự hợp lý. Các  nhóm khác ngoài hai nhóm nhỏ này sẽ được cộng điểm bổ sung nếu như câu  hỏi được nhóm chơi trả lời không chính xác. Như  vậy, để  có thể   ứng dụng các phương pháp tạo sự  hứng khởi, chủ  động trong học sinh giáo viên cần phảo có sự  thí điểm trước  ở  từng lớp và  thực hiện theo từng giai đoạn sao cho phù hợp với tình hình học tập chung   của lớp đó. 2. Phương pháp cụ  thể giúp học  sinh chủ động tích cực trong học  tập  bộ môn Ngữ Văn 2.1. Hoạt động nhóm học tập lớn 10
  11. Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn Giáo viên tiến hành chia nhóm học tập ngay từ đầu năm học thường là 10  thành viên, đặt tên cho mỗi nhóm theo ý muốn của mình, biến mỗi học sinh   trở thành một giáo viên trong tiết học của mình cụ thể như sau: Giáo viên hướng dẫn nhóm học sinh chuẩn bị  bài trước khi lên lớp bao  gồm tất cả các nội dung sẽ  nói đến trong bài học từ  phần giới thiệu cho tới   khi kết thúc. Phần chuẩn bị  này bắt buộc tất cả  các học sinh phải chuẩn bị  nhưng mỗi tổ  sẽ  chuyên sâu hơn nội dung của tổ  mình. Các buổi trình bày  của học sinh được phân theo các tổ học tập trong lớp bắt đầu từ  tổ  đầu tiên   đến tổ cuối cùng, mỗi thành viên trong tổ phải lên trình bày bài giảng ít nhất  một lần theo hình thức xoay vòng, có thể là trên lớp với phương tiện là phấn,   bảng, có thể  là sử  dụng phòng nghe nhìn thiết kế  nội dung bài giảng bằng  Powerpoint và trình bày theo cách chuẩn bị của mình. Trong khi một học sinh trong nhóm học tập đóng vai trò giáo viên lên  giảng bài thì các thành viên còn lại sẽ theo dõi nội dung bài giảng để chuẩn bị  cho cuộc thảo luận xoay quanh nội dung học sinh vừa trình bày. Đối với  những bài giảng văn học, học sinh vừa kết hợp thuyết trình vừa đặt ra các câu  hỏi ngược lại cho các tổ  khác cùng suy nghĩ để  sau khi kết thúc phần bài  giảng của nhóm mình, học sinh thuyết trình sẽ  yêu cầu các nhóm còn lại trả  lời câu hỏi. Sau phần trả lời các câu hỏi của các nhóm khác, thành viên trong  nhóm thuyết trình; phải có nhận xét trước câu trả lời và giảng giải về câu hỏi  của mình đặt ra. Phần trình bày của học sinh kết thúc, toàn thể  lớp sẽ  dành  một tràng pháo tay thật lớn để  chúc mừng bạn mình đã hoàn thành và bắt đầu  vào cuộc thảo luận với những nội dung:  Nhận xét ưu và khuyết điểm của người trình bày, nội dung trình bày, các   em phải học kỹ năng khen trước chê sau. Các tổ  còn lại sẽ  thay phiên nhau đặt câu hỏi cho tổ  có thành viên vừa  trình bày, các thành viên trong tổ trình bày phải có nhiệm vụ bảo vệ bài giảng   của mình bằng cách đưa ra các luận điểm để  cho các nhóm khác thấy được  sự  chuẩn bị  kĩ lưỡng của nhóm mình cho đến khi giáo viên thấy  ổn thì bắt   đầu nhận xét và đặt thêm câu hỏi cho người thuyết trình để xem mức độ hiểu   bài tới đâu. Học sinh sẽ  ghi phần nội dung bài giảng sau khi đã có sự  chọn  lọc, chốt ý của giáo viên. Trong phần này giáo viên đóng vài trò dẫn dắt, điều   khiển các hoạt động của học sinh để nội dung bài học đi đúng hướng và đúng  thời gian cho phép. 11/23
  12. Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn Ví dụ  minh họa: Khi hướng dẫn học sinh giải quyết bài tập 1 – tiết  “Ôn tập văn học trung đại Việt Nam” – Sách giáo khoa ­  Ngữ Văn 11 – Tập 1   (trang 77), Tôi tiến hành phương pháp thảo luận nhóm. Hoạt động nhóm diễn  ra như sau: Quá trình chuẩn bị:  Hướng dẫn học sinh chuẩn bị ở nhà: Giáo viên hướng dẫn các nhóm học sinh ( 4 nhóm) lập bảng  thống kê các tác giả, tác phẩm trong chương trình Ngữ  Văn lớp   11 gồm các cột: Thứ  tự, tác giả, tác phẩm, thể  loại, nội dung,   đặc sắc nghệ  thuật, giai đoạn, ghi chú. Phần  ghi chú học sinh   ghi rõ tác phẩm thể hiện chủ yếu đặc điểm lớn nào về nội dung  của văn học trung đại (chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân đạo,   cảm hứng thế sự). Bảng thống kê thể hiện trên giấy khổ lớn để  lớp có thể theo dõi. Học sinh chuẩn bị bảng thống kê các tác phẩm văn học trung đại  đã làm khi tổng kết phần văn học trong chương trình 10 mang  đến lớp để có dữ liệu so sánh. Thực hành trên lớp: Giáo viên yêu cầu các nhóm học sinh treo bảng thống kê theo mẫu vào  những vị trí đã chuẩn bị sẵn.  Ví dụ: 12
  13. Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn TÁC  PHẨM,  THỂ NỘI DUNG  ĐẶC SẮC  GIAI  TT GHI CHÚ TÁC  LOẠI CHÍNH NGHỆ THUẬT ĐOẠN GIẢ 1 Vào  Kí  ­ Bức  ­ Quan   sát  Văn   học  Cảm  phủ  trung  tranh   sinh  tỉ   mỉ,   ghi   chép  thế   kỉ  hứng   thế  chúa  đại động về  cuộc  trung   thực,   tả  XVII   –  sự Trịnh( sống   xa   hoa  cảnh   sinh  Nửa   đầu  ................. Thượng  quyền   quý  động, lựa chon  thế   kỉ  . kinh   kí  nơi   phủ   chúa  chi   tiết   đặc  XIX sự)   –  Trịnh   và   thái  sắc,   đan   xen  ............... Lê  Hữu  độ  coi thường  tác   phẩm   thơ  . Trác. danh   lợi   của  ca. ........ tác giả. ­ ........... ­ ..... Sau đó, giáo viên gọi một số học sinh của các nhóm đọc nội dung thống  kê từng tác phẩm nhóm mình đã làm, cứ  như  thế  cho đến hết. Ví dụ  học sinh A đọc thống kê về đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh, học sinh B  trình bày tiếp về tác phẩm Tự tình.. Giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra nhận xét từ  bảng thống kê bằng   cách đặt câu hỏi cho 4 nhóm: Nhóm 1:  Vậy nhìn vào bảng trên, em nhận thấy so với giai đoạn   trước, nội dung yêu nước trong văn học Trung Đại Việt Nam  ở   giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX có những biểu hiện gì   mới? Nhóm 2:  Từ  các tác phẩm của Hồ  Xuân Hương, Nguyễn Công   Trứ, kết hợp với một số tác phẩm văn học trung đại giai đoạn thế   kỉ  XVIII đến hết thế  kỉ  XIX, em có nhận xét gì về  nội dung nhân   đạo trong văn học trung đại Việt Nam ở bước phát triển này? Nhóm 3:  Cảm hứng thế  sự  đã được thể  hiện như  thế  nào trong   đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”? 13/23
  14. Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn Nhóm 4:  Tại sao nói với Văn tế  nghĩa sĩ Cần Giuộc thì lần đầu   tiên trong văn học dân tộc có một tượng đài bi tráng và bất tử  về   người anh hùng nông dân nghĩa sĩ?  Học sinh các nhóm lần lượt trả  lời và cuối cùng giáo viên tổng kết,   đánh giá cho điểm. 2.2. Game show học tập Với phương pháp này có rất nhiều hình thức tiến hành, có thể thực hiện   sau phần thuyết trình của các nhóm đã kết thúc, để  chốt lại giáo viên có thể  đưa ra trò chơi giải ô chữ để chốt lại vấn đề của bài học nhằm tạo ấn tượng   cho học sinh, đồng thời cũng tránh sự nhàm chán, mệt mỏi khi phải tập trung   quá nhiều cho phần tranh luận đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi. Cũng có hình thức sử  dụng trò chơi khác trong bài học, giáo viên phân  công nhiệm vụ  cho mỗi tổ chuẩn bị một trò chơi xoay xung quanh nội dung   phần bài của nhóm mình chuẩn bị giống như chương trình chiếc nón kì diệu.  Các thành viên trong tổ khác có nhiệm vụ tham gia giải đáp các ô chữ, tìm ra   đúng nội dung theo sự gợi ý của nhóm chuẩn bị. Sau khi ô chữ đã được mở ra,  nhiệm vụ của nhóm chuẩn bị là sẽ giảng giải về nội dung chuẩn bị của nhóm  mình về bài học đã được thâu tóm trong trò chơi để các nhóm khác hiểu được  nội dung tác phẩm. Với cách thức này không cần phải sử  dụng phòng nghe  nhìn mà có thể làm trực tiếp trên lớp.  Tuy nhiên không nhất thiết phải là các nhóm, giáo viên sẽ tự soạn bộ câu   hỏi theo chương trình  ai là triệu phú  cho chơi cả  lớp trước khi đi vào nội  dung chính của tác phẩm trên cơ  sở  đã yêu cầu các em đọc trước ở nhà. Câu   hỏi được đặt ra theo mức độ  từ  dễ  đến khó buộc học sinh phải nắm được  nội dung tác phẩm mới hoàn thành được các câu hỏi một cách thông suốt.  Việc hoàn tất các câu trả lời cũng là kết thúc cho một bài giảng, mỗi câu hỏi   được mở  ra giáo viên sẽ  giảng giải nội dung có liên quan đến câu hỏi đó  trước khi học sinh đi vào câu hỏi tiếp theo. Với phương pháp này, mỗi cá  nhân học sinh sẽ phải chủ động trong câu trả lời của mình và thông qua đó có  thể bao quát hết được các học sinh trong lớp. Ví dụ minh họa: Tổ chức giải ô chữ trong bài ôn tập văn học dân gian: đây là  ô chữ tôi sử dụng hiệu quả trong bài Ôn tập văn học dân gian  lớp 10. Sau khi  14
  15. Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn tìm được 6 ô chữ hàng ngang, học sinh sẽ tìm được ô chữ hàng dọc – cụm từ  gồm 6 chữ cái, là một đặc trưng cơ bản của văn học dân gian: 1 C Ổ T Í C H 2 D Ậ Y 3 P Ê N Ê L Ố P 15/23
  16. Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn 4 G I Ả I T R Í 5 S Ử T H I 6 K Ể Hệ thống câu hỏi như sau: 1. Thể loại phản ánh những xung đột xã hội, cuộc đấu tranh giữa thiện và  ác, chính nghĩa và gian tà? (6 chữ cái) 16
  17. Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn 2. Đây là từ còn thiều trong câu ca dao: Nửa đêm trở...trông trời?( gồm 3  chữ cái) 3. Nhân vật chính trong đoạn trích Uy – lit – xơ trở về? (gồm 7 chữ cái) 4. Thể loại nào mà hình thức lưu truyền là hát – kể? (gồm 5 chữ cái) 5. Một trong những mục đích của truyện cười?  (gồm 6 chữ cái) 6. Hình thức lưu truyền chủ yếu của truyện cười là gì? (gồm 2 chữ cái) 7. Ô hàng dọc: là một đặc trưng cơ bản của văn học dân gian? (gồm 6 chữ  cái). 2.3 Kịch hóa tác phẩm Thông thường các tác phẩm ngữ  văn tương đối đa dạng với nhiều thể  loại, mỗi thể loại có những đặc trưng riêng cho nên giáo viên có thể  căn cứ  vào đó tạo ra một phương pháp mới để lôi cuốn học sinh. Với hình thức kịch  hóa thực chất cũng là một sân chơi cho học sinh thể hiện tài năng của mình.  Nội dung này có thể thực hiện bằng hình thức đối với những tác phẩm ngắn   như  những câu chuyện cười trong phần dành cho học sinh khối 10, giáo viên  khuyến khích học sinh có khả năng kể lại câu chuyện mà khiến cho cả lớp có   thể cười nghiêng ngả lên độc thoại về tác phẩm. Phần trình bày của học sinh  kết thúc, học sinh đó sẽ đặt ra một loại các câu hỏi liên quan đến tác phẩm đã  được chuẩn bị  trước  ở  nhà và chỉ  định các học sinh khác trong lớp tham gia   trả lời các hỏi này. Quá trình giải đáp các câu hỏi học sinh sẽ  nhận được sự  hỗ trợ từ phía giáo viên, sau mỗi câu hỏi của học sinh kể chuyện được trả lời  giáo viên sẽ  đặt thêm câu hỏi bổ  sung đi sâu vào tác phẩm đồng thời chốt ý  luôn.  Đối với những tác phẩm văn học dài, mang kịch tính giáo viên sẽ lấy tinh  thần xung phong của các nhóm, thông thường một nhóm sẽ phụ trách một tác  phẩm, các em sẽ  đóng những phân đoạn quan trọng xuyên suốt tác phẩm   trong thời gian 10. Với hình thức kịch hóa này buộc nhóm thực hiện phải viết   lại kịch bản tác phẩm thành những lời thoại phù hợp với những phân cảnh và   phân chia nhân vật hợp lý. Nhóm kịch hóa sẽ có nhiệm vụ thuyết minh về các   nhân vật gắn với các nội dung trong tác phẩm trong lúc các nhóm khác sẽ đặt   câu hỏi để đối thoại với nhóm kịch hóa này. Mỗi nhân vật tương ứng với một   học sinh và tự học sinh đó phải bảo vệ được nhân vật mình trước các câu hỏi   đưa ra. Hình thức kịch hóa tuy không mới nhưng cách thức làm sẽ  thể  hiện  được sự năng động, sáng tạo của học sinh và cách thể hiện nhân vật cũng cho  thấy được sự  cảm thụ  tác phẩm của các em. Đối với các nhóm không tham  17/23
  18. Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn gia phần kịch hóa thì đây cũng là dịp để các em thấy được khả năng của bạn   mình đồng thời có  ấn tượng về  tác phẩm  ở  một khía cạnh khác so với cách   thức thuyết trình thông thường. Ngoài ra, một vài tác phẩm có lời thoại kịch cá nhân học sinh sẽ  được   mời phân vai giống như  các diễn viên trên sân khấu nhưng không phải đóng  kịch mà chủ yếu thể hiện qua lời thoại. Cách nhấn nhá phù hợp với nhân vật   của học sinh cũng tạo ra  ấn tượng rất lớn về tác phẩm đối với các học sinh  khác. Trong phần thể  hiện này, học sinh phải trả  lời được câu hỏi của giáo  viên về  nhân vật và các em có quyền đặt câu hỏi trực diện cho các bạn còn  lại trong lớp cùng tham gia vào bài giảng. Ví dụ  minh họa:  Khi tìm hiểu  văn bản “Tình yêu và thù hận” (Rô – mê – ô  và Giu – li – ét), trong phần đọc – hiểu văn bản, thay vì gọi một học sinh  đứng lên đọc, tôi đã hướng dẫn các em học sinh đóng kịch. Quá trình ấy diễn   ra như sau: Hướng dẫn học sinh chuẩn bị:  Thời gian hướng dẫn: đảm bảo thời gian các em học sinh có đủ  thời  gian để chuẩn bị (3 tuần trước khi diễn ra tiết học). Lựa chọn và phân vai học sinh tham gia (3 học sinh):  Một học sinh đóng vai: Rô – mê –ô Một học sinh đóng vai: Giu – li – ét Một học sinh làm người dẫn chuyện. Lựa chọn lời thoại: dựa vào đặc điểm của đoạn trích: dung lượng ít,  lời thoại ngắn và dễ nhớ nên đa phần lời thoại được giữ lại. Riêng lời  thoại 1, cắt bớt và chỉ  giữ  lại đoạn “Ấy...nhỉ”. Ngoài ra giáo viên còn  định hướng trước cho học sinh ngữ  điệu của từng lời thoại (dựa vào   bối cảnh và tâm trạng nhân vật). Thực hiện trên lớp: học sinh trình bày phần chuẩn bị; giáo viên nhận   xét và cho điểm.  2.4. Quyền lợi của học sinh  Học sinh ngoài vấn đề  yêu thích môn học, đối với các em điểm số  cũng   khá quan trọng. để khích lệ tinh thần học tập tích cực, các em sẽ có cột điểm  cộng và cột điểm trừ. Giáo viên tính điểm cộng cho nhóm và người trình bày.  Nếu nhóm bảo vệ được bài giảng đến cùng thì sẽ giữ được trọn vẹn số điểm  cộng, nếu không trả  lời được câu hỏi của nhóm khác thì điểm cộng được  18
  19. Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn chuyển qua người đặt câu hỏi và giải đáp câu hỏi đó (học sinh đã đưa ra câu  hỏi đúng nội dung bài, bắt buộc phải có cả  câu trả  lời cho câu hỏi đó khi   nhóm thuyết trình không trả lời được thì đứng lên giảng giải cũng phải trọng  tâm và đúng nội dung).   Nếu nhóm nào không chuẩn bị  bài tốt và không có tinh thần đoàn kết   nhóm thì sẽ  bị  điểm trừ. Có những nhóm mặc dù các em có thực hiện nội  dung của mình nhưng không đáp ứng được yêu cầu đặt ra sẽ  không có điểm  cộng và nhóm phải tích lũy điểm thông qua tác phẩm khác. Tương tự  như  vậy, trong phầm Game show mỗi câu trả  lời đúng theo  tinh thần xung phong các em sẽ được đánh một dấu cộng do lớp phó học tập  của lớp sẽ phụ trách, đối với những học sinh trả lời đúng nhưng không phải   tự  nguyên mà bị kêu lên các em sẽ không được cộng điểm trừ khi các em trả  lời đúng 3 câu liên tiếp mới được tính điểm cộng.  Phần kịch hóa hình thức cộng điểm cao hơn so với các nội dung trên bao   gồm: Những cá nhân trực tiếp tham gia đóng kịch các em sẽ  được cộng gấp  đôi dù có hay hoặc không hay, có đạt hoặc không đạt các em vẫn được cộng   điểm do quá trình phải tập luyện. Ngược lại những học sinh không đọc tác  phẩm sau khi nhóm kịch đã trình diễn xong mà không đặt ra được câu hỏi cho  bài học hay không có sự  đối thoại, tranh luận với nhóm kịch xoay quanh các  nhân vật và tác phẩm sẽ bị 1 điểm trừ.  Giáo viên là người giữ vai trò định hướng cho học sinh đi đúng trọng tâm,  vấn đề thể hiện của học sinh. Trước mỗi bài kiểm tra 15 phút, giáo viên sẽ hệ thống lại toàn bộ  điểm   cộng của học sinh trong suốt thời gian trước đó và quy đổi ra điểm số cụ thể,  tối đa nhất là cộng 1,5đ. Giáo viên sẽ công khai điểm số cộng, trừ trước lớp,   phần điểm cộng chỉ được áp dụng cho điểm miệng và 15 phút.  Như  vậy, với hình thức cộng điểm cũng là một cách để  học sinh luôn  phấn đấu nỗ lực không ngừng trong quá trình học tập. 19/23
  20. Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn 3. KẾT QUẢ THỰC HIỆN Kết quả chung: Hầu hết các em học sinh nắm được cách thức học tập một cách cụ thể,  chi tiết và tạo cho các em nguồn hứng khởi giống như đang bước vào một thế  giới mới ngay từ đầu. Điều này góp phần kích thích tinh thần học tập của các  em bằng chính khả năng của mình. Cũng vì vậy mà số  học sinh tích cực chủ  động ngày càng có xu hướng tăng, số học sinh thụ động, chống đối, thờ ơ với   môn học giảm rõ rệt. Điều này thể hiện rất rõ trong việc chuẩn bị bài trước  khi đến lớp; tinh thần tích cực, trách nhiệm trong việc tổ chức các game show  và việc hoàn thành thuyết trình nhóm. Với phương pháp tạo hứng thú và nâng cao khả  năng tự  lĩnh hội kiến   thức cho học sinh, giáo viên đã tạo nên được những tiết học phong phú, hấp   dẫn học sinh. Đặc biệt, học sinh bước đầu ý thức được vai trò và tầm quan  trọng bộ môn để từ đó có thái độ học tập tích cực chủ động hơn. Cùng với sự thay đổi tích cực trong nhận thức thì kết quả học tập của  các em cũng được nâng cao rõ rệt. Nhất là kết quả ấy lại là sự phản ánh một  cách trung thực nỗ lực cố gắng của các em. Bảng thống kê kết quả học tập theo hướng tích cực chủ động với môn  học: Sau thử nghiệm ( Cuối học kì II) Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình 9 23 12 10A7 44 (20,5%) (51,9%) (27,6%) 10A8 40 6 19 15 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2