intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, lớp 12 THPT (chương trình chuẩn)

Chia sẻ: Trần Thị Ta | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:23

48
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu lịch sử cung cấp cho học sinh những thông tin chính xác, cụ thể về sự kiện – hiện tượng lịch sử, nó như một bằng chứng xác thực, tác động vào bản thân các em một cách tự nhiên, tạo ra những rung cảm và động cơ bên trong chứ không như những biện pháp cưỡng chế, tác động từ bên ngoài.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, lớp 12 THPT (chương trình chuẩn)

  1. 1. Lời giới thiệu  Nước ta đang bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu đến   năm 2020 sẽ  từ  một nước nông nghiệp về  cơ  bản trở  thành một nước công nghiệp, hội   nhập với cộng đồng quốc tế. Nhân tố  quyết định của công nghiệp hóa – hiện đại hóa và  hội nhập quốc tế là con người ­ phát triển cả  về số lượng và chất lượng trên cơ  sở  mặt   bằng dân trí được nâng cao. Để  làm được điều này cần được bắt đầu từ  giáo dục. Giáo   dục và đào tạo là một lĩnh vực luôn được Đảng, nhà nước quan tâm, hoạch định chiến   lược quốc gia. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  X của Đảng (2001) xác định rõ: “Phát   triển giáo dục đào tạo chính là một trong những  động lực quan trọng để  thúc đẩu sự  nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện quan trọng để phát huy nguồn nhân lực  con người – yếu tố cơ bản để  phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế  nhanh chóng và bền  vững”. Tùy theo chức năng, vị trí và đặc trưng của mình mà mỗi lớp học, cấp học, ngành   học có những đóng góp cụ thể vào thực hiện nhiệm vụ chung của ngành giáo dục. Do   vậy,   mỗi   môn   học   cũng   phải   đổi   mới   toàn   diện,   góp   phần   thực   hiện   chủ  trương, đường lối phát triển giáo dục của Đảng đề ra. Mục tiêu giáo dục nước ta đã được   cụ  thể  hóa trong điều II Luật giáo dục (năm 2005): “Đào tạo con người Việt Nam phát   triển toàn diện, có đạo đức, có tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với   lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách năng lực   của công dân đáp  ứng yêu cầu của sự  nghiệp xây dựng và bảo vệ  tổ  quốc”. Thực hiện   mục tiêu đó, ngành giáo dục đó phải hết sức quan tâm, chú ý để  không ngừng nâng cao   chất lượng giáo dục, nhằm đào tạo một đội ngũ tri thức đông đảo, đáp ứng những yêu cầu,   đòi hỏi của xã hội. Trong những năm qua, để  đáp  ứng mục tiêu, nhiệm vụ  của giáo dục, bộ  môn lịch   sử  đã có nhiều đổi mới. Cùng với những đổi mới quan niệm, nội dung chương trình, nội  dung sách giáo khoa thì phương pháp dạy học lịch sử cũng cần đổi mới. Đổi mới phương   pháp dạy học có nhiều biện pháp khác nhau, trong đó việc vận dụng tài liệu tham khảo và   đồ dùng trực quan vào dạy học lịch sử là một trong những biện pháp quan trọng.  Tài liệu tham khảo tiêu biểu nhất, gần gũi nhất trong dạy học lịch sử  là các văn   kiện Đảng. Văn kiện Đảng thể hiện những quan điểm, tư tưởng, đường lối của Đảng nói  chung và trong mỗi thời kì lịch sử  nói riêng. Những quan điểm đó được xuất phát từ  tình   hình thực tế và nhằm thực hiện những yếu cầu bức thiết của thực tiễn đặt ra. Bản thân   văn kiện Đảng chứa đựng yếu tố  khoa học, khách quan, phản ánh những chủ  trương,   đường lối của Đảng, đáp  ứng được nguyện vọng chính đáng của quảng đại quần chúng,   tập hợp sức mạnh đoàn kết toàn dân, đưa sự nghiệp cách mạng đi lên giành thắng lợi. Tính   khách quan, khoa học của tư liệu lịch sử nói chung, của văn kiện Đảng nói riêng là cơ  sở  của việc nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường THPT. Mặt khác, bộ môn lịch sử có nhiều đặc trưng riêng: mang tính quá khứ, tính không   lặp lại… Quá trình nhận thức nói chung và nhận thức trong học tập Lịch sử nói riêng lại   phải tuân theo quy luật: “Từ  trực quan sinh động đến tư  duy trìu tượng và từ  tư  duy trìu   tượng đến thực tiễn”. Vì vậy, trong dạy học lịch sử, nguyên tắc trực quan là cần thiết và   sử dụng đồ dùng trực quan cũng như sử dụng văn kiện Đảng góp phần khôi phục lại bức   tranh quá khứ như nó từng diễn ra. Văn kiện Đảng thường gắn với sự kiện lịch sử  ở những vị trí, không gian cụ  thể,  với các vị lãnh đạo Đảng và nhà nước… Vì vậy, sử  dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ  dùng trực quan giúp học sinh củng cố, khắc sâu kiến thức, là chỗ  dựa hình thành khái  niệm, hiểu sâu sắc bản chất của sự kiện lịch sử. 1
  2. Chính vì những lí do trên mà tôi chọn đề tài: “Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với   đồ  dùng trực quan trong dạy học lịch sử  Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, lớp 12 THPT   (chương trình chuẩn)” để nghiên cứu và ứng dụng. 2. Tên sáng kiến. “Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử Việt   Nam giai đoạn 1930 – 1945, lớp 12 THPT (chương trình chuẩn)”  3. Tác giả sáng kiến. ­ Họ và tên: Nguyễn Quang Kê ­ Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Đồng Đậu (Trung Nguyên ­ Yên Lạc ­  Vĩnh Phúc. ­ Số điện thoại: 0976.176.423     ­ E_mail: nguyenquangke.c3dongdau@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến. Nguyễn Quang Kê 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến. ­ Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Phương pháp giảng dạy môn lịch sử. ­ Vấn đề sáng kiến giải quyết: Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực  quan để nâng cao hiệu quả cho giờ dạy lịch sử, phần lịch sử Việt Nam 1930­1945. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử. Sáng kiến được áp dụng lần đầu trong học kì 1 năm học 2019­2020 (từ cuối tháng  11­2019 đến đầu tháng 12­2019) 7. Mô tả bản chất của sáng kiến. 7.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng  trực quan trong dạy học lịch sử THPT. 7.1.1 Cơ sở lí luận 7.1.1.1 Văn kiện Đảng trong dạy học lịch sử ở trường THPT. Về khái niệm “văn kiện” từ điển Tiếng Việt đã định nghĩa đó là những văn bản có  ý nghĩa quan trọng về chính trị ­ xã hội. Từ định nghĩa này có thể rút ra định nghĩa về văn   kiện Đảng: Tài liệu văn kiện Đảng là những tài liệu thành văn (văn bản) của Đảng về  những sự kiện có tác dụng lớn đến quá trình phát triển lịch sử. Như vậy tài liệu văn kiện   Đảng là những sự kiện có thật gắn liền với quá trình lịch sử khi Đảng ra đời đó là những  tài liệu đáng tin cậy nhất. Khi nói tới văn kiện Đảng bao giờ chúng ta cũng phải khẳng định rằng đây là loại  tài liệu chính xác nhất và đáng tin cậy nhất, nói như vậy không có nghĩa là không có cơ sở. Lịch sử dân tộc ta từ những năm 30 trở lại đây là lịch sử của quá trình đấu tranh của   nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mỗi bước đi của lịch sử  dân tộc đều có sự  lãnh  2
  3. đạo của Đảng, và tất cả những đường lối, chủ  trương, chính sách ấy đều được thể  hiện   dưới dạng các văn kiện. Các tài liệu văn kiện Đảng thể  hiện rõ quan điểm đường lối của Đảng trong lãnh  đạo, thể hiện sự vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác – LêNin một cách sáng tạo vào thực tiễn   đấu tranh, soi sáng cho thực tiễn đấu tranh  ấy. Bởi vậy, trong bất kỳ  nội dung nào, văn   kiện cũng thể hiện những sâu sắc những quan điểm, đường lối của Đảng trong lãnh đạo. Với vai trò to lớn của mình, văn kiện Đảng đã giúp ích rất nhiều cho thế  hệ  trẻ  hiểu biết về quá khứ lịch sử của dân tộc ta. Trong giảng dạy lịch sử nội dung tài liệu văn   kiện của Đảng đều có tác dụng giáo dưỡng, giáo dục và phát triển với học sinh. Vẫn biết rằng sách giáo khoa là tài liệu học tập cơ bản của học sinh song chỉ giới   hạn trong một số  tràn nhất định, với những kiến thức xúc tích, ngắn gọn, đôi khi còn sơ  lược. Học sinh không chỉ  xem như  vậy là đủ  mà cần tìm hiểu thêm một số  tài liệu nhất  định, chứ không bị động nghe giảng. Nhận thức của học sinh là một quá trình biện chứng,  từ  cái đơn giản đến cái phức tạp, từ  cái cụ  thể  đến khái quát. Trong lịch sử, các em cần   nhận thức “từ trực quan sinh động đến trìu tượng”. Học sinh sẽ không thể  hiểu được quá  khứ  chân thật và sống động một cách sâu sắc nếu giáo viên không giúp các em có được   một biểu tượng đúng đắn. Những kiến thức sách giáo khoa không đủ  để  tạo biểu tượng,  mà chỉ có tài liệu tham khảo. Qua đó giáo viên giới thiệu cho các em hoặc hướng dẫn cho   các em tự  hình thành biểu tượng lịch sử  thông qua bài tường thuật, miêu tả… Như  vậy   mới khắc sâu các sự kiện lịch sử cho các em.  Việc sử  dụng tài liệu lịch sử  có tác dụng lớn trong việc kích thích các hoạt động  nhận thức độc lập của học sinh. Làm cho học sinh say mê môn lịch sử, ngoài ra nó còn góp  phần nâng cao trình độ  văn hóa nói chung của học sinh, do tính phong phú của nguồn tài   liệu cung cấp. Và thông qua các tài liệu đó học sinh mở rộng tầm hiểu biết của mình hơn,   học sinh hiểu được vị  trí địa lí, văn học và biết các thành tựu văn hóa nói riêng của các   nước… Để làm được điều đó là cả một quá trình tìm tòi ham hiểu của giáo viên để  từ  đó  giáo viên chọn lọc các tài liệu hợp lí vào để  học sinh tiếp thu tránh tình trạng “ôm đồm”  kiến thức. Với tính đa dạng phong phú của bộ môn, các quá trình lịch sử  ở trường phổ thông   có khả  năng giáo dục nhiều mặt cho học sinh, giáo dục niềm tin vững chắc vào lí tưởng   cách mạng trên cơ  sở  nhận thức đúng sự  phát triển khách quan, hợp với quy luật của xã   hội loài người. Giáo viên còn giáo dục cho học sinh truyền thống tốt đẹp của nhân dân  Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước. Giáo dục những phẩm chất đạo đức của   giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Với những hình  ảnh sống động và biểu tượng  sâu sắc, có tác dụng khơi dậy trong các em những cảm xúc lành mạnh. Tài liệu lịch sử cung cấp cho học sinh những thông tin chính xác, cụ thể về sự kiện   – hiện tượng lịch sử, nó như một bằng chứng xác thực, tác động vào bản thân các em một   cách tự  nhiên, tạo ra những rung cảm và động cơ  bên trong chứ  không như  những biện   pháp cưỡng chế, tác động từ bên ngoài. Việc giới thiệu tà liệu này giúp học sinh hiểu được sự hi sinh và lòng anh dũng kiên   cường của cha ông ta đã quyết tâm chống lại âm mưu cướp nước của bọn đế quốc. Từ đó   giáo dục cho các em biết quý trọng và bảo vệ  những thành quả  mà dân tộc ta đã giành   được trong chiến tranh tàn khốc. Trong khi sử  dụng tài liệu lịch sử  để  giảng dạy, giáo viên không nhất thiết phải  trình bày hay thông báo những tài liệu trước học sinh mà có thể hướng dẫn các em tự  tìm   kiếm thông tin từ các nguồn tài liệu. Diều đó không những có ý nghĩa giáo dục mà còn rèn   luyện trực tiếp cho học sinh tinh thần chịu khó, tính tự  giác và sáng tạo trong lao động.  3
  4. Bằng cách này học sinh khắc phục được thói quen ỷ lại, thụ động, mà còn tiếp thu một bài  giảng một cách sâu sắc hơn, rèn luyện thói quen làm việc độc lập với tài liệu… Hơn nữa  nó còn giúp học sinh đào sâu suy nghĩ, tìm tòi và chính điều đó sẽ mở rộng tầm hiểu biết   của học sinh. Phải nói rằng tài liệu lịch  sử ngoài việc phát triển năng lực nhận thức, rèn luyện  năng lực thực hành cho học sinh như quan sát tài liệu , tưởng tượng, tư duy, phân tích, so  sánh, tổng hợp… Giáo viên hướng dẫn học sinh phương pháp tiếp cận tài liệu rồi tiến   hành thao tác phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát và rút ra kết luận cần thiết, những kinh  nghiệm, bài học cho cuộc sống. Hơn nữa việc sử dụng tài liệu lịch sử  là yếu tố  kích thích sự  phát triển các thành  phần nhân cách của học sinh. Với những đặc trưng riêng của nó sinh động, hấp dẫn, phong   phú và có sự chú ý, sẽ tạo ra rung cảm trong bản thân các em và tạo ra những xúc cảm lịch   sử. Đây là điều kiện cơ bản để giáo dục học sinh qua dạy học lịch sử.  Ngoài ra, giáo viên hướng dẫn cho học sinh độc lập tư duy trên cơ sở tự học, trình   bày các chủ đề có liên quan tới sự kiện cơ bản, làm đồ dùng trực quan, sưu tầm tài liệu địa  phương hay bảo tàng, thư  viện, rèn luyện cho học sinh tác phong nghiên cứu khoa học,   biết sử  dụng tài liệu lịch sử  nói riêng và tài liệu môn học nói chung hợp lý và có sức lôi   cuốn. Học sinh phải tự  nhận thức về  lịch sử  quá khứ  sâu sắc hiện tại, xác định trách   nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN của chúng ta. Tài liệu văn kiện Đảng có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển toàn   diện học sinh. Nó không chỉ giúp học sinh lĩnh hội các tri thức lịch sử mà quan trọng hơn là   nắm vững các quy luật phát triển của tiến trình lịch sử trong mối quan hệ biện chứng. Văn   kiện Đảng làm cho học sinh dễ hiểu, hiểu sâu sắc và làm cho các em dể  nhớ  và ghi nhớ  một cách vững bền, nắm được bản chất, sự kiện – hiện tượng và quá khứ lịch sử. Nó góp  phần cho học sinh phát triển toàn diện, làm cho bài học lịch sử  có hiểu quả  cao hơn. Để  đạt được chất lượng như  vậy chúng ta phải sử  dụng nhiều phương pháp, biện pháp và   những phương tiện dạy học. 7.1.1.2 Đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường THPT. Đồ dùng trực quan giữ vai trò quan trọng trong dạy học Lịch sử. Do đặc điểm của   bộ môn lịch sử là không lặp lại nên chúng ta không thể  trực tiếp quan sát, không thể  tiến  hành thí nghiệm cho học sinh. Quá trình học tập của học sinh là quá trình phải đi từ  sự  kiện cụ thể đến tư duy trìu tượng. Có nghĩa là hoạt động nhận thức gồm nhiều quá trình ở  những mức độ phản ánh khác nhau: cảm giác, tri giác, tư duy, trìu tượng. Nó phải trải qua   hai giai đoạn nhận thức cảm tính và lí tính. Để  quá trình học tập lịch sử  đạt kết quả  tốt   phải tạo biểu tượng cho học sinh, thông qua biểu tượng để  hình thành khái niệm lịch sử,   nắm được quy luật, bản chất và các mối liên hệ  sự  kiện, hiện tượng lịch sử. Vì vậy đồ  dùng trực quan có  ưu thế trong dạy học lịch sử, giúp các em nhận thức được lịch sử một   cách đầy đủ nhất, làm cho các em như đang được trực tiếp chứng kiến sự kiện. Trong dạy học phổ thông, đồ dùng trực quan không phải để minh họa. Bản thân nó   chứa đựng nguồn kiến thức, là nguồn tài liệu phong phú cho việc nhận thức lịch sử, góp   phần khôi phục quá khứ một cách sinh động, chân thực, giúp cho quá trình nhận thức được   hoàn thiện hơn. Nguyên tắc trực quan là nguyên tắc cơ bản của lí luận dạy học. Đồ dùng trực quan   hoàn toàn không phải đưa vào để tăng “màu sắc” của bài giảng mà thông qua đó giúp học  sinh nhớ kĩ, hiểu sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Những hình ảnh được lưu   4
  5. giữ  lại lại đặc biệt vững chắc trong trí nhớ  là những hình  ảnh thu nhận được bằng trực  quan Đồ dùng trực quan còn phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng tư duy và ngôn   ngữ của học sinh. Nhìn vào đồ dùng trực quan nào học sinh cũng thích nhận xét, phán đoán,  hình dung quá khứ  được phản ánh, minh học như  thế  nào. Học sinh suy nghĩ và tìm cách   diễn đạt bằng lời nói chính xác, có hình ảnh rõ ràng, cụ thể về bức tranh xã hội đã qua. Như vậy, đồ dùng trực quan sẽ giúp tạo biểu tượng là điều kiện để  “biết” lịch sử  trên cơ  sở  khôi phục lại quá khứ  như  nó từng tồn tại, là cơ  sở  để  hình thành khái niệm.   Đảm bảo được quá trình giảng dạy như thế mới đưa được học sinh từ  biết đến hiểu lịch  sử. Đồ  dùng trực quan khẳng định một điều, đó chính là một trong nguồn tri thức nhận  thức lịch sử. Do đó, đồ dùng trực quan có ý nghĩa rất lớn trong giáo dục tư tưởng, cảm xúc   thẩm mĩ gây hứng thú cho học sinh và là chiếc cầu nối quá khứ và hiện tại. Do đặc trưng của bộ  môn lịch sử  nên việc tạo biểu tượng cho học sinh trong quá  trình dạy học là vô cùng quan trọng. Để tạo biểu tượng cho học sinh có rất nhiều phương  thức. Có thể  dùng phương pháp miêu tả, tường thuật với ngôn ngữ  trong sáng, gợi cảm,  giàu hình  ảnh, giáo viên sẽ  dẫn dắt học sinh trở  về  với quá khứ  của lịch sử, tạo biểu  tượng rõ ràng, cụ thể, có hình ảnh, tăng thêm tính sinh động, gợi cảm của bài giảng và gây   hứng thú cho việc học tập của học sinh. Tạo biểu tượng còn được hình thành từ  phương   pháp trực quan hay hoạt động thực tiễn cuộc sống. Dù bằng phương thức nào thì đồ dùng   trực quan vẫn có vị  trí quan trọng trong việc khôi phục và tái hiện quá khứ  lịch sử. Đồ  dùng trực quan giúp học sinh tiếp thu kiến thức nhanh, bền vững, tránh tình trạng hiện đại   hóa lịch sử. Qua mỗi phương tiện đồ  dùng trực quan, học sinh học hỏi được nhiều hơn, mở  mang được nhiều kiến thức với nhiều ý nghĩa thực tiễn. Đồ dùng trực quan sẽ thu hút chú   ý của học sinh, phù hợp với nhu cầu ham học hỏi, khám phá, không thỏa mãn với những gì   đã có. Với đồ  dùng trực quan những hình  ảnh được quan sát kĩ sẽ  đặc biệt vững chắc và  chúng ta có thể  hiểu bản chất, tư  tưởng của nó khi nó được khắc sâu vào trí nhớ  có sự  tham gia của hoạt động trìu tượng. Nếu biết cách sử dụng đồ  dùng trực quan, quá trình nhận thức tích cực sẽ  diễn ra  và vì thế giáo dục sẽ đạt kết quả tốt. Đồ dùng trực quan sẽ bồi dưỡng tư tưởng tình cẩm   cho học sinh. Qua đồ  dùng trực quan các em sẽ  có cảm xúc thẩm mĩ, trước tiên sẽ  được   thể hiện ở những nét bề ngoài đẹp hay xấu, bé nhỏ hay hoành tráng, sau đó là cảm xúc sẽ  biểu hiện ở nội dung đồ dùng trực quan. Với đồ dùng trực quan các em sẽ hiểu rõ nội dung của lịch sử. Chính điều đó có tác   dụng truyền cảm mạnh mẽ và sâu sắc, nó hình thành những phẩm chất đạo đức cần thiết   cho mỗi con người, tinh thần yêu lao động, biết trân trọng giá trị người lao động, đồng tình  với cuộc chiến tranh chính nghĩa, có thái độ đúng đắn với kẻ thù xâm lược làm nảy nở tinh  thần yêu nước, đoàn kết dân tộc phấn đấu học tập và xây dựng quê hương đất nước. Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử sẽ phát triển tư duy cho học sinh.   Rèn luyện học tập thông qua sử  dụng đồ  dùng trực quan sẽ  giúp học sinh biết phân tích,  nhận xét, phán đoán và sẽ  giúp học sinh luyện tập khả năng diễn đạt. Từ  đó khi quan sát   một vật thể nào đó, các em sẽ có cái nhìn nhạy bén, hình thành trong đầu các em những câu   hỏi cần giải đáp. 5
  6. 7.1.1.3 Ý nghĩa của việc sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy  học lịch sử ở trường THPT Sử  dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ  dùng trực quan trong dạy học lịch sử   ở  trường trung học phổ thông có ý nghĩa rất quan trọng.  Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ  dùng trực quan có thể  phát huy được hiệu   quả từng mặt riêng của cả văn kiện Đảng lẫn đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử trên   tất cả các mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.  Phương tiện trực quan có  ưu thế  trong tạo biểu tượng sinh động cho học sinh. Vì   vậy trong dạy học lịch sử khi kết hợp sử dụng văn kiện Đảng với đồ  dùng trực quan sẽ  tạo ra hình ảnh chân thực về quá khứ. Lí luận dạy học hiện đại xem nguyên tắc trực quan   là một trong những nguyên tắc cơ bản để học sinh trực tiếp quan sát, sử dụng đồ dùng học   tập, nâng cao nhận thức, rèn luyện kĩ năng thực hành… “Trong dạy học lịch sử, phương   pháp dạy học trực quan góp phần quan trọng tạo biểu tượng cho học sinh, cụ thể hóa các   sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại hóa lịch sử của học sinh” [13; tr 141] Trong dạy học lịch sử khi sử dụng văn kiện Đảng, nếu không cẩn thận thì giờ học  lịch sử dân tộc sẽ dễ bị trở thành giờ dạy học Lịch sử Đảng. Các biện pháp sư phạm phải   tập trung thể hiện sử dụng văn kiện Đảng trong dạy học lịch sử dân tộc chứ không phải là  đề cao thái quá nguồn tư liệu này trong dạy học lịch sử, càng không phải “chệch hướng”  biến giờ  học lịch sử dân tộc thành nghiên cứu văn kiện. Văn kiện Đảng phải được chú ý  sử  dụng phù hợp với nội dung của bài học lịch sử  cụ  thể  và đặt trong tổng thể  các biện  pháp dạy học lịch sử  hiện nay  ở  trường phổ  thông. Nếu kết hợp văn kiên Đảng với đồ  dùng trực quan sẽ giúp hạn chế  được vấn đề  này. Sử  dụng văn kiện Đảng phải kết hợp  chặt chẽ  với đồ  dùng trực quan bởi lẽ  nhiều văn kiện Đảng gắn với sự  kiện lịch sử   ở  nhiều vị trí, không gian cụ thể, gắn với những nhân vật lịch sử cụ thể, với các vị lãnh đạo  Đảng và nhà nước…  Hơn nữa, ngoài là một tài liệu tham khảo thì trong chương trình học một số  văn   kiện Đảng còn là những nội dung kiến thức cơ bản của bài học.  Vì vậy, sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan giúp cho học sinh củng cố,   khắc sâu kiến thức, là chỗ  dựa cho việc hình thành khái niệm, hiểu sâu sắc bản chất của  sự  kiện lịch sử. Chẳng hạn, quan sát hình  ảnh chân dung Nguyễn Ái Quốc (những năm   1930), học sinh liên tưởng ngay đến hội nghị  thành lập Đảng và “Chính cương vắn tắt”,  “Sách lược vắn tắt” do Người soạn thảo và được Hội nghị  thông qua, đó là những văn  kiện với những nội dung ngắn gọn nhưng đã chỉ  ra được đường lối cho cách mạng Việt  Nam. Hay khi quan sát  ảnh chân dung đồng chí Trần Phú, học sinh liên tưởng ngay đến  Luận cương chính trị năm 1930 và nhớ lại nội dung của văn kiện này. Nhìn hình ảnh hang  Pác Bó, học sinh sẽ nhớ ra sự kiện Hội nghị Trung  ương Đảng lần thứ VIII (tháng 5/1945)  với những nội dung quan trọng trong việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng và  sự  ra đời của Mặt trận Việt Minh. Quan sát hình ảnh Nà Lừa, cây đa Tân Trào, mái đình  Hồng Thái, học sinh dễ  dàng nhận ra những địa danh lịch sử, nơi diễn ra hội nghị  toàn  quốc của Đảng, quốc dân đại hội Tân trào với những quyết định phát lệnh tổng khởi nghĩa   giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám năm 1945… Tóm lại, sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với tài liệu trực quan có tác dụng phát huy   tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập lịch sử. Trong giờ học, các em   tỏ  ra hào hứng phân biệt, ý kiến, tranh luận sôi nổi. Nếu kết hợp tài liệu văn kiện Đảng  với đồ dùng trực quan sẽ góp phần cơ bản nâng cao hiệu quả dạy học ở trường phổ thông. 6
  7. 7.1.2 Cơ sở thực tiễn. 7.1.2.1 Về phía giáo viên Tất cả các giáo viên tuy nhận thức khác nhau về ý nghĩa của việc sử dụng văn kiện   Đảng và đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử nhưng phần lớn đều thấy rõ sự cần thiết   của công việc này. Tuy vậy, một số giáo viên lại chưa nhận thức toàn diện, đầy đủ và sâu  sắc về vấn đề này, nhất là chưa quyết tâm sử dụng. Trong thực tế còn có nhiều mâu thuẫn   giữa nhận thức và việc làm khi nhiều giáo viên cho rằng là cần thiết nhưng lại ngại khó  thực hiện. Thông thường giáo viên chỉ dừng lại ở việc thông báo một vài tài liệu trong văn   kiện Đảng để  minh họa cho sự  kiện lịch sử  đang học, có sử  dụng đồ  dùng trực quan  nhưng nhiều khi còn qua loa, chiếu lệ. Vấn đề  sử  dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ  dùng trực quan được đánh giá là hay nhưng để  làm được không phải là dễ  nên còn chưa   được áp dụng nhiều. 7.1.2.2 Về phía học sinh Hiện nay tình hình học tập môn lịch sử   ở  trường THPT đã được cải thiện hơn số  em học sinh yêu thích môn lịch sử đã tăng. Theo các em môn lịch sử giúp các em mở  rộng   thêm tầm hiểu biết về  những vấn đề  xã hội. Qua đó hiểu rõ lịch sử  nhân loại và lịch sử  dân tộc. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có nhiều em chưa thực sự quan tâm thật sự đến môn   lịch sử… Ngoài lí do học lịch sử để phục vụ cho thi tốt nghiệp, đại học, các em nhận xét   học lịch sử hiện nay quá khô khan, bài dài và khó nhớ. Trong giờ học đa số các em đã tham   gia xây dựng bài nhưng việc xây dựng bài còn mang tính chất chiếu lệ, khi kiểm tra cũng   chỉ  mong đạt điểm trung bình hoặc còn học với trạng thái uể  oải, đối phó, không nghe   giảng, không ghi chép, không làm bài tập hoặc thường xuyên sử dụng tài liệu khi kiểm tra.   Môn lịch sử thường có khối lượng được trình bày trong sách giáo khoa về nhiều con số, sự  kiện, nội dung câu hỏi thường thiên về  tái hiện kiến thức nên học sinh rât hay  ỷ  lại vào  học thuộc lòng. Đa số các em đều mong muốn một giờ học lịch sử sinh động và hấp dẫn hơn, các   em đề  thích những giờ  học thầy cô cho biết thêm nhiều kiến thức ngoài sách giáo khoa,  những giờ học thầy cô sử dụng đồ dùng trực quan… Tóm lại các em, rất thích những giờ  học áp dụng phương pháp dạy học mới, vì nó phát huy được khả  năng tư  duy, nhận thức   chủ động, độc lập, sáng tạo của học sinh. Các em thấy hứng thú hơn khi thấy tự mình góp   phần tìm ra và nắm bắt những tri thức mới của nhân loại.  7.1.2.3 Nguyên nhân của hiện trạng trên Nguyên nhân đầu tiên chính ở ngay ý thức chủ quan của giáo viên. Một số giáo viên  vẫn chưa có cách nhìn nhận, đánh giá đúng về môn lịch sử, chưa thấy được chức năng của   môn lịch sử  nước ngoài việc cung cấp kiến thức còn góp phần quan trọng vào việc giáo   dục truyền thống cách mạng, xây dựng lòng tin, niềm tự hào dân tộc cho học sinh. Vì vậy,  một bộ  phận giáo viên chưa toàn tâm toàn ý, say mê với nghề, chưa tìm ra phương pháp   dạy học sinh động, hấp dẫn, gây hứng thú, chú ý cho học sinh trong dạy học lịch sử. Sách giáo khoa đã được đổi mới về nội dung, phong phú hơn về kênh hình và kênh  chữ đồi hỏi giáo viên phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học. Tuy nhiên phương pháp  dạy học của không ít giáo viên hiện nay là “đọc chép”, “độc thoại” phần lớn thời gian trên   lớp,  ở  trên thầy làm việc là chính, phần lớn thời gian là thuyết trình của giáo viên mà  không nêu ra những vấn đề nhận thức để cho học sinh làm việc. Nếu có, giáo viên nêu ra   câu hỏi vụn vặt, chưa kích thích tư duy học sinh, chưa đòi hỏi sự tập trung suy nghĩ để tìm   câu trả  lời, các em chỉ  cần dựa vào nội dung có sẵn trong sách giáo khoa để  trả  lời. Như  7
  8. thế  các em sẽ  không chú ý, sao nhãng việc học, thậm chí làm mất trật tự  hoặc làm việc   riêng trong giờ. Thứ hai, là do quan niệm chưa đúng về bộ môn lịch sử. Từ các cấp lãnh đạo, quản  lí giáo dục đến giáo viên, cha mẹ học sinh và cả học sinh nữa đều coi lịch sử là môn phụ.   Chính vì vậy, các cấp quản lí giáo dục chưa quan tâm đầu tư cơ sở vật chất cho môn lịch   sử, coi thường môn lịch sử. Đối với giáo viên, do ý thức chủ quan nên nhìn nhận, đánh giá  chưa đúng về vai trò, chức năng của môn lịch sử. Do đó, một số giáo viên chưa tâm huyết  với nghề, chưa tìm ra phương pháp dạy học tích cực nhằm gây hứng thú học tập cho học  sinh. Còn đối với cha mẹ  học sinh cũng không thích con em mình học môn lịch sử  mà   hướng cho con mình học các môn tự  nhiên để  sau này thi vào các trường đại học có khả  năng tiền đồ cao hơn và xin việc dễ hơn. Từ đó, đa số học sinh học tập một cách đối phó,  thời gian giành cho môn lịch sử chưa nhiều… làm cho bản thân giáo viên không hào hứng   giảng dạy. Cứ như thế, chất lượng dạy môn lịch sử không cao. Thứ  ba, hiện nay, việc đổi mới nội dung, chương trình sách giáo khoa và phương  pháp dạy học yêu cầu giáo viên phải bắt kịp và cập nhật. Sách giáo khoa mới đã phong phú   hơn về kênh hình và kênh chữ đòi hỏi giáo viên phải tìm tòi sáng taọ  và có những phương  pháp dạy học tích cực, hợp lí để  thu hút sự  chú ý của học sinh. Tuy nhiên, phương pháp  dạy học của nhiều giáo viên vẫn còn bảo thủ, lạc hậu làm cho chất lượng dạy học bộ  môn chưa cao. Thực tế, nhiều giáo viên chưa rõ tầm quan trọng và chưa hiểu đúng bản  chất của đổi mới phương pháp dạy học lịch sử, thậm chí một số  giáo viên còn ngại đổi   mới. Do đó, nhiều giáo viên vẫn áp dụng phương pháp dạy học cũ cho sách giáo khoa mới.   Hiện tượng “thầy đọc”, “trò chép” vẫn còn khá phổ biến. Ở trên lớp, thầy vần làm việc là   chính, phần lớn thời gian là “thuyết trình” của giáo viên mà không nêu ra những vấn đề  nhận thức để cho học sinh cùng làm việc. Nếu có, giáo viên mới chỉ nêu ra các câu hỏi vụn   vặt, chưa kích thích được tư duy của học sinh, các em chỉ cần dựa vào những nội dung có   sẵn trong sách giáo khoa để trả lời. Như thế học sinh không hứng thú tìm hiểu về lịch sử.   Do đó không hình thành nề nếp học tập một cách thường xuyên. Thứ  tư, trong một tiết học có rất nhiều nội dung kiến thức mà thời gian có hạn,   giáo viên phải biết lựa chọn những kiến thức cơ bản kết hợp với đồ  dùng trực quan và  nhiều tài liệu tham khảo khác để khắc sâu kiến thức cho học sinh. Tuy nhiên, trên thực tế  quá trình dạy học, giáo viên chủ yếu dựa vào sách giáo khoa, rất ít bổ sung kiến thức tham   khảo để xay dựng những đoạn miêu tả, tường thuật… cho học sinh. Thậm chí có một số  giáo viên vẫn chưa chuẩn bị giáo án một cách chu đáo. Do đó, bài học lịch sử trở nên khô   khan, kém sinh động, không gây hứng thú học tập cho học sinh, các em chán học, không  chú ý trong giờ. Ngược lại, một số giáo viên lại đưa quá nhiều tài liệu tham khảo khiến   học sinh không hiểu được những kiến thức cơ  bản của bài học. Bài học lúc này trở  nên   căng thẳng, nhồi nhét, học sinh không thể theo kịp. Thứ năm, hiện nay ở các trường THPT cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học thiếu   thốn. Hầu hết các trường chưa có phòng học bộ môn. Thậm chí, ở thư viện cũng không đủ  tài liệu tham khảo cho giáo viên. Còn đối với học sinh thì ít trường mở  thư  viện cho học   sinh đọc tài liệu tham khảo. Chính vì thế, học sinh không có điều kiện tìm hiểu về  bộ  môn. Ngoài ra, còn phải kể đến yếu tố  kinh tế thị trường tác động không nhỏ đến cả  giáo viên   và học sinh. Do điều kiện khó khăn về kinh tế nên không ít giáo viên chưa quan tâm, chưa  giành nhiều thời gian đến việc giảng dạy lịch sử  một cách hiệu quả còn học sinh “quay lưng lại với môn lịch sử”. 8
  9. Từ lí luận và thực tiễn đã trình bày, là cơ sở để khẳng định sự cần thiết phải sử  dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học. Đó là cơ sở để tôi đưa  ra những biện pháp thiết thực để sự dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan  một cách hợp lí nhằm nâng cao chất lượng dạy học lịch sử trong tình hình hiện nay. 7.2 Các biện pháp sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy  học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 trong chương trình lớp 12 ban cơ  bản. 7.2.1. Nội dung cơ bản của khóa trình lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 ở lớp  12 THPT ban cơ bản Sách giáo khoa trình bày phong trào cách mạng qua các giai đoạn 1930 – 1935, 1936   – 1939, 1939 – 1945. Hậu quả của khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933, sự bóc lột tàn bạo và những cuộc   khủng bố  trắng của Pháp đã làm cho mâu thuẫn Đông Dương với Pháp trở  nên gay gắt:  “sự  áp bức bóc lột vô nhân đạo của đế  quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu rằng, có   cách mạng thì sống, không có cách mạng thì chết” [2; tr 15]. Phong trào cách mạng 1930 –  1931 đã diễn ra trên một quy mô rộng lớn, với tính chất quyết liệt triệt để, đạt tới đỉnh cao   là sự ra đời của Xô viết Nghệ Tĩnh. Trước tình hình đó Đảng họp Hội nghị Ban chấp hành  Trung ương Đảng lần thứ nhất tháng 10 /1930.Dẫu bị đàn áp dã man, song phong trào cách   mạng 1930 – 1931 được coi là cuộc diễn tập đầu tiên của Đảng cho Tổng khởi nghĩa. Từ  1932 – 1935, phong trào cách mạng nước ta tạm thời lắng xuống, bước vào giai đoạn phục   hồi, chuẩn bị cho một giai đoạn đấu tranh mới. Cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939 thể hiện rõ vai trò quan trọng của Đảng cộng   sản Đông Dương trong việc tiếp thu sáng tạo đường lối của Quốc tế  cộng sản cho phù  hợp với thực tiễn đấu tranh trong nước. Phong trào đã diễn ra dưới nhiều hình thức và đạt   nhiều thành quả.  Xuất phát từ  những biến đổi của tình hình thế  giới và trong nước khi chiến tranh   thế  giới thứ  hai bùng nổ, Đảng triệu tập hội nghị  Trung  ương lần thứ  VI (11/1939) để  quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng. Từ việc xác định rõ kẻ  thù của   nhân dân Đông Dương là đế quốc Pháp và tay sai phản động, phân tích mâu thuẫn trong xã  hội Việt Nam, Đảng nhấn mạnh: “Vấn đề  giải phóng dân tộc là nhiệm vụ  hàng đầu và   cấp bách nhất của cách mạng Đông Dương. Mọi vấn đề cách mạng khác – kể  cả vấn đề   ruộng đất đều nhằm vào mục đích đó mà giải quyết” [22; tr 104]. Để  thực hiện điều đó  Đảng chủ trương thành lâp mặt trận dân tộc thống nhất, Tháng 9/ 1940, phát xít Nhật nhảy vào xâm lược Đông Dương, thực dân Pháp đi từ  hết sự thỏa hiệp này đến thỏa hiệp khác với phát xít Nhật đẩy nhân dân ta vào cảnh “một   cổ hai tròng”, mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Đông Dương với Pháp – Nhật trở nên gay   gắt không thể  điều hòa. Vận mệnh quốc gia đòi hỏi phải giải quyết bằng một cuộc đấu  tranh một mất một còn của nhân dân với kẻ thù giành độc lập. Vì vậy, các cuộc khởi nghĩa   đã liên tiếp nổ ra: Khởi nghĩa Bắc Sơn, khởi nghĩa Nam Kì, binh biến Đô Lương Các cuộc khởi nghĩa trên đều bị  thực dân Pháp, phát xít Nhật đàn áp đẫm máu,   nhưng nó chứng tỏ  sức mạng quần chúng và đã để  lại cho Đảng ta nhiều bài học kinh   nghiệm quý báu. Chính vì vậy, ba cuộc khởi nghĩa được coi là những phát súng đầu tiên  báo hiệu thời kì đấu tranh mới của dân tộc ta.  Trước những biến đổi mau lẹ của tình hình trong nước và quốc tế, lãnh tụ Nguyễn   Ái Quốc triệu tập hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII (5/1941) tại Pác Bó – Cao Bằng  9
  10. để  hoàn chỉnh đường lối cách mạng của Đảng đã đề  ra trong hội nghị  Trung  ương Đảng  lần thứ  VI. Hội nghị tiếp tục khẳng định nhiệm vụ  dân tộc là nhiệm vụ  quan trọng hàng   đầu, đề  ra khẩu hiệu đấu tranh trong thời kì mới và quan trọng nhất là hội nghị  đã thành   lập mặt trận Việt Minh nhằm tập hợp đông đảo các lực lượng yêu nước. Trên cơ  sở  đó   mặt trận Việt Minh đã xây dựng căn cứ địa cách mạng, xây dựng lực lượng chính trị  trên   cơ  sở  các hội cứu quốc, lực lượng vũ trang là đội “Việt Nam tuyên truyền giải phóng   quân”. Sau đảo chính Nhật – Pháp (9/3/1945), Đảng đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước  làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa. Cao trào diễn ra nhiều hình thức và thúc đẩy thời cơ cách   mạng mau chóng chín muồi, lực lượng của ta nhanh chóng trưởng thành vượt bậc, kẻ thù   bị khủng hoảng, hàng ngũ phân hóa… Ta chuẩn bị những tiền đề cần thiết để khi thời cơ  đến, nhanh chóng chuyển từ khởi nghĩa từng phần sang khởi nghĩa toàn phần giành chính   quyền trong cả nước. Sau khi phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng đồng minh vô điều kiện, Đảng ta đã triệu  tập Hội nghị toàn quốc (14 – 15/8/1945) và Quốc dân đại hội Tân Trào tại Tân Trào (Tuyên   Quang) quyết định phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. 7.2.2 Một số yêu cầu chung trong sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực  quan trong dạy học Lịch sử. Việc xác định các nguyên tắc sư  phạm để  sử  dụng hiệu quả  văn kiện Đảng kết   hợp với đồ  dùng trực quan có ý nghĩa đặc biệt quan trọng giúp cho việc phát huy  ưu thế  của phương pháp bộ môn. Đồng thời trên cơ sở đó đưa ra được các biện pháp sử dụng hợp   lí. Trong dạy học lịch sử dân tộc giai đoạn 1930 – 1945 khi kết hợp văn kiện Đảng với đồ  dùng trực quan cần quán triệt một số nguyên tắc cơ bản sau: ­ Tính tư  tưởng: Việt Nam vẫn tiếp tực đi vào con đường XHCN với nền tảng chủ nghĩa   Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Giữ vững quan điểm lập trường là người cộng sản,   trách nhiệm đặt lên vai những thầy cô giáo. Nhà trường là môi trường thích hợp để  định  hướng thế hệ trẻ đi theo con đường mà Đảng và chính phủ đã lựa chọn. Đại hội Đại biểu  toàn quốc lần thứ  VII (năm 1991) đã xác định mục tiêu giáo dục và đào tạo nhằm “ nâng  cao dân trí, đòa tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức,   co tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng ,   có tinh thân yêu nước CNXH”. Chính vì vậy, sử  học đóng vai trò quan trọng mà sử  học  phục vụ chính trị  rất tốt, vì bản thân lịch sử là cuộc sống quá khứ  diễn ra trên nhiều mặt   có liên quan đến hiện tại. Văn kiện Đảng có ưu thế quan trọng trong việc thể hiện tính tư  tưởng. Còn đồ dùng trực quan đưa học sinh trở về quá khứ “chân thực” nhận thức đúng, rõ   đường lối chính trị  của Đảng. Thế  nên đảm bảo tính tư  tưởng là một nguyên tắc quan  trọng trong việc xác định và thể hiện kiến thức trong sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với   đồ dùng trực quan. ­ Tính sư phạm:  Khi thực hiện các biện pháp sư phạm nhằm sử dụng văn kiện Đảng kết   hợp với đồ dùng trực quan có hiệu quả phải căn cứ vào nhiều yếu tố, thể hiện được nội  dung phù hợp với yêu cầu của từng bài, phù hợp với khả  năng nhận thức của các em và  đảm bảo đúng phương pháp khi dạy để giáo dục thẩm mĩ cũng như kĩ năng cần thiết.  Không phải bài học lịch sử nào cũng có thể sử dụng tài liệu lịch sử như nhau, hoặc   không phải chỗ nào có đồ dùng trực quan cũng có thể sử dụng kết hợp với văn kiện Đảng.   Với những bài học lịch sử sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan cần chú   ý tính cân đối và phù hợp. Điều đó đòi hỏi giáo viên phải có khả năng phân tích, khả năng   tổng hợp hợp lí.  10
  11. Hơn nữa các biện pháp sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan đều  phải   dựa   trên   hệ   thống   phương   pháp  dạy  học   lịch   sử   ở   trường   phổ   thông   bao   gồm:  Phương pháp thông tin – tái hiện, nhận thức lịch sử, tìm tòi – nghiên cứu. Các phương pháp  này kết hợp biện chứng với nhau, tạo thành một hệ  thống hoàn chỉnh, hỗ  trợ  lẫn nhau   trong quá trình giảng dạy lịch sử   ở trường phổ  thông. Việc sử  dụng văn kiện Đảng kết   hợp với đồ  dùng trực quan dựa vào phương pháp dạy học bộ  môn sẽ  phát huy hiệu quả  của học sinh trong quá trình dạy học lịch sử. Giáo viên phải kết hợp chặt chẽ lời nói sinh   động, giàu hình ảnh, với sách giáo khoa và các phương tiện trực quan, các tài liệu học tập   khác trong các hình thức tổ chức để giờ học đạt hiệu quả. Khi sử  dụng văn kiện Đảng kết hợp đồ  dùng trực quan thì bảo đảm tính vừa sức   với học sinh là một yêu cầu quan trọng để nâng cao hiệu quả, giúp học sinh hứng thú học  tập và đạt kết quả cao. Giáo viên cần căn cứ vào khả năng nhận thức của học sinh để khai   thác nội dung văn kiện kết hợp với đồ  dùng trực quan cho phù hợp. Không được “nhồi   nhét” quá nhiều vấn đề  không cần thiết hoặc quá khó hình dung, tưởng tượng, liên hệ…   với học sinh sẽ phản tác dụng của công tác giáo dục. Để thực hiện tốt nguyên tắc vừa sức   trong học tập, giáo viên cần tính đến sự  phù hợp kiến thức với lứa tuổi, tâm sinh lí cũng  như khả năng của từng đối tượng. ­ Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan phải góp phần phát triển các năng  lực nhận thức của học sinh: Bên cạnh việc giáo dục phẩm chất con người cách mạng Việt  Nam, còn phải hình thành trí tuệ, năng lực hành động cho học sinh. Cuộc sống diễn ra vô  cùng phức tạp, đòi hỏi con người phát huy tích cực theo nó. Học sinh cần phải được trang   bị khối lượng kiến thức nhất định để đáp ứng yêu cầu thực tế khách quan. Để phát huy tối   đa hiệu quả, văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan phải phản ánh đúng nội dung   lịch sử, phản ánh đúng sự thật lịch sử. Vì thế, khi sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ  dùng trực quan phải cung cấp những sự kiện lịch sử đúng đắn nêu ra quy luật phát triển,  rút ra được bài học kinh nghiệm nhằm phát triển năng lực nhận thức của học sinh trong   quá trình dạy học. 7.2.3 Biện pháp cụ thể. 7.2.3.1 Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với tranh ảnh lịch sử. Tranh ảnh là một tư liệu quý hiếm, phản ánh một phần hiện thực của xã hội trong   một giai đoạn nhất định. Tranh ảnh lịch sử có ý nghĩa quan trọng đối với việc cung cấp các   tri thức cho học sinh.  Đó là những tài liệu trực quan giàu tính thuyết phục, tạo hứng thú say mê và tìm tòi, sáng  tạo của học sinh, tạo ra những biểu tượng sinh động chân thực về  quá khứ. Vì vậy, việc   khai thác và sử dụng tranh ảnh là một biện pháp sư phạm quan trọng cung cấp nhận thức   cho học sinh Khi sử dụng tài liệu văn kiện Đảng với tranh ảnh lịch sử có ưu thế trong việc nâng   cao nhận thức của học sinh và bồi dưỡng tình cảm đúng mực, trong sáng đối với sự kiện,   hiện tượng lịch sử. Bên cạnh sử dụng tranh  ảnh kết hợp với đồ  dùng trực quan giáo viên   cần đặt ta những câu hỏi để tập trung sự thu hút, chú ý của các em, câu trả lời của các em  là cơ sở để đánh giá trình độ của học sinh, qua đó có sự hướng dẫn, điều chỉnh về phương  pháp cũng như nâng cao trình độ của giáo viên. Trong các loại tranh  ảnh lịch sử, chân dung giữ  một vai trò quan trọng. Trong sách   giáo khoa phổ  thông,  ảnh chân dung lịch sử  thường của những nhân vật tiêu biểu, điển   hình (những lãnh đạo phong trào cách mạng, những vị lãnh đạo Đảng và nhà nước…). Do   vậy, việc kết hợp sử dụng chân dung lịch sử với văn kiện Đảng sẽ tạo ra một dấu ấn sâu   11
  12. đạm về nội dung kiến thức lịch sử. Đây cũng là biện pháp tích cực để  học sinh có những  mối liên hệ, tái tạo hình  ảnh của quá khứ. Tuy nhiên sử dụng tranh ảnh chân dung không   thôi đã không dễ, kết hợp với văn kiện Đảng càng khó hơn, cần đảm bảo các nguyên tắc   chung. Ví dụ, khi dạy bài 14: “Phong trào cách mạng 1930 – 1935”, mục 3: “Hội nghị lần   thứ  nhất Ban chấp hành Trung  ương lâm thời Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 10/1930) ”  [22; tr 94], trước khi trình bày nội dung luận cương chính trị  do đồng chí Trần Phú soạn   thảo, giáo viên cho học sinh quan sát ảnh chân dung đồng chí Trần Phú và giới thiệu: “Đồng chí Trần Phú sinh đúng ngày Quốc tế lao động (1/5/1904) tại Quảng Ngãi (nguyên   quán Đức Thọ ­ Hà Tĩnh). Từ  nhỏ đã pahir chịu cảnh cực khổ, cha mẹ mất sớm, phải tự   tìm cách sinh sống và học tập. Sau đó được nhờ  bà con giúp đỡ, ông vào học tại trường   Quốc học – Huế. Là một học sinh rất giỏi, nuôi hoài bão lớn lao, ông nhanh chóng cảm   tình rồi đi theo cách mạng, rồi trưởng thành được đào tạo tại trường Phương Đông của   Quốc tế  cộng sản. Tại hội nghị  Ban chấp hành Trung  ương Đảng tháng 10/1930, Trần   Phú được bầu làm Tổng bí thư  của Đảng cộng sản Đông Dương. Bản luận cương được   đồng chí Trần Phú soạn thảo ngay dưới hầm nhà của một viên chức người Pháp khi ông   làm bồi bếp cho hắn ở số nhà 5B – Hàng Bông (Hà Nội). Chắc không bao giờ tên thực dân   ấy có thể ngờ rằng người giúp việc bé nhỏ ấy lại đang bí mật làm một việc lớn lao, soạn   thảo bản “khai tử” cho chính quyền thực dân  ở  Đông Dương và 15 năm sau, bản án  ấy   được thi hành. Thật đau xót, ông bị bắt ngày 14/4/1931 do sự phản bội của Ngô Đức Trì. Trong nhà tù đế   quốc, ông chịu đựng mọi cực hình tra tấn dã man của kẻ  thù, giữ  vững phẩm tiết của   người cách mạng. Trước những dây phút cuối cùng của cuộc đời, ông nhắc nhở các đồng   chí của mình “hãy giữ vững chí khí chiến đấu”. Ông hi sinh lúc mới 27 tuổi đời, đó là một   tổn thất lớn cho cách mạng nước nhà”. Việc trình bày cuộc đời và hoạt động của Trần Phú gắn với giới thiệu nội dung cơ  bản trong các đoạn trích của “Luận cương chính trị” năm 1930: “Luận cương xác định   những vấn đề  chiến lược và sách lược của cách mạng Đông Dương. Cách mạng Đông   Dương lúc đầu là cuộc cách mạng tư  sản dân quyền, sau đó tiếp tục phát triển, bỏ  qua   thời kì tư  bản chủ  nghĩa, tiến thẳng lên con đường xã hội chủ  nghĩa” [22; tr 94]. Qua kết  hợp  ảnh chân dung tổng bí thư  Trần Phú với Luận cương chính trị  sẽ  khắc họa cho học   sinh hình  ảnh sâu đậm về  một nhân vật tiêu biểu và một văn kiện Đảng điển hình của  Đảng ta. Khi dạy bài 16: “Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939   – 1945). Nước Việt Nam dân chủ  cộng hòa ra đời ”, khi giảng mục IV: “Nước Việt Nam   dân chủ  cộng hòa được thành lập (2/9/1945)” [22; tr 108], giáo viên cho học sinh quan sát  hình  ảnh chân dung: “Chủ  tịch Hồ  Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập” và tường thuật:  “Ngày 2/9/1945, Hà Nội tưng bừng, rực rỡ  cờ  và hoa mừng ngày độc lập. Tại quảng   trường Ba Đình lịch sử, trên lễ  đài trang trọng, chủ  tịch Hồ Chí Minh – vĩ lãnh tụ  vĩ đại   của dân tộc ta giản dị, chỉnh tề  trong bộ quần áo kaki cao cổ. Cả  biển người hướng về   phía Bác, ai nấy đều muốn nhìn rõ khuôn mặt hiền từ, vầng trán mênh mông, đôi mắt sáng   ngời và chòm râu thưa, dài trông rất trang nghiêm và vô cùng thân thương, gần gũi. Với   giọng nói trầm ấm, mang âm sắc của miền quê xứ  Nghệ, người dõng dạc tuyên bố: “Tất   cả  các dân tộc sinh ra trên thế  giới đều có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền   sống, quyền sung sướng và quyền tự do… Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” [4;  tr 1]. Biện pháp sư  phạm đó có tác dụng củng cố, khắc sâu kiến thức lịch sử  cho học  sinh. Đông thời bồi dưỡng tình cảm tôn kính của các em đối với lãnh tụ. 12
  13. Cùng với tranh ảnh chân dung lịch sử, tranh ảnh trong sách giáo khoa cũng có tác dụng tích   cực đối với cung cấp kiến thức lịch sử  cho học sinh phổ  thông. Ví dụ, khi dạy bài 15:  “Phong trào dân chủ 1936 – 1939”[22; tr 98], giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh “Mít  tinh kỉ niệm ngày Quốc tế lao động (1/5/1938) tại khu Đấu Xảo (nay thuộc khu vực Cung   văn hóa Hữu Nghị Hà Nội” [22; tr 101] và giới thiệu cho học sinh hiểu rằng đó là cuộc mít  ting được tổ chức công khai  ở Hà Nội thu hút đông đảo quần chúng tham gia với đầy đủ  các đoàn thể đại diện cho các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội: công nhân, trí thức, thợ  thủ  công, thanh niên, phụ  nữ. Tất cả  có 2,5 vạn người hàng ngũ chỉnh tề, ngực đeo phù   hiệu,  rực   rỡ   băn   rôn,  biểu   ngữ,   biểu  dương   lực   lượng   trong   ngày  Quốc   tế   lao   động  1/5/1938, tại Đấu Xảo Hà Nội, nay là Cung văn hóa Hữu Nghị  Hà Nội. Họ  giương cao   khẩu hiệu: “Ủng hộ  mặt trận bình dân Pháp”, “Đi tới mặt trận dân chủ  Đông Dương”,  “Chống nạn thất nghiệp”, “Đi tới phổ thông đầu phiếu”, “Tự do, dân chủ” [11; tr 258] Sau đó, giáo viên có thể  nêu câu hỏi: “Những khẩu hiệu trên gắn với chủ  trương   nào của Đảng trong thời kì lịch sử này?”. Giáo viên gợi lại các văn kiện của Đảng nói về  chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Độc lập dân tộc và người cày có ruộng” để thực hiện đòi  quyền dân chủ “dân chủ đơn sơ”: “Tự do, cơm áo, hòa bình” và tranh thủ được sự ủng hộ  của chính phủ mặt trận bình dân Pháp đẩy mạnh cuộc đấu tranh công khai, bán công khai  nhằm khôi phục, củng cố lực lượng, tuyên truyền, giác ngộ quần chúng. Cũng khi dạy bài 16: “Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng Tám   (1939 – 1945)”, khi giảng phần II: “Phong trào giải phóng dân tộc từ  tháng 9/1939 đến   tháng 3/1945”, mục 3: “Nguyễn Ái Quốc về  nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Hội   nghịlần thứ VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương (5/1941) ” [22; tr  108], khi giảng về Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII, giáo viên cho học sinh quan sát  ảnh “Lán Khuổi Nậm” sau đó giáo viên giới thiệu cho học sinh biết đây là nơi họp Hội  nghị  lần thứ  VIII Ban chấp hành Trung  ương Đảng (tháng 5/1941) với những nội dung   chuyển hướng chỉ đạo chiến lược quan trọng như tiếp tục đặt nhiệm vụ  dân tộc lên làm  nhiệm vụ hàng đầu “Lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không   đòi được độc lập, tự  do cho toàn thể  dân tộc thì chẳng những toàn thể  quốc gia dân tộc   phải chịu mãi kiếp ngựa châu mà quyền lợi của bộ phận đến vạn năn không đòi được” [1;  tr 196] và chủ  trương thành lập mặt trận Việt Minh “ để  liên hiệp hết thảy các tầng lớp   nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị  đặng cùng nhau mưu   cuộc giải phóng và sinh tồn” [1; tr 149, 150], như vậy sau khi học sinh học xong học sinh   sẽ ghi nhớ được những nét cơ bản của nội dung nghị quyết. Hoặc quan sát  ảnh “Đình Tân Trào”, giáo viên giảng cho học sinh biết đây là nơi diễn ra   Quốc dân đại hội, bầu  Ủy ban dân tộc giải phóng – chính phủ  lâm thời của nước Việt  Nam dân chủ  cộng hòa sau ngày cách mạng tháng Tám thành công, nơi chủ  tịch Hồ  chí   Minh thay mặt  Ủy Ban giải phóng đọc lời thề  danh dự: “Chúng tôi những người được   Quốc dân đại biểu bầu vào  ủy ban dân tộc giải phóng để  lãnh đạo cuộc cách mạng của   nhân dân ta. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ Quốc, chúng tôi kiên quyết lãnh đạo nhân dân   tiến lên, chiến đấu chống quân thù, giành lại độc lập cho Tổ  Quốc. Dù phải hi sinh đến   giọt máu cuối cùng, quyết không lùi bước. Xin thề!” [9; tr 25,26] Và ra nơi ra đời của quân lệnh số  1: “Chúng ta phải hành động cho nhanh với một tinh   thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng” [9; tr 442] Khi giảng mục 4: “Chuẩn bị  tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền” [22; tr 109],  giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh “ Lễ thành lập đội Tuyên truyền Giải phóng quân”,  sau đó giáo viên nêu câu hỏi: “Tại sao lực lượng vũ trang của ta lại mang tên đội Việt Nam   Tuyên truyền Giải phóng quân?”, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu bối cảnh lịch sử  cuối 1944 qua sự phân tích tài liệu của chủ tịch Hồ Chí Minh:  13
  14. “Bấy giờ, thời kì phát triển hòa bình đã qua nhưng thời kì khởi nghĩa toàn dân chưa tới.   Nếu bây giờ chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào   đi tới. Nhưng phát động phong trào vũ trang khỏi nghĩa ngay quân địch sẽ  tập trung đối   phó. Cuộc đấu tranh bây giờ  phait từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Phải   tìm ra một hình thức thích hợp thì mới có thể đẩy phong trào tiến lên” [10; tr 130] Sau khi học sinh phân tích tình hình lúc bấy giờ  qua đoạn trích tài liệu trên, giáo   viên nhấn mạnh rằng, theo chỉ  thị  của Hồ  Chí Minh, đội Việt Nam Tuyên truyền Giải  phóng quân đã ra đời: “Hôm đó, là ngày 22/12/1944 lúc 5 giờ chiều, lễ thành lập được cử   hành trong một khu rừng nằm giữa Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám, đội Việt Nam   Tuyên truyền Giải phóng quân đã ra đời dưới sự che chở của anh linh hai đấng anh hùng   dân tộc” [10;tr 142] . Sau khi cho học sinh quan sát bức  ảnh 34 chiến sĩ dưới sự  chỉ  huy  của Võ Nguyên Giáp đang trang nghiêm đọc 10 lời thề danh dự dưới lá cờ Tổ quốc thiêng  liêng, giáo viên nêu câu hỏi: “Nhìn bức  ảnh các em có nhận xét gì về  lực lượng vũ trang   cách mạng của ta trong buổi đầu thành lập”. Học sinh quan sát và nhận ra rằng: Về  lực lượng cách mạng: còn non mỏng, trang phục thiếu thốn (quần áo, mũ nón những   kiếu khác nhau, giày dép không đủ, vũ khí thô sơ” Về ý chí: đầy quyết tâm, tin tưởng (nét mặt trang nghiêm). Từ  đó giáo viên kết luận vấn đề  theo nhận định của chủ  tịch Hồ  Chí Minh về  lực lượng  vũ trang cách mạng của ta khi mới ra đời: “ Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhở nhưng tiền   đề đó của nó rất vẻ vang” [6; tr 337] 7.2.3.2 Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với bản đồ, lược đồ. Bản đồ, lược đồ  được sử dụng thường xuyên trong dạy học lịch sử. Sử dụng văn  kiện Đảng kết hợp với sơ đồ, lược đồ  sẽ  tạo cho học sinh hình ảnh về  vị  trí, không gian   cụ  thể  về  sự kiện lịch sử. Chúng ta đã biết, mọi sự  kiện lịch sử  đều gắn với một không   gian cụ  thể. Bản đồ, lược đồ  là những đồ  dùng trực quan quy  ước giúp học sinh hiểu   những nơi xảy ra sự kiện lịch sử. Chỉ khi nắm vững vị trí không gian, địa điểm, điều kiện  địa lí học sinh mới có thể lí giải được vì sao sự kiện lịch sử lại xảy ra  ở nơi đó và vì sao  nó lại diễn ra như vậy. Chính vì thế, sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với tài liệu trực quan   quy  ước nói trên có tác dụng tốt trong việc củng cố, khắc sâu kiến thức lịch sử  cho học   sinh. Khi sử dụng giáo viên nên kết hợp với các câu hỏi để phát huy tính tích cực của học  sinh. Vì khi kết hợp với câu hỏi sẽ khơi gợi cho các em óc phán đoán, phân tích. Ví dụ  khi dạy bài 14: “Cao trào cách mạng 1930 – 1935”, phần II: “Phong trào   cách mạng 1930 – 1931” [22; tr90] kết họp sử dụng sách giáo khoa và bản đồ “Phong trào  Xô viết Nghệ Tĩnh” [22; tr 92], giáo viên hướng dẫn học sinh trình bày những vấn đề như  sau về phong trào cách mạng 1930 ­ 1931: ­ Quy mô: Rộng lớn từ Bắc – Trung – Nam, thu hút đông đảo quần chúng. ­ Hình thức: biểu tình, bãi công, vũ trang. ­ Tính chất: quyết liệt, triệt để. Đạp tan chính quyền địch, lập ra các Xô viết Nghệ  Tĩnh.  Các Xô viết đã thực hiện những chính sách tiến bộ, kịp thời. Và giáo viên có thể đặt ra một vấn đề cho học sinh giải quyết: “ Tại sao các Xô viết lại ra   đời ở Nghệ Tĩnh”? Giáo viên đọc cho học sinh nghe đoạn trích trong “Nghệ Tĩnh đỏ” của   Nguyễn Ái Quốc: “Địa thế hai tỉnh nhiều rừng núi, đất đai cằn cỗi, nông giang chẳng có,   ở đây thường xảy ra lụt bão, do đó nhân dân đói khát và nơi ăn, chốn ở khổ sở. Sưu thuế   nặng nề và nạn áp bức xã hội và chính trị làm cho cảnh ngộ họ càng cùng cực hơn…Trong   14
  15. thời kì Pháp xâm lược cũng như  trong các phong trào cách mạng quốc gia (1905 – 1925)   Nghệ tĩnh đã nổi tiếng. Trong cuốc đấu tranh hiện nay công nhân và nông dân Nghệ  Tĩnh   vẫn giữ truyền thống cách mạng của mình. Nghệ Tĩnh thật xứng đáng với “danh hiệu đỏ”  ” [3; tr 51, 52]  Ví dụ, khi dạy bài 16: “Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng   Tám (1939 – 1945)”, phần III. “Khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền”, mục 1: “Khởi   nghĩa từng phần (từ tháng 3 đến tháng 8/ 1945)” và phần 2: “Sự chuẩn bị cuối cùng trước   ngày Tổng khởi nghĩa” [22, tr 112, 113], giáo viên sử dụng: “Lược đồ Khu giải phóng Việt   Bắc” [22; tr 114] như sau: “Trước hết, giới thiệu về  vị  trí không gian “Khu giải phóng” bao gồm vùng giải phóng   thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang và một số ngoại   vi thuộc các tỉnh lân cận như  Bắc Giang, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Yên Bái. Tiếp đó, giáo viên   nêu câu hỏi: “Tại sao có sự ra đời của khu giải phóng Việt Bắc?”, dựa vào văn kiện Đảng,  giáo viên gợi ý cho học sinh trả lời theo các hướng sau: ­ Sau khi có bản chỉ thị: “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. “Khởi nghĩa   từng phần diễn ra giành thắng lợi chủ yếu ở những nơi nào?” ­ “Hội nghị quân sự Bắc kì hợp nhất các lực lượng vũ trang toàn quốc. Điều đó liên quan   gì đến sự ra đời của Khu giải phóng Việt Bắc”? ­ “Vì sao Hồ Chí Minh quyết định thành lập Khu giải phóng?” Việc sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với bản đồ  như vậy giúp cho học sinh nhận   thấy các vị trí không gian, nơi diễn ra khởi nghĩa từng phần giành thắng lợi, thấy rõ nơi ra  đời của Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Cứu quốc quân và nơi hợp nhất các lực   lượng vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân (Định Biên – Định Hóa – Thái Nguyên).  Chính điều đó làm cho lực lượng vũ trang phát triển mạnh, vùng giải phóng được mở rộng,  căn cứ địa ngày càng được củng cố và mở rộng . Trong bối cảnh đó, tháng 5/1945, Hồ Chí   Minh từ Cao Bằng về nước trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng trong toàn quốc. Tại   đây, vùng giải phóng được mở  rộng tạo nên giải liên hoàn giữa các tỉnh, Người chỉ  thị  “Thành lập khu giải phóng Việt Bắc”. Theo tinh thần đó khu giải phóng Việt Bắc đac ra  đời tháng 6/1945 – đó là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Cùng với những bản đồ, lược đồ  trong sách giáo khoa, giáo viên có thể  chỉ  thêm  những tài liệu trực quan để kết hợp văn kiện Đảng và các tài liệu khác trong dạy học lịch   sử. Chẳng hạn, phân tích cuộc đảo chính Nhật – Pháp trên nội dung bản chỉ thị: “Nhật –   Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta ” kết hợp với bản đồ khu vực Đông Nam Á học   sinh ghi nhận và củng cố kiến thức lịch sử tốt hơn . Nội dung bản chỉ thi đó là:  “1. Hai con chó đế quốc không thể ăn chung một miếng mồi béo bở như Đông Dương 2. Tàu, Mĩ sắp đánh vào Đông Dương, Nhật phải hạ Pháp để trừ cái họa bị Pháp đánh sau   lưng khi đồng minh đổ bộ. 3. Sống chết Nhật phải giữ  lấy cái cầu trên con đường bộ  nối liến các thuộc địa Miền   Nam Dương với Nhật vì sau khi Philuậttân bị  Mĩ chiếm đường thủy của Nhật bị cắt đứt ”  [6; tr 364] Cũng từ  đây cuộc khủng hoảng chính trị  sâu sắc diễn ra  ở Đông Dương thể  hiện trên các  mặt: “1. Hai quân cướp nước cắn xé nhau chí tử 2. Chính quyền Pháp tan rã 15
  16. 3. Chính quyền của Nhật chưa ổn. 4. Các tầng lớp đứng giữa hoang mang. 5. Quần chúng nhân dân muốn hành động” [6; tr 365] Thông qua văn kiện này cùng với bản đồ  Đông Nam Á, học sinh sẽ  nhận thấy rõ   tình hình khu vực khiến Nhật phải tiến hành đảo chính Pháp và Đảng ta đã phân tích tình   hình đúng đắn để đưa ra chỉ thị phù hợp. Từ việc quan sát bản đồ  đó học sinh sẽ  ghi nhớ  được nội dung chỉ thị của Đảng. 7.2.3.3 Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp niên biểu. Niên biểu là bảng hệ thống hóa các sự kiện quan trọng và có tác dụng rất lớn trong   giúp học sinh khái quát kiến thức và ghi nhớ  kiến thức theo mối liên hệ, liên quan giữa  chúng. Có thể  sử  dụng văn kiện Đảng để  lập niên biểu so sánh. Chẳng hạn, khi dạy bài 15:  “Phong trào dân tộc dân chủ  1936 – 1939” và bài 16: “Phong trào giải phóng dân tộc và   Tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939 – 1945). Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời” [22;  tr 98, 102], giáo viên có thể  hướng dẫn học sinh dựa vào đoạn trích văn kiện sau để  lập  bảng so sánh Mặt trận dân chủ  Đông Dương với Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế  Đông Dương: “Khác với mặt trận dân chủ chỉ là sự liên hiệp các giai cấp có ít nhiều tiến bộ, các đảng   phái cách mệnh với Đảng phái cải lương để  đòi cải cách tiến bộ, các mặt trận dân tộc,   các giai cấp, các Đảng phái, các phần tử  cơ  tính chất phản đế. Nếu mặt trận dân chủ   chưa là liệt bại các xu hướng cải lương, đề  huề, thì mặt trận, T.N.D.T.P.Đ là một mặt   trận kịch liệt chống đối các Đảng phái, các xu hướng cải lương đề  huề, làm liệt bại   chúng nó hoàn toàn trong phong trào giải phóng dân tộc” [5; tr 357 ­ 358] “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mạng phản   đế, không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện thống   nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng đấu tranh tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ   đế quốc Pháp, Nhật và các thể lực phản động ngoại xâm, diệt trừ phong kiến và các hạng   phản bội quyền lợi dân tộc, làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng… Vô sản   giai cấp phải mật thiết liên lạc với bần nông, liên minh với trung nông, tiểu tư  sản thành   thị, bắt tay tư  sản bản xứ  và địa chủ  phản đế… liên hiệp với Hoa kiều kháng Nhật và   những người Pháp chống phát xít, chống đầu hàng và có những xu hướng dân chủ, tán   thành cho Đông Dương độc lập…[6, tr 77] Không phải giai cấp vô sản ở Đông Dương bỏ  mất điền địa đi đâu, cũng không phải đi lùi một bước, mà chỉ đi lùi một bước ngắn hơn để  có sức mà bước dài hơn” [6, tr 119] Bảng so sánh: Nội dung Mặt trận dân chủ  Đông  Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế  Dương Đông Dương Hoàn cảnh Mục tiêu Lực lượng tham gia → Từ bảng so sánh đó học sinh có thể rút ra những điểm giống nhau và khác nhau giữa hai   mặt trận và lí giải tại sao có sự khác nhau như vậy. 16
  17. Có thể xây dựng niên biểu bài tập trên cơ sở các văn kiện Đảng. Ví dụ, khi học xong hết   chương giáo viên có thể ra cho học sinh một số bài tập dạng niên biểu trên cơ sở các văn   kiện Đảng tiêu biểu của ba văn kiện Đảng tiêu biểu nhất trong ba giai đoạn. Tìm nội dung văn kiện Đảng điền vào ô sau sao cho phù hợp. 1930 – 1931 1936 ­ 1939 1939 ­ 1945 Kẻ thù ………………… …………………. ……………… Nhiệm vụ ………………… …………………. ……………… Phương   pháp   đấu  ………………… …………………. ……………… tranh Hoặc một niên biểu bài tập khác giúp học sinh ghi nhớ  được thời gian, nội dung các văn  kiện qua các thời kì mà không bị nhầm lẫn.  Ví dụ  bài tập sau: Sắp xếp lại tài liệu  ở  hai cột dưới đây cho phù hợp với nhau về  nội   dung: Nội dung văn kiện Đảng Xuất xứ 1. “Ta phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn   a. “Chính cương vắn tắt” (2/1930) sàng, nhằm vào cơ hội thuận lợi hơn cả mà đánh  b. “Sách lược vắn tắt” (2/1930) lại quân thù…” c. “Luận cương chính trị” (10/1930) 2. “Chủ trương làm tư  sản dân quyền cách mạng  và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” d.   Chỉ   thị   Nhật   –   Pháp   bắn   nhau   và  hành động của chúng ta” (3/1945) 3. “Trong cuộc cách mạng tư  sản dân quyền vô  sản giai cấp và nông dân là hai động lực chính  e. Nghị quyết hội nghị Trung ương VI  nhưng vô sản có  cầm quyền lãnh  đạo thì cách  ( 11/1939) mạng mới thắng lợi được”. g.   Nghị   quyết   hội   nghị   Trung   ương   4. “Hai quân cướp nước cắn xé nhau chí tử VII (11/1940) Chính quyền Pháp tan rã h.   Nghị   quyết   hội   nghị   Trung   ương   VIII (5/1941) Chính quyền Nhật chưa ổn i. Bản quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi  Các tầng lớp đứng giữa hoang mang nghĩa (8/1945) Quần chúng nhân dân muốn hành động” k.   Thư   kêu   gọi   tổng   khởi   nghĩa   của  5.   “Giờ   quyết   định   vận   mệnh   dân   tộc   đã   đến.  Chủ tịch Hồ Chí Minh Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà   giải phóng cho ta” 6. “Chúng ta phải hành động cho nhanh với tinh   thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng” 7.3. Thực nghiệm sư phạm. 7.3.1 Mục đích thực nghiệm. Thực nghiệm sư  phạm nhằm kiểm nghiệm, chứng minh hiệu quả  của việc sử  dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ  dùng trực quan trong dạy học lịch sử Việt Nam giai   17
  18. đoạn 1930 – 1945, lớp 12 THPT. Kết quả  của thực nghiệm sẽ chứng tỏ tính khả  thi của  phần lí luận đã nêu trên và là cơ  sở  cho chúng tôi vận dụng vào quá trình giảng dạy sau   này. 7.3.2 Đối tượng và thời gian thực nghiệm. Thực nghiệm sư  phạm được tiến hành tại trường THPT Đồng Đậu ­  Yên Lạc ­   Vĩnh Phúc. Được sự  giúp đỡ  của các thầy cô nhóm bộ  môn lịch sử, tôi đã tiến hành thực   nghiệm tại 2 lớp: 12A1 và 12A2.  7.3.3 Tiến trình thực nghiệm. * Chuẩn bị cho thực nghiệm Để tiến hành thực nghiệm tôi tiến hành các hoạt động sau: ­ Xây dựng hai kiểu giáo án cho hai lớp Giáo án thứ  nhất: Dạy theo phương pháp truyền thống, chủ  yếu là thuyết trình và   sử dụng kiến thức và hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa. Giáo án này được thực hiện   tại lớp 12A1­ lớp đối chứng. Giáo án thứ hai: Sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan nhằm mục  đích tăng hứng thú cho người học. Giáo án này được dạy tại lớp 12A2­ lớp thực nghiệm ­ Chuẩn bị cho giờ dạy Gặp gỡ học sinh  2 lớp Phiếu điều tra sau giờ thực nghiệm * Tiến trình thực nghiệm Tiến trình giờ  học đối chứng: Dạy học đối chứng được tiến hành tại lớp 12A1.   Các phương pháp giáo viên tiến hành trong giờ học là: thuyết trình, vấn đáp. Trong giờ học   giáo viên đã sử dụng tư liệu sách giáo khoa là chủ yếu. Tiến trình giờ  học thực nghiệm: Dạy học thực nghiệm  được tiến hành tại lớp   12A2. Các phương pháp giáo viên tiến hành trong giờ học là: thuyết trình, hoạt động nhóm,   nêu vấn đề, sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan. 7.3.4 Kết quả thực nghiệm. Kết quả thực nghiệm sư phạm được thể hiện trên 2 tiêu chí: ­ Ý kiến đánh giá của giáo viên sau khi quan sát giờ học ­ Mức độ đạt mục tiêu bài học và không khí, thái độ học tập của học sinh. Đánh giá của giáo viên sau khi quan sát giờ học Tiết học có sự tham gia của giáo viên lớp 12A2, giáo viên đánh giá cao việc sử  dụng  văn  kiện Đảng kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử. Với việc sử dụng việc sử  dụng phương pháp này vừa đảm bảo kiến thức chung vừa kích thích tư  duy, hứng thú học  tập của học sinh khá giỏi.  Về mức độ đạt mục tiêu kiến thức bài học Điều này thể hiện trong bài kiểm tra 10 phút, học sinh làm cuối 2 tiết học. Đề  kiểm tra ở  hai lớp là giống nhau để việc so sánh được khách quan. Học sinh làm bài kiểm tra một cách   nghiêm túc và đúng thời gian. Kết quả thu được như sau: 18
  19. Bảng thống kê kết quả điều tra lớp 12A1 và lớp 12A2 Điểm số Lớp đối chứng 12A1 Lớp thực nghiệm 12A2 (45 học sinh) (46 học sinh) Số học sinh Tỷ lệ (%) Số học sinh Tỷ lệ (%) Giỏi (9­10) 1 2.2 5 10.9 Khá (7­8) 20 44.4 30 65.2 Trung bình (5­6) 19 42.2 11 23.9 Yếu, kém (
  20. môn khoa học khác. Lịch sử  chỉ  diễn ra một lần và không bao giờ  lặp lại. Bởi vậy chỉ  nhận thức lịch sử như nó vốn là điều rất khó nhưng lại rất càn thiết trong dạy học lịch sử.   Người giáo viên phải biết mức độ nhận thức của học sinh để  truyền đạt kiến thức và đẻ  giúp học sinh nhìn nhận sự kiện, hiện tượng trong quá khứ không chỉ  đơn thuần bằng lời   nói mà giáo viên còn phải kết hợp cả  cử  chỉ, điệu bộ  và phải thực sự  có xúc cảm khi   tường thuật hay miêu tả  một sự  kiện hay nhân vật nào đó, một điều không thể  thiếu là  giáo viên phải biết sử dụng các loại tài liệu lịch sử để minh họa, cụ thể hóa kiến thức cho   bài giảng, làm cho bài giảng sinh động hơn, hấp dẫn hơn đối với học sinh. Những năm gần đây, ngành giáo dục nước ta đã có nhiều cố  gắng, song hiệu quả  còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu, mục tiêu giáo dục đề ra. Đảng ta đã từng chỉ rõ   tình trạng yếu kém là do “Chậm đổi mới về  cơ  cấu, hệ  thống, mục tiêu, nội dung và   phương pháp, chưa làm tốt chức năng tham mưu và trách nhiệm quản lí của nhà nước ”  [8]. Bản thân ngàng giáo dục cũng có nhiều yếu kém, thiếu sót, mà “yếu kém chủ yếu nhất   của giáo dục hiện nay là chậm chuyển biến để  thích ứng với nền kinh tế  đang đổi mới.   Tình trạng của lạc hậu của giáo dục thể hiện từ cơ cấu, hệ thống đến mục tiêu, chương   trình và nội dung phương pháp” [18]. Vì vậy, sử dụng văn kiện Đảng kết hợp với đồ dùng   trực quan một cách hợp lí sẽ góp phần đổi mới nội dung, phương pháp dạy học trong điều  kiện lịch sử hiện nay. Thông thường có rất nhiều loại tài liệu tham khảo khác nhau, mỗi loại tài liệu có vị  trí và tầm quan trọng khác nhau như tài liệu gốc, tài liệu kinh điển, tài liệu văn học, tài liệu  văn kiện Đảng… Nhưng tựu chung lại ta thấy rằng các loại tài liệu này có tác dụng giáo   dưỡng và phát triển toàn diện cho học sinh. Tài liệu văn kiện Đảng có  ưu điểm về  sự  trung thực và chính xác, vì nó là “tiếng nói của Đảng” tôn trọng sự thật, đáng tin cậy nhất.   Đó là sự  thể  hiện chủ  nghĩa Mác – Lê nin và tư  tưởng Hồ  Chí Minh cào trong thực tiễn   nước ta.  Đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử là một phương tiện dạy học đóng vai trò là một   nguồn kiến thức “cửa sổ mở ra cho thấy hoạt động lịch sử”, chứa đựng tài liệu phong phú   cho việc nhận thức lịch sử, góp phần khôi phục lại bứa tranh quá khứ một cách sinh động,  chân thực, giúp cho quá trình nhận thức lịch sử trở nên hoàn thiện hơn. Chính vì vậy việc kết hợp văn kiện Đảng và đồ dùng trựa quan trong dạy học lịch   sử sẽ góp phần phát huy ưu thế của cả văn kiện Đảng lẫn đồ dùng trực quan; kích thích sự  suy nghĩ, tìm tòi của học sinh, làm cho học sinh có hứng thú học tập, bởi vì giờ học đó sinh   động, phong phú. Song thực tế  ở trường phổ thông ngày nay việc sử  dụng văn kiện Đản  kết hợp với đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử còn chưa phổ biến. Muốn sử dụng tài   liệu văn kiện Đảng kết hợp đồ  dùng trực quan đạt kết quả  cao không phải là điều đơn  giản, nó đòi hỏi không được sử  dụng một cách tùy tiện mà phải tuân thủ  theo những  nguyên tắc yêu cầu lí luận bộ môn đã quy định. Biết kết hợp nhuần nhuyễn các biện pháp  sử dụng, các hình thức trình bày…để từ đó có những biện pháp thích hợp. 8. Những thông tin cần được bảo mật. Không có thông tin nào trong sáng kiến cần được bảo mật 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến. ­ Về phía nhà trường: Trang bị phòng học bộ môn có đầy đủ máy chiếu và đồ dùng   trực quan. ­ Về  phía giáo viên: Sưu tầm tài liệu văn kiện Đảng liên quan đến bài học,  ứng  dụng công nghệ thông tin trong việc soạn giảng. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2