I. Phần mở đầu<br />
1. Lý do chọn đề tài <br />
Toán học rất đa dạng, phong phú, có nhiều loại bài toán ở nhiều dạng khác <br />
nhau. Trong đó loại toán có lời văn luôn giữ một vị trí quan trọng, bởi nó bộc lộ <br />
mối quan hệ qua lại với các môn học khác cũng như trong thực tiễn cuộc sống, nó <br />
góp phần quan trọng trong việc rèn phương pháp suy luận, giải quyết các vấn đề <br />
có liên quan trong cuộc sống, phát triển thông minh, cách suy nghĩ độc lập sáng tạo, <br />
linh hoạt góp phần hình thành phẩm chất tốt cho học sinh như: cần cù, cẩn thận, <br />
sáng tạo…<br />
Việc giải toán dựng sơ đồ đoạn thẳng giúp học sinh củng cố vận dụng và <br />
hiểu sâu sắc tất cả kiến thức về số học, về đo lường, hình học đó được học trong <br />
môn toán tiểu học. <br />
Thông qua nội dung thực tế nhiều hình vẽ của các đề toán, học sinh tiếp <br />
nhận được nhiều kiến thức phong phú về cuộc sống, và có điều kiện rèn kỹ năng <br />
áp dụng các kiến thức toán học vào cuộc sống hàng ngày.<br />
Trong chương trình toán lớp 4, phần lớn các dạng toán giải đều phải dùng sơ <br />
đồ đoạn thẳng thì hướng dẫn học sinh giải mới nhanh và chính xác. Nhiều bài toán <br />
giải bằng lời văn nhìn vào dự kiện của đề bài ta có thể hình dung được các bước <br />
giải, nhưng cũng khá nhiều bài toán học sinh phải nắm được bản chất hàm ý của <br />
bài toán, phải vẽ được sơ đồ đoạn thẳng thì mới giải được bài toán đó. Khi vẽ sơ <br />
đồ đoạn thẳng thì lại phải vẽ sao cho chính xác, cho đúng dạng toán, đề bài yêu <br />
cầu thì mới phát hiện ra lời giải kế tiếp và phù hợp. Trong thời gian giảng dạy <br />
chương trình ở lớp 4, bản thân tôi thấy nhiều học sinh còn lúng túng trong việc vẽ <br />
sơ đồ cho bài toán, nhiều học sinh không biết vẽ, có những học sinh vẽ nhưng lại <br />
vẽ sai, chia đoạn không chính xác dẫn đến việc nhận dạng bài toán sai, xác định <br />
các bước giải sai. Vấn đề này tôi thực sự trăn trở và băn khoăn. Chính vì vậy tôi <br />
mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu “Rèn kĩ năng giải toán bằng sơ đồ đoạn <br />
thẳng cho học sinh lớp 4 ”. Qua đây nhằm góp phần vào nâng cao chất lượng dạy <br />
và học môn toán ở tiểu học, cụ thể là môn toán lớp 4A.<br />
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài<br />
Mục tiêu <br />
Thực hiện đề tài này với mục tiêu là giúp cho giáo viên dạy học sinh học tốt <br />
dạng toán giải bằng sơ đồ đoạn thẳng, giúp học sinh hoàn thành tốt ở các lĩnh vực <br />
kiến thức, phẩm chất. <br />
Nhiệm vụ <br />
Bằng thực tế giảng dạy thì tôi thấy còn nhiều tồn tại khi hướng dẫn cho HS <br />
xác định ra cách giải toán bằng sơ đồ đoạn thẳng. Học sinh nhận thức về dạng <br />
toán giải còn thụ động, máy móc, rập khuôn trong khi giải, do kĩ năng vẽ sơ đồ <br />
đoạn thẳng của các em còn hạn chế, do khả năng nhận thức về đoạn thẳng của <br />
các em còn hạn hẹp, tìm hiểu một số học sinh thì tôi thấy rằng các em mới hiểu <br />
1<br />
đoạn thẳng là vẽ để đo độ dài chứ chưa hiểu được đoạn thẳng trong giải toán <br />
người ta có thể vẽ để biểu thị một đại lượng, một dự kiện mà đã cho trong đề bài <br />
toán ( như vẽ đoạn thẳng biểu thị số gà, hoặc số vịt, số thóc số lít dầu... đã cho <br />
trong từng đề bài ). Khi chưa biết chắc chắn và kĩ năng vẽ chưa thành thục thì các <br />
em sẽ không dám nghĩ đến cách sử dụng sơ đồ đoạn thẳng để giải. Bên cạnh đó <br />
cũng có một số ít giáo viên, cách dạy còn phụ thuộc nhiều vào hướng dẫn, chưa có <br />
sự sáng tạo, chưa có sự chú ý đến từng đối tượng học sinh, giáo viên kẻ sơ đồ <br />
không chuẩn nên ngại áp dụng vào giải toán sợ mất thời gian. Xác định được <br />
những ưu thế và những tồn tại của việc giải toán bằng sơ đồ đoạn thẳng cho nên <br />
tôi mới nhận thức rằng việc nghiên cứu đề tài này của tôi nhằm mục đích: Đánh <br />
giá thực trạng kĩ năng giải toán bằng sơ đồ đoạn thẳng đối với học sinh lớp 4. Tìm <br />
ra những nguyên nhân dẫn tới việc học sinh giải sai bài toán. Tìm ra những <br />
khó khăn trong giải toán bằng sơ đồ đoạn thẳng đối với học sinh lớp 4 theo <br />
chương trình đổi mới. Tìm hiểu các kỹ năng giải toán bằng sơ đồ đoạn thẳng đối <br />
với một số dạng toán ở lớp 4. Trên cơ sở đó giúp học sinh hiểu về dạng toán giải <br />
bằng sơ đồ đoạn thẳng, từ đó có đề xuất một số biện pháp về việc rèn kỹ năng <br />
giải toán bằng sơ đồ đoạn thẳng đối với học sinh lớp 4 nhằm nâng cao chất lượng <br />
môn học cho học sinh. <br />
3. Đối tượng nghiên cứu<br />
“Rèn kĩ năng giải toán bằng sơ đồ đoạn thẳng cho học sinh lớp 4A”. <br />
4. Giới hạn của đề tài<br />
Học sinh lớp 4A trường Tiểu học Lê Lợi năm học 2016 2017.<br />
5. Phương pháp nghiên cứu<br />
Khi nghiên cứu đề tài này tôi sử dụng một số các phương pháp nghiên cứu <br />
như sau:<br />
Phương pháp nghiên cứu tài liệu <br />
Phương pháp quan sát. <br />
Phương pháp phân tích.<br />
Phương pháp kiểm tra đánh giá<br />
Phương pháp thực nghiệm <br />
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. <br />
II. Phần nội dung <br />
1. Cơ sở lí luận<br />
Xuất phát từ quy luật nhận thức của con người: Từ trực quan sinh động đến <br />
tư duy trừu tượng; từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn. Đối với học sinh tiểu <br />
học là lứa tuổi hồn nhiên ngây thơ, trong sáng hiếu động, tò mò thích hoạt động <br />
khám phá, thường độc lập, thích khẳng định mình. Tư duy của các em chưa thoát <br />
khỏi tính cụ thể. Khi các em tiến hành phân tích tổng hợp thường căn cứ vào <br />
những đặc điểm bên ngoài, cụ thể trực quan. Vì vậy giúp học sinh lớp 4 rèn kĩ <br />
năng giải toán bằng sơ đồ đoạn thẳng là một vấn đề rất thiết thực. <br />
2. Thực trạng<br />
2<br />
Đối với trường Tiểu học Lê Lợi, lãnh đạo nhà trường luôn chú trọng, quan <br />
tâm đến việc giáo dục học sinh. Trường tiểu học Lê Lợi đóng trên địa bàn được sự <br />
quan tâm của chính quyền địa phương nên cũng đang từng bước phát triển.<br />
Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập nhà <br />
trường cung cấp tương đối đầy đủ. Khuôn viên trường khang trang sạch đẹp. Sự <br />
cần cù chịu khó và tinh thần đoàn kết, trách nhiệm của tập thể cán bộ giáo viên <br />
công nhân viên trong trường.<br />
Giáo viên có kế hoạch dạy phân hóa đối tượng và phụ đạo học sinh yếu, bồi <br />
dưỡng học sinh năng khiếu ngay từ đầu năm (thống kê phân loại học sinh học yếu <br />
toán để theo dõi thường xuyên vào những giờ học chính và buổi thứ 2).<br />
75 % học sinh của trường là người đồng bào dân tộc Ê đê.<br />
Đại đa số nhân dân trong xã sống chủ yếu bằng nghề nông thu nhập thấp, <br />
không ổn định có nhiều hộ còn thuộc diện khó khăn, cha mẹ còn lo đi làm đồng để <br />
kiếm sống, chưa thực sự quan tâm đến việc học của các em, chưa biết được tầm <br />
quan trọng của môn Toán nói chung và phần rèn kĩ năng giải toán bằng sơ đồ đoạn <br />
thẳng nói riêng trong việc học của các em. Nhiều phụ huynh học sinh chưa thông <br />
thạo tiếng phổ thông bên cạnh đó có những phụ huynh không biết chữ nên không <br />
thể giúp con em mình việc học ở nhà.<br />
Việc giải toán bằng sơ đồ đoạn thẳng ở trường tiểu học Lê Lợi qua nhiều <br />
năm thực tế giảng dạy và dự giờ ở các giáo viên tôi nhận thấy rằng: Hiện nay <br />
ngoài việc đảm bảo thực hiện đúng chương trình giảng dạy của môn toán, cần đặc <br />
biệt chú ý đến các kỹ năng giải các bài toán có lời văn cho học sinh. Các bài toán có <br />
lời văn thường bắt nguồn từ thực tế. Nên ngoài cách giải toán học sinh còn hình <br />
thành các mối quan hệ giữa kiến thức với đời sống. Rèn cho học sinh có khả năng <br />
tư duy. Nên giáo viên phải chú ý rèn cả kỹ năng tính toán cho học sinh và cả về kỹ <br />
năng giải toán cho học sinh. Nhưng thực tế thì một số học sinh không thích giải <br />
toán có lời văn, đặc biệt các bài toán dạng sơ đồ đoạn thẳng. Đa số học sinh chưa <br />
biết biểu diễn các yếu tố toán học bằng các đoạn thẳng. Nếu có thì cách biểu diễn <br />
chưa chính xác, nhìn vào sơ đồ chưa toát lên được nội dung cần biểu đạt. Từ lớp <br />
1,2,3 học sinh đã gặp các dạng toán này, nhưng hầu hết là giáo viên vẽ lên bảng và <br />
hướng dẫn giải, chưa yêu cầu học sinh vẽ. Lên lớp 4 các đại lượng toán học cần <br />
biểu thị bằng đoạn thẳng đa dạng và phức tạp hơn. Nếu không có hình vẽ thì học <br />
sinh không thể hình dung được, nên dùng sơ đồ đoạn thẳng là hết sức cần thiết. <br />
Mà thực tế học sinh chưa có kỹ năng này. Mặt khác khả năng tư duy ở nhiều học <br />
sinh còn hạn chế, không có khả năng thiết lập các mối liên hệ giữa các đại lượng <br />
trong bài toán. Qua khảo sát trước khi thực hiện đề tài, lớp tôi có 24 học sinh <br />
nhưng chỉ có 4 em biết cách giải toán có lời văn bằng sơ đồ đoạn thẳng. Các em <br />
còn lại chưa nắm rõ cách giải toán bằng sơ đồ. Chính vì vậy việc giảng dạy phân <br />
môn chưa hiệu quả, học sinh tiếp thu bài chưa nhanh. Chính vì vấn đề này giúp <br />
học sinh giải toán nhanh và chính xác hơn.<br />
<br />
3<br />
3. Nội dung và hình thức của giải pháp<br />
a. Mục tiêu của giải pháp<br />
Dạy toán theo bài giải bằng sơ đồ đoạn thẳng là môt dạng toán phổ biến ở <br />
bậc tiểu học, đặc biệt là lớp 4. Để học sinh tiếp thu bài học nhanh, chính xác và <br />
hiệu quả đòi hỏi mỗi giáo viên cần phải có kế hoạch và phương pháp dạy học <br />
nhằm giúp học sinh tiếp thu bài nhanh.<br />
b. Nội dung và cách thực hiện giải pháp<br />
Thông thường khi giải bài toán người giáo viên phải định hướng cho học <br />
sinh nắm vững 4 bước sau đây: <br />
Bước 1: Tìm hiểu đề<br />
Xác định đâu là những cái đã cho, đâu là cái phải tìm?<br />
Trong bước này cần lưu ý: Cần hướng sự tập trung suy nghĩ của học sinh <br />
vào những từ quan trọng của đề toán, từ nào chưa hiểu hết ý nghĩa, thì phải tìm <br />
hiểu ý nghĩa của nó.<br />
Học sinh cũng cần phân biệt rõ những gì thuộc về bản chất của đề toán để <br />
hướng sự chú ý của mình vào những chỗ cần thiết<br />
Bước 2: Tóm tắt bài toán<br />
Bước đầu học sinh tóm tắt bằng lời, nhớ được các điều kiện đã cho, các <br />
điều kiện phải tìm, mối tương quan lẫn nhau giữa các đại lượng. Tiếp đó học sinh <br />
tự tóm tắt bằng lời sang dạng biểu thị bằng sơ đồ đoạn thẳng.<br />
Cụ thể là sau khi đọc kỹ đề bài, học sinh phải xác định được bài toán cho <br />
biết gì? tìm gì? phân tích đề bài loại bỏ yếu tố thừa. Thiết lập các mối quan hệ để <br />
từ đó dựng các đoạn thẳng thay cho các số (số đã biết, số phải tìm). Sắp xếp các <br />
đoạn thẳng để minh hoạ cho mối quan hệ trong bài.<br />
Lưu ý khi dựng các đoạn thẳng giáo viên nên cho học sinh chọn độ dài thích <br />
hợp như: số lớn dựng đoạn thẳng dài, số bé dựng đoạn thẳng ngắn.<br />
Học sinh tự so sánh hơn kém, tỷ lệ giữa các đoạn thẳng sao cho phù hợp cân <br />
đối.<br />
Giáo viên hướng dẫn các em sắp xếp các đoạn thẳng phù hợp với điều kiện <br />
bài toán. Các số liệu trừu tượng dựng nét đứt.<br />
Học sinh dựa trên tóm tắt sơ đồ, có thể đọc được nội dung bài toán, thấy <br />
được mối liên hệ phụ thuộc vào các đại lượng toán học để từ đó tìm ra cách giải.<br />
Bước 3: Lập kế hoạch giải toán<br />
Tức là dựng lối phân tích đi từ câu hỏi chính của bài toán, tìm ra câu hỏi phụ <br />
có liên quan đến câu hỏi chính. Bằng suy luận từ các câu hỏi ấy kết hợp với các <br />
điều kiện đã cho của đầu bài, học sinh lập thành một quy trình giải. Nghĩa là muốn <br />
tìm được yếu tố chưa biết cần dựa vào đâu? dựa vào yếu tố nào? đã biết chưa?<br />
Tóm lại để giải được loại bài này cần tìm cái gì trước? Cái gì sau?<br />
4<br />
Bước 4: Giải toán và thử lại kết quả<br />
Sau khi đã lập xong kế hoạch giải toán, giáo viên hướng dẫn học sinh thực <br />
hiện kế hoạch đó. Bước này cần hướng dẫn học sinh tính toán và trình bày lời giải <br />
sao cho phù hợp. Chú ý cần thử lại sau khi làm xong từng phép tính, cũng như thử <br />
lại đáp số xem có phù hợp với đề toán không.<br />
Cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp <br />
Áp dụng cụ thể từng dạng toán <br />
Dạng 1: Dạy toán hợp sử dụng sơ đồ đoạn thẳng<br />
Đây là loại toán đã được học ở lớp dưới, lên lớp 4 giúp học sinh củng cố hệ <br />
thống hoá lại phương pháp theo lối phân tích để giải, đồng thời tập cho các em làm <br />
quen và rèn kỹ năng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng để giải. Dạng này được viết dưới <br />
hình thức ôn tập.<br />
Bài 1 <br />
Một trại nuôi được 596 con vịt, số gà kém số vịt 4 lần. Hỏi trại đó nuôi được <br />
tất cả bao nhiêu con gà vịt?<br />
Đối với bài này cần hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ đoạn thẳng như thế nào <br />
để dễ dàng thấy được hai điều kiện của bài toán: Số vịt trại nuôi được là 596 con <br />
và số gà kém số vịt 4 lần. (biểu thị quan hệ so sánh số này kém số kia một số lần).<br />
Bước 1: Tìm hiểu đề bài<br />
Để làm được điều này cần phân tích nội dung đề bài toán (giáo viên dựng <br />
câu hỏi)? Bài toán cho biết gì? (số vịt 596 con, gà kém vịt 4 lần). <br />
Bài toán hỏi gì? (tính tổng số vịt và gà của cả trại)? Muốn tính được số vịt <br />
và gà của cả trại thì phải tính gì trước? (tính số gà trước ).<br />
Bước 2: Tóm tắt bài toán <br />
+ Tóm tắt bằng lời: Số vịt : 596 con<br />
Số gà kém vịt : 4 lần <br />
Tất cả :…? con gà vịt <br />
+ Tóm tắt bằng sơ đồ: 596 con<br />
<br />
Số vịt: <br />
Số gà: ? con<br />
? con<br />
Hai cách tóm tắt trên ta thấy tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng học sinh dễ <br />
nhận ra số gà bằng 1/4 số vịt. Đây là chỗ dựa cơ bản để học sinh tìm ra trình tự <br />
giải.<br />
Bước 3: Lập kế hoạch giải<br />
Giáo viên dựng hệ thống câu hỏi giúp học sinh thiết lập được quy trình giải.<br />
5<br />
Nhìn vào sơ đồ ta thấy muốn tìm cả số gà, số vịt của cả trại ta phải tìm cái <br />
gì trước? (tìm số gà trước).<br />
Muốn tìm được số gà ta làm như thế nào? (lấy số vịt chia đều 4 phần, ta tìm <br />
được một phần, chính là số gà ).<br />
Khi đó tìm được số gà rồi, ta có tính được số gà và vịt của trại không? Và <br />
làm như thế nào? (tính được bằng phép cộng).<br />
Bước 4: Giải bài toán<br />
Đáp số: 745 con<br />
Qua ví dụ trên ta thấy rằng đây là dạng toán đơn giản mà học sinh đã làm <br />
quen từ lớp 3. Điều quan trọng là tập cho học sinh thói quen và khắc sâu cách tóm <br />
tắt bài toán bắng sơ đồ đoạn thẳng. <br />
Dạng 2: Dạy dạng toán trung bình cộng<br />
Dạng toán tìm trung bình cộng của hai hay nhiều số. Loại toán này ở lớp 3 <br />
học sinh đã gặp nhưng chưa đặt thành dạng toán điển hình. Với dạng toán này học <br />
sinh sử dụng quy tắc chung có thể giải được, nhưng để học sinh hiểu sâu, chắc thì <br />
dựng sơ đồ đoạn thẳng có hiệu quả tốt.<br />
Bài 1: Một tổ sản xuất muối thu hoạch trong năm đợt như sau: 45 tạ, 60 <br />
tạ,72 tạ, 75 tạ, 98 tạ. Hỏi trung bình mỗi đợt thu hoạch được bao nhiêu tạ muối?<br />
Để giải được bài toán này, học sinh có thể áp dụng quy tắc chung để tính. <br />
Nhưng như vậy học sinh sẽ giải một cách máy móc không hiểu rõ bản chất của <br />
vấn đề đó là tìm trung bình số muối mỗi đợt thu hoạch được chính là tìm cái gì.<br />
Vì vậy muốn học sinh hiểu rõ được bản chất của bài toán phải hướng dẫn <br />
học sinh vẽ sơ đồ đoạn thẳng. <br />
Ứng với mỗi đợt thu hoạch ta biểu diễn bằng một đoạn thẳng. Số muối ít <br />
dựng đoạn thẳng ngắn, số muối nhiều dựng đoạn thẳng dài, năm đoạn thẳng này <br />
được đặt liên tiếp trên một đường thẳng. Muốn tính trung bình mỗi đợt thu hoạch <br />
là bao nhiêu tạ muối tức là ta tính đoạn thẳng tổng đó rồi chia 5.<br />
45 tạ 60 tạ 72 tạ 75 tạ 98 tạ<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
? tạ ? tạ ? tạ ? tạ ? tạ <br />
Từ đây giáo viên hướng dẫn học sinh muốn tìm được trung bình mỗi đợt ta <br />
phải tính được đoạn thẳng tổng (bằng tổng các đoạn thẳng ngắn) rồi chia cho 5. <br />
Hướng dẫn như trên học sinh có thể tự giải được.<br />
Cả 5 đợt tổ sản xuất thu hoạch được là:<br />
45 + 60 + 72 + 75 + 98 = 350 (tạ)<br />
<br />
6<br />
Trung bình mỗi đợt thu hoạch được là:<br />
350 : 5 = 70 (tạ) <br />
Đáp số: 70 tạ.<br />
Lưu ý: Ở dạng toán này học sinh thường lúng túng ở bước vẽ sơ đồ, vì 5 <br />
đoạn thẳng thay cho 5 số không đều nhau. So sánh bằng mắt của học sinh còn hạn <br />
chế nên giáo viên hướng dẫn tỉ mỉ.<br />
Bài 2: Số trung bình cộng của hai số bằng 20. Biết một trong hai số đó bằng <br />
30. Tìm số kia?<br />
Bài toán này dạng ngược lại của bài toán trên vừa giải. Đó là bài toán cho <br />
biết số trung bình cộng của hai số và một số cho trước, tìm số kia. Đối với bài này <br />
giáo viên cần hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ khi tóm tắt.<br />
Ta có thể sử dụng bằng hai sơ đồ sau.<br />
Một sơ đồ biểu thị trung bình cộng của hai số, đoạn thẳng tổng hai số được <br />
tạo bởi hai số bằng nhau có số chỉ là 20.<br />
Một sơ đồ có độ dài bằng sơ đồ trên nhưng có chỉ số khác nhau để biểu thị <br />
số phải tìm. <br />
20 20<br />
<br />
<br />
<br />
30 ?<br />
Nhìn vào sơ đồ trên học sinh thấy ngay tổng của hai số là:<br />
20 + 20 = 40 hoặc 20 x 2 = 40<br />
Sơ đồ dưới học sinh biết ngay cách tính số phải tìm là lấy tổng trừ đi số đã <br />
biết:<br />
40 – 30 = 10 vậy số phải tìm là 10<br />
Hoặc một bài toán như sau: <br />
Bài 3: Một đội công nhân sửa chữa đường sắt ngày thứ nhất sửa được 15m <br />
đường, ngày thứ hai hơn ngày thứ nhất 1m, ngày thứ ba hơn ngày thứ nhất 2m. Hỏi <br />
trung bình mỗi ngày đội công nhân ấy sửa chữa được bao nhiêu mét đường sắt?<br />
* Nếu giải theo cách thông thường sẽ giải như sau:<br />
Giải<br />
Ngày thứ hai đội công nhân sửa được số mét đường là:<br />
15 + 1 = 16 (m)<br />
Ngày thứ ba đội công nhân sửa được số mét đường là:<br />
15 + 2 = 17 (m)<br />
<br />
7<br />
Trung bình mỗi ngày đội công nhân ấy sửa được số mét đường là:<br />
(15 + 16 + 17) : 3 = 16 (m)<br />
Đáp số: 16 m. <br />
* Nếu ta hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ để giải thì bài toán có thể giải một <br />
cách ngắn gọn như sau: <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
15 m<br />
Ngày thứ nhất: <br />
1m<br />
Ngày thứ hai: <br />
? m 2m <br />
Ngày thứ ba: <br />
? m<br />
Trung bình: ...? mét <br />
<br />
Giải <br />
Nếu ta chuyển 1m của ngày thứ ba sang ngày thứ nhất thì số mét đường sửa <br />
được của cả ba ngày bằng nhau và bằng số mét của ngày thứ hai.<br />
Vậy số mét đường sắt đội công nhân sửa chữa được trong ngày thứ hai là:<br />
15 + 1 = 16 (m)<br />
Đáp số: Trung bình mỗi ngày sửa chữa được 16 <br />
m.<br />
Như vậy qua đó ta thấy được rằng khi đó vẽ được sơ đồ thì bằng trực giác <br />
các em giải được ngay bài toán một cách dễ dàng.<br />
Tóm lại: Với dạng toán số trung bình cộng các em có thể giải theo quy tắc <br />
mà sách giáo khoa đã nêu. Nhưng học sinh nên dựng sơ đồ đoạn thẳng để giải sẽ <br />
bớt khó khăn trong quy trình hướng dẫn của giáo viên mà học sinh hiểu sâu, nắm <br />
chắc được bài hơn.<br />
Dạng 3: Dạng toán “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó”.<br />
Ở dạng toán này giáo viên cần hướng dẫn học sinh xác định các yếu tố số <br />
lớn, số bé, sau đó học sinh xác định đâu là tổng hai số, đâu là hiệu hai số. Nhiều bài <br />
toán cho biết tổng và hiệu rất rõ, nhưng cũng có bài chưa cho biết tổng và hiệu, đòi <br />
<br />
8<br />
hỏi học sinh phải tìm. Ở dạng toán này nhất thiết phải tìm được tổng và hiệu của <br />
hai số trước khi vẽ sơ đồ.<br />
Khi học sinh vẽ sơ đồ giáo viên lưu ý cho học sinh cách biểu thị từng số lớn, <br />
số bé, hiệu của hai số. Tránh học sinh vẽ sơ đồ quá rườm rà mà không nổi bật <br />
được các yếu tố của bài, khi vẽ được sơ đồ học sinh dễ dàng vẽ được bằng hai <br />
cách.<br />
Bài 1: Tuổi bố và tuổi con cộng lại được 50. Bố hơn con 28 tuổi. Hỏi bố <br />
bao nhiêu tuổi, con bao nhiêu tuổi?<br />
Đây là bài toán đầu tiên thuộc dạng này, nên giáo viên cần cho học sinh đọc <br />
thật kỹ đề toán.<br />
Giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi để học sinh phân tích nội dung bài toán. <br />
Hiểu được bài toán cho biết gì? bài toán bắt ta tìm gì? Để từ đó xác định được đâu <br />
là tổng, đâu là hiệu. Sau đó tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng.<br />
Lưu ý: Đây là dạng toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu, nên bao giờ cũng <br />
có số lớn và số bé, số lớn biểu thị đoạn thẳng dài chính là số tuổi của bố, số bé <br />
biểu thị đoạn thẳng ngắn chính là số tuổi con. Điểm lưu ý nữa, khoảng cách hiệu <br />
hai số phải xác định sao cho vừa phải cân đối.<br />
Ta có sơ đồ sau: <br />
? tuổi <br />
Tuổi con <br />
28 tuổi 50 tuổi ( I )<br />
Tuổi bố <br />
? tuổi <br />
? tuổi <br />
<br />
Tuổi bố <br />
28 tuổi 50 tuổi ( II )<br />
Tuổi con <br />
? tuổi<br />
Khi vẽ được hai sơ đồ trên thì học sinh đều có thể giải được ngay bằng hai <br />
cách, tìm số bé trước bằng sơ đồ I, tìm số lớn trước bằng sơ đồ II.<br />
Căn cứ vào sơ đồ I ta thấy nếu lấy tổng trừ đi hiệu thì ta có hai lần số bé, <br />
nên ta có thể giải như sau:<br />
Hai lần tuổi con là: 50 – 28 = 22 (tuổi)<br />
Tuổi con là: 22 : 2 = 11 (tuổi)<br />
Tuổi bố là: 11 + 28 = 39 (tuổi)<br />
(Hoặc: 50 – 11 = 39 (tuổi))<br />
9<br />
Đáp số: Tuổi con : 11 tuổi. <br />
Tuổi bố : 39 tuổi.<br />
Căn cứ vào sơ đồ II ta thấy nếu tổng cộng với hiệu thì sẽ có hai lần số lớn <br />
vậy ta giải như sau:<br />
Hai lần tuổi bố là: 50 + 28 = 78 (tuổi)<br />
Tuổi bố là: 78 : 2 = 39 (tuổi)<br />
Tuổi con là: 39 – 28 = 11 (tuổi)<br />
(Hoặc: 50 – 39 = 11 (tuổi))<br />
Đáp số: Tuổi con 11 tuổi, tuổi bố 39 tuổi.<br />
Từ đây cho học sinh so sánh đối chiếu hai cách giải đều có kết quả như <br />
nhau.<br />
Trong quá trính giải toán học sinh nên lựa chọn đề trình bày một trong hai <br />
cách giải trên.<br />
Dạng 4: Dạng toán “Tìm hai số khi biết tổng và tỷ số của hai số đó”.<br />
Đối với dạng toán tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số, người giáo <br />
viên khi dạy phải biết phân ra các loại từ dễ đến khó thì học sinh mới nhớ và giải <br />
chính xác được. Tổng và tỷ phát triển ở nhiều trường hợp, hình thức khác nhau. <br />
Với dạng toán này tôi xin phân thành 3 loại.<br />
Loại 1: Đề bài đã cho rõ tổng, tỉ số của hai số đó.<br />
Đây là loại bài đơn giản nhất. Loại này áp dụng được cho tất cả các đối <br />
tượng học sinh. Đối với dạng này giáo viên chỉ cần cho học sinh nhắc đề bài cho <br />
tổng là bao nhiêu, tỉ là bao nhiêu và yếu tố cần tìm trong bài là gì? Học sinh vẽ sơ <br />
đồ căn cứ vào tổng và tỉ đã cho sẵn ở đề bài .<br />
Ví dụ1: Tổng hai số là 90, số lớn gấp 4 lần số bé. Tìm hai số đó?<br />
Học sinh bám ngay lấy tổng là 90, tỉ số của hai số là số lớn gấp 4 lần số bé. <br />
Xác định yếu tố cần tìm là số lớn, số bé để vẽ sơ đồ. <br />
?<br />
Số bé <br />
Số lớn 90<br />
<br />
?<br />
Sau khi vẽ sơ đồ xong học sinh nhìn vào sơ đồ để giải tiếp <br />
Ví dụ 2: Một nông trường có 352 con trâu và bò, số bò nhiều gấp 3 lần số <br />
trâu. Tính số trâu, số bò của nông trường đó.<br />
Bước 1: Tìm hiểu đề toán<br />
Yêu cầu học sinh đọc kỹ đề toán, xác định yếu tố đã cho và yếu tố phải tìm.<br />
<br />
10<br />
Bài toán cho biết gì? (Tổng số bò và trâu của nông trường, tỷ số là số bò <br />
nhiều gấp 3 lần số trâu).<br />
Bài toán hỏi gì? (Tìm số trâu, số bò của nông trường).<br />
Bước 2: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng<br />
Từ những dự kiện đã tìm hiểu của bài toán ở bước trên học sinh tóm tắt <br />
bằng sơ đồ đoạn thẳng. <br />
<br />
? con<br />
Số trâu <br />
352 con<br />
Số bò <br />
? con <br />
Lưu ý: Học sinh xác định đâu là tổng, đâu là tỷ số.<br />
Bước 3: Lập kế hoạch giải toán<br />
Nhìn sơ đồ ta thấy 352 con gồm tất cả mấy phần bằng nhau. (4 phần)<br />
Muốn tìm một phần xem ứng với bao nhiêu con ta làm thế nào? <br />
(lấy 352 : 4 = 88 con)<br />
Tìm được một phần gồm 88 con, muốn biết 3 phần ứng với bao nhiêu con ta <br />
làm thế nào? ( 88 x 3 = 264 con)<br />
Bước 4: Giải bài toán<br />
Tổng số phần bằng nhau là: 1 + 3 = 4 (phần)<br />
Số trâu của nông trường là: 352 : 4 = 88 (con)<br />
Số bò của nông trường là: 88 x 3 = 264 (con)<br />
Đáp số: Số trâu: 88 con.<br />
Số bò : 264 con.<br />
Loại 2: Tổng hoặc tỉ số trong đề bài được dấu đi, thông qua một số dự kiện <br />
trong đề bài ta mới tìm ra được tổng hoặc tỉ số rồi mới vẽ sơ đồ để giải. Cụ thể: <br />
Ví dụ 1: Hình chữ nhật có chu vi là 90dm, chiều rộng bằng 2/3 chiều dài. <br />
Tính diện tích hình đó?<br />
Như vậy tổng đã bị ẩn đi học sinh phải biết nửa chu vi của hình chữ nhật <br />
chính là tổng của chiều dài và chiều rộng, nên phải tính nửa chu vi của hình chữ <br />
nhật sau đó mới vẽ sơ đồ theo tổng và tỉ số.<br />
Tổng chiều dài và rộng là: 90 : 2 = 45 dm <br />
Sơ đồ : <br />
? m<br />
Chiều dài <br />
11<br />
45 dm<br />
Chiều rộng <br />
<br />
? m<br />
Ví dụ 2: Tổng của hai số bằng tích giữa số chẵn lớn nhất có một chữ số với <br />
số lẻ bé nhất có hai chữ số, số lớn gấp 3 lần số bé. Tìm hai số đó? <br />
Vậy học sinh phải hiểu tổng của hai số phải tìm bằng tích của 8 x 11 = 88.<br />
Bên cạnh đó tỷ số của hai số nhiều khi cũng được nêu ở các dạng khác nhau. <br />
Có thể cho dưới dạng tỷ số là số tự nhiên n, hoặc trường hợp tỷ số dạng 1/n, hay <br />
có thể ở một dạng khác như: tỷ số của hai số bằng thương của một số lớn nhất có <br />
hai chữ số với số lẻ nhỏ nhất có hai chữ số. Ta phải tìm tỷ số hai số là: 99 : 11 = 9 <br />
(tức số bé bằng 1/9 số lớn) hoặc số lớn gấp 9 lần số bé.<br />
Loại 3: Bài toán không cho cụ thể tổng và tỉ số mà phải thông qua một số <br />
bước giải mới xác định được tổng và tỉ rồi mới vẽ được sơ đồ để giải. Loại này <br />
có khó và nâng cao hơn, thường áp dụng cho đối tượng học sinh tiếp thu bài nhanh. <br />
Đối với loại này giáo viên cũng phải hướng dẫn học sinh giải được rõ tổng <br />
là bao nhiêu, tỉ số là bao nhiêu thì mới vẽ được sơ đồ và giải tiếp kết quả.<br />
Ví dụ: Tổng của hai số là số nhỏ nhất có ba chữ số. Tìm hai số đó biết tỉ số <br />
của chúng là thương của số chẵn lớn nhất có một chữ số với số liền sau số 1.<br />
Như vậy để vẽ được sơ đồ học sinh phải tìm được:<br />
Tổng (số nhỏ nhất có ba chữ số) là 100 <br />
Tỉ số là (thương của số chẵn lớn nhất có một chữ số (số 8) với số liền sau <br />
số 1 (số 2). Vậy tỉ số của hai số sẽ là 8: 2= 4. Tức số bé bằng 1/4 số lớn) hoặc số <br />
lớn gấp 4 lần số bé.<br />
Qua bước tìm tổng 100, tỉ số là 4 học sinh mới vẽ được sơ đồ sau : <br />
? <br />
Số bé <br />
100<br />
Số lớn <br />
<br />
?<br />
<br />
Cho tổng và tỷ số được nêu ở dạng nào, cho biết trực tiếp hay dán tiếp, giáo <br />
viên đều hướng dẫn học sinh phải xác định rõ được tổng và tỷ, các yếu tố trong <br />
bài tương ứng với số lớn, số bé thì bài toán mới giải được.<br />
<br />
<br />
<br />
12<br />
Lưu ý: Khi hướng dẫn các em vẽ sơ đồ nên vẽ số bé trước để gấp số lần <br />
theo tỷ lệ số đã cho ta được số lớn, và điểm đầu để vẽ các đoạn thẳng đó phải <br />
đặt bằng nhau. Làm như vậy học sinh sẽ dễ vẽ sơ đồ và nhận ra các số.<br />
Có khi ở dạng toán này là việc vẽ sơ đồ đoạn thẳng khi vẽ được sơ đồ học <br />
sinh dễ dàng nhận ra số phần bằng nhau và định ra được hướng giải. Các bước <br />
giải dạng toán này có thể tóm tắt như sau:<br />
Tóm tắt trên sơ đồ đoạn thẳng.<br />
Tìm tổng số phần bằng nhau.<br />
Tính giá trị một phần (lấy tổng chia cho tổng số phần).<br />
Tính giá trị từng số.<br />
Tóm lại: Cho tổng và tỉ được nêu ở dạng nào, đề bài cho biết trực tiếp hay <br />
gián tiếp, giáo viên phải hướng dẫn học sinh biết phân loại các dạng toán, phải xác <br />
định được tổng, tỉ số các yếu tố số lớn, số bé và tiến hành vẽ sơ đồ thì mới giải <br />
nhanh và chính xác được. <br />
Dạng 5: Dạng toán tìm hai số khi biết hiệu và tỷ số của hai số đó<br />
Đối với dạng toán này giáo viên cũng hướng dẫn tương tự như dạng 4 (tìm <br />
hai số khi biết tổng và tỷ số của hai số đó). <br />
Bước đầu là vẽ sơ đồ, quy trình giải cũng tương tự dạng toán trên.<br />
Cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề, phân tích các yếu tố đã cho và yếu tố <br />
phải tìm để tóm tắt được bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng. <br />
Lưu ý: Ở đây là dạng toán tìm hai số khi biết hiệu và tỷ số của hai số đó, tức <br />
là bài toán đã cho ta biết hiệu của số lớn và số bé kết hợp với tỷ số đã cho của bài <br />
toán. Từ những yếu tố này học sinh dễ dàng thể hiện trên sơ đồ đoạn thẳng và dễ <br />
dàng định ra hướng giải.<br />
Ví dụ: Mẹ hơn con 24 tuổi và tuổi mẹ gấp 5 lần tuổi con. Hãy tính tuổi mẹ, <br />
tuổi con?<br />
Bước 1: Tìm hiểu đề toán<br />
Yêu cầu học sinh đọc kỹ đề bài xác định rõ yếu tố đã cho và yếu tố phải tìm <br />
bằng hệ thống câu hỏi.<br />
Bài tóan cho biết gì? (Hiệu tuổi mẹ và tuổi con là 24 tuổi, tỷ số là tuổi mẹ <br />
gấp 5 lần tuổi con).<br />
Bài toán hỏi gì? (Tính tuổi mẹ, tuổi con).<br />
Bước 2: Tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng<br />
? tuổi <br />
Tuổi con 24 tuổi <br />
<br />
Tuổi mẹ <br />
13<br />
<br />
? tuổi<br />
Bước 3: Lập kế hoạch bài giải <br />
Nhìn sơ đồ học sinh dễ dàng nhận thấy tuổi mẹ hơn tuổi con 4 phần.<br />
Có thể hỏi học sinh 4 phần ứng với bao nhiêu tuổi ? (24 tuổi).<br />
Muốn biết một phần ứng với bao nhiêu tuổi ta tính thế nào? (24 : 4 = 6 <br />
(tuổi)).<br />
Một phần chính là số tuổi của ai? (số tuổi con).<br />
Biết số tuổi của con là 6 tuổi, muốn tính được số tuổi của mẹ ta làm thế <br />
nào? <br />
( 6 x 5 = 30 (tuổi) <br />
Bước 4: Giải bài toán<br />
Hiệu số phần bằng nhau là: 5 – 1 = 4 (phần)<br />
Tuổi con là: 24 : 4 = 6 (tuổi)<br />
Tuổi mẹ là: 6 x 5 = 30(tuổi)<br />
Đáp số: Tuổi con: 6 tuổi. <br />
Tuổi mẹ: 30 tuổi.<br />
Như vậy để giải dạng toán này ta cũng có thể hướng dẫn học sinh giải theo <br />
các bước sau:<br />
Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng.<br />
Tìm hiệu số phần bằng nhau (tức là tìm số phần ứng với hiệu hai số).<br />
Tính giá trị một phần.<br />
Tính giá trị của từng số.<br />
Tóm lại: Trên đây là một số ví dụ điển hình về các dạng toán dùng sơ đồ <br />
đoạn thẳng để giải. Vậy để nâng cao hiệu quả giảng dạy toán 4 về giải toán giáo <br />
viên cần làm tốt các việc sau:<br />
Đối với các bài toán có lời văn thuộc các dạng toán điển hình như đã nêu <br />
trên, giáo viên cần hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ đoạn thẳng để giải.<br />
Giáo viên lưu ý chú trọng khâu học sinh vẽ sơ đồ. Bởi vì muốn vẽ được sơ <br />
đồ đoạn thẳng chính xác trước tiên học sinh phải hiểu đề bài toán. Phân tích kỹ đề <br />
bài toán để tìm ra mối liên hệ phụ thuộc vào nhau của các đại lượng. Đó là bài toán <br />
cho biết gì? bài toán bắt tìm gì?<br />
Khi học sinh vẽ sơ đồ giáo viên cần hướng dẫn để các em định hướng được <br />
nên vẽ gì trước, vẽ gì sau. Hướng dẫn tỉ mỉ cách sắp xếp các đoạn thẳng trên sơ <br />
đồ cho hợp lý, phù hợp với yều cầu đề bài.<br />
Để khi nhìn vào sơ đồ thấy ngay được mối tương quan giữa các đại lượng. <br />
Từ đó các em tìm ra cách giải một cách dễ dàng.<br />
14<br />
Lưu ý: Hạn chế việc giáo viên vẽ mẫu sơ đồ cho học sinh chép lại, giáo viên <br />
chỉ sửa chữa giúp học sinh vẽ được sơ đồ.<br />
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp<br />
Với đề tài này thì mối quan hệ giữa các giải pháp là nền tảng để thực hiện <br />
mục tiêu. Đối với môn toán nhất là giải toán bằng sơ đồ đoạn thẳng thì thông qua <br />
nội dung thực tế nhiều hình vẽ của các đề toán giáo viên cần có đồ dùng dạy học <br />
cho từng bài kết hợp với việc lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp là hết sức <br />
cần thiết để học sinh tiếp nhận được nhiều kiến thức phong phú về cuộc sống, và <br />
có điều kiện rèn kỹ năng áp dụng các kiến thức toán học vào cuộc sống hàng ngày.<br />
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu <br />
<br />
Năm học 2016 – 2017<br />
Điểm 910 Điểm 78 Điểm 56 Duới điểm 5<br />
TS TL% TS TL% TS TL% TS TL%<br />
Đầu năm 2 8,3 % 5 20,8 % 10 41,6 % 7 29,1 %<br />
GHK1 4 16,6 % 8 33,3 % 7 29,1 % 5 20,8 %<br />
GHK2 5 20,8 % 9 37,5 % 7 29,1 % 3 12,5 %<br />
Cuối năm 8 33,3 % 9 37,5 % 7 29,1 % 0 0 %<br />
<br />
III. Phần kết luận, kiến nghị<br />
1. Kết luận <br />
Trong chương trình toán ở lớp 4, nhất là các dạng toán có thể dựng sơ đồ <br />
đoạn thẳng để giải. Ngoài việc rèn kỹ năng vẽ sơ đồ đoạn thẳng còn rèn cho học <br />
sinh khả năng tư duy, biết dựng sơ đồ đoạn thẳng để ứng dụng thực hành, làm tốt <br />
các dạng bài tập, luyện tập. Đặc biệt áp dụng vào để giải các bài toán nâng cao.<br />
Vậy để giúp học sinh có khả năng giải toán bằng phương pháp dựng sơ đồ <br />
đoạn thẳng giáo viên cần lưu ý một số điểm sau:<br />
Nắm vững các dạng toán giải để đạt được kết quả tốt trong quá trình dạy <br />
học. Người thầy phải khơi dạy tính tò mò của học sinh qua việc tìm ra nhiều cách <br />
giải cho một bài toán.<br />
Khi dạy dạng toán này giáo viên hướng dẫn học sinh kỹ năng giải theo quy <br />
trình 4 bước. Chú trọng đến tìm hiểu đầu bài để học sinh nhận ra dạng toán. Từ đó <br />
học sinh thực hiện tốt các bước sau:<br />
+ Khi ra bài tập phải phù hợp với đối tượng học sinh.<br />
+ Đối với học sinh học tốt giáo viên nên thường xuyên.<br />
Chuyển đổi liên tục các dạng toán đề tránh sự nhàm chán.<br />
Khuyến khích học sinh giải bài toán bằng nhiều cách.<br />
Nâng cao dần lượng, mức độ bài tập.<br />
<br />
15<br />
+ Đối với học sinh chưa hoàn thành giáo viên nên.<br />
Kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh.<br />
Kèm cặp các em trong những giờ lên lớp.<br />
Ra nhiều bài tập ở dạng tương tự nhau.<br />
+ Tích cực kiểm tra vở của học sinh, khuyến khích các em làm bài tập.<br />
Phương pháp dạy học của giáo viên được coi là tốt nhất khi học sinh say <br />
sưa, nhiệt tình, hứng thú học tập.<br />
Để đạt được kết quả cao hơn, đảm bảo tính khoa học, tính chính xác, phát <br />
huy được tính chủ động, sáng tạo của học sinh thì người giáo viên phải không <br />
ngừng nâng cao trình độ về toán học và phương pháp dạy học toán.<br />
Cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề, phân tích các yếu tố đã cho và yếu tố <br />
phải tìm để tóm tắt được bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng. Lúc này học sinh sẽ dễ <br />
dàng định ra hướng giải.<br />
Cần gây cho học sinh hứng thú, ham thích giải toán bằng phương pháp này, <br />
giáo viên cần cho học sinh rèn luyện nhiều lần để học sinh có khả năng vẽ sơ đồ <br />
thành thạo. Biết đọc sơ đồ và có thể nhìn vào sơ đồ để đọc được đề bài toán.<br />
Giáo viên nên coi học sinh là nhân vật trung tâm của quá trình dạy và học. Tổ <br />
chức và hướng dẫn phải để học sinh được họat động, tự làm lấy phần việc dưới <br />
sự chỉ đạo của giáo viên. Vẽ và sử dụng sơ đồ để tự học sinh làm, giáo viên không <br />
được làm thay học sinh. Bên cạnh đó giáo viên phải là người khơi dậy lòng ham <br />
mê tự tin của học sinh.<br />
Các bài mẫu trong sách giáo viên cần vẽ lên bảng chính xác, dễ xem, dễ <br />
hiểu. Tránh trường hợp vẽ quá nhỏ, quá to hoặc rối hình làm học sinh khó hiểu.<br />
Khi nêu câu hỏi phần hướng dẫn giải cần lựa chọn những câu hỏi ngắn, <br />
đúng trọng tâm để học sinh trả lời sát với yêu cầu đề bài.<br />
2. Kiến nghị<br />
<br />
<br />
* Đối với tổ chuyên môn <br />
Đối với những dạng toán giải cần áp dụng sơ đồ đoạn thẳng để hướng dẫn <br />
cho học sinh giải thì tổ chuyên môn cần bố trí một số giáo viên đi dự giờ thăm lớp <br />
để học hỏi và góp ý cho đồng nghiệp của mình dạy tốt hơn. Phải lồng ghép phần <br />
toán này vào để thảo luận, trao đổi trong những buổi sinh hoạt chuyên môn. <br />
Chuyên môn thường xuyên tổ chức các tiết chuyên đề chuyên sâu về dạng toán <br />
giải bằng sơ đồ đoạn thẳng để nâng cao trình độ và kĩ năng giải toán cho giáo viên.<br />
* Đối với nhà trường <br />
Thường xuyên tổ chức những chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học, thi <br />
giáo viên giải toán giỏi cấp trường, để tạo điều kiện và cơ hội cho cán bộ giáo <br />
16<br />
viên học hỏi và khẳng định, đánh giá được chính mình. Để giáo viên có những định <br />
hướng cụ thể trong việc dạy – học của mình .<br />
* Đối với ngành giáo dục<br />
Tổ chức các buổi hội thảo về giải toán bằng vẽ sơ đồ để giáo viên được <br />
tham gia rút kinh nghiệm trong vấn đề đổi mới phương pháp giảng dạy .<br />
Trong thời gian nghiên cứu và làm đề tài, tôi đã nhận được sự giúp đỡ và góp <br />
ý của nhà trường, của đồng nghiệp và đặc biệt là đề tài đã được thực nghiệm tại <br />
đơn vị công tác và thu được nhiều kết quả rất khả quan. Với niềm tin tuởng của <br />
tôi, đề tài này nếu được áp dụng đại trà sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục <br />
toàn diện cho nhà trường và nhất là phát triển kĩ năng giải toán dựng sơ đồ đoạn <br />
thẳng cho học sinh tiểu học.<br />
<br />
Ea Na, ngày 26 tháng 03 năm 2018<br />
Giáo viên thực hiện <br />
<br />
<br />