intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sự chuyển biến hình tượng trong đồ án trang trí trên công trình kiến trúc chùa Hội Khánh

Chia sẻ: Liễu Yêu Yêu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

17
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Sự chuyển biến hình tượng trong đồ án trang trí trên công trình kiến trúc chùa Hội Khánh" nghiên cứu về sự chuyển biến hình tượng trong đồ án trang trí trên công trình kiến trúc chùa Hội Khánh nhằm phân tích giá trị nghệ thông qua các hình tượng trang trí và các yếu tố tạo hình trên các đồ án trang trí. Từ đó, làm rõ nhận định đồ án trang trí trên công trình kiến trúc chùa Hội có yếu tố tiếp nối truyền thống của dân tộc và kết hợp với sự tiếp biến văn hóa du nhập của các dạng thức này. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sự chuyển biến hình tượng trong đồ án trang trí trên công trình kiến trúc chùa Hội Khánh

  1. SỰ CHUYỂN BIẾN HÌNH TƯỢNG TRONG ĐỒ ÁN TRANG TRÍ TRÊN CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC CHÙA HỘI KHÁNH Nguyễn Thị Hà1 1. Giảng viên Khoa Công nghiệp Văn hóa. Email liên lạc: hant @tdmu.edu.vn TÓM TẮT Chùa Hội Khánh là một trong những ngôi chùa cổ tại Bình Dương được xây dựng vào giữa thế kỷ XVIII. Ngôi chùa này mang trong mình giá trị lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng và nghệ thuật rõ nét đặc trưng của vùng Đông Nam Bộ nói chung và Bình Dương nói riêng. Đề tài nghiên cứu về sự chuyển biến hình tượng trong đồ án trang trí trên công trình kiến trúc chùa Hội Khánh nhằm phân tích giá trị nghệ thông qua các hình tượng trang trí và các yếu tố tạo hình trên các đồ án trang trí. Từ đó, làm rõ nhận định đồ án trang trí trên công trình kiến trúc chùa Hội có yếu tố tiếp nối truyền thống của dân tộc và kết hợp với sự tiếp biến văn hóa du nhập của các dạng thức này. Nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp liên ngành kết hợp với điền giả thực tế ghi chép, phân tích, tổng hợp để đưa ra đánh giá về ý nghĩa các hình tượng trang trí trên đồ án có sự giao thoa tiếp biến với đồ án trang trí truyền thống Việt Nam. Tham luận này góp phần vào việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa, nghệ thuật truyền thống dân tộc trong thời đại ngày nay. Từ khóa: Chùa Hội Khánh, Đồ án trang trí, Hình tượng trang trí 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Chùa Hội Khánh là một trong những ngôi chùa đầu tiên được dựng lên tại Bình Dương nói riêng và vùng Đông Nam Bộ nói chung. Năm 1741, chùa ban đầu chỉ là một am tu nhỏ được thiền sư Đại Ngạn khai sơn. Về sau với sự phát triển về số lượng của các tín đồ, ngôi chùa đã được xây dựng thành ngôi chùa Hội Khánh. Ban đầu chùa được xây dựng trên một ngọn đồi, khi Pháp xâm lược cùng với những cuộc đánh phá tàn khốc, ngôi chùa cũng đã bị đốt cháy vào năm 1861. Cho đến năm 1868, ngôi chùa được cho xây lại và vị trụ trì lúc đó là Hòa thượng Chánh Đắc đã quyết định dời công trình xuống chân đồi, là vị trí chùa tọa lạc cho tới ngày nay. Trong chín đời trụ trì đã viên tịch, có Hòa thượng Từ Văn trong thời gian trụ trì đã chú ý một cách đặc biệt đến yếu tố trang trí, điêu khắc trong trang trí nội thất. Vì vậy ngôi chùa đã phát triển phong phú hơn các thời trụ trì trước với nhiều bộ bao lam và đa dạng hình tượng trang trí như: Tứ linh, Cửu Long, Dây lá… (Thích Huệ Thông, 2015). Sau này, thông qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, không chỉ phần kết cấu kiến trúc được chú trọng mà hệ thống các đồ án hoa văn trang trí cũng được xem như một phần không thể tách rời trong tổng thể kiến trúc tại chùa Hội Khánh. Mặc dù trãi qua nhiều đợt trùng tu nhưng những nét đặc trưng cơ bản ban đầu của một chùa cổ vẫn được gìn giữ. Với vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống văn hóa, tín ngưỡng và giá trị nghệ thuật của ngôi chùa trong dòng chảy lịch sử dân tộc, năm 1993 chùa được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là Di tích lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia. 139
  2. Nghiên cứu nghệ thuật trang trí trên các công trình kiến trúc cổ ở miền Đông Nam Bộ nói chung và tại chùa Hội Khánh nói riêng luôn luôn là một lĩnh vực hấp dẫn người yêu nghệ thuật truyền thống. Hiện nay, mặc dù ngày càng nhiều công trình nghiên cứu về đề tài rộng lớn này, tuy nhiên, khía cạnh nghiên cứu về sự chuyển biến giữa các hình tượng trang trí tại chùa Hội Khánh tại Bình Dương chỉ được nhắc tới như một sự điểm xuyến, mang tính chất liệt kê chứ chưa thật sự chú trọng về nghệ thuật tạo hình và nhận diện giá trị nghệ thuật. Đây là một khía cạnh cần được nghiên cứu kỹ hơn nhằm nêu bật giá trị nghệ thuật cũng như giá trị tư tưởng, từ đó nhấn mạnh sự độc đáo từ hình thức đến nội dung và vai trò của dạng thức hình tượng trang trí trong hệ thống đồ án trang trí trên công trình kiến trúc tại chùa Hội Khánh. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp khái quát về mặt lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng từ các nguồn tài liệu đã có kết hợp với điền dã thực tế, ghi chép, chụp hình, từ đó phân tích sự chuyển hóa của các hình tượng và làm nổi bật giá trị của nghệ thuật cũng như ý nghĩa của sự chuyển biến này. Ngoài ra, nghiên cứu còn được tiếp cận theo phương pháp liên ngành như tôn giáo học, lịch sử học, kiến trúc, mỹ thuật học để tiếp cận phân tích và nhận diện các biểu hiện, ý nghĩa của hình tượng. Từ đó, đánh giá cũng như tìm ra ý nghĩa và giá trị nghệ thuật của thể loại hình tượng trang trí chuyển biến hình tượng này. Phạm vi của bài viết chỉ tập trung phân tích những hình tượng trang trí có sự chuyển biến từ hình tượng này sang hình tượng khác tại Tiền điện và Chánh điện của chùa Hội Khánh. 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Một số thuật ngữ: Hình tượng trang trí: Trang trí là nghệ thuật làm đẹp cho một đối tượng nào đó. Hình tượng được biết đến là những hình ảnh đã được chắt lọc một cách cô đọng, mang ý nghĩa sâu sắc và đặc trưng, hình tượng thường biểu trưng cho một hay nhiều ý nghĩa cụ thể. Hình tượng trang trí là sự tái hiện của sự vật hiện tượng có thật hoặc hư cấu mang ý nghĩa biểu trưng nhằm trang trí làm đẹp trên đối tượng được trang trí. Đồ án trang trí với mục đích làm đẹp bề mặt bằng các nét vẽ hay nét chạm khắc theo những bố cục trang trí nhất định trên các đồ vật, công tình kiến trúc (Nguyễn Hải Phong, 2007). Đồ án trang trí còn được hiểu như là một hệ thống được sắp xếp nhằm làm nổi rõ ý đồ sáng tác của nghệ sĩ bằng tất cả các yếu tố, ngôn ngữ tạo hình để xây dựng nên một tác phẩm (Nguyễn Thị Thu Tâm, 2020). Có thể thấy đồ án trang trí là sự sắp xếp bố cục của các hình tượng trang trí để tạo nên sự hài hòa mà mang tính thẩm mỹ cao đáp ứng chức năng trang trí, chức năng làm đẹp cho diện tích bề mặt của đồ án. 2.2. Sơ lược về nghệ thuật trang trí chùa Hội Khánh Bình Dương Nghệ thuật trang trí là yếu tố không thể tách rời trong tổng thể các công trình kiến truyền thống của Việt Nam như cung điện, lăng tẩm, đình, chùa… Các hình tượng trang trí được sắp xếp có chủ đích về nội dung đề tài, tỉ lệ, hình dáng, mảng khối nhằm tạo nên một đồ án trang trí đẹp mắt, đồ án trang trí còn được xem như các hệ thống hoa văn nhằm tô điểm công trình 140
  3. kiến trúc. Nó không chỉ tạo nên giá trị về nghệ thuật mà còn chuyển tải ý nghĩa về văn hóa, tính ngưỡng, quan niệm của con người. Từ những đặc điểm lịch sử, văn hóa, tiến trình lịch sử phát triển chùa Hội Khánh từ thuở vùng đất miền Đông Nam Bộ được khai hoang bởi những dòng người di dân từ miền Bắc và Trung vào Nam và sinh sống tại Bình Dương. Ta có thể thấy được đặc trưng nghệ thuật trang trí của những ngôi chùa miền Đông Nam Bộ nói chung và chùa Hội Khánh nói riêng là sự giao thoa văn hóa, tín ngưỡng, tư tưởng nghệ thuật giữa các vùng miền khác nhau. Văn hóa bản địa nơi đây đã cởi mở trao đổi, giao lưu những cái mới lạ từ các dòng người di dân, sau đó họ đã bản địa hóa một cách chọn lọc và sáng tạo để tạo nên những nét đặc trưng riêng biệt và độc đáo của địa phương Bình Dương. Công trình kiến trúc chùa Hội Khánh là sự kế thừa những giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam kết hợp với sự giao lưu tiếp biến văn hóa. Từ kiến trúc chùa kết cấu diềm mái theo kiểu sắp đọi, nối liền nhau, phần Tiền điện và Chánh điện đước bố trí theo lối trùng thềm điệp ốc- đây là kiến trúc đặc trưng trong kiến trúc truyền thống của Việt Nam (Thích Huệ Thông, 2015). Cho đến những đồ án trang trí trên các công trình này cũng tương đồng những đồ án trang trí ở các công trình thời Nguyễn tại Huế. Cụ thể, các hình tượng trang trí trên những đồ án trang trí tại chùa hết sức phong phú và đa dạng như: Linh thú; Tứ thời và Loài thực vật, Cỏ cây hoa lá; Ngũ quả, hoạt cảnh sinh hoạt thường ngày. Ngoài ra còn có các hình tượng trang trí khác như: Mây, Sóng Nước, Đồ vật, Con người… với những lối cách điệu phong phú từ đường nét thẳng đến nét cong mềm mại. Các hình tượng trang trí này được sắp xếp kết hợp, đan xen lồng ghép trên những đồ án trang trí tạo nên sự kết hợp hài hòa, sinh động cũng như tô điểm cho các chi tiết trong kết cấu của công trình kiến trúc chùa Hội Khánh. Các đồ án không chỉ kết hợp các hình tượng độc lập để tạo nên một chỉnh thể chung mà đặc biệt, hình tượng trang trí chuyển hóa từ biểu tượng này sang biểu tượng khác được sử dụng nhiều và được đẩy lên đến đỉnh cao về giá trị thẩm mỹ cũng như kỹ thuật thể hiện. Sự chuyển hóa hình tượng không chỉ mang giá trị thẩm mỹ cao, mà có còn ẩn chứa những giá trị tư tưởng, ý nghĩa sâu sắc nội hàm bên trong cũng như giá trị nhân văn mà đồ án thể hiện. 2.3. Sự chuyển biến từ hình tượng này sang hình tượng khác trong các đồ án trang trí chùa Hội Khánh Bình Dương Sự chuyển hóa hình tượng trang trí ở các đồ án trang trí trên công trình kiến trúc chùa Hội Khánh rất phong phú và đa dạng với các hình tượng trang trí chuyển hóa từ Hoa lá, Cây trái mà các nghệ nhân xưa đã thể hiện thông qua các đồ án như: Dây lá hóa Dơi, Dây lá hóa Cá, Dây lá hóa Rồng... Đặc biệt hình tượng trang trí chuyển hóa từ Tứ thời sang Tứ linh là một điểm nhấn hết sức đặc sắc trong nhóm đồ án trang trí chuyển hóa hình tượng trang trí như: Sen hóa Quy, Súc hóa Lân, Lan hóa Phượng, Mai hóa Rồng, Cá hóa Rồng… Dây lá hóa Dơi, hình tượng trang trí này được trang trí phía trên hai cửa sổ hai bên ở mặt trước của Tiền điện (hình 1). Đồ án Hoa lá hóa Dơi đang nâng đỡ Án thư. Hình tượng trang trí Dơi trong văn hóa tín ngưỡng Phật giáo có một ý nghĩa rất đặc biệt, hình tượng trang trí Dơi là một thành phần trong bộ ngũ phúc, “năm yếu tố cấu thành của bộ ngũ phúc trong văn hóa Việt Nam là: Phú, quý, thọ, khang, ninh” (Đinh Hồng Hải, 2012. tr 114). 141
  4. Hình 1: Dây lá hóa Dơi được đắp nổi sơn màu ở tiền điện tại chùa Hội Khánh (Ảnh tác giả) Dây lá hóa Cá được trang trí ở viền bao quanh hai bức hoành phi Tứ thời sơn son thếp vàng được khắc nổi trên gỗ, ốp vào hai cột gian chính của Chánh điện (hình 2,3), hình tượng trang trí Dây lá hóa Cá mặc dù được thể hiện trên một kích thước rất nhỏ và trang trí viền quanh hoành phi cùng với nhiều hình tượng khác, tuy nhiên hình tượng này cũng được thể hiện đa dạng hình dáng Cá quay đầu xuống (hình 3) với thân Cá mãnh mai hơn so với hình tượng Dây lá hóa Cá đầu quay lên trên (hình 4) với thân tròn đầy hơn. Nét chuyển động của dây lá và thân Cá điều mềm mại, vì vậy sự chuyển hóa hày hết sức hài hòa, thuận mắt. Hình 2: Dây lá hóa Cá được đắp nổi Hình 3: Dây lá hóa Cá được đắp nổi nổi ở ở hoành phi Tứ thời tại chùa Hội Khánh hoành phi Tứ thời tại chùa Hội Khánh (Ảnh tác giả) (Ảnh tác giả) Dây lá hóa Rồng là hình tượng trang trí được thể hiện hết sức phong phú và đa dạng, cũng như được sử dụng nhiều trong trang trí các Kẻ hiên (hình 5), mặt trước Tiền điện (hình 1), các 142
  5. góc cột (hình 4), ở các thanh bọc ngoài bao lam… Rồng là hình tượng trang trí được sử dụng hết sức phổ biến trong trang trí kiến trúc truyền thống của Việt Nam. Rồng là linh thú đứng đầu trong bộ tứ linh, cũng là linh vật có quyền uy nhất trong tất cả các motif trang trí. Hình tượng rồng đại diện cho sức mạnh và uy quyền, ngoài ra rồng còn được đưa vào truyền thuyết con rồng cháu tiên Lạc Long Quân - Âu Cơ. Mặc dù hình tượng rồng ở thế kỷ XVIII được khắc họa với hình tượng dữ tợn hơn so với các thể kỷ trước, tuy nhiên ở hình tượng chuyển hóa từ hoa lá, các đường nét đã được mềm hóa, sự mềm này còn được chi phối bởi hình tượng rồng tại chùa thường mềm mại hơn rồng ở cung điện nhà Nguyễn ở Huế. Hình 4: Dây lá hóa Rồng được trang Hình 5: Dây lá hóa Rồng được trang trí ở Kẻ hiên trí ở các góc cột tại chùa Hội Khánh tại chùa Hội Khánh (Ảnh tác giả) (Ảnh tác giả) Hoa lá hóa Nghê: Hoa lá hóa Nghê được trang trí ở các góc cột với sà ngang (hình 6). Nghê là loài linh vật mang đậm tính chất tiếp biến văn hóa. Khởi phát từ hình tượng lân của Trung Quốc, hình tượng nghê được người Việt Nam biến hóa kết hợp đầu lân với mình Sư tử, tạo ra hình tượng riêng đặc trưng. Nghê mang ý nghĩa bảo vệ, canh giữ và trừ tà. Hình tượng nghê trong dạng thức chuyển hóa hình tượng được khắc họa với nét mềm mại, căng nét do sự biến hóa từ dây lá đã tạo nên một tổng thể hài hòa giữa dây lá và nghê ẩn Hình 6: Hoa lá hóa Nghê được trang trí ở hiện, không phân rõ ranh giới. các góc cột tại chùa Hội Khánh (Ảnh tác giả) Đề tài Tứ thời hóa Tứ linh được bố trí trên đồ án trang trí hoành phi sơn son thếp vàng ở chánh điện với kỹ thuật chạm khắc nổi trên gỗ, sự chuyển biến hình tượng đã đạt đến trình độ tinh xảo đỉnh cao của nghệ thuật chạm khắc. Bộ Tứ thời lần lượt như: Mai, Lan, Lúc, Trúc điều hóa thân thành Long, Lân, Quy, Phụng được bố trí trong cùng một hoành phi, hai hoành phi có bố cục trang trí lặp lại như nhau. Đây có lẽ là một trong những điểm độc đáo nhất trong nghệ thuật trang trí tại chùa Hội Khánh, không chỉ bởi kỹ thuật thể hiện đã đạt đến đỉnh cao mà còn bởi sự chuyển hóa hình tượng độc đáo giữa bộ Tứ thời sang bộ Tứ linh một cách linh hoạt đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Sen hóa Quy (hình 7), Sen là biểu tượng cho sự thanh cao, biểu tượng của người quân tử. Trong phật giáo, Sen như một biểu tượng của sự tu tập bởi gốc rể từ trong bùn nhưng hoa Sen vươn lên khỏi bùn tỏa ngát hương thơm. Đây là biểu tượng phổ biến trong Phật giáo, hoa Sen 143
  6. thường được gắn liền với đức Phật như đức Phật tọa thiền trên hoa Sen, hay bảy bước chân trên là bảy hoa Sen khi đức Phật ra đời… Có thể nói Sen là biểu tượng trong bộ tứ thời mang đậm tinh thần Phật giáo. Rùa là biểu tượng cho sự trường thọ, sự bất diệt, vì vậy trong bộ Tứ linh, Rùa là biểu tượng của sự trường sinh, trường thọ. Hình tượng Sen chuyển hóa sang hình tượng Rùa được khắc họa một cách tao nhã, thanh thoát. Lá Sen đang chuyển mình thành mai Sùa và chân Sùa. Quá trình chuyển biến này làm cho sự phân định không thể rạch ròi, nó đã tạo nên hiệu quả hết sức mềm mại và hòa quyện của hai hình tượng này với nhau. Cúc hóa Lân (hình 8), hoa Cúc đại diện cho sự trường thọ trong bộ Tứ thời. Lân là biểu tượng của sự trung thành, bảo vệ và đại điện cho sức mạnh anh dũng. Ở hình tượng trang trí chuyển biến này đã bắt đầu có sự khác biệt so với những hình tượng trang trí trước, mặc dù tổng thể vẫn là đường nét mềm mại của hoa làm chủ đạo, tuy nhiên phần đầu lân với tạo hình răng nhọn cũng tạo nên sự sắc nét, mạnh mẽ trong hình tượng này. Quá trình chuyển quá này đang dần hoàn thiện phần đầu, các phần còn lại chủ yếu vẫn ở dạng thức của hoa Cúc. Hình 7: Sen hóa Rùa được trang trí ở Hình 8: Cúc hóa Lân được trang trí ở hoành phi Tứ thời tại chùa Hội Khánh hoành phi Tứ thời tại chùa Hội Khánh (Ảnh tác giả) (Ảnh tác giả) Lan hóa Phượng (hình 9), hoa Lan là biểu tượng của sinh khí và năng lượng tích cực. Chim Phượng tượng trưng cho đức hạnh, sự cao sang trong Phật giáo, Phượng còn mang ý nghĩa của sự trường thọ và tái sinh. Sự thanh thoát trong lối tạo hình của hình tượng trang trí này đã góp thêm phần ý nghĩa của biểu tượng. Với cách khắc họa thanh mảnh, nhẹ nhàng, thanh tú đã làm cho hình tượng toát lên vẻ thanh cao đặc trưng của các hình tượng này. Mai hóa Rồng (hình 10), hoa Mai là loài hoa đại diện cho mùa xuân trong bộ Tứ thời, cũng là đại diện cho sự mạnh mẽ vươn lên của mùa xuân sau một mùa đông lạnh lẽo. Với vị trí của mình, hoa Mai được chọn để song hành với hình tượng Rồng trong dạng thức chuyển hóa hình tượng. Với ý nghĩa đặc biệt của Rồng trong bộ Tứ linh cũng như trong tổng thể các hình tượng trang trí, rồng được đặc tả hết sức tinh tế. Hình tượng Rồng ở hoành phi được chuyển hóa phần đầu một cách rõ nét với phần râu được thể hiện rõ, các bộ phận khác của cơ thể vẫn ở dạng thức hoa Mai. Lối thể hiện sinh động của các nghệ nhân xưa khiến người xem có cảm giác như quá trình đó thật sự đang diễn ra trước mắt. 144
  7. Hình 9: Lan hóa Phượng được trang trí ở Hình 10: Mai hóa Rồng được trang trí ở hoành phi Tứ thời tại chùa Hội Khánh hoành phi Tứ thời tại chùa Hội Khánh (Ảnh tác giả) (Ảnh tác giả) Trong thứ tự sắp sếp của các hình tượng trang trí này trên hoành phi, hoa Mai hóa Rồng được bố cục ở vị trí cao nhất, điều này cũng như khẳng định được vị thế của hoa Mai trong bộ Tứ thời cũng như vị thế của Rồng trong bộ Tứ linh, tiếp đến là đồ án Lan hóa Phượng, Cúc hóa Lân, Sen hóa Rùa. Sự sắp sếp đầy ý tứ theo bộ Tứ thời cũng như tầm quan trọng của các biểu tượng trong bộ Tứ linh. Cá hóa Rồng (hình 11), đây là dạng hình tượng trang trí rất ít thấy từ cá sang thú được tìm thấy tại chùa Hội Khánh. Hình tượng này được trang trí ở hai góc bao lam đề tài La Hán ở hai trụ chính tâm ở chánh điện, trước bàn thờ các vị Phật. Mặc dù đề tài Thập bát La Hán thường không có hình tượng Cá hóa Rồng như những con vật thiêng đi cùng các vị La Hán. Tuy nhiên với đồ án trang trí này, các nghệ nhân xưa đã rất tinh tế khi chọn lọc ý tưởng. Cá Chép hóa Rồng biểu trưng cho ý chí vươn lên một cách mạnh mẽ để tiến xa hơn và thành công, trong khi các vị La Hán là các vị tu sĩ cứu độ chúng sinh không phải bằng cách truyền bá kinh phật hay giảng đạo mà họ lấy chính sự nỗ lực của bản thân họ làm tấm gương để chúng sanh noi theo. Đây hoàn toàn là một sự kết hợp các hình tượng tạo nên một đồ án trang trí hết sức độc đáo và ý nghĩa. Hình 10: Cá hóa Rồng được trang trí ở bao lam Thập Bát La Hán tại chùa Hội Khánh (Ảnh tác giả) 145
  8. Nhìn chung sự chuyển hóa hình tượng được thể hiện một cách sống động thông qua kỹ thuật chạm khắc điêu luyện của các nghệ nhân xưa nơi đây. Sự sinh động được thể hiện hết sức tinh tế khiến người xem có thể cảm nhận được sự chuyển động này như vẫn đang trong quá trình xảy ra hiện diện trước mắt người xem mặc dù chúng được thể hiện trên chất liệu nề vữa, khắc gỗ,… điều này có được chính nhờ sự sáng tạo, tâm huyết và ước vọng của các nghệ nhân cũng như nhân dân xưa được đưa vào tác phẩm của mình, “sức sống và sự độc đáo của nghệ nhân An Nam không thể hiện ở phần bề mặt trải rộng như những đồng nghiệp phương Tây mà ở sự thâm trầm sâu sắc, cũng như thế giới của vi sinh vật, thay vì suy vong hay giậm chân tại chỗ, chúng tự sinh sôi nảy nở và đạt đến một đặc tính mãnh liệt ngoài mong đợi” (Léopold Cadière, 1919, tr 30-31). 2.4. Ý nghĩa về sự chuyển biến hình tượng trong nghệ thuật trang trí chùa Hội Khánh Bình Dương. Mỗi hình tượng trang trí với tư cách độc lập đã mang trong mình những ý nghĩa tượng trưng riêng, ẩn chứa những thông điệp về mong muốn, khát khao hoài bão của con người và được thể hiện một cách sâu sắc. Tuy nhiên với sự sáng tạo không ngừng của các nghệ nhân đất Thủ xưa, họ đã tính toán sắp đặt để tạo nên những đồ án trang trí với những sự kết hợp đầy ý nghĩa thông qua dạng thức chuyển hóa hình tượng. Nhóm hình tượng về sự chuyển hóa hình tượng thể hiện một cách mạnh mẽ mong ước của sự trường tồn, phát triển sinh sôi nảy nở, hướng tới tương lai tốt đẹp, phát triển vượt bậc lên một tầm cao mới một cách mãnh liệt, điều này được thể hiện rõ ở quy luật “sự biến hình đi theo quy tắc từ thấp đến cao: từ mô típ ở cấp thấp, trong bậc thang của vạn vật, đến biểu đạt cao quý nhất; từ các họa tiết tĩnh như hồi văn, mây, hay các họa tiết thực vật như lá, hoa, cây non, đến họa tiết động vật như Dơi, Phụng, Lân, Long.” (Léopold Cadière, 1919. Tr 24). Sự kết hợp theo cặp này đã được tính toán kỹ lưỡng từ ý nghĩa ẩn chứa bên trong, cũng có thể dựa trên các quy luật âm dương huyền bí vốn đã đi sâu vào tâm thức của con người lúc bấy giờ để sự chuyển hóa trở nên nhịp nhàng, chỉ chuyển hóa từ cấp thấp đến cấp cao hơn. Có thể thấy mơ ước vươn lên không ngừng của con người hết sức mạnh mẽ. Đề tài trang trí về sự chuyển biến hình tượng đã góp một phần quan trọng trong việc làm phong phú hóa hệ thống trang trí tại chùa Hội Khánh Ngoài giá trị nghệ thuật mà các kiểu thức này mang lại cho công trình kiến trúc, có thể thấy được những kiểu thức này mang đậm hồn dân tộc và tính truyền thống. Trước tiên, dạng thức chuyển hóa hình tượng được sử dụng rất phổ biến ở các công trình kiến trúc thời Nguyễn tại Huế, vì vậy đây là một bước kế thừa, tiếp tục phát huy những giá trị văn hóa, nghệ thuật của truyền thống dân tộc. Hơn nữa tính bản sắc được thể hiện ở sự giao lưu, tiếp biến văn hóa, điển hình như hình tượng Nghê chỉ có trong văn hóa, tín ngưỡng của người Việt mặc dù nó được biến hóa từ hình tượng Lân được du nhập từ Trung Quốc. Ngoài ra, qua bàn tay khéo léo thể hiện các kỹ thuật chạm khắc hết sức tinh xảo kết hợp với tâm hồn của các nghệ nhân, những đồ án trang trí này đã được thể hiện đạt đến trình độ đỉnh cao cả về giá trị nghệ thuật lẫn kỹ thuật thể hiện. Giá trị thực tiễn: Góp phần làm cơ sở lí luận và khoa học sắc bén để nhân định giá trị nghệ thuật trang trí truyền thống tại Bình Dương thông qua các công trình kiến trúc cổ đồng thời làm tài liệu giảng dạy và tuyên truyền phát huy nghệ thuật truyền thống cho giới trẻ hiện nay. 146
  9. 4. KẾT LUẬN Với đặc trưng của kiến trúc truyền thống của dân tộc ta đó là sự gắn kết không rời của các đồ án trang trí nhằm tô điểm cho công trình kiến trúc cổ. Các đồ án trang trí tại chùa Hội Khánh đã được các nghệ nhân xưa thổi hồn vào trong quá trình tạo hình đồ án trang trí. Họ đã kế thừa những giá trị văn hóa, nghệ thuật của dân tộc và học tập có chọn lọc những nguồn văn hóa khác từ bên ngoài. Từ đó, họ tạo nên nét riêng, đặc trưng cho vùng đất nơi đây. Thông qua các motif trang trí chuyển biến từ hình tượng này sang hình tượng khác, các nghệ nhân đất Thủ xưa đã khéo léo chuyển tải một cách hết sức tinh tế và ý nhị những khao khát, mong muốn của con người nơi đây thông qua các đồ án trang trí chuyển hóa từ thấp đến cao. Và nó đã trở thành một trong những điểm nhấn đặc sắc nhất trong tổng thể các đồ án trang trí trên công trình kiến trúc chùa Hội Khánh, điều này cũng đã góp phần tạo nên sự độc đáo của ngôi cổ tự này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Lâm Biền (2018), Trang trí trong Mỹ thuật truyền thống của người Việt, NXB Hồng Đức. 2. Nguyễn Đỗ Cung (1975), Việt Nam điêu khắc dân gian, NXB Ngoại Văn 3. Nguyễn Đỗ Cung và nnk (2007), Nghiên cứu Mỹ thuật, NXB Mỹ thuật. 4. Phạm Thanh Dũng (2013), Kiến trúc Đình chùa Nam Bộ, NXB Xây dựng. 5. Đinh Hồng Hải (2012), Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền thống Việt Nam, tập 1 - Các bộ trang trí điển hình NXB Tri Thức. 6. Léopold Cadière (Nguyễn Thanh Hằng dịch) (1919), L’Art à Hué (Nghệ thuật Huế), NXB Thế giới. 7. Phan Cẩm Thượng (2017), Văn minh vật chất của người Việt, NXB Thế giới. 8. Thích Huệ Thông. (2015), Phật giáo Bình Dương, NXB Văn hóa văn nghệ TP Hồ Chí Minh. 9. Vân Thanh. (1974), Lược Khảo Phật giáo Việt Nam, NXB Sài Gòn. 147
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1