intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử lớp 8, phần lịch sử thế giới cận đại (từ giữa thế kỉ XVI đến năm 1917)

Chia sẻ: Trần Thị Tan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:13

115
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là Phương pháp dạy học nêu vấn đề có thể áp dụng vào tất cả các bài dạy lịch sử từ khối 6 đến khối 9, tuỳ theo từng bài học có thể áp dụng ở nhiều tình huống và mức độ khác nhau. Với thời gian thực nghiệm chưa nhiều, bằng sự tâm đắc về phương pháp dạy học nêu vấn đề cũng như tính hiệu quả của nó, tôi mạnh dạn trình bày quan điểm của mình trong sáng kiến kinh nghiệm nho nhỏ này với mong muốn góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học nơi tôi đang công tác.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Sử dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử lớp 8, phần lịch sử thế giới cận đại (từ giữa thế kỉ XVI đến năm 1917)

  1. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi: Hội đồng thẩm định Sáng kiến Phòng GD&ĐT huyện Hoa  Lư Ngày tháng  Trình độ chuyên  Họ và tên Nơi công tác Chức vụ năm sinh môn Trường THCS  Đại học  Phạm Thị Thơm 18/9/1978 Giáo viên Ninh An Ngữ Văn I. Tên sáng kiến kinh nghiệm Sử  dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề  theo định hướng phát triển  năng lực học sinh trong dạy học lịch sử lớp  8, phần lịch sử thế giới cận đại (từ  giữa thế kỉ XVI đến năm 1917). II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 1. Giải pháp cũ thường làm Thực tế  trong giảng dạy, đa số  giáo viên đã cố  gắng thay đổi phương  pháp giảng dạy của mình theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh như  phương pháp sử  dùng đồ  dùng trực quan, đàm thoại, ... tuy nhiên phương pháp  chủ  đạo vẫn là phương pháp tường thuật miêu tả, thuyết trình,… ít sử  dụng   phương pháp nêu vấn đề  hoặc các tình huống có vấn đề. Cách dạy học mang   tính thông báo kiến thức định sẵn, độc thoại đọc chép vẫn tồn tại. Ưu điểm của   giải pháp này là thông báo được hết những sự  kiện sách giáo khoa giới thiệu,   học sinh chỉ  cần ghi chép và học thuộc những gì mà giáo viên đã cung cấp.  Nhược điểm của giáo viên là người có sứ  mạng truyền thụ  kiến thức cho học   sinh, là trung tâm của giờ  học, còn học sinh đóng vai trò thụ  động, phải ghi   nhiều, do đó học sinh chưa thực sự  chủ  động nghiên cứu kiến thức, chưa độc   lập làm việc với sách giáo khoa, kiến thức cung cấp cho học sinh còn nặng nề  gây tâm lý không thích học bộ  môn này vì dài và trừu tượng. Do vậy việc đổi  mới phương pháp nhằm gây hứng thú cho học sinh học tập một cách say mê,  cũng như  chủ  động chiếm lĩnh kiến thức thông qua sự  định hướng của người  thầy là hết sức cần thiết.  * Nguyên nhân  + Về phía giáo viên  1
  2. ­ Một số giáo viên dạy lịch sử chưa thực sự khắc phục khó khăn, cải tiến  phương pháp, chưa thực sự  nỗ  lực vượt qua dạy học theo lối mòn, chưa tích  cực hoá hoạt động của học sinh tạo điều kiện cho các em suy nghĩ, chiếm lĩnh  và nắm vững kiến thức như vẫn còn sử dụng phương pháp dạy học “ thầy đọc,  trò chép”. Do đó nhiều học sinh chưa nắm vững được kiến thức mà chỉ  học  thuộc một cách máy móc, trả lời câu hỏi thì nhìn vào sách giáo khoa hoàn toàn. ­ Cũng vẫn còn giáo viên chưa nêu các tình huống có vấn đề  trong giờ  học, điều này làm giảm bớt sự  chú ý bài học của học sinh ngay từ  hoạt động  đầu tiên. ­ Bên cạnh đó cũng còn có giáo viên mới chỉ chú ý đến đối tượng khá giỏi   trong lớp, chưa có câu hỏi giành cho đối tượng học sinh yếu. Cho nên đối tượng   học sinh yếu ít được chú ý và không được tham gia hoạt động, điều này làm cho  các em thêm tự ti về năng lực của mình và các em cảm thấy chán nản môn học  của mình. + Về phía học sinh : ­ Học sinh chưa có sự  độc lập tư  duy, nhiều em còn đọc y nguyên sách   giáo khoa để  trả  lời câu hỏi mà chưa biết chắt lọc các chi tiết, sự  kiện để  trả  lời trúng vào nội dung cô giáo yêu cầu. Nhiều em còn lười học và chưa có sự  say mê môn học, một số bộ phận học sinh không chuẩn bị bài mới ở nhà, không  làm bài tập đầy đủ, chưa có sự đầu tư tìm hiểu các thông tin trên mạng, trên lớp   các em thiếu tập trung suy nghĩ. Cho nên việc ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng,  nhân vật lịch sử, ... còn yếu. ­ Học sinh chỉ có trả lời được những câu hỏi dễ, đơn giản (như trình bày),   còn một số  câu hỏi tổng hợp, phân tích, giải thích, so sánh, ... thì học sinh còn  rất lúng túng khi trả lời hoặc trả lời thì mang tính chất chung chung. * Điều tra cụ thể : ­  Bản thân tôi giảng dạy môn lịch sử  lớp 8A, 8B. Trong quá trình giảng  dạy ,vừa tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy, thông qua hỏi đáp với   những câu hỏi phát triển tư  duy học sinh  ở trên lớp, kiểm tra 15 phút, kiểm tra  45 phút. Kết quả  điều tra tôi nhận thấy đa số  học sinh chỉ  trả  lời được những  câu hỏi mang tính chất trình bày, còn những câu hỏi giải thích tại sao, so sánh,   đánh giá nhận thức thì các em còn rất lúng túng khi trả lời. Do vậy kết quả điều  tra cũng không cao.  Cụ thể: Lớp Sĩ số Giỏi Khá T.bình Yếu Số bài % Số  % Số bài % Số  % 2
  3. bài bài 8A 35 10 28,6 13 37,1 12 34,3 0 8B 34 10 29,4 13 38,2 11 32,4 0 2. Giải pháp mới cải tiến  Dạy học nêu vấn đề  để  phát huy tính tích cực của học sinh theo định  hướng phát triển năng lực trong dạy học lịch sử thế giới cận đại không phải là  một phương pháp riêng, mà là một kiểu dạy học được tiến hành thông qua sự  liên kết nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau, nhằm mục đích cuối cùng là  nâng cao chất lượng dạy học, phát triển năng lực cho học sinh như:  năng lực  giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực sử dụng ngôn  ngữ, …  Nói cách khác đây là một hình thức tổ  chức sự  tìm tòi kiến thức mới  trong quá trình học tập thông qua việc giải quyết các vấn đề. Có nghĩa là khi   tiến hành dạy học nêu vấn đề để phát huy tính tích cực của học sinh chúng ta sẽ  thực hiện nhiều phương pháp khác đi kèm như: Giải thích, phân tích, sử  dụng   đồ dùng trực quan có sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, đánh giá, nhận xét nêu  ra bản chất, quy luật của vấn đề lịch sử và nâng cao lên là quy luật lịch sử để đi   đến đích đó là phát triển năng lực cho học sinh đó là sự  tích cực, tự  giác, chủ  động của người học, hình thành và phát triển năng lực tự học (sử dụng sách giáo  khoa ghi chép, tìm kiếm thông tin, ...) trên cơ sở  đó trau dồi các phẩm chất linh   hoạt, độc lập sáng tạo, tư duy. Đồng thời sử dụng phương pháp nêu vấn đề  sẽ  giúp học sinh tự nhận xét, đánh giá rút ra bài học lịch sử từ những sự kiện, hiện  tượng, nhân vật lịch sử, biết vận dụng, liên hệ kiến thức lịch sử đã học để giải  quyết những vấn đề trong thực tiễn đặt ra, từ đó thể hiện chính kiến của mình  về các vấn đề lịch sử. Như vậy, dạy học nêu vấn đề  để  phát huy tính tích cực theo định hướng  phát triển năng lực học sinh nhằm phát triển năng lực tư  duy, khả  năng nhận  biết và giải quyết vấn đề là cách tổ chức dạy học gồm 3 yếu tố cơ bản sau:  * Bước thứ nhất: Dựa vào bài học tạo ra tình huống có vấn đề Tính huống có vấn đề  là trạng thái tâm lý của sự  khó khăn về  trí tuệ  đòi  hỏi phải giải quyết không thể  giải thích một sự  kiện mới bằng những lý luận  đã có, hoặc không thể thực hiện hành động đã biết bằng cách thức đã có trước   đây và phải tìm ra cách thức hành động mới.  Như  vậy, tình huống có vấn đề  là sự  nhận thức mâu thuẫn khách quan   của chủ quan, nó phụ thuộc vào vốn kinh nghiệm và trình độ hiểu biết của chủ  quan. Chúng ta có thể biểu diễn mối quan hệ giữa vấn đề và tính huống có vấn   đề  như  sau:  Thực tiễn  →  Vấn  đề   →  Chủ  quan nhận thức được  →  Tình   3
  4. huống có vấn đề Tính huống có vấn đề  là trung tâm, là điểm khởi đầu để  hình thành kiểu   dạy học nêu vấn đề. Theo V.Okon : “Nét bản chất của dạy học nêu vấn đề  không phải là việc đặt ra những câu hỏi mà tạo ra tình huống có vấn đề’’. Như  vậy tính huống có vấn đề  là cốt lõi của dạy học nêu vấn đề, không có tình   huống có vấn đề  thì sẽ  không có dạy học nêu vấn đề. Từ  đây chúng ta có thể  diễn tả  tình huống có vấn đề  trong học tập lịch sử: Trước hết là sự  xuất hiện  một mâu thuẫn đặt học sinh trước sự  cần thiết phải tìm ra cái mới, cái chưa  biết nhưng cần phải biết. Về phương pháp: Học sinh chưa biết cách lập luận,  chưa tạo được một “ con đường”, một cấu trúc tư duy để  đi từ cái đã biết sang   cái chưa biết nhưng phải biết. Tuy nhiên không phải bất cứ bài học nào chúng ta  cũng áp đặt kiểu dạy học nêu vấn đề, mà phải căn cứ vào từng bài học, có thể  tạo ra tình huống có vấn đề  thì chúng ta mới áp dụng phương pháp này. Để  có   tình huống có vấn đề chúng ta phải lưu ý các điều kiện để tạo ra tình huống có  vấn đề:  Thứ nhất : Phải tạo ở học sinh một trạng thái tâm lý đặc biệt, theo đó học  sinh xuất hiện nhu cầu nhận thức cái chưa biết nhưng cần phải biết trong tình   huống có vấn đề. Đây chính là điều kiện bên trong của tư  duy là nhân tố  có ý  nghĩa cực kỳ quan trọng mang tính chất quyết định đối với quá trình nhận thức.  Thứ hai: Nội dung của điều chưa biết nhưng cần phải biết là những kiến   thức có tính trừu tượng, khái quát tức là những khái niệm, bài học, quy luật chứ  không phải là những sự kiện lẻ tẻ rời rạc. Thứ  ba: Là điều kiện về  mặt sư  phạm đó là tính vừa sức, vấn đề  trong  tình huống có vấn đề  không quá dễ  cũng không quá phức tạp đối với trình độ  học sinh. Ở đây những điều chưa biết nhưng cần phải biết  ở mức độ  khó nhất  định so với vốn kiến thức có sẵn của học sinh. Mặt khác tình huống có vấn đề  cũng phải chứa đựng trong đó một yếu tố nào đó làm điểm xuất phát cho sự suy   nghĩ tìm tòi sáng tạo của học sinh và mức độ khó phải được nâng cao dần trong   quá trình nhận thức. * Bước thứ hai: Biểu đạt tình huống có vấn đề để phát huy tính tích   cực của học sinh trong bài giảng của giáo viên  Dạy học nêu vấn đề để phát huy tính tích cực của học sinh đặt ra yêu cầu  cao đối với giáo viên. Khi xuất hiện tình huống có vấn đề, giáo viên phải tìm  cách biểu đạt như thế nào để phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình   dạy học và phương pháp nêu vấn đề diễn ra có hiệu quả . 4
  5. Trước hết bài trình bày của giáo viên phải đặt học sinh vào trạng thái tâm   lý đặc biệt ­ một trong những điều kiện để tạo tình huống có vấn đề. Lúc đó ở  học sinh xuất hiện thắc mắc, hoài nghi mâu thuẫn trong nhận thức. Vì thế  học   sinh tò mò nhu cầu nhận thức cái chưa biết xuất hiện. Điều quan trọng là giáo  viên phải khéo léo đặt ra vấn đề  và gợi được sự  hứng thú nhận thức của học  sinh. Học sinh chỉ  hứng thú nghe giáo viên giảng khi bài học cung cấp những   kiến thức mới, khi giáo viên giảng sinh động lôi cuốn kích thích học sinh tìm tòi  học hỏi thêm ngoài những điều đã lĩnh hội trên lớp. Thứ  hai cũng qua trình bày, giáo viên phải nêu được “vấn đề” trong tình  huống có vấn đề, tức là những kiến thức có tính trừu tượng, khái quát nhất định.  Những vấn đề  này học sinh chưa biết nhưng do yêu cầu nhận thức, bắt buộc   học sinh phải biết song phải đảm bảo tính vừa sức. Thứ  ba trong dạy học nêu vấn đề, giáo viên có thể  đặt ra tình huống có   vấn đề cơ bản và những tình huống phụ trợ để giải quyết tình huống có vấn đề  cơ bản. Thứ  tư  bài trình bày của giáo viên khi gợi ra tình huống có vấn đề  phải   tạo ra được bầu không khí sáng tạo, sinh động trong lớp học. Từ đó các em sẽ  hứng thú say mê học tập tìm tòi lĩnh hội kiến thức mới. Qua bài giảng của giáo   viên chúng ta thấy được tình huống có vấn đề được tạo nên từ các cơ sở như từ  thân nội dung bài giảng, từ cách giáo viên trình bày bài giảng và hướng dẫn học   sinh tìm cách lập luận mới cho các vấn đề được đặt ra. * Bước thứ ba: Tổ chức, hướng dẫn học sinh tích cực, chủ động giải   quyết vấn đề trong tình huống có vấn đề Cơ chế chủ yếu để đảm bảo cho con người có khả năng khám phá ra một  đặc tính, một quan hệ một quy luật mới … của sự vật hiện tượng chính là sự  hình thành những mối liên hệ  giữa những điều chưa biết với những điều đã  biết. Vì vậy, để giúp học sinh giải quyết tình huống có vấn đề, giáo viên có thể  nêu những kiến thức (vấn đề) ít phức tạp để  nâng dần năng lực tự  giải quyết  vấn đề cho học sinh. Thực chất là giáo viên giúp tìm ra con đường đi đến nhận  thức điều chưa biết dựa trên điều đã biết. Điều đáng lưu ý trong dạy học nêu  vấn đề là giáo viên từ  vai trò một người truyền đạt kiến thức có sẵn trở  thành   người hướng dẫn tổ  chức, điều khiển, điều chỉnh con đường học sinh hoạt  động tích cực để  tìm đến tri thức mới bằng việc giải quyết tình huống có vấn   đề.  Dạy học nêu vấn đề  theo định hướng phát triển năng lực học sinh đặt ra  5
  6. một loạt yêu cầu đối với giáo viên không chỉ  về  mặt kiến thức mà cả  về  kỹ  năng sư  phạm. Giáo viên có thể kết hợp đan xen nhiều phương pháp trong quá  trình giảng dạy một cách khéo léo để  dẫn dắt học sinh giải quyết vấn đề. Sau   khi đặt vấn đề  nếu thấy học sinh gặp khó khăn, giáo viên phải biết cách chia   nhỏ  vấn đề  tổ  chức cho học sinh thảo luận, tranh luận với nhau  để  bổ  sung  khẳng định kết quả nhận thức. Sau đó giáo viên là người đưa ra kết luận đúng   nhất làm cơ sở cho học sinh tự hoàn thiện những điều các em vừa nhận thức. Như  vậy, quá trình tổ  chức hướng dẫn điều khiển học sinh giải quyết  tình huống có vấn đề, bên cạnh kỹ  năng linh hoạt đưa ra cho học sinh những  tình huống có vấn đề  thu nhận các liên hệ  ngược, giáo viên còn phải dựa vào  đối tượng và biết cách xác định trình độ  nhận thức của học sinh, từ  đó đưa ra  tình huống có vấn đề mà các em có thể giải quyết được. Qua thực tế giảng dạy   trực tiếp tôi thấy dạy học nêu vấn đề  thường được tiến hành dưới dạng: Nêu  câu hỏi đặt vấn đề với câu hỏi “Vì sao”, hay “Tại sao”, bằng  hai phương pháp  cụ  thể  áp dụng dạy học nêu vấn đề  theo định hướng phát triển năng lực học   sinh như sau:  a. Phương pháp trao đổi, đàm thoại nêu vấn đề Trước tiên giáo viên nêu vấn đề  định hướng nhận thức cho học sinh kích  thích sự  chú ý của các em cần tìm tòi giải quyết nội dung bài học, học sinh có   thể  thông qua “tự  làm việc” với sử  liệu, sách giáo khoa và trao đổi nhóm với   nhau, dựa trên cách tổ chức và gợi ý của thày, dưới sự  chỉ đạo của thày, sau đó   các em trình bày kết quả  nhận thức của mình về vấn đề đó, cuối cùng giáo viên  là người kết luận, giải thích làm sáng tỏ  vấn đề  qua  đó đạt mục đích dạy học  nêu vấn đề. Việc trao đổi đàm thoại trong dạy học lịch sử được tiến hành dưới  dạng sau: + Nêu vấn đề  để  tìm tòi, phát hiện kiến thức  ở  hoạt động tạo tình   huống học tập * Đối với giáo viên Tổ chức hoạt động tạo tình huống học tập bằng hình ảnh, tư liệu, câu hỏi   cho học sinh nhằm giải quyết nhiệm vụ học tập. Đây là trường hợp nêu vấn đề  lớn khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu một vấn đề  xuyên suốt một tiết học.  Những câu hỏi này là những vấn đề cơ bản của bài học mà học sinh phải nắm.  Khi nêu vấn đề ra tức là giáo viên đang gieo vào học sinh sự tập trung suy nghĩ,  đòi hỏi các em tự mình tìm tòi muốn đựơc khám phá. Tuy nhiên vấn đề  cô giáo  đưa ra không yêu cầu các em có thể trả lời ngay mà phải thông qua tìm hiểu một   6
  7. loạt các sự  kiện trong tiết học các em mới có thể  trình bày và hiểu sâu sắc  được. Trong quá trình hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung cụ  thể  trong bài   giáo viên sẽ sử dụng kết hợp với các phưong pháp khác có mối liên hệ chặt chẽ  với dạy học nêu vấn đề  như: Phương pháp thông tin tái hiện lịch sử  (Tường  thuật, miêu tả, giải thích, nêu đặc điểm, sử  dụng đồ  dùng trực quan, sử  dụng  các loại tài liệu), hoặc phương pháp nhận thức lịch sử  (gồm các thao tác sư  phạm như sử dụng sách giáo khoa, tài liệu trao đổi, phân tích khái quát rút ra kết  luận bài học lịch sử) ...   * Đối với học sinh Câu hỏi loại này thường là câu hỏi có tính chất bài tập muốn trả lời phải   huy động kiến thức cơ  bản của toàn bài. Chính vì vậy học sinh phải chuẩn bị  bài và trả lời trước các câu hỏi cuối mục ở nhà, chú ý, tập trung cao độ theo dõi  bài giảng, chọn lọc sự kiện và trình bày trên lớp. ­ Khi dạy bài 1: “ Những cuộc cách mạng tư sản đầu tiên”( Sgk lịch sử 8  trang 3), giáo viên cho học sinh xem một đoạn clip về  đất nước hà Lan sau đó   hỏi: Em biết gì về tình hình Hà Lan thế kỉ XVI? Sau đó là các câu hỏi: Các em đã  nghe đến cụm từ  ‘‘cách mạng và cách mạng tư  sản’’ vậy em hiểu thế  nào là  cách mạng? Đặc điểm của cách mạng tư sản là gì? cuộc cách mạng tư sản nào  là cuộc cách tư sản đầu tiên? Qua quá trình nghiên cứu bài, các em chủ động nêu   ý hiểu của mình: “Cách mạng là cuộc biến đổi xã hội­ chính trị lớn và căn bản,   thực hiện bằng việc lật đổ  một chế  độ  xã hội lỗi thời, lập nên một chế  độ  xã   hội mới, tiến bộ” và từ sự hướng dẫn của giáo viên bước đầu học sinh đã hiểu  cách mạng là gì trên cơ sở đó kết hợp câu hỏi thứ hai, ba để giới thiệu bài mới.  Từ cách đặt vấn đề này học sinh sẽ thấy bài học hấp dẫn và mong muốn được   tìm hiểu để  biết về  cuộc cách mạng tư  sản đầu tiên và đặc điểm của cách   mạng tư sản. ­ Khi dạy bài 4: Phong trào công nhân và sự  ra đời của chủ  nghĩa Mác.  Học sinh quan sát những bức ảnh:  Ảnh công nhân nữ đang quan sát chi tiết máy  trong điều kiện không có dụng cụ  bảo vệ  mắt;  Ảnh công nhân đang lao động  trong nhà xưởng; Ảnh trẻ em đang đẩy xe trong hâm mỏ và trả lời các câu hỏi:  Ba bức ảnh trên phản ánh điều gì? Em biết gì về điều kiện lao động, sinh hoạt  của công nhân thế  kỉ  XIX? Tổ  chức nào dứng ra bảo vệ  quyền lợi của công  nhân.Từ  đó thấy được những vất vả  của công nhân trong lao động và đó là  nguyên nhân dẫn đến phong trào đấu tranh của công nhân. ­ Khi dạy bài 5.“Công xã Pa ri 1871”(Sgk lịch sử 8 trang 35), giáo viên nêu  câu hỏi đầu tiết học: Vì sao nói “Công xã Pa ri là một hình ảnh thu nhỏ của nhà  7
  8. nước kiểu mới – nhà nước của dân, do dân, vì dân”. Câu hỏi vì sao sẽ kích thích   trí tò mò của học sinh, từ đó lôi cuốn các em say mê, tìm hiểu bài học dưới sự  hướng dẫn của cô giáo để  rồi cuối bài các em trả  lời được câu hỏi mà cô giáo  nêu ra. ­ Tương tự như vậy, giáo viên nêu vấn đề ở hoạt động khởi động đối với  bài 13: “Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914­1918)”(Sgk lịch sử 8 trang 70), giáo  viên kích thích nhận thức, sự ham hiểu biết của học sinh bằng cách cho học sinh  xem đoạn clip về chiến tranh thế gới, sau đó hỏi: Đoạn clip nói về sự kiên lịch  sử nào? Em hiểu gì về sự kiện lịch sử đó?  Như vậy, đối với một số bài học khi áp dụng phương pháp nêu vấn đề để  tìm tòi phát hiện kiến thức mới  ở  đầu giờ  học giáo viên đã góp phần giúp các  em hình thành các phẩm chất tự lập, tự tin, tự chủ, tinh thần vượt khó và những  năng lực tự  học để  khám phá, tìm tòi kiến thức mới, năng lực sáng tạo gợi sự  hứng thú, tự  do suy nghĩ, chủ  động nêu ý kiến, không quá lo lắng về tính đúng  sai của ý kiến. Từ đó kích thích sự  tò mò, lòng khát khao mong muốn tìm hiểu   những điều chưa biết ở hoạt động hình thành kiến thức mới của bài học.   + Nêu vấn đề  để  tìm tòi phát hiện kiến thức mới và phân tích kiến   thức ở hoạt động hình thành kiến thức.  Trong trường hợp này chúng ta sử câu hỏi nêu vấn đề về sự phát sinh các   sự kiện, hiện tượng lịch sử mà chúng ta thường hỏi về nguyên nhân, điều kiện,  bối cảnh hay hoàn cảnh lịch sử  của sự  kiện, hiện tượng lịch sử  và thường áp  dụng cho đối tượng học sinh yếu kém. Ví dụ: ­ Khi dạy bài 3 mục I “Cách mạng công nghiệp”(Sgk lịch sử  lớp 8 trang  18), giáo viên cho học sinh quan sát hình ảnh và nêu câu hỏi:Tại sao cách mạng  công nghiệp lại diễn ra ở Anh trước tiên?  Vì sao nền kinh tế của Anh, nửa đầu  thế  kỷ  XIX lại phát triển như  vậy?  Với những dạng câu hỏi nêu vấn đề  này  mức độ  yêu cầu không cao lắm song vẫn đòi hỏi sự  làm việc tích cực của học   sinh với sách và sự tư duy tích cực của các em. Cách mạng công nghiệp diễn ra   ở  Anh trước tiên vì nước Anh sớm có đủ  những tiền đề  cho cách mạng công   nghiệp như: Sớm làm cuộc cách mạng tư  sản, tích luỹ  được nguồn vốn lớn,  nhân công đông đảo, cải tiến kỹ thuật.   ­ Khi dạy bài 4 mục I “ Phong trào công nhân nửa đầu thế  kỉ  XIX  ”(Sgk  lịch sử lớp 8 trang 28), giáo viên nêu câu hỏi: Vì sao ngay từ lúc mới ra đời giai  cấp công nhân đã đấu  tranh chống chủ nghĩa tư bản?  Giáo viên gợi mở để học  sinh trình bày theo hướng sau: Ngay từ đầu giai cấp công nhân đã là đối tượng  bóc lột của giai cấp tư  sản, cường độ  bóc lột ngày càng tăng lên, người công   8
  9. nhân phải lao động từ 12 giờ lên đến 14 giờ thậm chí 16 giờ nhưng họ chỉ nhận   được đồng lương chết đói, bị cúp phạt cắt xén, bên cạnh đó họ còn bị đánh đập,  bị  sa thải bất cứ  lúc nào, phụ  nữ  và trẻ  em còn phải chấp nhận những đồng  lương ít ỏi hơn trong khi đó điều kiện lao động vô cùng tồi tàn, họ không được  coi trọng tính mạng trong quá trình lao động, Giai cấp công nhân đã ý thức được   cần phải đấu tranh để đòi lại sự công bằng, họ thấy rõ bản chất của giai cấp tư  sản, đó chính là nguyên nhân dẫn đến giai cấp công nhân ngay từ  khi ra đời đã  đấu tranh chống lại giai cấp tư sản.    Với những dạng câu hỏi nêu vấn đề   ở  mức độ  gợi mở  như  trên, đòi hỏi   sự làm việc và sự tư duy tích cực của các em, cuốn hút các em vào bài học và từ  đó tiếp tục rèn luyện cho các em những phẩm chất và năng lực cần thiết như tự  học, phân tích, giải quyết tình huống, sáng tạo trong việc giải quyết câu hỏi và  trả lời các câu hỏi, có sự liên hệ giữa lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam.   + Nêu vấn đề để củng cố nâng cao kiến thức ở hoạt động luyện tập.  Trường hợp này vấn đề  nêu ra đòi hỏi sự tư duy cao hơn của các em. Từ  việc hiểu nắm được các sự kiện hiện tượng lịch sử, các em phải biết xâu chuỗi   huy động kiến thức đã học với kiến thức vừa mới tiếp nhận có hệ thống rồi rút   ra nhận xét đánh giá sự kiện hoặc nhân vật lịch sử, có sự so sánh tìm thấy điểm  giống hoặc nét độc đáo trong lịch sử, từ  đó rút ra bản chất của sự  kiện hiện   tượng.Ví dụ: ­ Khi dạy xong bài 2: “Cách mạng tư sản Pháp”( Sgk lịch sử 8 trang 10),  giáo viên đặt câu hỏi để  học sinh thảo luận nhóm: Cách mạng tư  sản  ở  các   nước châu âu diễn ra dưới những hình thức nào? Tại sao các cuộc các mạng tư  sản diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng đều là cuộc cách mạng tư  sản? Giáo viên gợi mở:Tuy giai cấp lãnh dạo cách mạng tư  sản  ở  mỗi nước  khác nhau nhưng đều có mục đích lật đổ  chế  độ  phong kiến quét sạch mọi  chướng ngại, cản trở kìm hãm cách mạng mở đưòng cho các nước chuyển mình   sang chế  độ  tư  bản chủ  nghĩa. Tuy nhiên mức độ  thành công  ở  mỗi nước có  khác nhau. ­ Khi dạy xong bài 6:  “Các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ cuối thế  kỉ  XIX­   đầu Thế  kỉ  XX”( SGK lịch sử  8 trang 39), giáo viên tổ  chức cho học sinh thảo   luận: Tại sao gọi Anh là “Chủ nghĩa đế quốc thực dân”, Pháp là “Chủ nghĩa đế  quốc cho vay lãi”, Đức là “Chủ nghĩa quân phiệt hiếu chiến”, Mĩ là “xứ  sở của  các ông vua ô tô”?  Đây là đặc điểm nổi bật của các đế quốc, khi nhìn vào người  ta thấy những đặc điểm đó rõ nhất và nêu được bản chất của các đế quốc Anh,  Pháp, Đức, Mĩ. 9
  10. Với các câu hỏi nêu vấn đề tổng hợp này giáo viên có thể cho các em thảo  luận cặp, bàn hoặc nhóm. Từ  nội dung các câu hỏi, từ  phương pháp tổ  chức   giáo viên tiếp tục giúp các em học sinh rèn luyện các năng lực sáng tạo, quản lí,  giao tiếp, hợp tác với các thành viên trong nhóm và năng lực sử dụng ngôn ngữ  để nêu ý kiến trình bày vấn đề thảo luận.    b. Phương pháp quan sát nêu vấn đề  Đây cũng là một dạng nêu vấn đề  thông qua phương pháp sử  dụng đồ  dùng trục quan. Phương pháp này yêu cầu tương đối cao đối với học sinh, các  em tự mình tìm hiểu tranh ảnh, lược đồ thông qua kênh chữ ít ỏi để suy xét phán  đoán bản chất của sự  kiện ý nghĩa sâu xa của bức tranh hoặc ô chữ  nào đó có   liên quan đến bài học. Vấn đề  này dành cho mọi đối tượng học sinh cho phép  các em tự  do tư  duy, liên tưởng, tưởng tượng dưới sự  điều khiển của người  thày. Ví dụ: ­ Khi dạy bài 2: “Cách mạng tư  sản Pháp”(Sgk lịch sử  8 trang 10), giáo  viên nêu vấn đề: Em hãy quan sát bức tranh hình 5 và cho biết tình hình kinh tế  và xã hội Pháp trước cách mạng như  thế  nào? Giáo viên gợi mở  để  học sinh  thấy ý nghĩa sâu xa của bức tranh, cuối cùng hướng cho các em rút ra ý nghĩa  phản ánh của bức tranh: Hình  ảnh ‘‘người nông dân Pháp cõng trên lưng đại  diện của quý tộc và tăng lữ’’ phản ánh xã hội Pháp trước cách mạng có sự phân   hoá đẳng cấp sâu sắc, đặc biệt người nông dân vô cùng lầm than bị  nhiều đối  tượng bóc lột nhũng nhiễu: tăng lữ, quý tộc và động vật như  chim chuột. Bên  canh đó hình ảnh chiếc cuốc mà người nông dân cầm trong bức tranh cũng phản  ánh trình độ  sản xuất nông nghiệp của nước Pháp rất thấp kém, lạc hậu do đó  người trực tiếp chịu hậu quả của nền nông nghiệp lạc hậu chính là nông dân.   Đây cũng là lý do khiến nông dân Pháp tích cực tham gia vào cuộc cách mạng và   luôn đẩy cách mạng đi lên không ngừng, họ lực lượng đông đảo của cách mạng,  là người rất trung thành với cách mạng ­   Khi   dạy   bài   4:   “Phong   trào   công   nhân   và   sự   ra   đời   của   chủ   nghĩa  Mác”(Sgk lịch sử  8 trang 28), giáo viên yêu cầu học sinh quan sát hình 24, kết  hợp kênh chữ thảo luận câu hỏi: Em có suy nghĩ gì về bức tranh “Lao động trẻ  em trong hầm mỏ   ở  Anh”? Và vì sao giới chủ  lại thích sử  dụng lao động trẻ  em? Học sinh quan sát bức tranh thảo luận và nêu ý kiến của mình về bức tranh.   Giáo viên định hướng đi đến kết luận: Trẻ em phải lao động cực nhọc trong các  nhà máy, hầm mỏ  với điều kiện lao động rất tồi tàn, công việc là quá sức đối  với các em; Giới chủ thích sử dụng lao động trẻ em vì trả công rẻ mạt. Quan sát  và thảo luận học sinh sẽ hiểu được tình cảnh của những người công nhân Anh  10
  11. và gia đình họ, nguyên nhân vì sao công nhân đấu tranh, khơi gợi sự đồng cảm,  thấy được giá trị  tốt đẹp của cuộc sống hôm nay mà các em đang sống, đang  được hưởng thụ, từ đó các em sẽ sống tốt hơn, trách nhiệm hơn với gia đình và  xã hội. Như vậy, trong quá trình giảng dạy  ở trên lớp, giáo viên  phải luôn biết  đặt ra các vấn đề  hoặc tình huống có vấn đề, từ  đó học sinh thấy mình phải   chủ  động học tập và được kích thích học tập. Giáo viên có nhiệm vụ  gợi mở  giúp học sinh giải quyết các vấn đề  vừa mang tính chất nhận thức kiến thức,   vừa tư  duy tìm hiểu sâu lịch sử  từ  đó rút ra ý nghĩa bản chất của vấn đề. Là  được như  vậy tức là giáo viên đã  tạo ra mối liên hệ  bên trong của học sinh và   giữa học sinh với giáo viên.     Trong sách giáo khoa, thường sau mỗi mục, mỗi bài có từ 1 đến 3 câu hỏi,  những câu hỏi này là cơ sở để giáo viên xác định kiến thức trong sách, đồng thời  bổ sung để xây dựng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề  của bài học. Vấn đề  đưa ra  phải có sự chuẩn bị từ khi sọan giáo án, phải có dự kiến nêu ra lúc nào. Rõ ràng   việc sử dụng dạy học nêu vấn đề còn là một nghệ thuật. Những vấn đề  đặt ra   bắt buộc học sinh phải suy nghĩ, phải kích thích được lòng ham hiểu biết, trí  thông minh, sáng tạo của học sinh. Đặc biệt là giúp học sinh yếu kém tích cực   hoạt động và dần dần hình thành kiến thức cơ bản cho các em qua đó các em có   hứng thú học tập.  Bên cạnh đó, đồ dùng trực quan còn phát triển khả năng quan   sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của học sinh. Mỗi khi quan sát vào loại   đồ dùng trực quan nào, học sinh cũng thích nhận xét, phán đoán, hình dung xem  quá khứ lịch sử được phản ánh, minh họa như thế nào? Từ  đó các em  mới suy   nghĩ và tìm cách diễn đạt bằng lời nói chính xác, có hình ảnh rõ ràng, cụ thể về  bức tranh xã hội đã qua. Với tất cả  ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục và phát triển nêu trên, đồ  dùng   trực quan góp phần to lớn nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, gây hứng thú  học tập cho học sinh, giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu sâu những hình ảnh, những sự  kiện, kiến thức lịch sử. Nó là chiếc “cầu nối” giữa hiện thực với quá khứ,   khách quan với đời sống hiện tại và qua đó giáo viên đạt được mục đích rèn  ruyện cho các em những phẩm chất năng lực cần thiết như năng lực thực hành  với đồ  dùng trực quan, năng lực tự  học, năng lực giao tiếp, năng lực sử  dụng  ngôn ngữ để diễn đạt điều mình suy nghĩ về các đồ dùng trực quan…. III. Hiệu quả dự kiến đạt được Qua thực tế  giảng dạy áp dụng “Phương pháp dạy học nêu vấn đề  để   theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử   ” tôi thấy  hiệu quả chất lượng học tập lịch sử của học sinh được nâng lên rõ rệt về tất cả  11
  12. các mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Đây là hoạt động tương hỗ  giữa  thầy và trò nhằm giúp cho học sinh độc lập lĩnh hội kiến thức một cách thông  minh, vận dụng một cách sáng tạo vào thực tế (học tập và cuộc sống). Điều này  quan trọng và đòi hỏi nhiều công sức, lao động sáng tạo, ý thức tinh thần trách   nhiệm cao của mỗi một giáo viên. Và cần đòi hỏi phát triển năng lực tư duy và   hành động của mình trước khi giáo dục cho học sinh, cho nên phải nắm vững lý  luận, rèn luyện nghiệp vụ  thường xuyên. Phương pháp dạy học nêu vấn đề  thực sự hiệu quả hơn nhiều so với phương pháp dạy học truyền thống (Truyền   thụ kiến thức theo một nội dung, chương trình được quy định sẵn mang tính cố  định   bắt   buộc   giáo   viên   và   học   sinh   phải   thực   hiện   trình   tự   bài   học).   Với   phương pháp  này giáo viên chuyển sang vai trò người tổ  chức hướng dẫn học   sinh tự tìm đến kiến thức, tích cực hoá trong việc nhận thức lịch sử. Như vậy,   trong “dạy học nêu vấn đề” với những ưu điểm của mình, tôi thấy kinh nghiệm  này có ý nghĩa, góp phần thiết thực vào việc nâng cao chất lượng bộ môn nhất  là việc phát triển năng lực nhận thức các vấn đề  lịch sử   ở  học sinh, phát huy  được tính tích cực chủ động lĩnh hội kiến thức lịch sử.   Tiến hành dạy một tiết lịch sử có ứng dụng “ Phương pháp dạy học nêu   vấn đề để theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong dạy học lịch sử  ”  Bài 5: Công xã Pa ri 1871 ­ Địa điểm: tại lớp 8A trường THCS Ninh An– Huyện Hoa Lư­ Ninh Bình  . ­ Kết thúc bài học giáo viên tiến hành kiểm tra sự nhận thức của học sinh   tại lớp 8A và 8B. Trong đó, lớp 8B không ứng dụng phương pháp dạy học nêu  vấn đề, lớp 8A là lớp giáo viên đã sử dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề. Kết quả cụ thể như sau Loại giỏi Loại khá Loại T.bình Lớp (Sĩ số) Tỉ lệ   Tỉ lệ Số bài Số bài Tỉ lệ % Số bài % % 8B (34) (Đối chứng) 11 32,4 13 38,2 10 29,4 8A   (35)   (Thực   15 42,8 12 34,3 8 22,9 nghiệm) Nhận xét sau khi thực nghiệm Bằng kết quả thực nghiệm sư phạm cho thấy, kết quả lĩnh hội kiến thức   của học sinh lớp thực nghiệm cao hơn hẳn lớp đối chứng. Vì vậy bản thân đã   nhận thấy rằng dạy học nêu vấn đề  rất phù hợp với chương trình sách giáo  khoa và với những tiết dạy theo hướng đổi mới. Học sinh có hứng thú học tập   12
  13. hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng thời cũng rất   linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và phát triển kĩ năng.  Không khí học tập sôi nổi, nhẹ  nhàng và học sinh yêu thích môn học hơn. Tôi  cũng hi vọng với việc áp dụng kinh nghiệm này, học sinh sẽ  có cách lĩnh hội  kiến thức mới mẻ  và tiếp thu kiến thức lịch sử  một cách sâu sắc hơn và đặc  biệt sẽ yêu thích môn học này hơn.   IV. Điều kiện và khả năng áp dụng  Phương pháp dạy học nêu vấn đề  có thể  áp dụng vào tất cả  các bài dạy   lịch sử từ khối 6 đến khối 9, tuỳ theo từng bài học có thể áp dụng ở nhiều tình  huống và mức độ  khác nhau. Với thời gian thực nghiệm chưa nhiều, bằng sự  tâm đắc về  phương pháp dạy học nêu vấn đề  cũng như  tính hiệu quả  của nó,  tôi mạnh dạn trình bày quan điểm của mình trong sáng kiến kinh nghiệm nho   nhỏ này với mong muốn góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học nơi   tôi đang công tác. Trên đây là kinh nghiệm nhỏ  mà bản thân tôi đã đúc rút trong quá trình  giảng dạy. Tôi biết rằng vốn trải nghiệm của tôi còn rất ít  ỏi mà kho tàng tri  thức của loài người thì vô tận, hơn nữa là giáo viên phải luôn làm mới mình  trước học sinh không chỉ bằng tri thức mà còn bằng cả cách thức truyền đạt có  sức  thuyết  phục  hấp dẫn có  như  vậy mới  đáp  ứng  được yêu cầu  đổi mới   phương pháp dạy học hiện nay của nền giáo dục nước nhà. Tôi thiết nghĩ bản  thân tôi còn phải trau dồi kiến thức nghiệp vụ  cũng như  học hỏi đồng nghiệp  nhiều hơn nữa để  theo kịp yêu cầu chung của xã hội. Tôi rất mong được đón  nhận ý kiên đóng góp của các bậc thày, đồng nghiệp và những người yêu nghề  sư phạm để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn chỉnh hơn.  Tôi xin chân thành cảm ơn !                                                                          Ninh An, ngày 12  tháng 3  năm 2018 Xác nhận của cơ quan đơn vị               Tác giả sáng kiến 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2