SKKN: Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, lớp 12 THPT (chương trình chuẩn)
lượt xem 3
download
Tài liệu lịch sử cung cấp cho học sinh những thông tin chính xác, cụ thể về sự kiện – hiện tượng lịch sử, nó như một bằng chứng xác thực, tác động vào bản thân các em một cách tự nhiên, tạo ra những rung cảm và động cơ bên trong chứ không như những biện pháp cưỡng chế, tác động từ bên ngoài.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: SKKN: Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, lớp 12 THPT (chương trình chuẩn)
- 1. Lời giới thiệu Nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu đến năm 2020 sẽ từ một nước nông nghiệp về cơ bản trở thành một nước công nghiệp, hội nhập với cộng đồng quốc tế. Nhân tố quyết định của công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là con người phát triển cả về số lượng và chất lượng trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao. Để làm được điều này cần được bắt đầu từ giáo dục. Giáo dục và đào tạo là một lĩnh vực luôn được Đảng, nhà nước quan tâm, hoạch định chiến lược quốc gia. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2001) xác định rõ: “Phát triển giáo dục đào tạo chính là một trong những động lực quan trọng để thúc đẩu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện quan trọng để phát huy nguồn nhân lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và bền vững”. Tùy theo chức năng, vị trí và đặc trưng của mình mà mỗi lớp học, cấp học, ngành học có những đóng góp cụ thể vào thực hiện nhiệm vụ chung của ngành giáo dục. Do vậy, mỗi môn học cũng phải đổi mới toàn diện, góp phần thực hiện chủ trương, đường lối phát triển giáo dục của Đảng đề ra. Mục tiêu giáo dục nước ta đã được cụ thể hóa trong điều II Luật giáo dục (năm 2005): “Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, có tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách năng lực của công dân đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”. Thực hiện mục tiêu đó, ngành giáo dục đó phải hết sức quan tâm, chú ý để không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục, nhằm đào tạo một đội ngũ tri thức đông đảo, đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội. Trong những năm qua, để đáp ứng mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục, bộ môn lịch sử đã có nhiều đổi mới. Cùng với những đổi mới quan niệm, nội dung chương trình, nội dung sách giáo khoa thì phương pháp dạy học lịch sử cũng cần đổi mới. Đổi mới phương pháp dạy học có nhiều biện pháp khác nhau, trong đó việc vận dụng tài liệu tham khảo và đồ dùng trực quan vào dạy học lịch sử là một trong những biện pháp quan trọng. Tài liệu tham khảo tiêu biểu nhất, gần gũi nhất trong dạy học lịch sử là các văn kiện Đảng. Văn kiện Đảng thể hiện những quan điểm, tư tưởng, đường lối của Đảng nói chung và trong mỗi thời kì lịch sử nói riêng. Những quan điểm đó được xuất phát từ tình hình thực tế và nhằm thực hiện những yếu cầu bức thiết của thực tiễn đặt ra. Bản thân văn kiện Đảng chứa đựng yếu tố khoa học, khách quan, phản ánh những chủ trương, đường lối của Đảng, đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của quảng đại quần chúng, tập hợp sức mạnh đoàn kết toàn dân, đưa sự nghiệp cách mạng đi lên giành thắng lợi. Tính khách quan, khoa học của tư liệu lịch sử nói chung, của văn kiện Đảng nói riêng là cơ sở của việc nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường THPT. Mặt khác, bộ môn lịch sử có nhiều đặc trưng riêng: mang tính quá khứ, tính không lặp lại… Quá trình nhận thức nói chung và nhận thức trong học tập Lịch sử nói riêng lại phải tuân theo quy luật: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng và từ tư duy trìu tượng đến thực tiễn”. Vì vậy, trong dạy học lịch sử, nguyên tắc trực quan là cần thiết và sử dụng đồ dùng trực quan cũng như sử dụng văn kiện Đảng góp phần khôi phục lại bức tranh quá khứ như nó từng diễn ra. Văn kiện Đảng thường gắn với sự kiện lịch sử ở những vị trí, không gian cụ thể, với các vị lãnh đạo Đảng và nhà nước… Vì vậy, sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan giúp học sinh củng cố, khắc sâu kiến thức, là chỗ dựa hình thành khái niệm, hiểu sâu sắc bản chất của sự kiện lịch sử. 1
- Chính vì những lí do trên mà tôi chọn đề tài: “Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, lớp 12 THPT (chương trình chuẩn)” để nghiên cứu và ứng dụng. 2. Tên sáng kiến. “Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, lớp 12 THPT (chương trình chuẩn)” 3. Tác giả sáng kiến. Họ và tên: Nguyễn Quang Kê Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Đồng Đậu (Trung Nguyên Yên Lạc Vĩnh Phúc. Số điện thoại: 0976.176.423 E_mail: nguyenquangke.c3dongdau@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến. Nguyễn Quang Kê 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Phương pháp giảng dạy môn lịch sử. Vấn đề sáng kiến giải quyết: Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan để nâng cao hiệu quả cho giờ dạy lịch sử, phần lịch sử Việt Nam 19301945. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử. Sáng kiến được áp dụng lần đầu trong học kì 1 năm học 20192020 (từ cuối tháng 112019 đến đầu tháng 122019) 7. Mô tả bản chất của sáng kiến. 7.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử THPT. 7.1.1 Cơ sở lí luận 7.1.1.1 Văn kiện Đảng trong dạy học lịch sử ở trường THPT. Về khái niệm “văn kiện” từ điển Tiếng Việt đã định nghĩa đó là những văn bản có ý nghĩa quan trọng về chính trị xã hội. Từ định nghĩa này có thể rút ra định nghĩa về văn kiện Đảng: Tài liệu văn kiện Đảng là những tài liệu thành văn (văn bản) của Đảng về những sự kiện có tác dụng lớn đến quá trình phát triển lịch sử. Như vậy tài liệu văn kiện Đảng là những sự kiện có thật gắn liền với quá trình lịch sử khi Đảng ra đời đó là những tài liệu đáng tin cậy nhất. Khi nói tới văn kiện Đảng bao giờ chúng ta cũng phải khẳng định rằng đây là loại tài liệu chính xác nhất và đáng tin cậy nhất, nói như vậy không có nghĩa là không có cơ sở. Lịch sử dân tộc ta từ những năm 30 trở lại đây là lịch sử của quá trình đấu tranh của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mỗi bước đi của lịch sử dân tộc đều có sự lãnh 2
- đạo của Đảng, và tất cả những đường lối, chủ trương, chính sách ấy đều được thể hiện dưới dạng các văn kiện. Các tài liệu văn kiện Đảng thể hiện rõ quan điểm đường lối của Đảng trong lãnh đạo, thể hiện sự vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác – LêNin một cách sáng tạo vào thực tiễn đấu tranh, soi sáng cho thực tiễn đấu tranh ấy. Bởi vậy, trong bất kỳ nội dung nào, văn kiện cũng thể hiện những sâu sắc những quan điểm, đường lối của Đảng trong lãnh đạo. Với vai trò to lớn của mình, văn kiện Đảng đã giúp ích rất nhiều cho thế hệ trẻ hiểu biết về quá khứ lịch sử của dân tộc ta. Trong giảng dạy lịch sử nội dung tài liệu văn kiện của Đảng đều có tác dụng giáo dưỡng, giáo dục và phát triển với học sinh. Vẫn biết rằng sách giáo khoa là tài liệu học tập cơ bản của học sinh song chỉ giới hạn trong một số tràn nhất định, với những kiến thức xúc tích, ngắn gọn, đôi khi còn sơ lược. Học sinh không chỉ xem như vậy là đủ mà cần tìm hiểu thêm một số tài liệu nhất định, chứ không bị động nghe giảng. Nhận thức của học sinh là một quá trình biện chứng, từ cái đơn giản đến cái phức tạp, từ cái cụ thể đến khái quát. Trong lịch sử, các em cần nhận thức “từ trực quan sinh động đến trìu tượng”. Học sinh sẽ không thể hiểu được quá khứ chân thật và sống động một cách sâu sắc nếu giáo viên không giúp các em có được một biểu tượng đúng đắn. Những kiến thức sách giáo khoa không đủ để tạo biểu tượng, mà chỉ có tài liệu tham khảo. Qua đó giáo viên giới thiệu cho các em hoặc hướng dẫn cho các em tự hình thành biểu tượng lịch sử thông qua bài tường thuật, miêu tả… Như vậy mới khắc sâu các sự kiện lịch sử cho các em. Việc sử dụng tài liệu lịch sử có tác dụng lớn trong việc kích thích các hoạt động nhận thức độc lập của học sinh. Làm cho học sinh say mê môn lịch sử, ngoài ra nó còn góp phần nâng cao trình độ văn hóa nói chung của học sinh, do tính phong phú của nguồn tài liệu cung cấp. Và thông qua các tài liệu đó học sinh mở rộng tầm hiểu biết của mình hơn, học sinh hiểu được vị trí địa lí, văn học và biết các thành tựu văn hóa nói riêng của các nước… Để làm được điều đó là cả một quá trình tìm tòi ham hiểu của giáo viên để từ đó giáo viên chọn lọc các tài liệu hợp lí vào để học sinh tiếp thu tránh tình trạng “ôm đồm” kiến thức. Với tính đa dạng phong phú của bộ môn, các quá trình lịch sử ở trường phổ thông có khả năng giáo dục nhiều mặt cho học sinh, giáo dục niềm tin vững chắc vào lí tưởng cách mạng trên cơ sở nhận thức đúng sự phát triển khách quan, hợp với quy luật của xã hội loài người. Giáo viên còn giáo dục cho học sinh truyền thống tốt đẹp của nhân dân Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước. Giáo dục những phẩm chất đạo đức của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Với những hình ảnh sống động và biểu tượng sâu sắc, có tác dụng khơi dậy trong các em những cảm xúc lành mạnh. Tài liệu lịch sử cung cấp cho học sinh những thông tin chính xác, cụ thể về sự kiện – hiện tượng lịch sử, nó như một bằng chứng xác thực, tác động vào bản thân các em một cách tự nhiên, tạo ra những rung cảm và động cơ bên trong chứ không như những biện pháp cưỡng chế, tác động từ bên ngoài. Việc giới thiệu tà liệu này giúp học sinh hiểu được sự hi sinh và lòng anh dũng kiên cường của cha ông ta đã quyết tâm chống lại âm mưu cướp nước của bọn đế quốc. Từ đó giáo dục cho các em biết quý trọng và bảo vệ những thành quả mà dân tộc ta đã giành được trong chiến tranh tàn khốc. Trong khi sử dụng tài liệu lịch sử để giảng dạy, giáo viên không nhất thiết phải trình bày hay thông báo những tài liệu trước học sinh mà có thể hướng dẫn các em tự tìm kiếm thông tin từ các nguồn tài liệu. Diều đó không những có ý nghĩa giáo dục mà còn rèn luyện trực tiếp cho học sinh tinh thần chịu khó, tính tự giác và sáng tạo trong lao động. 3
- Bằng cách này học sinh khắc phục được thói quen ỷ lại, thụ động, mà còn tiếp thu một bài giảng một cách sâu sắc hơn, rèn luyện thói quen làm việc độc lập với tài liệu… Hơn nữa nó còn giúp học sinh đào sâu suy nghĩ, tìm tòi và chính điều đó sẽ mở rộng tầm hiểu biết của học sinh. Phải nói rằng tài liệu lịch sử ngoài việc phát triển năng lực nhận thức, rèn luyện năng lực thực hành cho học sinh như quan sát tài liệu , tưởng tượng, tư duy, phân tích, so sánh, tổng hợp… Giáo viên hướng dẫn học sinh phương pháp tiếp cận tài liệu rồi tiến hành thao tác phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát và rút ra kết luận cần thiết, những kinh nghiệm, bài học cho cuộc sống. Hơn nữa việc sử dụng tài liệu lịch sử là yếu tố kích thích sự phát triển các thành phần nhân cách của học sinh. Với những đặc trưng riêng của nó sinh động, hấp dẫn, phong phú và có sự chú ý, sẽ tạo ra rung cảm trong bản thân các em và tạo ra những xúc cảm lịch sử. Đây là điều kiện cơ bản để giáo dục học sinh qua dạy học lịch sử. Ngoài ra, giáo viên hướng dẫn cho học sinh độc lập tư duy trên cơ sở tự học, trình bày các chủ đề có liên quan tới sự kiện cơ bản, làm đồ dùng trực quan, sưu tầm tài liệu địa phương hay bảo tàng, thư viện, rèn luyện cho học sinh tác phong nghiên cứu khoa học, biết sử dụng tài liệu lịch sử nói riêng và tài liệu môn học nói chung hợp lý và có sức lôi cuốn. Học sinh phải tự nhận thức về lịch sử quá khứ sâu sắc hiện tại, xác định trách nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN của chúng ta. Tài liệu văn kiện Đảng có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển toàn diện học sinh. Nó không chỉ giúp học sinh lĩnh hội các tri thức lịch sử mà quan trọng hơn là nắm vững các quy luật phát triển của tiến trình lịch sử trong mối quan hệ biện chứng. Văn kiện Đảng làm cho học sinh dễ hiểu, hiểu sâu sắc và làm cho các em dể nhớ và ghi nhớ một cách vững bền, nắm được bản chất, sự kiện – hiện tượng và quá khứ lịch sử. Nó góp phần cho học sinh phát triển toàn diện, làm cho bài học lịch sử có hiểu quả cao hơn. Để đạt được chất lượng như vậy chúng ta phải sử dụng nhiều phương pháp, biện pháp và những phương tiện dạy học. 7.1.1.2 Đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường THPT. Đồ dùng trực quan giữ vai trò quan trọng trong dạy học Lịch sử. Do đặc điểm của bộ môn lịch sử là không lặp lại nên chúng ta không thể trực tiếp quan sát, không thể tiến hành thí nghiệm cho học sinh. Quá trình học tập của học sinh là quá trình phải đi từ sự kiện cụ thể đến tư duy trìu tượng. Có nghĩa là hoạt động nhận thức gồm nhiều quá trình ở những mức độ phản ánh khác nhau: cảm giác, tri giác, tư duy, trìu tượng. Nó phải trải qua hai giai đoạn nhận thức cảm tính và lí tính. Để quá trình học tập lịch sử đạt kết quả tốt phải tạo biểu tượng cho học sinh, thông qua biểu tượng để hình thành khái niệm lịch sử, nắm được quy luật, bản chất và các mối liên hệ sự kiện, hiện tượng lịch sử. Vì vậy đồ dùng trực quan có ưu thế trong dạy học lịch sử, giúp các em nhận thức được lịch sử một cách đầy đủ nhất, làm cho các em như đang được trực tiếp chứng kiến sự kiện. Trong dạy học phổ thông, đồ dùng trực quan không phải để minh họa. Bản thân nó chứa đựng nguồn kiến thức, là nguồn tài liệu phong phú cho việc nhận thức lịch sử, góp phần khôi phục quá khứ một cách sinh động, chân thực, giúp cho quá trình nhận thức được hoàn thiện hơn. Nguyên tắc trực quan là nguyên tắc cơ bản của lí luận dạy học. Đồ dùng trực quan hoàn toàn không phải đưa vào để tăng “màu sắc” của bài giảng mà thông qua đó giúp học sinh nhớ kĩ, hiểu sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Những hình ảnh được lưu 4
- giữ lại lại đặc biệt vững chắc trong trí nhớ là những hình ảnh thu nhận được bằng trực quan Đồ dùng trực quan còn phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng tư duy và ngôn ngữ của học sinh. Nhìn vào đồ dùng trực quan nào học sinh cũng thích nhận xét, phán đoán, hình dung quá khứ được phản ánh, minh học như thế nào. Học sinh suy nghĩ và tìm cách diễn đạt bằng lời nói chính xác, có hình ảnh rõ ràng, cụ thể về bức tranh xã hội đã qua. Như vậy, đồ dùng trực quan sẽ giúp tạo biểu tượng là điều kiện để “biết” lịch sử trên cơ sở khôi phục lại quá khứ như nó từng tồn tại, là cơ sở để hình thành khái niệm. Đảm bảo được quá trình giảng dạy như thế mới đưa được học sinh từ biết đến hiểu lịch sử. Đồ dùng trực quan khẳng định một điều, đó chính là một trong nguồn tri thức nhận thức lịch sử. Do đó, đồ dùng trực quan có ý nghĩa rất lớn trong giáo dục tư tưởng, cảm xúc thẩm mĩ gây hứng thú cho học sinh và là chiếc cầu nối quá khứ và hiện tại. Do đặc trưng của bộ môn lịch sử nên việc tạo biểu tượng cho học sinh trong quá trình dạy học là vô cùng quan trọng. Để tạo biểu tượng cho học sinh có rất nhiều phương thức. Có thể dùng phương pháp miêu tả, tường thuật với ngôn ngữ trong sáng, gợi cảm, giàu hình ảnh, giáo viên sẽ dẫn dắt học sinh trở về với quá khứ của lịch sử, tạo biểu tượng rõ ràng, cụ thể, có hình ảnh, tăng thêm tính sinh động, gợi cảm của bài giảng và gây hứng thú cho việc học tập của học sinh. Tạo biểu tượng còn được hình thành từ phương pháp trực quan hay hoạt động thực tiễn cuộc sống. Dù bằng phương thức nào thì đồ dùng trực quan vẫn có vị trí quan trọng trong việc khôi phục và tái hiện quá khứ lịch sử. Đồ dùng trực quan giúp học sinh tiếp thu kiến thức nhanh, bền vững, tránh tình trạng hiện đại hóa lịch sử. Qua mỗi phương tiện đồ dùng trực quan, học sinh học hỏi được nhiều hơn, mở mang được nhiều kiến thức với nhiều ý nghĩa thực tiễn. Đồ dùng trực quan sẽ thu hút chú ý của học sinh, phù hợp với nhu cầu ham học hỏi, khám phá, không thỏa mãn với những gì đã có. Với đồ dùng trực quan những hình ảnh được quan sát kĩ sẽ đặc biệt vững chắc và chúng ta có thể hiểu bản chất, tư tưởng của nó khi nó được khắc sâu vào trí nhớ có sự tham gia của hoạt động trìu tượng. Nếu biết cách sử dụng đồ dùng trực quan, quá trình nhận thức tích cực sẽ diễn ra và vì thế giáo dục sẽ đạt kết quả tốt. Đồ dùng trực quan sẽ bồi dưỡng tư tưởng tình cẩm cho học sinh. Qua đồ dùng trực quan các em sẽ có cảm xúc thẩm mĩ, trước tiên sẽ được thể hiện ở những nét bề ngoài đẹp hay xấu, bé nhỏ hay hoành tráng, sau đó là cảm xúc sẽ biểu hiện ở nội dung đồ dùng trực quan. Với đồ dùng trực quan các em sẽ hiểu rõ nội dung của lịch sử. Chính điều đó có tác dụng truyền cảm mạnh mẽ và sâu sắc, nó hình thành những phẩm chất đạo đức cần thiết cho mỗi con người, tinh thần yêu lao động, biết trân trọng giá trị người lao động, đồng tình với cuộc chiến tranh chính nghĩa, có thái độ đúng đắn với kẻ thù xâm lược làm nảy nở tinh thần yêu nước, đoàn kết dân tộc phấn đấu học tập và xây dựng quê hương đất nước. Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử sẽ phát triển tư duy cho học sinh. Rèn luyện học tập thông qua sử dụng đồ dùng trực quan sẽ giúp học sinh biết phân tích, nhận xét, phán đoán và sẽ giúp học sinh luyện tập khả năng diễn đạt. Từ đó khi quan sát một vật thể nào đó, các em sẽ có cái nhìn nhạy bén, hình thành trong đầu các em những câu hỏi cần giải đáp. 5
- 7.1.1.3 Ý nghĩa của việc sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường THPT Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông có ý nghĩa rất quan trọng. Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan có thể phát huy được hiệu quả từng mặt riêng của cả văn kiện Đảng lẫn đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử trên tất cả các mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Phương tiện trực quan có ưu thế trong tạo biểu tượng sinh động cho học sinh. Vì vậy trong dạy học lịch sử khi kết hợp sử dụng văn kiện Đảng với đồ dùng trực quan sẽ tạo ra hình ảnh chân thực về quá khứ. Lí luận dạy học hiện đại xem nguyên tắc trực quan là một trong những nguyên tắc cơ bản để học sinh trực tiếp quan sát, sử dụng đồ dùng học tập, nâng cao nhận thức, rèn luyện kĩ năng thực hành… “Trong dạy học lịch sử, phương pháp dạy học trực quan góp phần quan trọng tạo biểu tượng cho học sinh, cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại hóa lịch sử của học sinh” [13; tr 141] Trong dạy học lịch sử khi sử dụng văn kiện Đảng, nếu không cẩn thận thì giờ học lịch sử dân tộc sẽ dễ bị trở thành giờ dạy học Lịch sử Đảng. Các biện pháp sư phạm phải tập trung thể hiện sử dụng văn kiện Đảng trong dạy học lịch sử dân tộc chứ không phải là đề cao thái quá nguồn tư liệu này trong dạy học lịch sử, càng không phải “chệch hướng” biến giờ học lịch sử dân tộc thành nghiên cứu văn kiện. Văn kiện Đảng phải được chú ý sử dụng phù hợp với nội dung của bài học lịch sử cụ thể và đặt trong tổng thể các biện pháp dạy học lịch sử hiện nay ở trường phổ thông. Nếu kết hợp văn kiên Đảng với đồ dùng trực quan sẽ giúp hạn chế được vấn đề này. Sử dụng văn kiện Đảng phải kết hợp chặt chẽ với đồ dùng trực quan bởi lẽ nhiều văn kiện Đảng gắn với sự kiện lịch sử ở nhiều vị trí, không gian cụ thể, gắn với những nhân vật lịch sử cụ thể, với các vị lãnh đạo Đảng và nhà nước… Hơn nữa, ngoài là một tài liệu tham khảo thì trong chương trình học một số văn kiện Đảng còn là những nội dung kiến thức cơ bản của bài học. Vì vậy, sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan giúp cho học sinh củng cố, khắc sâu kiến thức, là chỗ dựa cho việc hình thành khái niệm, hiểu sâu sắc bản chất của sự kiện lịch sử. Chẳng hạn, quan sát hình ảnh chân dung Nguyễn Ái Quốc (những năm 1930), học sinh liên tưởng ngay đến hội nghị thành lập Đảng và “Chính cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt” do Người soạn thảo và được Hội nghị thông qua, đó là những văn kiện với những nội dung ngắn gọn nhưng đã chỉ ra được đường lối cho cách mạng Việt Nam. Hay khi quan sát ảnh chân dung đồng chí Trần Phú, học sinh liên tưởng ngay đến Luận cương chính trị năm 1930 và nhớ lại nội dung của văn kiện này. Nhìn hình ảnh hang Pác Bó, học sinh sẽ nhớ ra sự kiện Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII (tháng 5/1945) với những nội dung quan trọng trong việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng và sự ra đời của Mặt trận Việt Minh. Quan sát hình ảnh Nà Lừa, cây đa Tân Trào, mái đình Hồng Thái, học sinh dễ dàng nhận ra những địa danh lịch sử, nơi diễn ra hội nghị toàn quốc của Đảng, quốc dân đại hội Tân trào với những quyết định phát lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám năm 1945… Tóm lại, sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với tài liệu trực quan có tác dụng phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập lịch sử. Trong giờ học, các em tỏ ra hào hứng phân biệt, ý kiến, tranh luận sôi nổi. Nếu kết hợp tài liệu văn kiện Đảng với đồ dùng trực quan sẽ góp phần cơ bản nâng cao hiệu quả dạy học ở trường phổ thông. 6
- 7.1.2 Cơ sở thực tiễn. 7.1.2.1 Về phía giáo viên Tất cả các giáo viên tuy nhận thức khác nhau về ý nghĩa của việc sử dụng văn kiện Đảng và đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử nhưng phần lớn đều thấy rõ sự cần thiết của công việc này. Tuy vậy, một số giáo viên lại chưa nhận thức toàn diện, đầy đủ và sâu sắc về vấn đề này, nhất là chưa quyết tâm sử dụng. Trong thực tế còn có nhiều mâu thuẫn giữa nhận thức và việc làm khi nhiều giáo viên cho rằng là cần thiết nhưng lại ngại khó thực hiện. Thông thường giáo viên chỉ dừng lại ở việc thông báo một vài tài liệu trong văn kiện Đảng để minh họa cho sự kiện lịch sử đang học, có sử dụng đồ dùng trực quan nhưng nhiều khi còn qua loa, chiếu lệ. Vấn đề sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan được đánh giá là hay nhưng để làm được không phải là dễ nên còn chưa được áp dụng nhiều. 7.1.2.2 Về phía học sinh Hiện nay tình hình học tập môn lịch sử ở trường THPT đã được cải thiện hơn số em học sinh yêu thích môn lịch sử đã tăng. Theo các em môn lịch sử giúp các em mở rộng thêm tầm hiểu biết về những vấn đề xã hội. Qua đó hiểu rõ lịch sử nhân loại và lịch sử dân tộc. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có nhiều em chưa thực sự quan tâm thật sự đến môn lịch sử… Ngoài lí do học lịch sử để phục vụ cho thi tốt nghiệp, đại học, các em nhận xét học lịch sử hiện nay quá khô khan, bài dài và khó nhớ. Trong giờ học đa số các em đã tham gia xây dựng bài nhưng việc xây dựng bài còn mang tính chất chiếu lệ, khi kiểm tra cũng chỉ mong đạt điểm trung bình hoặc còn học với trạng thái uể oải, đối phó, không nghe giảng, không ghi chép, không làm bài tập hoặc thường xuyên sử dụng tài liệu khi kiểm tra. Môn lịch sử thường có khối lượng được trình bày trong sách giáo khoa về nhiều con số, sự kiện, nội dung câu hỏi thường thiên về tái hiện kiến thức nên học sinh rât hay ỷ lại vào học thuộc lòng. Đa số các em đều mong muốn một giờ học lịch sử sinh động và hấp dẫn hơn, các em đề thích những giờ học thầy cô cho biết thêm nhiều kiến thức ngoài sách giáo khoa, những giờ học thầy cô sử dụng đồ dùng trực quan… Tóm lại các em, rất thích những giờ học áp dụng phương pháp dạy học mới, vì nó phát huy được khả năng tư duy, nhận thức chủ động, độc lập, sáng tạo của học sinh. Các em thấy hứng thú hơn khi thấy tự mình góp phần tìm ra và nắm bắt những tri thức mới của nhân loại. 7.1.2.3 Nguyên nhân của hiện trạng trên Nguyên nhân đầu tiên chính ở ngay ý thức chủ quan của giáo viên. Một số giáo viên vẫn chưa có cách nhìn nhận, đánh giá đúng về môn lịch sử, chưa thấy được chức năng của môn lịch sử nước ngoài việc cung cấp kiến thức còn góp phần quan trọng vào việc giáo dục truyền thống cách mạng, xây dựng lòng tin, niềm tự hào dân tộc cho học sinh. Vì vậy, một bộ phận giáo viên chưa toàn tâm toàn ý, say mê với nghề, chưa tìm ra phương pháp dạy học sinh động, hấp dẫn, gây hứng thú, chú ý cho học sinh trong dạy học lịch sử. Sách giáo khoa đã được đổi mới về nội dung, phong phú hơn về kênh hình và kênh chữ đồi hỏi giáo viên phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học. Tuy nhiên phương pháp dạy học của không ít giáo viên hiện nay là “đọc chép”, “độc thoại” phần lớn thời gian trên lớp, ở trên thầy làm việc là chính, phần lớn thời gian là thuyết trình của giáo viên mà không nêu ra những vấn đề nhận thức để cho học sinh làm việc. Nếu có, giáo viên nêu ra câu hỏi vụn vặt, chưa kích thích tư duy học sinh, chưa đòi hỏi sự tập trung suy nghĩ để tìm câu trả lời, các em chỉ cần dựa vào nội dung có sẵn trong sách giáo khoa để trả lời. Như 7
- thế các em sẽ không chú ý, sao nhãng việc học, thậm chí làm mất trật tự hoặc làm việc riêng trong giờ. Thứ hai, là do quan niệm chưa đúng về bộ môn lịch sử. Từ các cấp lãnh đạo, quản lí giáo dục đến giáo viên, cha mẹ học sinh và cả học sinh nữa đều coi lịch sử là môn phụ. Chính vì vậy, các cấp quản lí giáo dục chưa quan tâm đầu tư cơ sở vật chất cho môn lịch sử, coi thường môn lịch sử. Đối với giáo viên, do ý thức chủ quan nên nhìn nhận, đánh giá chưa đúng về vai trò, chức năng của môn lịch sử. Do đó, một số giáo viên chưa tâm huyết với nghề, chưa tìm ra phương pháp dạy học tích cực nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh. Còn đối với cha mẹ học sinh cũng không thích con em mình học môn lịch sử mà hướng cho con mình học các môn tự nhiên để sau này thi vào các trường đại học có khả năng tiền đồ cao hơn và xin việc dễ hơn. Từ đó, đa số học sinh học tập một cách đối phó, thời gian giành cho môn lịch sử chưa nhiều… làm cho bản thân giáo viên không hào hứng giảng dạy. Cứ như thế, chất lượng dạy môn lịch sử không cao. Thứ ba, hiện nay, việc đổi mới nội dung, chương trình sách giáo khoa và phương pháp dạy học yêu cầu giáo viên phải bắt kịp và cập nhật. Sách giáo khoa mới đã phong phú hơn về kênh hình và kênh chữ đòi hỏi giáo viên phải tìm tòi sáng taọ và có những phương pháp dạy học tích cực, hợp lí để thu hút sự chú ý của học sinh. Tuy nhiên, phương pháp dạy học của nhiều giáo viên vẫn còn bảo thủ, lạc hậu làm cho chất lượng dạy học bộ môn chưa cao. Thực tế, nhiều giáo viên chưa rõ tầm quan trọng và chưa hiểu đúng bản chất của đổi mới phương pháp dạy học lịch sử, thậm chí một số giáo viên còn ngại đổi mới. Do đó, nhiều giáo viên vẫn áp dụng phương pháp dạy học cũ cho sách giáo khoa mới. Hiện tượng “thầy đọc”, “trò chép” vẫn còn khá phổ biến. Ở trên lớp, thầy vần làm việc là chính, phần lớn thời gian là “thuyết trình” của giáo viên mà không nêu ra những vấn đề nhận thức để cho học sinh cùng làm việc. Nếu có, giáo viên mới chỉ nêu ra các câu hỏi vụn vặt, chưa kích thích được tư duy của học sinh, các em chỉ cần dựa vào những nội dung có sẵn trong sách giáo khoa để trả lời. Như thế học sinh không hứng thú tìm hiểu về lịch sử. Do đó không hình thành nề nếp học tập một cách thường xuyên. Thứ tư, trong một tiết học có rất nhiều nội dung kiến thức mà thời gian có hạn, giáo viên phải biết lựa chọn những kiến thức cơ bản kết hợp với đồ dùng trực quan và nhiều tài liệu tham khảo khác để khắc sâu kiến thức cho học sinh. Tuy nhiên, trên thực tế quá trình dạy học, giáo viên chủ yếu dựa vào sách giáo khoa, rất ít bổ sung kiến thức tham khảo để xay dựng những đoạn miêu tả, tường thuật… cho học sinh. Thậm chí có một số giáo viên vẫn chưa chuẩn bị giáo án một cách chu đáo. Do đó, bài học lịch sử trở nên khô khan, kém sinh động, không gây hứng thú học tập cho học sinh, các em chán học, không chú ý trong giờ. Ngược lại, một số giáo viên lại đưa quá nhiều tài liệu tham khảo khiến học sinh không hiểu được những kiến thức cơ bản của bài học. Bài học lúc này trở nên căng thẳng, nhồi nhét, học sinh không thể theo kịp. Thứ năm, hiện nay ở các trường THPT cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học thiếu thốn. Hầu hết các trường chưa có phòng học bộ môn. Thậm chí, ở thư viện cũng không đủ tài liệu tham khảo cho giáo viên. Còn đối với học sinh thì ít trường mở thư viện cho học sinh đọc tài liệu tham khảo. Chính vì thế, học sinh không có điều kiện tìm hiểu về bộ môn. Ngoài ra, còn phải kể đến yếu tố kinh tế thị trường tác động không nhỏ đến cả giáo viên và học sinh. Do điều kiện khó khăn về kinh tế nên không ít giáo viên chưa quan tâm, chưa giành nhiều thời gian đến việc giảng dạy lịch sử một cách hiệu quả còn học sinh “quay lưng lại với môn lịch sử”. 8
- Từ lí luận và thực tiễn đã trình bày, là cơ sở để khẳng định sự cần thiết phải sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học. Đó là cơ sở để tôi đưa ra những biện pháp thiết thực để sự dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan một cách hợp lí nhằm nâng cao chất lượng dạy học lịch sử trong tình hình hiện nay. 7.2 Các biện pháp sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 trong chương trình lớp 12 ban cơ bản. 7.2.1. Nội dung cơ bản của khóa trình lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 ở lớp 12 THPT ban cơ bản Sách giáo khoa trình bày phong trào cách mạng qua các giai đoạn 1930 – 1935, 1936 – 1939, 1939 – 1945. Hậu quả của khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933, sự bóc lột tàn bạo và những cuộc khủng bố trắng của Pháp đã làm cho mâu thuẫn Đông Dương với Pháp trở nên gay gắt: “sự áp bức bóc lột vô nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu rằng, có cách mạng thì sống, không có cách mạng thì chết” [2; tr 15]. Phong trào cách mạng 1930 – 1931 đã diễn ra trên một quy mô rộng lớn, với tính chất quyết liệt triệt để, đạt tới đỉnh cao là sự ra đời của Xô viết Nghệ Tĩnh. Trước tình hình đó Đảng họp Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất tháng 10 /1930.Dẫu bị đàn áp dã man, song phong trào cách mạng 1930 – 1931 được coi là cuộc diễn tập đầu tiên của Đảng cho Tổng khởi nghĩa. Từ 1932 – 1935, phong trào cách mạng nước ta tạm thời lắng xuống, bước vào giai đoạn phục hồi, chuẩn bị cho một giai đoạn đấu tranh mới. Cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939 thể hiện rõ vai trò quan trọng của Đảng cộng sản Đông Dương trong việc tiếp thu sáng tạo đường lối của Quốc tế cộng sản cho phù hợp với thực tiễn đấu tranh trong nước. Phong trào đã diễn ra dưới nhiều hình thức và đạt nhiều thành quả. Xuất phát từ những biến đổi của tình hình thế giới và trong nước khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng triệu tập hội nghị Trung ương lần thứ VI (11/1939) để quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng. Từ việc xác định rõ kẻ thù của nhân dân Đông Dương là đế quốc Pháp và tay sai phản động, phân tích mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam, Đảng nhấn mạnh: “Vấn đề giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách nhất của cách mạng Đông Dương. Mọi vấn đề cách mạng khác – kể cả vấn đề ruộng đất đều nhằm vào mục đích đó mà giải quyết” [22; tr 104]. Để thực hiện điều đó Đảng chủ trương thành lâp mặt trận dân tộc thống nhất, Tháng 9/ 1940, phát xít Nhật nhảy vào xâm lược Đông Dương, thực dân Pháp đi từ hết sự thỏa hiệp này đến thỏa hiệp khác với phát xít Nhật đẩy nhân dân ta vào cảnh “một cổ hai tròng”, mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Đông Dương với Pháp – Nhật trở nên gay gắt không thể điều hòa. Vận mệnh quốc gia đòi hỏi phải giải quyết bằng một cuộc đấu tranh một mất một còn của nhân dân với kẻ thù giành độc lập. Vì vậy, các cuộc khởi nghĩa đã liên tiếp nổ ra: Khởi nghĩa Bắc Sơn, khởi nghĩa Nam Kì, binh biến Đô Lương Các cuộc khởi nghĩa trên đều bị thực dân Pháp, phát xít Nhật đàn áp đẫm máu, nhưng nó chứng tỏ sức mạng quần chúng và đã để lại cho Đảng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. Chính vì vậy, ba cuộc khởi nghĩa được coi là những phát súng đầu tiên báo hiệu thời kì đấu tranh mới của dân tộc ta. Trước những biến đổi mau lẹ của tình hình trong nước và quốc tế, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc triệu tập hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII (5/1941) tại Pác Bó – Cao Bằng 9
- để hoàn chỉnh đường lối cách mạng của Đảng đã đề ra trong hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VI. Hội nghị tiếp tục khẳng định nhiệm vụ dân tộc là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, đề ra khẩu hiệu đấu tranh trong thời kì mới và quan trọng nhất là hội nghị đã thành lập mặt trận Việt Minh nhằm tập hợp đông đảo các lực lượng yêu nước. Trên cơ sở đó mặt trận Việt Minh đã xây dựng căn cứ địa cách mạng, xây dựng lực lượng chính trị trên cơ sở các hội cứu quốc, lực lượng vũ trang là đội “Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân”. Sau đảo chính Nhật – Pháp (9/3/1945), Đảng đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa. Cao trào diễn ra nhiều hình thức và thúc đẩy thời cơ cách mạng mau chóng chín muồi, lực lượng của ta nhanh chóng trưởng thành vượt bậc, kẻ thù bị khủng hoảng, hàng ngũ phân hóa… Ta chuẩn bị những tiền đề cần thiết để khi thời cơ đến, nhanh chóng chuyển từ khởi nghĩa từng phần sang khởi nghĩa toàn phần giành chính quyền trong cả nước. Sau khi phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng đồng minh vô điều kiện, Đảng ta đã triệu tập Hội nghị toàn quốc (14 – 15/8/1945) và Quốc dân đại hội Tân Trào tại Tân Trào (Tuyên Quang) quyết định phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. 7.2.2 Một số yêu cầu chung trong sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học Lịch sử. Việc xác định các nguyên tắc sư phạm để sử dụng hiệu quả văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan có ý nghĩa đặc biệt quan trọng giúp cho việc phát huy ưu thế của phương pháp bộ môn. Đồng thời trên cơ sở đó đưa ra được các biện pháp sử dụng hợp lí. Trong dạy học lịch sử dân tộc giai đoạn 1930 – 1945 khi kết hợp văn kiện Đảng với đồ dùng trực quan cần quán triệt một số nguyên tắc cơ bản sau: Tính tư tưởng: Việt Nam vẫn tiếp tực đi vào con đường XHCN với nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Giữ vững quan điểm lập trường là người cộng sản, trách nhiệm đặt lên vai những thầy cô giáo. Nhà trường là môi trường thích hợp để định hướng thế hệ trẻ đi theo con đường mà Đảng và chính phủ đã lựa chọn. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) đã xác định mục tiêu giáo dục và đào tạo nhằm “ nâng cao dân trí, đòa tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức, co tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng , có tinh thân yêu nước CNXH”. Chính vì vậy, sử học đóng vai trò quan trọng mà sử học phục vụ chính trị rất tốt, vì bản thân lịch sử là cuộc sống quá khứ diễn ra trên nhiều mặt có liên quan đến hiện tại. Văn kiện Đảng có ưu thế quan trọng trong việc thể hiện tính tư tưởng. Còn đồ dùng trực quan đưa học sinh trở về quá khứ “chân thực” nhận thức đúng, rõ đường lối chính trị của Đảng. Thế nên đảm bảo tính tư tưởng là một nguyên tắc quan trọng trong việc xác định và thể hiện kiến thức trong sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan. Tính sư phạm: Khi thực hiện các biện pháp sư phạm nhằm sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan có hiệu quả phải căn cứ vào nhiều yếu tố, thể hiện được nội dung phù hợp với yêu cầu của từng bài, phù hợp với khả năng nhận thức của các em và đảm bảo đúng phương pháp khi dạy để giáo dục thẩm mĩ cũng như kĩ năng cần thiết. Không phải bài học lịch sử nào cũng có thể sử dụng tài liệu lịch sử như nhau, hoặc không phải chỗ nào có đồ dùng trực quan cũng có thể sử dụng kết hợp với văn kiện Đảng. Với những bài học lịch sử sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan cần chú ý tính cân đối và phù hợp. Điều đó đòi hỏi giáo viên phải có khả năng phân tích, khả năng tổng hợp hợp lí. 10
- Hơn nữa các biện pháp sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan đều phải dựa trên hệ thống phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông bao gồm: Phương pháp thông tin – tái hiện, nhận thức lịch sử, tìm tòi – nghiên cứu. Các phương pháp này kết hợp biện chứng với nhau, tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông. Việc sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan dựa vào phương pháp dạy học bộ môn sẽ phát huy hiệu quả của học sinh trong quá trình dạy học lịch sử. Giáo viên phải kết hợp chặt chẽ lời nói sinh động, giàu hình ảnh, với sách giáo khoa và các phương tiện trực quan, các tài liệu học tập khác trong các hình thức tổ chức để giờ học đạt hiệu quả. Khi sử dụng văn kiện Đảng kết hợp đồ dùng trực quan thì bảo đảm tính vừa sức với học sinh là một yêu cầu quan trọng để nâng cao hiệu quả, giúp học sinh hứng thú học tập và đạt kết quả cao. Giáo viên cần căn cứ vào khả năng nhận thức của học sinh để khai thác nội dung văn kiện kết hợp với đồ dùng trực quan cho phù hợp. Không được “nhồi nhét” quá nhiều vấn đề không cần thiết hoặc quá khó hình dung, tưởng tượng, liên hệ… với học sinh sẽ phản tác dụng của công tác giáo dục. Để thực hiện tốt nguyên tắc vừa sức trong học tập, giáo viên cần tính đến sự phù hợp kiến thức với lứa tuổi, tâm sinh lí cũng như khả năng của từng đối tượng. Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan phải góp phần phát triển các năng lực nhận thức của học sinh: Bên cạnh việc giáo dục phẩm chất con người cách mạng Việt Nam, còn phải hình thành trí tuệ, năng lực hành động cho học sinh. Cuộc sống diễn ra vô cùng phức tạp, đòi hỏi con người phát huy tích cực theo nó. Học sinh cần phải được trang bị khối lượng kiến thức nhất định để đáp ứng yêu cầu thực tế khách quan. Để phát huy tối đa hiệu quả, văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan phải phản ánh đúng nội dung lịch sử, phản ánh đúng sự thật lịch sử. Vì thế, khi sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan phải cung cấp những sự kiện lịch sử đúng đắn nêu ra quy luật phát triển, rút ra được bài học kinh nghiệm nhằm phát triển năng lực nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học. 7.2.3 Biện pháp cụ thể. 7.2.3.1 Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với tranh ảnh lịch sử. Tranh ảnh là một tư liệu quý hiếm, phản ánh một phần hiện thực của xã hội trong một giai đoạn nhất định. Tranh ảnh lịch sử có ý nghĩa quan trọng đối với việc cung cấp các tri thức cho học sinh. Đó là những tài liệu trực quan giàu tính thuyết phục, tạo hứng thú say mê và tìm tòi, sáng tạo của học sinh, tạo ra những biểu tượng sinh động chân thực về quá khứ. Vì vậy, việc khai thác và sử dụng tranh ảnh là một biện pháp sư phạm quan trọng cung cấp nhận thức cho học sinh Khi sử dụng tài liệu văn kiện Đảng với tranh ảnh lịch sử có ưu thế trong việc nâng cao nhận thức của học sinh và bồi dưỡng tình cảm đúng mực, trong sáng đối với sự kiện, hiện tượng lịch sử. Bên cạnh sử dụng tranh ảnh kết hợp với đồ dùng trực quan giáo viên cần đặt ta những câu hỏi để tập trung sự thu hút, chú ý của các em, câu trả lời của các em là cơ sở để đánh giá trình độ của học sinh, qua đó có sự hướng dẫn, điều chỉnh về phương pháp cũng như nâng cao trình độ của giáo viên. Trong các loại tranh ảnh lịch sử, chân dung giữ một vai trò quan trọng. Trong sách giáo khoa phổ thông, ảnh chân dung lịch sử thường của những nhân vật tiêu biểu, điển hình (những lãnh đạo phong trào cách mạng, những vị lãnh đạo Đảng và nhà nước…). Do vậy, việc kết hợp sử dụng chân dung lịch sử với văn kiện Đảng sẽ tạo ra một dấu ấn sâu 11
- đạm về nội dung kiến thức lịch sử. Đây cũng là biện pháp tích cực để học sinh có những mối liên hệ, tái tạo hình ảnh của quá khứ. Tuy nhiên sử dụng tranh ảnh chân dung không thôi đã không dễ, kết hợp với văn kiện Đảng càng khó hơn, cần đảm bảo các nguyên tắc chung. Ví dụ, khi dạy bài 14: “Phong trào cách mạng 1930 – 1935”, mục 3: “Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành Trung ương lâm thời Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 10/1930) ” [22; tr 94], trước khi trình bày nội dung luận cương chính trị do đồng chí Trần Phú soạn thảo, giáo viên cho học sinh quan sát ảnh chân dung đồng chí Trần Phú và giới thiệu: “Đồng chí Trần Phú sinh đúng ngày Quốc tế lao động (1/5/1904) tại Quảng Ngãi (nguyên quán Đức Thọ Hà Tĩnh). Từ nhỏ đã pahir chịu cảnh cực khổ, cha mẹ mất sớm, phải tự tìm cách sinh sống và học tập. Sau đó được nhờ bà con giúp đỡ, ông vào học tại trường Quốc học – Huế. Là một học sinh rất giỏi, nuôi hoài bão lớn lao, ông nhanh chóng cảm tình rồi đi theo cách mạng, rồi trưởng thành được đào tạo tại trường Phương Đông của Quốc tế cộng sản. Tại hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 10/1930, Trần Phú được bầu làm Tổng bí thư của Đảng cộng sản Đông Dương. Bản luận cương được đồng chí Trần Phú soạn thảo ngay dưới hầm nhà của một viên chức người Pháp khi ông làm bồi bếp cho hắn ở số nhà 5B – Hàng Bông (Hà Nội). Chắc không bao giờ tên thực dân ấy có thể ngờ rằng người giúp việc bé nhỏ ấy lại đang bí mật làm một việc lớn lao, soạn thảo bản “khai tử” cho chính quyền thực dân ở Đông Dương và 15 năm sau, bản án ấy được thi hành. Thật đau xót, ông bị bắt ngày 14/4/1931 do sự phản bội của Ngô Đức Trì. Trong nhà tù đế quốc, ông chịu đựng mọi cực hình tra tấn dã man của kẻ thù, giữ vững phẩm tiết của người cách mạng. Trước những dây phút cuối cùng của cuộc đời, ông nhắc nhở các đồng chí của mình “hãy giữ vững chí khí chiến đấu”. Ông hi sinh lúc mới 27 tuổi đời, đó là một tổn thất lớn cho cách mạng nước nhà”. Việc trình bày cuộc đời và hoạt động của Trần Phú gắn với giới thiệu nội dung cơ bản trong các đoạn trích của “Luận cương chính trị” năm 1930: “Luận cương xác định những vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng Đông Dương. Cách mạng Đông Dương lúc đầu là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, sau đó tiếp tục phát triển, bỏ qua thời kì tư bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa” [22; tr 94]. Qua kết hợp ảnh chân dung tổng bí thư Trần Phú với Luận cương chính trị sẽ khắc họa cho học sinh hình ảnh sâu đậm về một nhân vật tiêu biểu và một văn kiện Đảng điển hình của Đảng ta. Khi dạy bài 16: “Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939 – 1945). Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời ”, khi giảng mục IV: “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập (2/9/1945)” [22; tr 108], giáo viên cho học sinh quan sát hình ảnh chân dung: “Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập” và tường thuật: “Ngày 2/9/1945, Hà Nội tưng bừng, rực rỡ cờ và hoa mừng ngày độc lập. Tại quảng trường Ba Đình lịch sử, trên lễ đài trang trọng, chủ tịch Hồ Chí Minh – vĩ lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta giản dị, chỉnh tề trong bộ quần áo kaki cao cổ. Cả biển người hướng về phía Bác, ai nấy đều muốn nhìn rõ khuôn mặt hiền từ, vầng trán mênh mông, đôi mắt sáng ngời và chòm râu thưa, dài trông rất trang nghiêm và vô cùng thân thương, gần gũi. Với giọng nói trầm ấm, mang âm sắc của miền quê xứ Nghệ, người dõng dạc tuyên bố: “Tất cả các dân tộc sinh ra trên thế giới đều có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do… Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” [4; tr 1]. Biện pháp sư phạm đó có tác dụng củng cố, khắc sâu kiến thức lịch sử cho học sinh. Đông thời bồi dưỡng tình cảm tôn kính của các em đối với lãnh tụ. 12
- Cùng với tranh ảnh chân dung lịch sử, tranh ảnh trong sách giáo khoa cũng có tác dụng tích cực đối với cung cấp kiến thức lịch sử cho học sinh phổ thông. Ví dụ, khi dạy bài 15: “Phong trào dân chủ 1936 – 1939”[22; tr 98], giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh “Mít tinh kỉ niệm ngày Quốc tế lao động (1/5/1938) tại khu Đấu Xảo (nay thuộc khu vực Cung văn hóa Hữu Nghị Hà Nội” [22; tr 101] và giới thiệu cho học sinh hiểu rằng đó là cuộc mít ting được tổ chức công khai ở Hà Nội thu hút đông đảo quần chúng tham gia với đầy đủ các đoàn thể đại diện cho các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội: công nhân, trí thức, thợ thủ công, thanh niên, phụ nữ. Tất cả có 2,5 vạn người hàng ngũ chỉnh tề, ngực đeo phù hiệu, rực rỡ băn rôn, biểu ngữ, biểu dương lực lượng trong ngày Quốc tế lao động 1/5/1938, tại Đấu Xảo Hà Nội, nay là Cung văn hóa Hữu Nghị Hà Nội. Họ giương cao khẩu hiệu: “Ủng hộ mặt trận bình dân Pháp”, “Đi tới mặt trận dân chủ Đông Dương”, “Chống nạn thất nghiệp”, “Đi tới phổ thông đầu phiếu”, “Tự do, dân chủ” [11; tr 258] Sau đó, giáo viên có thể nêu câu hỏi: “Những khẩu hiệu trên gắn với chủ trương nào của Đảng trong thời kì lịch sử này?”. Giáo viên gợi lại các văn kiện của Đảng nói về chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Độc lập dân tộc và người cày có ruộng” để thực hiện đòi quyền dân chủ “dân chủ đơn sơ”: “Tự do, cơm áo, hòa bình” và tranh thủ được sự ủng hộ của chính phủ mặt trận bình dân Pháp đẩy mạnh cuộc đấu tranh công khai, bán công khai nhằm khôi phục, củng cố lực lượng, tuyên truyền, giác ngộ quần chúng. Cũng khi dạy bài 16: “Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939 – 1945)”, khi giảng phần II: “Phong trào giải phóng dân tộc từ tháng 9/1939 đến tháng 3/1945”, mục 3: “Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Hội nghịlần thứ VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương (5/1941) ” [22; tr 108], khi giảng về Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII, giáo viên cho học sinh quan sát ảnh “Lán Khuổi Nậm” sau đó giáo viên giới thiệu cho học sinh biết đây là nơi họp Hội nghị lần thứ VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng (tháng 5/1941) với những nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược quan trọng như tiếp tục đặt nhiệm vụ dân tộc lên làm nhiệm vụ hàng đầu “Lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc phải chịu mãi kiếp ngựa châu mà quyền lợi của bộ phận đến vạn năn không đòi được” [1; tr 196] và chủ trương thành lập mặt trận Việt Minh “ để liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị đặng cùng nhau mưu cuộc giải phóng và sinh tồn” [1; tr 149, 150], như vậy sau khi học sinh học xong học sinh sẽ ghi nhớ được những nét cơ bản của nội dung nghị quyết. Hoặc quan sát ảnh “Đình Tân Trào”, giáo viên giảng cho học sinh biết đây là nơi diễn ra Quốc dân đại hội, bầu Ủy ban dân tộc giải phóng – chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa sau ngày cách mạng tháng Tám thành công, nơi chủ tịch Hồ chí Minh thay mặt Ủy Ban giải phóng đọc lời thề danh dự: “Chúng tôi những người được Quốc dân đại biểu bầu vào ủy ban dân tộc giải phóng để lãnh đạo cuộc cách mạng của nhân dân ta. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ Quốc, chúng tôi kiên quyết lãnh đạo nhân dân tiến lên, chiến đấu chống quân thù, giành lại độc lập cho Tổ Quốc. Dù phải hi sinh đến giọt máu cuối cùng, quyết không lùi bước. Xin thề!” [9; tr 25,26] Và ra nơi ra đời của quân lệnh số 1: “Chúng ta phải hành động cho nhanh với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng” [9; tr 442] Khi giảng mục 4: “Chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền” [22; tr 109], giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh “ Lễ thành lập đội Tuyên truyền Giải phóng quân”, sau đó giáo viên nêu câu hỏi: “Tại sao lực lượng vũ trang của ta lại mang tên đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân?”, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu bối cảnh lịch sử cuối 1944 qua sự phân tích tài liệu của chủ tịch Hồ Chí Minh: 13
- “Bấy giờ, thời kì phát triển hòa bình đã qua nhưng thời kì khởi nghĩa toàn dân chưa tới. Nếu bây giờ chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào đi tới. Nhưng phát động phong trào vũ trang khỏi nghĩa ngay quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu tranh bây giờ phait từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Phải tìm ra một hình thức thích hợp thì mới có thể đẩy phong trào tiến lên” [10; tr 130] Sau khi học sinh phân tích tình hình lúc bấy giờ qua đoạn trích tài liệu trên, giáo viên nhấn mạnh rằng, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã ra đời: “Hôm đó, là ngày 22/12/1944 lúc 5 giờ chiều, lễ thành lập được cử hành trong một khu rừng nằm giữa Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám, đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã ra đời dưới sự che chở của anh linh hai đấng anh hùng dân tộc” [10;tr 142] . Sau khi cho học sinh quan sát bức ảnh 34 chiến sĩ dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp đang trang nghiêm đọc 10 lời thề danh dự dưới lá cờ Tổ quốc thiêng liêng, giáo viên nêu câu hỏi: “Nhìn bức ảnh các em có nhận xét gì về lực lượng vũ trang cách mạng của ta trong buổi đầu thành lập”. Học sinh quan sát và nhận ra rằng: Về lực lượng cách mạng: còn non mỏng, trang phục thiếu thốn (quần áo, mũ nón những kiếu khác nhau, giày dép không đủ, vũ khí thô sơ” Về ý chí: đầy quyết tâm, tin tưởng (nét mặt trang nghiêm). Từ đó giáo viên kết luận vấn đề theo nhận định của chủ tịch Hồ Chí Minh về lực lượng vũ trang cách mạng của ta khi mới ra đời: “ Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhở nhưng tiền đề đó của nó rất vẻ vang” [6; tr 337] 7.2.3.2 Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với bản đồ, lược đồ. Bản đồ, lược đồ được sử dụng thường xuyên trong dạy học lịch sử. Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với sơ đồ, lược đồ sẽ tạo cho học sinh hình ảnh về vị trí, không gian cụ thể về sự kiện lịch sử. Chúng ta đã biết, mọi sự kiện lịch sử đều gắn với một không gian cụ thể. Bản đồ, lược đồ là những đồ dùng trực quan quy ước giúp học sinh hiểu những nơi xảy ra sự kiện lịch sử. Chỉ khi nắm vững vị trí không gian, địa điểm, điều kiện địa lí học sinh mới có thể lí giải được vì sao sự kiện lịch sử lại xảy ra ở nơi đó và vì sao nó lại diễn ra như vậy. Chính vì thế, sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với tài liệu trực quan quy ước nói trên có tác dụng tốt trong việc củng cố, khắc sâu kiến thức lịch sử cho học sinh. Khi sử dụng giáo viên nên kết hợp với các câu hỏi để phát huy tính tích cực của học sinh. Vì khi kết hợp với câu hỏi sẽ khơi gợi cho các em óc phán đoán, phân tích. Ví dụ khi dạy bài 14: “Cao trào cách mạng 1930 – 1935”, phần II: “Phong trào cách mạng 1930 – 1931” [22; tr90] kết họp sử dụng sách giáo khoa và bản đồ “Phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh” [22; tr 92], giáo viên hướng dẫn học sinh trình bày những vấn đề như sau về phong trào cách mạng 1930 1931: Quy mô: Rộng lớn từ Bắc – Trung – Nam, thu hút đông đảo quần chúng. Hình thức: biểu tình, bãi công, vũ trang. Tính chất: quyết liệt, triệt để. Đạp tan chính quyền địch, lập ra các Xô viết Nghệ Tĩnh. Các Xô viết đã thực hiện những chính sách tiến bộ, kịp thời. Và giáo viên có thể đặt ra một vấn đề cho học sinh giải quyết: “ Tại sao các Xô viết lại ra đời ở Nghệ Tĩnh”? Giáo viên đọc cho học sinh nghe đoạn trích trong “Nghệ Tĩnh đỏ” của Nguyễn Ái Quốc: “Địa thế hai tỉnh nhiều rừng núi, đất đai cằn cỗi, nông giang chẳng có, ở đây thường xảy ra lụt bão, do đó nhân dân đói khát và nơi ăn, chốn ở khổ sở. Sưu thuế nặng nề và nạn áp bức xã hội và chính trị làm cho cảnh ngộ họ càng cùng cực hơn…Trong 14
- thời kì Pháp xâm lược cũng như trong các phong trào cách mạng quốc gia (1905 – 1925) Nghệ tĩnh đã nổi tiếng. Trong cuốc đấu tranh hiện nay công nhân và nông dân Nghệ Tĩnh vẫn giữ truyền thống cách mạng của mình. Nghệ Tĩnh thật xứng đáng với “danh hiệu đỏ” ” [3; tr 51, 52] Ví dụ, khi dạy bài 16: “Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939 – 1945)”, phần III. “Khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền”, mục 1: “Khởi nghĩa từng phần (từ tháng 3 đến tháng 8/ 1945)” và phần 2: “Sự chuẩn bị cuối cùng trước ngày Tổng khởi nghĩa” [22, tr 112, 113], giáo viên sử dụng: “Lược đồ Khu giải phóng Việt Bắc” [22; tr 114] như sau: “Trước hết, giới thiệu về vị trí không gian “Khu giải phóng” bao gồm vùng giải phóng thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang và một số ngoại vi thuộc các tỉnh lân cận như Bắc Giang, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Yên Bái. Tiếp đó, giáo viên nêu câu hỏi: “Tại sao có sự ra đời của khu giải phóng Việt Bắc?”, dựa vào văn kiện Đảng, giáo viên gợi ý cho học sinh trả lời theo các hướng sau: Sau khi có bản chỉ thị: “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. “Khởi nghĩa từng phần diễn ra giành thắng lợi chủ yếu ở những nơi nào?” “Hội nghị quân sự Bắc kì hợp nhất các lực lượng vũ trang toàn quốc. Điều đó liên quan gì đến sự ra đời của Khu giải phóng Việt Bắc”? “Vì sao Hồ Chí Minh quyết định thành lập Khu giải phóng?” Việc sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với bản đồ như vậy giúp cho học sinh nhận thấy các vị trí không gian, nơi diễn ra khởi nghĩa từng phần giành thắng lợi, thấy rõ nơi ra đời của Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Cứu quốc quân và nơi hợp nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân (Định Biên – Định Hóa – Thái Nguyên). Chính điều đó làm cho lực lượng vũ trang phát triển mạnh, vùng giải phóng được mở rộng, căn cứ địa ngày càng được củng cố và mở rộng . Trong bối cảnh đó, tháng 5/1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về nước trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng trong toàn quốc. Tại đây, vùng giải phóng được mở rộng tạo nên giải liên hoàn giữa các tỉnh, Người chỉ thị “Thành lập khu giải phóng Việt Bắc”. Theo tinh thần đó khu giải phóng Việt Bắc đac ra đời tháng 6/1945 – đó là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Cùng với những bản đồ, lược đồ trong sách giáo khoa, giáo viên có thể chỉ thêm những tài liệu trực quan để kết hợp văn kiện Đảng và các tài liệu khác trong dạy học lịch sử. Chẳng hạn, phân tích cuộc đảo chính Nhật – Pháp trên nội dung bản chỉ thị: “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta ” kết hợp với bản đồ khu vực Đông Nam Á học sinh ghi nhận và củng cố kiến thức lịch sử tốt hơn . Nội dung bản chỉ thi đó là: “1. Hai con chó đế quốc không thể ăn chung một miếng mồi béo bở như Đông Dương 2. Tàu, Mĩ sắp đánh vào Đông Dương, Nhật phải hạ Pháp để trừ cái họa bị Pháp đánh sau lưng khi đồng minh đổ bộ. 3. Sống chết Nhật phải giữ lấy cái cầu trên con đường bộ nối liến các thuộc địa Miền Nam Dương với Nhật vì sau khi Philuậttân bị Mĩ chiếm đường thủy của Nhật bị cắt đứt ” [6; tr 364] Cũng từ đây cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc diễn ra ở Đông Dương thể hiện trên các mặt: “1. Hai quân cướp nước cắn xé nhau chí tử 2. Chính quyền Pháp tan rã 15
- 3. Chính quyền của Nhật chưa ổn. 4. Các tầng lớp đứng giữa hoang mang. 5. Quần chúng nhân dân muốn hành động” [6; tr 365] Thông qua văn kiện này cùng với bản đồ Đông Nam Á, học sinh sẽ nhận thấy rõ tình hình khu vực khiến Nhật phải tiến hành đảo chính Pháp và Đảng ta đã phân tích tình hình đúng đắn để đưa ra chỉ thị phù hợp. Từ việc quan sát bản đồ đó học sinh sẽ ghi nhớ được nội dung chỉ thị của Đảng. 7.2.3.3 Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp niên biểu. Niên biểu là bảng hệ thống hóa các sự kiện quan trọng và có tác dụng rất lớn trong giúp học sinh khái quát kiến thức và ghi nhớ kiến thức theo mối liên hệ, liên quan giữa chúng. Có thể sử dụng văn kiện Đảng để lập niên biểu so sánh. Chẳng hạn, khi dạy bài 15: “Phong trào dân tộc dân chủ 1936 – 1939” và bài 16: “Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939 – 1945). Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời” [22; tr 98, 102], giáo viên có thể hướng dẫn học sinh dựa vào đoạn trích văn kiện sau để lập bảng so sánh Mặt trận dân chủ Đông Dương với Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương: “Khác với mặt trận dân chủ chỉ là sự liên hiệp các giai cấp có ít nhiều tiến bộ, các đảng phái cách mệnh với Đảng phái cải lương để đòi cải cách tiến bộ, các mặt trận dân tộc, các giai cấp, các Đảng phái, các phần tử cơ tính chất phản đế. Nếu mặt trận dân chủ chưa là liệt bại các xu hướng cải lương, đề huề, thì mặt trận, T.N.D.T.P.Đ là một mặt trận kịch liệt chống đối các Đảng phái, các xu hướng cải lương đề huề, làm liệt bại chúng nó hoàn toàn trong phong trào giải phóng dân tộc” [5; tr 357 358] “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mạng phản đế, không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng đấu tranh tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các thể lực phản động ngoại xâm, diệt trừ phong kiến và các hạng phản bội quyền lợi dân tộc, làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng… Vô sản giai cấp phải mật thiết liên lạc với bần nông, liên minh với trung nông, tiểu tư sản thành thị, bắt tay tư sản bản xứ và địa chủ phản đế… liên hiệp với Hoa kiều kháng Nhật và những người Pháp chống phát xít, chống đầu hàng và có những xu hướng dân chủ, tán thành cho Đông Dương độc lập…[6, tr 77] Không phải giai cấp vô sản ở Đông Dương bỏ mất điền địa đi đâu, cũng không phải đi lùi một bước, mà chỉ đi lùi một bước ngắn hơn để có sức mà bước dài hơn” [6, tr 119] Bảng so sánh: Nội dung Mặt trận dân chủ Đông Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Dương Đông Dương Hoàn cảnh Mục tiêu Lực lượng tham gia → Từ bảng so sánh đó học sinh có thể rút ra những điểm giống nhau và khác nhau giữa hai mặt trận và lí giải tại sao có sự khác nhau như vậy. 16
- Có thể xây dựng niên biểu bài tập trên cơ sở các văn kiện Đảng. Ví dụ, khi học xong hết chương giáo viên có thể ra cho học sinh một số bài tập dạng niên biểu trên cơ sở các văn kiện Đảng tiêu biểu của ba văn kiện Đảng tiêu biểu nhất trong ba giai đoạn. Tìm nội dung văn kiện Đảng điền vào ô sau sao cho phù hợp. 1930 – 1931 1936 1939 1939 1945 Kẻ thù ………………… …………………. ……………… Nhiệm vụ ………………… …………………. ……………… Phương pháp đấu ………………… …………………. ……………… tranh Hoặc một niên biểu bài tập khác giúp học sinh ghi nhớ được thời gian, nội dung các văn kiện qua các thời kì mà không bị nhầm lẫn. Ví dụ bài tập sau: Sắp xếp lại tài liệu ở hai cột dưới đây cho phù hợp với nhau về nội dung: Nội dung văn kiện Đảng Xuất xứ 1. “Ta phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn a. “Chính cương vắn tắt” (2/1930) sàng, nhằm vào cơ hội thuận lợi hơn cả mà đánh b. “Sách lược vắn tắt” (2/1930) lại quân thù…” c. “Luận cương chính trị” (10/1930) 2. “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” d. Chỉ thị Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (3/1945) 3. “Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chính e. Nghị quyết hội nghị Trung ương VI nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách ( 11/1939) mạng mới thắng lợi được”. g. Nghị quyết hội nghị Trung ương 4. “Hai quân cướp nước cắn xé nhau chí tử VII (11/1940) Chính quyền Pháp tan rã h. Nghị quyết hội nghị Trung ương VIII (5/1941) Chính quyền Nhật chưa ổn i. Bản quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi Các tầng lớp đứng giữa hoang mang nghĩa (8/1945) Quần chúng nhân dân muốn hành động” k. Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa của 5. “Giờ quyết định vận mệnh dân tộc đã đến. Chủ tịch Hồ Chí Minh Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta” 6. “Chúng ta phải hành động cho nhanh với tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng” 7.3. Thực nghiệm sư phạm. 7.3.1 Mục đích thực nghiệm. Thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm nghiệm, chứng minh hiệu quả của việc sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử Việt Nam giai 17
- đoạn 1930 – 1945, lớp 12 THPT. Kết quả của thực nghiệm sẽ chứng tỏ tính khả thi của phần lí luận đã nêu trên và là cơ sở cho chúng tôi vận dụng vào quá trình giảng dạy sau này. 7.3.2 Đối tượng và thời gian thực nghiệm. Thực nghiệm sư phạm được tiến hành tại trường THPT Đồng Đậu Yên Lạc Vĩnh Phúc. Được sự giúp đỡ của các thầy cô nhóm bộ môn lịch sử, tôi đã tiến hành thực nghiệm tại 2 lớp: 12A1 và 12A2. 7.3.3 Tiến trình thực nghiệm. * Chuẩn bị cho thực nghiệm Để tiến hành thực nghiệm tôi tiến hành các hoạt động sau: Xây dựng hai kiểu giáo án cho hai lớp Giáo án thứ nhất: Dạy theo phương pháp truyền thống, chủ yếu là thuyết trình và sử dụng kiến thức và hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa. Giáo án này được thực hiện tại lớp 12A1 lớp đối chứng. Giáo án thứ hai: Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan nhằm mục đích tăng hứng thú cho người học. Giáo án này được dạy tại lớp 12A2 lớp thực nghiệm Chuẩn bị cho giờ dạy Gặp gỡ học sinh 2 lớp Phiếu điều tra sau giờ thực nghiệm * Tiến trình thực nghiệm Tiến trình giờ học đối chứng: Dạy học đối chứng được tiến hành tại lớp 12A1. Các phương pháp giáo viên tiến hành trong giờ học là: thuyết trình, vấn đáp. Trong giờ học giáo viên đã sử dụng tư liệu sách giáo khoa là chủ yếu. Tiến trình giờ học thực nghiệm: Dạy học thực nghiệm được tiến hành tại lớp 12A2. Các phương pháp giáo viên tiến hành trong giờ học là: thuyết trình, hoạt động nhóm, nêu vấn đề, sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan. 7.3.4 Kết quả thực nghiệm. Kết quả thực nghiệm sư phạm được thể hiện trên 2 tiêu chí: Ý kiến đánh giá của giáo viên sau khi quan sát giờ học Mức độ đạt mục tiêu bài học và không khí, thái độ học tập của học sinh. Đánh giá của giáo viên sau khi quan sát giờ học Tiết học có sự tham gia của giáo viên lớp 12A2, giáo viên đánh giá cao việc sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử. Với việc sử dụng việc sử dụng phương pháp này vừa đảm bảo kiến thức chung vừa kích thích tư duy, hứng thú học tập của học sinh khá giỏi. Về mức độ đạt mục tiêu kiến thức bài học Điều này thể hiện trong bài kiểm tra 10 phút, học sinh làm cuối 2 tiết học. Đề kiểm tra ở hai lớp là giống nhau để việc so sánh được khách quan. Học sinh làm bài kiểm tra một cách nghiêm túc và đúng thời gian. Kết quả thu được như sau: 18
- Bảng thống kê kết quả điều tra lớp 12A1 và lớp 12A2 Điểm số Lớp đối chứng 12A1 Lớp thực nghiệm 12A2 (45 học sinh) (46 học sinh) Số học sinh Tỷ lệ (%) Số học sinh Tỷ lệ (%) Giỏi (910) 1 2.2 5 10.9 Khá (78) 20 44.4 30 65.2 Trung bình (56) 19 42.2 11 23.9 Yếu, kém (
- môn khoa học khác. Lịch sử chỉ diễn ra một lần và không bao giờ lặp lại. Bởi vậy chỉ nhận thức lịch sử như nó vốn là điều rất khó nhưng lại rất càn thiết trong dạy học lịch sử. Người giáo viên phải biết mức độ nhận thức của học sinh để truyền đạt kiến thức và đẻ giúp học sinh nhìn nhận sự kiện, hiện tượng trong quá khứ không chỉ đơn thuần bằng lời nói mà giáo viên còn phải kết hợp cả cử chỉ, điệu bộ và phải thực sự có xúc cảm khi tường thuật hay miêu tả một sự kiện hay nhân vật nào đó, một điều không thể thiếu là giáo viên phải biết sử dụng các loại tài liệu lịch sử để minh họa, cụ thể hóa kiến thức cho bài giảng, làm cho bài giảng sinh động hơn, hấp dẫn hơn đối với học sinh. Những năm gần đây, ngành giáo dục nước ta đã có nhiều cố gắng, song hiệu quả còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu, mục tiêu giáo dục đề ra. Đảng ta đã từng chỉ rõ tình trạng yếu kém là do “Chậm đổi mới về cơ cấu, hệ thống, mục tiêu, nội dung và phương pháp, chưa làm tốt chức năng tham mưu và trách nhiệm quản lí của nhà nước ” [8]. Bản thân ngàng giáo dục cũng có nhiều yếu kém, thiếu sót, mà “yếu kém chủ yếu nhất của giáo dục hiện nay là chậm chuyển biến để thích ứng với nền kinh tế đang đổi mới. Tình trạng của lạc hậu của giáo dục thể hiện từ cơ cấu, hệ thống đến mục tiêu, chương trình và nội dung phương pháp” [18]. Vì vậy, sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan một cách hợp lí sẽ góp phần đổi mới nội dung, phương pháp dạy học trong điều kiện lịch sử hiện nay. Thông thường có rất nhiều loại tài liệu tham khảo khác nhau, mỗi loại tài liệu có vị trí và tầm quan trọng khác nhau như tài liệu gốc, tài liệu kinh điển, tài liệu văn học, tài liệu văn kiện Đảng… Nhưng tựu chung lại ta thấy rằng các loại tài liệu này có tác dụng giáo dưỡng và phát triển toàn diện cho học sinh. Tài liệu văn kiện Đảng có ưu điểm về sự trung thực và chính xác, vì nó là “tiếng nói của Đảng” tôn trọng sự thật, đáng tin cậy nhất. Đó là sự thể hiện chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh cào trong thực tiễn nước ta. Đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử là một phương tiện dạy học đóng vai trò là một nguồn kiến thức “cửa sổ mở ra cho thấy hoạt động lịch sử”, chứa đựng tài liệu phong phú cho việc nhận thức lịch sử, góp phần khôi phục lại bứa tranh quá khứ một cách sinh động, chân thực, giúp cho quá trình nhận thức lịch sử trở nên hoàn thiện hơn. Chính vì vậy việc kết hợp văn kiện Đảng và đồ dùng trựa quan trong dạy học lịch sử sẽ góp phần phát huy ưu thế của cả văn kiện Đảng lẫn đồ dùng trực quan; kích thích sự suy nghĩ, tìm tòi của học sinh, làm cho học sinh có hứng thú học tập, bởi vì giờ học đó sinh động, phong phú. Song thực tế ở trường phổ thông ngày nay việc sử dụng văn kiện Đản kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử còn chưa phổ biến. Muốn sử dụng tài liệu văn kiện Đảng kết hợp đồ dùng trực quan đạt kết quả cao không phải là điều đơn giản, nó đòi hỏi không được sử dụng một cách tùy tiện mà phải tuân thủ theo những nguyên tắc yêu cầu lí luận bộ môn đã quy định. Biết kết hợp nhuần nhuyễn các biện pháp sử dụng, các hình thức trình bày…để từ đó có những biện pháp thích hợp. 8. Những thông tin cần được bảo mật. Không có thông tin nào trong sáng kiến cần được bảo mật 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến. Về phía nhà trường: Trang bị phòng học bộ môn có đầy đủ máy chiếu và đồ dùng trực quan. Về phía giáo viên: Sưu tầm tài liệu văn kiện Đảng liên quan đến bài học, ứng dụng công nghệ thông tin trong việc soạn giảng. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
SKKN: Một số kinh nghiệm vận dụng 7 hằng đẳng thức đáng nhớ
12 p | 856 | 139
-
SKKN: Phương pháp sử dụng đồ dùng trong dạy học Ngữ văn THPT
20 p | 851 | 112
-
SKKN: Nâng cao kết quả học tập các bài học về bảng cộng, bảng trừ môn Toán lớp 2/1 thông qua việc sử dụng một số trò chơi trên PowerPoint trong dạy học
24 p | 652 | 111
-
SKKN: Một số thủ thuật sử dụng kênh hình trong giảng dạy môn Sinh học theo chương trình SGK mới
7 p | 513 | 91
-
SKKN: Sử dụng kĩ thuật dạy học khăn phủ bàn và bản đồ tư duy trong dạy học môn Công nghệ 6 ở THCS
24 p | 940 | 83
-
SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học lồng ghép kiến thức về giáo dục giới tính vào nội dung bài 47 Sách giáo khoa Sinh 11 cơ bản: “Điều khiển sinh sản ở động vật - mục II: Sinh đẻ có kế hoạch ở người
16 p | 312 | 47
-
SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học khám phá nhằm lồng ghép kiến thức giáo dục giới tính trong tiết 50 - bài 47 sách giáo khoa Sinh học 11 nâng cao: Điều khiển sinh sản ở động vật - mục II: Sinh đẻ có kế hoạch ở người
13 p | 209 | 30
-
SKKN: Vài suy nghĩ về việc sử dụng tư liệu trong dạy học ngữ văn ở một số bài học
14 p | 141 | 19
-
SKKN: Sáng tạo và cải tiến một số phương pháp giúp HSG lớp 5 nhận biết và sử dụng câu đúng ngữ pháp
20 p | 106 | 11
-
SKKN: Xây dựng hệ thống bài tập và câu hỏi thực tế sử dụng phối hợp phương trình trạng thái của khí lý tưởng và các lực cơ học góp phần nâng cao hiệu quả dạy học Vật lý lớp 10 THPT
34 p | 92 | 10
-
SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử lớp 8, phần lịch sử thế giới cận đại (từ giữa thế kỉ XVI đến năm 1917)
13 p | 114 | 8
-
SKKN: Một số kinh nghiệm sử dụng bất đẳng thức trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 8, 9 tại trường THCS Lương Thế Vinh
34 p | 88 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Hình thành cho sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Lạng Sơn kĩ năng sử dụng tác phẩm văn học để giáo dục lòng nhân ái cho trẻ mầm non
85 p | 11 | 5
-
SKKN: Đổi mới hình thức dạy học ở phần củng cố kiến thức qua bài tập dạng bảng trong bộ môn Hoá
21 p | 58 | 4
-
SKKN: Sử dụng đồ dùng tự tạo và một số tính chất hình học, dạy học tiết thực hành lớp 9
20 p | 93 | 3
-
SKKN: Hướng dẫn học sinh sử dụng tọa độ trong hình học phẳng để chứng minh một số bất đẳng thức, giải một số phương trình và bất phương trình đại số nhằm nâng cao chất lượng đối với học sinh lớp 10 ở trường THPT
15 p | 45 | 2
-
SKKN: Sử dụng tính đơn điệu của hàm số để giải một số bài toán về phương trình, bất phương trình và hệ phương trình trong chương trình Toán phổ thông
20 p | 74 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn