intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Rèn kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho học sinh qua việc dạy kiểu bài đọc – hiểu văn bản nghị luận, chính luận

Chia sẻ: Lê Thị Diễm Hương | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:16

591
lượt xem
41
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến “Rèn kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho học sinh qua việc dạy kiểu bài đọc – hiểu văn bản nghị luận, chính luận” đề cập đến khả năng kết hợp rèn luyện các kĩ năng làm văn nghị luận xã hội nói chung theo quan điểm tích hợp với việc dạy các văn bản nghị luận, chính luận. Mời quý thầy cô tham khảo sáng kiến trên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Rèn kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho học sinh qua việc dạy kiểu bài đọc – hiểu văn bản nghị luận, chính luận

  1. BM 01-Bia SKKN SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI TRƯỜNG THPT NGÔ SĨ LIÊN Mã số: ................................ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CHO HỌC SINH QUA VIỆC DẠY KIỂU BÀI ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN NGHỊ LUẬN, CHÍNH LUẬN Người thực hiện: NGUYỄN VĂN CÔNG Lĩnh vực nghiên cứu: - Phương pháp dạy học bộ môn: Ngữ văn  Có đính kèm: Các sản phẩm không thề hiện trong bản in SKKN  Mô hình  Phần mềm  Phim ảnh  Hiện vật khác Năm học: 2011 - 2012
  2. SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1. Họ và tên: Nguyễn Văn Công 2. Ngày tháng năm sinh: 17 – 04 – 1969 3. Nam, nữ: Nam 4. Địa chỉ: Trường THPT Ngô Sĩ Liên 5. Điện thoại: 0613866499 (CQ)/ 0613922048 (NR); ĐTDĐ: 0908875675 6. Fax: E-mail: haicong1969@yahoo.com 7. Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn, Chủ tịch Công đoàn 8. Đơn vị công tác: Trường THPT Ngô Sĩ Liên II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO - Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Thạc sĩ Văn học - Năm nhận bằng: 2011 - Chuyên ngành đào tạo: Văn học Việt Nam III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC - Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy môn Ngữ văn Số năm có kinh nghiệm: 17 - Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: Phương pháp hướng dẫn học sinh đọc hiểu các bài Đọc thêm trong chương trình Ngữ văn THPT Vận dụng lí thuyết thể loại vào việc giảng dạy một số tác phẩm tự sự trong chương trình môn Ngữ văn THPT
  3. Đề tài:RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CHO HỌC SINH QUA VIỆC DẠY KIỂU BÀI ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN NGHỊ LUẬN, CHÍNH LUẬN I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Môn Ngữ văn trong nhà trường hiện nay gồm ba phân môn là Tiếng Việt, Đọc văn và Làm văn, mỗi phân môn đảm nhận những nhiệm vụ khác nhau. Trong đó Làm văn là phân môn mang tính chất thực hành tổng hợp giữa các phân môn Tiếng Việt với phân môn Đọc văn. Mỗi bài làm văn có thể coi là một “tác phẩm nhỏ” của học sinh, phản ánh khá rõ nhận thức, kĩ năng, tình cảm của học sinh, là cơ hội để học sinh bộc lộ rõ nét nhất, tập trung nhất vốn hiểu biết nhiều mặt cũng như các phẩm chất và năng lực của mình. Ở chương trình lớp 11, 12, học sinh chủ yếu được thực hành kiểu bài văn nghị luận, gồm nghị luận văn học và nghị luận xã hội. Khác với chương trình những năm trước đây, nghị luận xã hội chiếm một vị trí quan trọng trong chương trình hiện nay, là phần kiểm tra bắt buộc trong các kì thi kiểm tra năng lực học sinh từ thi tốt nghiệp đến thi ĐH, CĐ. Cùng với nghị luận văn học, kiểu bài nghị luận xã hội góp phần hình thành các kĩ năng cơ bản cho học sinh trong việc tạo lập văn bản, đồng thời cung cấp cho các em nhiều tri thức về đời sống chính trị, xã hội, giúp các em có cơ hội bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề thiết thực trong đời sống thực tế đang diễn ra xung quanh mình, rèn luyện nâng cao phẩm chất tư tưởng, đạo đức của mình. Vì nhiều lí do, hiện nay, việc giảng dạy cho học sinh làm kiểu bài nghị luận xã hội ở trường THPT Ngô Sĩ Liên còn gặp nhiều khó khăn. Trước hết là khó khăn chung do thời lượng chương trình, số tiết thực hành cho kiểu bài này còn ít. Một khó khăn nữa là do năng lực của học sinh còn hạn chế. Thực tế cho thấy, trình độ, khả năng viết văn nghị luận, trong đó có nghị luận xã hội của học sinh còn nhiều bất cập. Việc lập ý, dựng đoạn, tạo bố cục cho bài văn và cách tư duy để triển khai một cách mạch lạc những ý tưởng và hiểu biết của mình đang là khó khăn của hầu hết học sinh. Phần nhiều HS (nhất là với đối tượng HS yếu) còn chưa có ý thức vận dụng những kiến thức đã học ở phân môn Tiếng Việt và Đọc văn vào bài làm văn. Mặt khác, khi làm văn nghị luận, HS thường lúng túng trong việc lựa chọn và sử dụng kết hợp các thao tác lập luận một cách chặt chẽ, tự nhiên và nhuần nhuyễn. Ngoài ra, còn phải kể đến những khó khăn về phía giáo viên, có không ít giáo viên còn tỏ ra lúng túng khi hướng dẫn học sinh làm kiểu bài này. Đặc biệt, giáo viên chưa vận dụng tốt quan điểm tích hợp trong việc liên kết các phân môn Đọc văn, Tiếng Việt và Làm văn trong quá trình giảng
  4. dạy. Việc tìm tòi các hướng đi giúp giáo viên giải quyết vấn đề này là một trăn trở của chúng tôi trong nhiều năm nay. Một điều dễ nhận thấy là sách giáo khoa Ngữ văn phổ thông hiện nay rất chú trọng vào chức năng ứng dụng của văn bản. Nếu như trước đây, người ta chú ý nhiều đến các văn bản tác phẩm thuộc các thể loại như thơ trữ tình, tự sự, kịch, thì hiện nay chương trình còn đặc biệt quan tâm đến các văn bản nghị luận, chính luận. Chỉ tính riêng trong chương trình Ngữ văn của lớp 11, 12, đã có đến 13 văn bản thuộc kiểu bài nghị luận, chính luận. Đây là các văn bản có đặc trưng thể loại riêng, việc giảng dạy chúng hoàn toàn không giống với các văn bản văn xuôi nghệ thuật khác như truyện, kí… Việc bổ sung những văn bản nghị luận, nhất là những văn bản nhật dụng, cũng đặt ra cho giáo viên những yêu cầu mới. Những văn bản này có ý nghĩa quan trọng trong việc chuẩn bị cho học sinh bước vào cuộc sống, có tác dụng sâu sắc đến việc rèn luyện tư duy, phương pháp, tư tưởng cho học sinh. Các văn bản này cũng đem đến cho các em vẻ đẹp của văn chương nghệ thuật, tuy nhiên điểm nổi bật của chúng lại nằm ở tính hùng biện, ở sự chặt chẽ về lập luận, ở sự tác động trực tiếp về mặt tư tưởng, tình cảm liên quan đến những vấn đề chính trị, xã hội. Về phương diện thể loại, xét một cách tương đối, các văn bản này có nhiều điểm gần gũi với kiểu bài văn nghị luận mà học sinh đang được rèn luyện. Vì vậy, khi dạy các văn bản nghị luận, chính luận này trong chương trình, giáo viên sẽ có nhiều thuận lợi cho việc rèn kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi nhận thấy, việc kết hợp rèn kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho học sinh thông qua việc giảng dạy các văn bản nghị luận, chính luận theo quan điểm tích hợp là một trong những hướng đi phù hợp. Thực tiễn giảng dạy cũng cho thấy, việc tích hợp tri thức đọc văn nghị luận, chính luận vào bài dạy làm văn nghị luận xã hội là một trong những con đường có thể giúp nâng cao chất lượng giảng dạy, giúp học sinh cải thiện được những hạn chế của mình. Đây chính là lí do cơ bản để chúng tôi lựa chọn đề tài “Rèn kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho học sinh qua việc dạy kiểu bài đọc – hiểu văn bản nghị luận, chính luận” cho sáng kiến kinh nghiệm của mình. Trong phạm vi của đề tài, người viết chỉ đề cập đến khả năng kết hợp rèn luyện các kĩ năng làm văn nghị luận xã hội nói chung theo quan điểm tích hợp với việc dạy các văn bản nghị luận, chính luận. Chúng tôi chưa đi sâu vào việc rèn cho học sinh các kĩ năng làm các kiểu bài cụ thể như: nghị luận về một tư tưởng, đạo lí hay nghị luận về một hiện tượng đời sống… Các văn bản nghị luận, chính luận được vận dụng trong đề tài chủ yếu chỉ giới hạn ở chương trình các lớp 11 và 12, là các lớp mà học sinh chủ yếu học làm văn nghị luận. Các vấn đề cụ thể phát sinh
  5. trong khi thực hiện đề tài sẽ được chúng đề cập đến trong một dịp khác. Đề tài cũng chỉ đề cập đến những vấn đề nảy sinh trong thực tế giảng dạy môn Văn ở trường THPT Ngô Sĩ Liên. II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lý luận 1.1. Quan điểm tích hợp đối với việc giảng dạy phân môn Làm văn Trước đây tồn tại ba bộ sách gắn với ba phân môn là Tiếng Việt, Làm văn và Văn học (bao gồm hai cuốn: Văn học Việt Nam và Văn học nước ngoài). Hiện nay, chỉ tồn tại duy nhất một bộ sách mang tên Ngữ văn. Nghĩa là đã tích hợp tri thức cả ba phân môn nói trên vào trong một bộ sách. Điều đó rất thuận lợi cho GV khi sử dụng phương pháp tích hợp trong dạy học. Dạy học tích hợp và khai thác văn bản dựa vào đặc trưng thể loại là phương pháp, đồng thời là nguyên tắc của bộ môn Ngữ văn ở chương trình phổ thông. Trong quá trình thực hiện, chúng tôi thấy tính ưu việt của phương pháp này hơn hẳn những phương pháp trước đây được vận dụng. Tính ưu việt của phương pháp thể hiện rõ qua thái độ, niềm say mê, kết quả tiếp nhận của học sinh trong từng bài học. Người học không chỉ được chiếm lĩnh kiến thức, có kĩ năng đọc – hiểu các kiểu văn bản thuộc các thể loại văn học các em thường đọc từ sách báo hàng ngày mà còn có khả năng tạo lập văn bản. Đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn coi trọng sự tích cực của học sinh trong việc chiếm lĩnh tri thức khoa học và rèn luyện được kỹ năng, thao tác tư duy. Tích hợp các tri thức trong một bài dạy là xu hướng tất yếu để học sinh có khả năng giải quyết những nhiệm vụ nhận thức được đặt ra. Tích hợp có nghĩa là vận dụng những tri thức liên quan gần gũi, có tính chất công cụ để chiếm lĩnh những tri thức mới. Dạy học theo hướng tích hợp diễn ra trên nhiều cấp độ, từ cấp độ khoa học liên ngành đến khoa học phân môn, đến tri thực cụ thể, riêng lẻ. Tùy vào từng kiểu bài, người giáo viên có thể chọn lựa mảng tri thức hoặc phân môn để tích hợp. Mục đích cuối cùng của bài học chính là giúp học sinh biết vận dụng tri thức đã có để chiếm lĩnh cái mới một cách dễ dàng, hiệu quả và hứng thú. Các phân môn Tiếng Việt, Làm văn và Đọc văn có đặc thù riêng nhưng có quan hệ mật thiết với các phân môn còn lại. Do đó, việc tích hợp tri thức giữa các phân môn vừa là yêu cầu cần thiết, vừa là một xu hướng tự nhiên tất yếu trong quá trình dạy học. Nguyên tắc tích hợp được coi trọng trong cả ba bộ SGK Ngữ văn 10, 11, 12. Có sự tích hợp ngang giữa nội dung dạy học các phần Văn học, Tiếng Việt và Làm văn cùng thời kì, có sự tích hợp dọc, phối hợp về kiến thức, kĩ năng theo hệ thống từng phân môn. Về tích hợp ngang, tương đương với việc học các văn bản nghị luận, phần Làm văn có các bài học rèn thao tác lập luận ở lớp 11 ( phân tích, so
  6. sánh, bác bỏ, bình luận ), có các bài học rèn kĩ năng xây dựng các kiểu bài Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí, Nghị luận về một hiện tượng đời sống ở lớp 12… Như ta đã biết, đối với phân môn Làm văn, mục tiêu dạy học không chỉ dừng lại ở tri thức mà còn hướng đến hình thành kỹ năng. Có nhiều kỹ năng cần hình thành nhưng một trong những kỹ năng quan trọng là kỹ năng tạo lập văn bản. Mỗi khi chấm bài làm văn của học sinh, giáo viên thường buồn phiền trước rất nhiều bài văn viết lủng củng, luận điểm không rõ ràng, lập luận không chặt chẽ. Tất cả các kiến thức phân môn từ Đọc văn đến Tiếng Việt và Làm văn đều phản ánh rõ nét trong bài làm của mỗi một học sinh. Hiệu quả đánh giá năng lực học tập cuối cùng của học sinh cũng là ở bài viết – sản phẩm hoàn chỉnh nhất đòi hỏi kết hợp hài hòa giữa tri thức và kỹ năng. Với việc gia tăng số lượng các văn bản nghị luận và văn bản nhật dụng trong chương trình, khả năng tích hợp với việc dạy phân môn Làm văn, đặc biệt là việc rèn kĩ năng tạo lập văn bản cho học sinh càng trở nên thuận lợi. Tích hợp tri thức đọc – hiểu văn bản nghị luận, chính luận vào bài dạy làm văn nghị luận xã hội là hoàn toàn phù hợp với việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn hiện nay. 1.2. Khả năng tích hợp giảng dạy kĩ năng làm văn NLXH trong việc giảng dạy kiểu bài đọc hiểu các văn bản nghị luận, chính luận: Như đã nêu, một thuận lợi cho việc tích hợp dạy kĩ năng làm văn nghị luận chính là ở kết cấu của chương trình với việc bổ sung một số lượng khá lớn các bài đọc – hiểu văn bản nghị luận, chính luận. Trong phạm vi đề tài này, người viết quan niệm văn bản nghị luận còn bao hàm cả các văn bản nhật dụng có tính chất nghị luận khá rõ nét. Theo đó, văn bản nhật dụng là văn bản mà nội dung thể hiện những vấn đề có ý nghĩa thời sự, bức thiết đối với thời đại, như vấn đề môi trường, bệnh dịch thế kỉ, vấn đề văn hóa dân tộc, đổi mới tư duy… Do sự gần gũi về đặc điểm trong hành văn, diễn đạt, việc học các văn bản này hết sức thuận lợi cho việc rèn kĩ năng, đặc biệt là kĩ năng lập luận cho học sinh khi làm kiểu bài văn nghị luận, nhất là nghị luận xã hội cho học sinh. - Theo thiết kế, trọng tâm của chương trình Làm văn nghị luận ở lớp 11 là giới thiệu và luyện tập bốn thao tác lập luận: phân tích, so sánh, bác bỏ và bình luận. Mục đích của những bài học này là giúp học sinh nắm vững vai trò của từng thao tác và biết vận dụng vào bài viết để tăng sự chặt chẽ, logic, mạch lạc và thuyết phục cho bài văn nghị luận. Theo cấu trúc tích hợp ngang, trong chương trình Ngữ văn lớp 11, tương đương với các bài học về các thao tác lập luận nêu trên, có các bài đọc hiểu văn bản nghị luận sau: + Chiếu cầu hiền (Ngô Thì Nhậm) + Xin lập khoa luật (Nguyễn Trường Tộ) + Về luân lý xã hội ở nước ta (Phan Châu Trinh)
  7. + Tiếng mẹ đẻ, nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức (Nguyễn An Ninh) + Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác (F.Ăng – ghen) + Một thời đại trong thi ca (Hoài Thanh) Có thể thấy các văn bản trên đều sử dụng nhiều các thao tác lập luận. Phổ biến nhất là thao tác phân tích và so sánh (hầu hết các văn bản). Có văn bản còn sử dụng thao tác bác bỏ (Chiếu cầu hiền, Về luân lí xã hội ở nước ta, Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức). Có văn bản sử dụng thao tác bình luận (Về luân lí xã hội ở nước ta, Một thời đại trong thi ca…). Như vậy, việc tích hợp rèn kĩ năng lập luận cho học sinh thông qua việc giảng dạy các văn bản trên là điều hoàn toàn có thể. -Ở chương trình Làm văn lớp 12, trọng tâm là dạy học sinh làm các dạng bài Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí, Nghị luận về một hiện tượng đời sống, luyện tập kết hợp các thao tác lập luận và hoàn chỉnh kĩ năng viết bài (bố cục, mở bài, kết luận, diễn dạt và hoàn chỉnh bài văn…) Theo cấu trúc tích hợp ngang, trong chương trình Ngữ văn lớp 12, tương đương với các bài học trên, có các bài đọc hiểu văn bản nghị luận sau: + Tuyên ngôn độc lập ( Hồ Chí Minh ) + Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc ( Phạm Văn Đồng ) + Mấy ý nghĩ về thơ ( Nguyễn Đình Thi ) + Đốt-xtôi-ép-xki ( X. Xvai-gơ ) + Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS, 1 – 12 – 2003 ( Cô-phi An-nan ) + Những ngày đầu tiên của nước Việt Nam mới ( Võ Nguyên Giáp ) + Nhìn về vốn văn hóa dân tộc ( Trần Đình Hượu ) Những văn bản nghị luận, chính luận được đưa vào chương trình sách giáo khoa nêu trên không những có tính tư tưởng cao mà còn đạt trình độ chuẩn mực về cách viết, ngôn ngữ, hành văn và lập luận. Vì thế, tất cả các văn bản trên đều có thể tích hợp trong bài dạy Làm văn nghị luận xã hội. GV có thể vận dụng các thao tác lập luận của các tác giả sử dụng trong các văn bản nghị luận cụ thể hoặc cách thức trình bày diễn đạt của từng văn bản để giúp HS rèn luyện các kĩ năng lập luận, tạo lập văn bản khi làm bài NLXH. 2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài 2.1. Về việc xác định các yếu tố có thể tích hợp trong việc dạy kiểu bài đọc - hiểu văn bản nghị luận, chính luận và rèn kĩ năng làm văn NLXH cho học sinh -Là phân môn thực hành ngôn ngữ và văn chương, Tập làm văn mang tính tổng hợp và sáng tạo rất cao. Khi tập làm văn, học sinh một mặt phải nắm vững yêu cầu của đề bài, chuẩn bị các tư liệu về đời sống, về văn học…, mặt khác phải
  8. biết vận dụng một loạt các kĩ năng cần thiết như xây dựng bố cục, tổ chức lập luận, trình bày, diễn đạt câu văn, lựa chọn từ ngữ… để hoàn thành bài văn. Để làm tốt các khâu trên trong quá trình làm bài NLXH, học sinh có thể tích lũy tri thức và rèn luyện kĩ năng ngay trong quá trình đọc – hiểu các văn bản nghị luận, chính luận của SGK. - Như đã nói ở trên, trọng tâm của chương trình Làm văn nghị luận ở lớp 11 là các thao tác lập luận: phân tích, so sánh, bác bỏ và bình luận. Theo thiết kế, chương trình đã tách riêng từng thao tác lập luận (Học kì 1 : Thao tác lập luận phân tích và so sánh; Học kì 2 : Thao tác lập luận bác bỏ và bình luận) với luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác trong bài văn nghị luận (Học kì 1 : Luyện tập vận dụng kết hợp 2 thao tác lập luận phân tích và so sánh; Học kì 2 : Luyện tập vận dụng kết hợp 4 thao tác đã học). Tất cả các nội dung trên đều có thể tích hợp trong quá trình dạy các văn bản nghị luận, chính luận của sách Ngữ văn 11, sau này sẽ tiếp tục được hoàn thiện và củng cố trong quá trình dạy các văn bản nghị luận, chính luận ở lớp 12. -Do đặc thù của kiểu văn bản nghị luận, khi khai thác bài dạy Đọc hiểu, tất yếu giáo viên phải cho học sinh tìm hiểu bố cục nghị luận, nghệ thuật lập luận… Tuy nhiên, nếu ý thức rõ nét về quan điểm tích hợp, ngay từ lớp 10, 11, giáo viên đã có thể hướng dẫn học sinh lưu ý về các kĩ năng xây dựng bố cục, trình bày hệ thống luận điểm, cách đưa dẫn chứng… Đến năm 12, việc tích hợp này càng thuận lợi hơn, vì song song với việc thực hành làm hai dạng bài NLXH: Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí, Nghị luận về một hiện tượng đời sống, học sinh được học các văn bản Tuyên ngôn độc lập, Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc… Với tính lập luận chặt chẽ, dẫn chứng xác thực, sự uyên bác của người viết, giọng điệu hùng hồn…, các văn bản trên có thể được xem là mẫu mực để cho học sinh học tập làm văn NLXH. -Tùy theo yêu cầu của chương trình, tùy theo nội dung từng bài học và ý đồ cụ thể của giáo viên, có thể xác định một số yếu tố có thể khai thác để rèn kĩ năng làm văn NLXH cho học sinh, đó là: + Các yếu tố thuộc về thao tác lập luận + Các yếu tố thuộc về kết cấu bài văn + Các yếu tố thuộc về diễn đạt dùng từ, đặt câu… 2.2. Vận dụng quan điểm tích hợp vào việc rèn kĩ năng làm văn NLXH qua việc dạy kiểu bài đọc hiểu văn bản nghị luận, chính luận 2.2.1. Tích hợp để rèn cho học sinh các thao tác lập luận Lập luận là kĩ năng sắp xếp các luận điểm trong bài văn, sắp xếp các luận cứ trong một luận điểm sao cho thuyết phục được người đọc, người nghe. Kĩ năng lập luận là kĩ năng cơ bản nhất khi viết văn nghị luận, nếu không có kĩ năng lập luận, học sinh sẽ rất lúng túng khi làm văn, và với kĩ năng lập luận kém, học sinh cũng không thể viết được một bài văn nghị luận có sức thuyết phục.
  9. -Trọng tâm của bài dạy Làm văn ở lớp 11 về các thao tác lập luận là: về kiến thức giúp HS nắm vững mục đích, tác dụng, yêu cầu và cách sử dụng thao tác đó trong bài văn; về kĩ năng giúp HS nhận diện và chỉ ra sự hợp lí của thao tác đó trong văn bản, từ đó biết vận dụng thao tác đó để viết một đoạn văn nghị luận. Căn cứ vào trọng tâm bài học, khi tổ chức tiết dạy, GV có thể tích hợp như sau : - Đối với các bài học về từng thao tác cụ thể : + GV tìm một văn bản nghị luận (HS đã học) có sử dụng thao tác lập luận tương ứng, hướng dẫn HS nhận diện thao tác; phân tích ý nghĩa, tác dụng của thao tác đó đối với việc xác lập và làm sáng tỏ luận điểm; phân tích cách tiến hành thao tác lập luận của tác giả. Chẳng hạn: bài “Thao tác lập luận so sánh” có thể vận dụng tri thức của bài Đọc văn “Chiếu cầu hiền” (Ngô Thì Nhậm); hay bài “Thao tác lập luận bình luận” có thể vận dụng đoạn trích “Xin lập khoa luật” (Nguyễn Trường Tộ), …. + Từ ngữ liệu đã phân tích, GV yêu cầu HS rút ra kết luận về mục đích, yêu cầu, cách tiến hành thao tác lập luận. - Đối với các bài luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận: Trong các bài nghị luận rất hiếm những trường hợp người nghị luận chỉ sử dụng một thao tác lập luận duy nhất; vì thế, GV cần giúp HS nhận thức rằng việc vân dụng kết hợp các thao tác lập luận một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn, hiệu quả là điều rất cần thiết trong bài văn nghị luận. Khi dạy bài luyện tập này, GV tiến hành theo 2 bước sau : Bước 1 : Hướng dẫn HS tìm hiểu bài (đoạn) văn mẫu : + Lựa chọn : GV có thể lấy một văn bản nghị luận (HS đã học) có sử dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận để HS có thể học hỏi cách vận dụng các thao tác lập luận của các tác giả như : Chiếu cầu hiền, Về luân lí xã hội ở nước ta, Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức, Một thời đại trong thi ca,… + Tìm hiểu: GV yêu cầu HS đọc lại bài (đoạn) văn mẫu, xác định đúng các thao tác lập luận đã sử dụng (chỉ ra thao tác nào là chủ yếu, thao tác nào là bổ trợ); phân tích cách tiến hành các thao tác lập luận của tác giả sao cho chặt chẽ, nhuần nhuyễn, tự nhiên; phân tích ý nghĩa, tác dụng, hiệu quả của việc sử dụng kết hợp các thao tác lập luận đó. Bước 2 : Hướng dẫn HS luyện tập + GV ra một đề bài để HS thực hành viết đoạn văn nghị luận có sử dụng kết hợp các thao tác lập luận. Với ý thức tích hợp, GV có thể ra những bài tập như : Vận dụng thao tác lập luận phân tích và so sánh, hãy viết đoạn văn nói về hậu quả của việc lười học ở HS hiện nay; Anh(chị) hãy học theo cách vận dụng kết hợp các thao tác lập luận của Phan Châu Trinh, viết bài văn nghị luận bàn về bệnh vô cảm trong xã hội ngày nay. Bước 3: Củng cố
  10. GV chốt lại những điểm cốt yếu nhất về việc vận dụng kết hợp các thao tác lập luận: tầm quan trọng, nguyên tắc lựa chọn các thao tác lập luận và vận dụng tổng hợp các thao tác đó trong một bài (một đoạn) văn nghị luận, căn cứ đánh giá mức độ thành công của việc vận dụng tổng hợp đó. -Trong chương trình Làm văn 12, liên quan đến những kiến thức về việc làm một dạng bài nghị luận xã hội cụ thể, giáo viên tiếp tục củng cố kĩ năng lập luận cho học sinh qua việc phân tích hệ thống lập luận của các văn bản như: Tuyên ngôn độc lập, Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc, Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS, 1 – 12 – 2003… Ví dụ: Phân tích lập luận trong đoạn trích: “Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do…Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn” (Tuyên ngôn độc lập) để củng cố kĩ năng về việc vận dụng kết hợp các thao tác lập luận. Cần chỉ cho học sinh nhận thấy, đoạn trích trên có sự kết hợp: +Thao tác phân tích: làm rõ luận điểm chính nêu ở đoạn 1 bằng cách chia tách vần đề “Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa” ra làm nhiều khía cạnh trên 2 bình diện “chính trị” và “kinh tế”. +Kết hợp với thao tác chứng minh: nêu những cứ liệu rõ ràng, xác thực về tội ác của thực dân Pháp. +Xét cả đoạn trích, người viết sử dụng thao tác bác bỏ để bác bỏ luận điệu của thực dân Pháp rêu rao là có công khai hóa nước ta. -Tương tự, giáo viên có thể khai thác trong nhiều ngữ liệu ở các văn bản nghị luận, chính luận đã học khác trong chương trình Ngữ văn 12. 2.2.2. Tích hợp để rèn kĩ năng xây dựng kết cấu bài văn - Do đặc điểm thể loại, khi dạy các tiết Đọc hiểu văn bản nghị luận, chính luận, giáo viên nhất thiết phải hướng dẫn học sinh xác định bố cục. Bố cục của các văn bản này về cơ bản đều có 3 phần: nêu vấn đề, giải quyết vần đề, kết thúc vấn đề. Bởi vậy, giáo viên có thể thông qua việc phân tích kết cấu của các phần này mà tăng cường kiến thức cho học sinh khi xây dựng bài làm NLXH. Ví dụ: + Qua việc hướng dẫn tìm hiểu phần mở đầu của “Tuyên ngôn độc lập", học sinh có thể học tập được nhiều điều về cách mở bài cho bài văn của mình. Trong mở bài của mình, Bác nêu vấn đề bằng cách sử dụng một số tiền đề có sẵn ( dẫn lời 2 bản tuyên ngôn nổi tiếng của Mĩ và Pháp ). Đây là dạng mở bài gián tiếp, học sinh có thể vận dụng biện pháp này để nêu vấn đề cho bài văn của mình bằng cách dẫn 1 số nhận định, câu thơ câu văn có nội dung liên quan trực tiếp đến luận đề. Ví dụ, viết về hiện tượng các cá nhân, tổ chức nhiệt tình đóng góp, ủng hộ đồng bào miền Trung bị bão lụt, có thể dẫn các câu tục ngữ: Lá lành đùm lá rách, Thương người như thể thương thân… để dẫn vào bài.
  11. + Cách kết bài của “Tuyên ngôn độc lập” cũng là một mẫu mực có thể học tập: có 2 phần rõ ràng ( phần chốt ý và phần mở rộng, nâng cao), ngắn gọn, chặt chẽ, ý nghĩa tư tưởng sâu sắc. Đầu tiên, Bác nêu nhận định tổng quát và khẳng định ý nghĩa của vấn đề đã trình bày: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, sau đó liên hệ mở rộng để khẳng định một vấn đề hết sức quan trọng: Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. - Giữa các phần trong bố cục của một văn bản nghị luận luôn có sự liên kết chặt chẽ. Không chỉ đơn giản là sự tiếp nối của các phần Mở bài, Thân bài và Kết luận, có một mạch ngầm liên kết được tạo ra bởi sự triển khai hệ thống luận điểm suốt toàn văn bản. Chỉ cho học sinh thấy được mạch ngầm liên kết các lí lẽ của văn bản là điều cần thiết. Ví dụ, về kết cấu, hệ thống lí lẽ trong “Tuyên ngôn độc lập” được xâu chuỗi qua các luận điểm cơ bản sau: Luận điểm 1: Cơ sở nền độc lập của Việt Nam là những quyền lợi cơ bản của con người và quyền độc lập, tự quyết của các dân tộc. Luận điểm 2: Nền độc lập của Việt Nam được đồng thời khẳng định trên hai phương diện pháp lí và đạo lí ( bản Tuyên ngôn đã chứng minh một cách thuyết phục là thực dân Pháp không có bất kì cơ sở pháp lí hay đạo lí nào đối với nhân dân Việt Nam, từ đó bác bỏ luận điệu có công “khai hóa” và “bảo hộ” của thực dân Pháp). Luận điểm 3: Chính nghĩa sáng ngời của cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta. Luận điểm 4: Tuyên ngôn về nền độc lập của Việt Nam. Vận dụng vào bài làm, học sinh có thể rút kinh nghiệm để trình bày các luận điểm của mình sao cho thật chặt chẽ, có mối liên kết giữa các ý. - Cũng vậy, khi dạy bài “Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống AIDS, 1 – 12 – 2003”, giáo viên có thể liên hệ để củng cố kiến thức cho học sinh về cấu trúc của một bài NLXH về một hiện tượng đời sống. Bố cục của văn bản này cũng chia 3 phần, nội dung có thể các quy về các ý lớn như sau: +Đặt vấn đề: Để chống lại căn bệnh HIV/AIDS, cần có sự cam kết, nguồn lực và hành động của toàn cầu. Tuy nhiên, hiện nay, hành động của chúng ta là chưa đủ ( tương đương với phần MB ) +Điểm lại những đóng góp cho việc phòng chống HIV/AIDS trong thời gian qua ( tương đương với phần miêu tả thực trạng ) +Tình trạng và hậu quả của đại dịch qua các cứ liệu cụ thể (tương đương với phần nêu hậu quả ) +Kết luận mang tính cảnh báo: nếu không tăng cường hành động thì chúng ta sẽ thất bại (phần này có tác dụng nhấn mạnh tính cấp thiết của vấn đề)
  12. +Phương hướng và biện pháp trong thời gian tới (tương đương với phần đề xuất hướng giải quyết ) +Lời kêu gọi cuối bài (tương đương với phần KB ) Rõ ràng, học sinh có thể vận dụng cấu trúc trên vào một bài NLXH, giả định là bàn về đại dịch HIV/AIDS hay một hiểm họa môi trường chẳng hạn. 2.2.3. Tích hợp để rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu… a/ Về dùng từ: Do nhu cầu lập luận, bài văn nghị luận, nhất là NLXH, thường dùng đến những từ ngữ như: thật vậy, tuy thế, cho nên, vì vậy, không chỉ…mà còn, trước hết, sau đây, nói chung, tóm lại…. Trong các văn bản nghị luận, chính luận ở SGK cũng xuất hiện rất nhiều những từ ngữ như vậy. Khi dạy các văn bản nghị luận, giáo viên cần chú ý đến các từ, các ngữ có tác dụng làm chất kết dính giữa các đoạn và các câu văn: thế mà, tuy nhiên, mặc dầu, do vậy, cho nên, vì vậy… Đó là những từ vừa có tác dụng liên kết vừa giống như những đòn bẩy làm nổi rõ những lí lẽ, làm bật sáng những điểm chủ yếu của vấn đề. Văn bản “Tuyên ngôn độc lập” là một điển hình. -Ví dụ 1: từ Thế mà trong câu mở đầu phần hai của tác phẩm: “…Thế mà, hơn tám mươi năm nay bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa”. Từ Thế mà, về mặt chức năng, được dùng để liên kết mạch lập luận giữa phần nêu vấn đề với phần nội dung chính. Về ý nghĩa, từ Thế mà mang sức nặng nghìn cân của cả đoạn văn trước nó, làm bật rõ sự trái ngược, nêu cao tội ác của bọn thực dân Pháp được kể ở đoạn văn sau nó. -Ví dụ 2: cụm từ “Bởi thế cho nên” ở phần cuối tác phẩm: “Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ mọi hiệp ước…” Thoạt nhìn, hai từ ngữ bởi thế và cho nên được dùng ở đây có vẻ thừa, vì thông thường khi viết người ta chỉ chọn một trong hai. Tuy nhiên, đọc lại Tuyên ngôn độc lập, ta thấy đúng là phải dùng như thế. Dùng như thế mới chặt chẽ, mới hay. Sau một đoạn văn dài với rất nhiều lí lẽ xác đáng và chắc nịch ( từ Trước ngày 9 tháng 3 cho đến …mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ Dân chủ cộng hòa ), việc dùng chỉ một trong hai từ bởi thế hoặc cho nên có vẻ mỏng manh quá, chất kết dính và sức nặng của lập luận sẽ không đủ sức. Dùng cụm Bởi thế cho nên vừa có chức năng liên kết chặt chẽ vừa tạo sức mạnh cho ý đồ diễn đạt. Việc chú ý giảng dạy những từ ngữ như trên sẽ giúp học sinh có ý thức lựa chọn và sử dụng những từ ngữ liên kết khi làm văn nghị luận, nhất là nghị luận xã hội. b/ Về đặt câu:
  13. Một trong những kĩ năng diễn đạt là học sinh phải viết câu cho đúng, ngoài còn phải biết viết câu linh hoạt, kết hợp câu dài, câu ngắn, kết hợp sử dụng các phương thức biểu đạt phù hợp. Do đặc thù của văn nghị luận, người viết ít dùng câu mô tả, trần thuật…mà dùng nhiều kiểu câu khẳng định và phủ định, các kiểu câu suy luận và phán đoán… Học sinh có thể rút kinh nghiệm về điều này qua việc phân tích các kiểu câu được sử dụng trong các văn bản được học. “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh, do tính mẫu mực về hành văn, là một ví dụ rất tốt cho điều này. Đọc kĩ văn bản ta thấy Bác sử dụng rất nhiều những câu ngắn, diễn đạt ý tứ rất rõ ràng như: Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học… Bên cạnh đó, văn bản cũng sử dụng những câu dài, có nhiều vế, ý tứ được diễn đạt vừa rõ ràng lại vừa giàu hình tượng, giàu cảm xúc như: Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!... Vận dụng vào bài làm, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tập viết những kiểu câu phù hợp, bắt đầu từ dễ đến khó, từ câu ngắn, ít thành phần đến những câu dài, ít nhiều có sự phức tạp như mở rộng thành phần trạng ngữ, thành phần chêm xen… III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI Đề tài đã giúp cho giáo viên giảng dạy có ý thức rõ ràng về việc giảng dạy bài làm văn NLXH theo quan điểm tích hợp với việc giảng dạy các văn bản nghị luận, chính luận, từ đó từng bước nâng cao kĩ năng làm bài cho học sinh, hạn chế những lỗi cơ bản mà học sinh hay mắc phải trong lập luận, trong diễn đạt. Vận dụng quan điểm tích hợp trên cũng giúp cho việc khai thác bài dạy phù hợp với đặc trưng của kiểu bài đọc hiểu văn bản nghị luận, chính luận, việc tìm hiểu nội dung kiên thức sâu sắc và thỏa đáng hơn, giờ dạy cũng hấp dẫn hơn. Từ đó, học sinh một mặt vừa được rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận xã hội vừa nâng cao được năng lực đọc hiểu các tác phẩm không phải là văn xuôi nghệ thuật. Trong quá trình giảng dạy của bản thân, chất lượng làm bài bài của học sinh được nâng lên thấy rõ. Học sinh đã bước đầu có ý thức sử dụng các thao tác lập luận, biết xây dựng bố cục bài văn một cách hợp lí. Nếu trước đây học sinh rất lúng túng khi đứng trước yêu cầu triển khai hệ thống luận điểm cho một bài làm van NLXH cụ thể thì nay đã có tiến bộ hơn nhiều. Kết quả làm bài nghị luận xã hội của học sinh cao hơn nhiều so với trước.
  14. Kết quả tốt nghiệp THPT cuối năm của các lớp đang dạy trong năm học 2010 - 2011: -12A1 : Thi đạt 78 % TB trở lên -12A7, 12A10: Thi đạt 64 % TB trở lên Tổng chung cả 3 lớp đạt 68,6 % TB trở lên ( so với tỉ lệ chung của Tỉnh là 53,4% ) -Tỉ lệ đạt điểm TB khi làm kiểu bài NLXH của cả Tổ cũng thường đạt trên 65% (so với trước chỉ đạt 55% IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG Đề tài đã được người viết vận dụng trong quá trình giảng dạy của bản thân, sau đó triển khai áp dụng rộng rãi trong phạm vi tổ Văn của trường THPT Ngô Sĩ Liên. Giáo viên trong tổ tiếp tục triển khai trong giờ dạy của mình và cũng đã thu được những kết quả khá tốt, đặc biệt rất có ích cho những giáo viên trẻ, chưa có kinh nghiệm giảng dạy. Tuy nhiên, do mới được nghiên cứu và áp dụng trong thời gian gần đây, ở một phạm vi nhỏ, nên đề tài chưa có được rút kinh nghiệm nhiều, mức độ đầu tư còn chưa tương xứng với yêu cầu đề ra. Hi vọng được sự góp ý của các cấp quản lí và đồng nghiệp, người viết sẽ tiếp tục đầu tư nghiên cứu để đề tài ngày càng có chất lượng hơn. NGƯỜI THỰC HIỆN Nguyễn Văn Công
  15. V. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007 2. LÍ LUẬN VĂN HỌC, Phương Lựu (chủ biên), Nxb Giáo dục, 2004. 3. Muốn viết được bài văn hay, Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên), Nxb Giáo dục, 1999. 4. Thiết kế bài giảng Ngữ văn 12, tập 1, Nguyễn Văn Đường (chủ biên), Nxb Hà Nội, 2008. 5. Thiết kế bài giảng Ngữ văn 12, tập 2, Nguyễn Văn Đường (chủ biên), Nxb Hà Nội, 2008. 6. Hướng dẫn thực hiện chương trình, SGK lớp 12 môn Ngữ văn, Phan Trọng Luận, Trần Đình Sử và các tác giả khác, Nxb Giáo dục, 2008.
  16. SỞ GD&ĐT ĐỒNG NAI CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Trường THPT Ngô Sĩ Liên Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Trảng Bom, ngày 26 tháng 05 năm 2012 PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Năm học: 2010 - 2011 ––––––––––––––––– Tên sáng kiến kinh nghiệm: Rèn kĩ năng làm văn NLXH qua việc dạy kiểu bài đọc – hiểu văn bản nghị luận, chính luận Họ và tên tác giả: Nguyễn Văn Công Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn, Chủ tịch Công đoàn Đơn vị: Trường THPT Ngô Sĩ Liên Lĩnh vực: (Đánh dấu X vào các ô tương ứng, ghi rõ tên bộ môn hoặc lĩnh vực khác) - Quản lý giáo dục  - Phương pháp dạy học bộ môn: Ngữ văn  - Phương pháp giáo dục  - Lĩnh vực khác: ....................................  Sáng kiến kinh nghiệm đã được triển khai áp dụng: Tại đơn vị  Trong Ngành  1. Tính mới (Đánh dấu X vào 1 trong 2 ô dưới đây) - Có giải pháp hoàn toàn mới  - Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có  2. Hiệu quả (Đánh dấu X vào 1 trong 4 ô dưới đây) - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao  - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao  - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao  - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả  3. Khả năng áp dụng (Đánh dấu X vào 1 trong 3 ô mỗi dòng dưới đây) - Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách: Tốt  Khá  Đạt  - Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào cuộc sống: Tốt  Khá  Đạt  - Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong phạm vi rộng: Tốt  Khá  Đạt  XÁC NHẬN CỦA BAN CHUYÊN MÔN THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ (Ký tên và ghi rõ họ tên) (Ký tên, ghi rõ họ tên và đóng dấu)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2