![](images/graphics/blank.gif)
Sự đa dạng sinh học trên thế giới
lượt xem 16
download
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/images/down16x21.png)
Đa dạng sinh học ở mức độ loài bao gồm tất cả sinh vật trên trái đất từ vi khuẩn đến các loài động vật, thực vật và nấm. Ở mức nhỏ hơn, đa dạng sinh học bao gồm sự khác biệt về gen giữa các loài, khác biệt về gen giữa các quần thể cách ly nhau về địa lý cũng như khác biệt giữa các cá thể cùng chung sống trong một quần thể. Mời các bạn cùng tìm hiểu về sự đa dạng sinh học trên thế giới quan bài viết dưới đây.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sự đa dạng sinh học trên thế giới
- SỰ ĐA DẠNG SINH HỌC TRÊN THẾ GIỚI Theo định nghĩa của Quỹ Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (World Wildlife Fund) thì đa dạng sinh học là “sự phồn thịnh của cuộc sống trên trái đất, là hàng triệu loài động vật, thực vật và vi sinh vật, là những nguồn gen của chúng và là các hệ sinh thái phức tạp cùng tồn tại trong môi trường sống”. Như thế, đa dạng sinh học cần phải được xem xét ở ba mức độ. Đa dạng sinh học ở mức độ loài bao gồm tất cả sinh vật trên trái đất từ vi khuẩn đến các loài động vật, thực vật và nấm. Ở mức nhỏ hơn, đa dạng sinh học bao gồm sự khác biệt về gen giữa các loài, khác biệt về gen giữa các quần thể cách ly nhau về địa lý cũng như khác biệt giữa các cá thể cùng chung sống trong một quần thể. Đa dạng sinh học cũng bao gồm sự khác biệt trong các quần xã sinh học nơi các loài đang sinh sống, các hệ sinh thái trong đó các quần xã tồn tại và cả sự khác biệt của các mối tương tác giữa chúng với nhau. Sự khác biệt giữa đa dạng sinh học ở 3 mức độ khác nhau được thể hiện qua bảng 1.1. Bảng 1.1. Các mức độ đa dạng sinh học Đa dạng loài Đa dạng di truyền Đa dạng sinh thái Giới Quần thể (Population) Sinh đới (Biome) (Kingdom) Ngành Cá thể (Individual) Vùng sinh thái (Bioregion) (Phyla) Lớp (Class) Nhiễm sắc thể Cảnh quan (Landscape)
- (Chromosome) Bộ (Order) Gene Hệ sinh thái (Ecosystem) Họ (Family) Nucleotide Nơi ở (Habitat) Giống Tổ sinh thái (Niche) (Genera) Loài (Species) (Nguồn:Peter J.Bryant. Biodiversity and conservation) I CÁC KIỂU ĐA DẠNG SINH HỌC CHÍNH 1.1 Đa dạng về loài Hiện nay, có khoảng 1,7 triệu loài đã được mô tả. Ít nhất là hai lần số đó còn chưa mô tả, chủ yếu là côn trùng và các nhóm chân khớp khác trong vùng nhiệt đới (Bảng 1.2). Bảng 1.2. Tổng số các loài đã được mô tả Nhóm Số loài mô tả Nguồn Vi khuẩn và tảo lam 4.760 Nấm 46.938 Tảo 26.900 Rêu 17.000 WCMC. 1998 Hạt trần 980 IUCN. 1997 Hạt kín 258.000 IUCN. 1997 Động vật nguyên sinh 35.000 Bọt biển (Thân lỗ) 5.000 Ruột khoang 9.000 Giun tròn và giun dẹp 24.000 Giáp xác 40.000 Côn trùng 950.000 IUCN. 1997 Các nhóm Chân khớp và các 130.000 nhóm động vật không xương sống khác Thân mềm 70.000 Da gai 6.100
- Cá 28.100 Lưỡng cư 5.578 Bò sát 8.134 Chim 9.932 Thú 4.842 1.680.264 Kiến thức của chúng ta về số lượng loài là chưa chính xác do nhiều loài khó thấy còn chưa được phân loại học chú ý. Ví dụ như ve bét, giun tròn và nấm sống trong đất và các loài côn trùng sống trong rừng nhiệt đới có kích thước rất nhỏ và khó nghiên cứu. Các loài này có thể lên tới hàng trăm ngàn thậm chí triệu loài. Các loài vi khuẩn cũng được biết rất ít. Chỉ có khoảng 4000 loài vi khuẩn được các nhà vi sinh vật biết đến do những khó khăn trong việc nuôi cấy và định loại. Việc lấy mẫu khó khăn đã cản trở chúng ta nghiên cứu tìm hiểu về số lượng các loài trong đại dương. Đại dương có lẽ là nơi có tính đa dạng lớn nhất. Một ngành động vật mới, ngành Loricefera lần đầu tiên phát hiện vào năm 1983 nhờ vào các mẫu vật thu được ở đáy biển sâu và không nghi ngờ gì là sẽ có nhiều loài hơn nữa sẽ được phát hiện. Các quần xã sinh vật mới sẽ còn được khám phá thường các quần xã này nằm trong các vùng hẻo lánh nơi mà con người khó tới gần được. Các kỹ thuật thăm dò chuyên biệt, đặc biệt ở các vùng biển sâu và các vùng trời các rừng nhiệt đới đã khám phá ra các cấu trúc quần xã khác thường. Các quần xã động vật khác nhau, đặc biệt là côn trùng, thích ứng cuộc sống dưới tán lá tầng cao của rừng rậm nhiệt đới, hiếm khi chúng thích nghi được với điều kiện sống ở trên mặt đất. Trên phạm vi toàn thế giới còn cần rất nhiều nổ lực để có thể hoàn thiện được danh mục đầy đủ các loài. Mỗi năm các nhà phân loại trên thế giới mô tả được khoảng 11.000 loài, và như vậy, để có thể mô tả hết các loài trên thế giới (ước tính 10 đến 30 triệu loài) dự kiến phải tốn từ 750 năm đến 2.570 năm, trong khi đó có nhiều loài đã bị tuyệt chủng trước khi chúng được mô tả và đặt tên. Đa dạng về thực vật trên thế giới: Theo Engler( 1882) thì số loài thực vật là 275000 loài bao gồm các nhóm sau: Thực vật có hoa: 155 000 – 160 000 loài Thực vật không hoa: 130 000 – 135 000 loài
- 1.2. Đa dạng về gen Đa dạng di truyền bao gồm các thành phần các mã di truyền cấu trúc nên cơ thể sinh vật (nucleotides, genes, chromosomes) và sự sai khác về di truyền giữa các cá thể trong một quần thể và giữa các quần thể với nhau. Hình 1: Đa dạng di truyền của loài Keo má trắng Platycercus eximius (ở Úc) thể hiện qua màu sắc và đốm thân. Sơ đồ còn chỉ ra các vùng phân bố của chúng (Nguồn: Richard B Primack). Đa dạng di truyền trong nội bộ loài thường là kết quả của tập tính sinh sản của các cá thể trong quần thể. Một quần thể là một nhóm các cá thể giao phối với nhau và sản sinh ra con cái hữu thụ. Một loài có thể có một hay vài quần thể khác nhau. Một quần thể có thể chỉ gồm một số ít cá thể hay có thể có hàng triệu cá thể. Các cá thể trong một quần thể thường rất khác nhau về mặt di truyền. Sự đa dạng về bộ gen có được do các cá thể có các gen khác nhau, gen là một đơn vị di truyền cùng với những nhiễm sắc thể được đặc trưng bởi những protein đặc biệt. Các dạng khác nhau của gen được gọi là allen và những sự khác biệt nảy sinh qua đột biến, là những sự thay đổi xảy ra trong DNA, đơn vị cấu thành nhiễm sắc thể của cá thể. Sự khác biệt của các allen trong gen có thể ảnh hưởng đến sự phát triển và sinh lý của các cá thể một cách khác nhau.
- Sự sai khác di truyền tăng lên khi con cái nhận được đầy đủ tổ hợp gen và nhiễm sắc thể của bố mẹ trong quá trình tái tổ hợp gen xảy ra trong quá trình sinh sản hữu tính. Gen được trao đổi giữa các nhiễm sắc thể trong quá trình giảm phân và tổ hợp mới được tạo thành khi nhiễm sắc thể từ bố mẹ kết hợp để tạo nên một tổ hợp thống nhất cho con cái. Tổng số các sắp xếp của gen và allen trong quần thể được coi là quỹ gen (gene pool), trong khi một tổ hợp nào đấy của gen và allen trong bất kỳ cá thể nào thì được gọi là kiểu di truyền (genotype). Kiểu hình (phenotype) của một cá thể nói lên các đặc điểm về hình thái, sinh lý, sinh hoá là kết quả của biểu hiện kiểu gen trong một môi trường nhất định. Sai khác di truyền cho phép các cá thể thích ứng với những thay đổi của môi trường. Nhìn chung, các loài quí hiếm phân bố hẹp ít có sự đa dạng di truyền hơn các loài có phân bố rộng và kết quả là chúng dễ bị tuyệt chủng hơn khi điều kiện môi trường thay đổi. 1.3. Đa dạng quần xã và hệ sinh thái Đa dạng về hệ sinh thái là thước đo sự phong phú về sinh cảnh, nơi ở, tổ sinh thái và các hệ sinh thái ở các cấp độ khác nhau. Sự đa dạng này được phản ảnh quan trọng nhất bởi sự đa dạng về sinh cảnh, các quần xã sinh vật và các quá trình sinh thái trong sinh quyển. Chẳng hạn như sự phân bố của các loài sinh vật theo không gian khác nhau, nghĩa là đặc trưng cho từng sinh cảnh khác nhau. Rừng nhiệt đới thường xanh đã phân thành nhiều tầng và các thuỷ vực cũng phân thành các tầng nước khác nhau về thuỷ lý, thuỷ hoá để sử dụng tối ưu năng lượng của hệ sinh thái và tạo cho tính đa dạng sinh học càng cao. Môi trường vật lý, đặc biệt là vòng tuần hoàn năm của nhiệt độ và lượng mưa, ảnh hưởng đến cấu trúc và đặc điểm của quần xã sinh vật, quyết định địa điểm đó sẽ là rừng, đồng cỏ, sa mạc hay đất ngập nước . Quần xã sinh vật cũng có thể biến đổi tính chất vật lý của hệ sinh thái. Ví dụ, trong một hệ sinh thái trên cạn, tốc độ gió, độ ẩm, nhiệt độ và tính chất đất đai có thể bị ảnh hưởng do cây cối và các động vật sống tại đó. Trong một quần xã sinh vật, mỗi loài sử dụng một nhóm tài nguyên nhất định, tạo thành tổ sinh thái của loài đó. Tổ sinh thái cho một loài thực vật có thể bao gồm loại đất mà loài đó sống, lượng ánh sáng mặt trời và độ ẩm mà loài đó cần, kiểu hệ thống thụ phấn và cơ chế phát tán của hạt, ... Tổ sinh thái của một loài động vật có thể bao gồm kiểu nơi sinh sống của loài, biên độ nhiệt độ mà loài đó có thể sống được, các loại thức ăn và lượng nước mà chúng cần,... Bất cứ thành phần nào của tổ sinh thái đều
- là nguồn tài nguyên có giới hạn và do đó có ảnh hưởng đến giới hạn kích thước của quần thể. Các hệ sinh thái trong sinh quyển tồn tại ở hai môi trường có sự khác biệt về các đặc tính lý hoá và sinh học. Đó là môi trường trên cạn và môi trường dưới nước. 1.3.1 Hệ sinh thái trên cạn Các hệ sinh thái trên cạn được đặc trưng bởi các quần hệ thực vật, chiếm sinh khối lớn và gắn liền với khí hậu địa phương, do đó tên của quần xã cảnh quan vùng địa lý gọi là khu sinh học (biome), thường là tên của quần hệ thực vật ở đấy. Khu sinh học là một hệ sinh thái lớn, đặc trưng bởi kiểu khí hậu đặc thù, bao gồm các loài động vật sống trong quần hệ thực vật, thích ứng tốt với môi trường tự nhiên. Nhìn chung trên lục địa đã hình thành các biom chính như sau: a) Lãnh Nguyên (Tundra biome) Đài nguyên hay Đồng rêu Lãnh nguyên bao quanh Bắc cực và vành đai phần bắc của lục địa Âu Á, Bắc Mỹ, chiếm khoảng 20% diện tích trái đất. Đây là một vùng nhiều đầm lầy giá lạnh, băng tuyết với nhiều đụn rêu rải rác. Lãnh nguyên là vùng lạnh nhất của tất cả các quần xã sinh vật. Môi trường ở đây có nhiệt độ cực thấp, ít mưa, chất dinh dưỡng trong đất thấp, mùa sinh trưởng của sinh vật ngắn. Vùng lãnh nguyên có thể chia thành 2 khu vực Lãnh nguyên Bắc cực và lãnh nguyên Apin Lãnh nguyên Bắc cực: Lãnh nguyên Bắc cực nằm ở phía Bắc bán cầu, bao quanh cực Bắc và mở rộng về phía Nam tới những khu rừng lá kim của rừng Taiga, Bắc cực được biết đến như là điều kiện khí hậu khí hậu giống sa mạc lạnh. Mùa sinh trưởng từ 5060 ngày. Nhiệt độ mùa đông trung bình 34 0C, nhiệt độ mùa hè trung bình 30C 120C cho phép quần xã duy trì sự sống. Lượng mưa hằng năm bao gồm cả tuyết tan là 150250mm.( Nguồn Đỗ Văn Nhượng – 2013) Có khoảng 1.700 loại thực vật ở Bắc cực và cận Bắc cực, chủ yếu gồm cây bụi thấp, rêu, sedges, liverwort. Ngoài ra còn nhiều Địa y, khoảng 400 giống hoa. Hệ động vật ở Bắc cực cũng rất đa dạng: Động vật có vú ăn cỏ có chuột Lemmus, chuột đồng, tuần lộc,thỏ rừng Bắc cực, sóc…; Động vật có vú ăn thịt có cáo Bắc cực, gấu Bắc cực, chó sói, chim di cư có quạ,
- chim ưng, chim sáo, nhạn biển, chim tuyết, các loại mòng biển..; côn trùng gặp nhiều nhất là muỗi, ruồi, châu chấu, ong bumble. Dưới nước có các loại cá: cá tuyết, cá bơn, cá hồi. Bò sát rất ít.. H.2. Lãnh nguyên Alaska
- H.3 Cáo Bắc cực H.4. Cú tuyết Bắc cực
- H.5. Hải mã Bắc cực Lãnh nguyên Alpin: Lãnh nguyên Alpin thường ở trên các ngọn núi khá cao, nơi thực vật thường không phát triển được. Mùa sinh trưởng khoảng 180 ngày. Nhiệt độ ban đêm luôn dưới 00C. Thực vật chỉ là các bụi cỏ, cây bụi lùn, cây thạch nam, Động vật: pikas, dê núi, cừu, nai sừng tấm… chim: grouselike. Côn trùng có bọ nhảy, cánh cứng, châu chấu, bướm.
- b) Rừng mưa nhiệt đới (Tropical rain forests) H.6. Rừng mưa nhiệt đới Xuất hiện ở vùng gần xích đạo. Khí hậu luôn ấm (từ 20 đến 250C) lượng mưa dồi dào (ít nhất 1900 mm/năm). Rừng mưa là một biome có độ giàu có nhất, cả về độ đa dạng và tổng sinh khối. Rừng mưa nhiệt đới có cấu trúc phức tạp, với nhiều cấp độ của đời nhiệt đới có đời sống trên các cây gỗ. Các động vật đó trải qua toàn bộ đời sống của chúng trên tán rừng. Các loại côn trùng ở các rừng mưa nhiệt đới rất phong phú và phần lớn trong số chúng là chưa được xác định. Mối là đặc trưng cho sự phân hủy của chu trình dinh dưỡng của gỗ. Chim có xu hướng màu sắc sáng, thường tạo cho chúng tìm kiếm thức ăn như các loài sâu ngoại lai. Bò sát và lưỡng thê xuất hiện nhiều. Khỉ hầu (Lemurs), Cu li (sloths), và khỉ (monkeys) ăn các loài trái cây trong rừng mưa nhiệt đới. Nhóm loài ăn thịt lớn nhất là nhóm mèo. Sự xâm chiếm và phá hủy nơi ở đang là nguy cơ cho các loài động vật, thực vật ở đây.
- Một vài rừng nhiệt đới ở Ấn Độ, Đông Nam Á, Tây Phi, Trung và Nam Mỹ có tính mùa và các cây ở đó rụng lá vào mùa khô. c) Rừng ôn đới (temperate forests) Sinh cảnh rừng ôn đới xuất hiện ở miền đông của Bắc Mỹ, Đông Á, và nhiều nước Châu Âu. Lượng mưa nhiều từ 7501500 mm. Sự phát triển theo mùa được xác định rõ ràng giữa 140 đến 300 ngày. Các loài thực vật ưu thế bao gồm sồi, thích, và những cây gỗ lớn lá rụng khác. Cây gỗ của rừng lá rụng có tán lá rộng, trong đó chúng rụng đi vào mùa thu và mọc trở lại vào mùa xuân. Mật độ tán lá cho phép sự phát triển tốt cho các tầng cây bụi ở bên dưới, một tầng cây thảo, và sau đó thường được bao phủ bởi rêu và dương xỉ. Sự sắp xếp bên dưới này đã cung cấp nhiều nơi ở cho nhiều loại côn trùng và chim. Các rừng lá rụng ngoài ra còn chứa nhiều thành phần của họ gậm nhấm, trong đó chúng cấp thức ăn cho linh miêu, chó sói, và cáo (foxes). Ngoài ra vùng này là nơi ở của nai và gấu đen. Mùa Đông ở đây không lạnh như ở rừng phương bắc, vì vậy mà nhiều loài bò sát và lưỡng thê có khả năng sống sót. H.7 Rừng ôn đới d) Đồng cỏ (Grasslands) Các đồng cỏ xuất hiện trong vùng nhiệt đới và ôn đới với lượng mưa thấp hay mùa khô kéo dài. Các đồng cỏ xuất hiện ở Mỹ, Châu Phi, Châu Á, và Úc. Đất ở vùng này rất dày và phì nhiêu, vì vậy rất phù hợp cho nông nghiệp. Các đồng cỏ hoàn toàn không có cây gỗ, và có thể cung cấp lượng cỏ lớn cho các loài động vật ăn cỏ. Các đồng cỏ tự nhiên đã từng bao phủ hơn 40% bề mặt trái đất. Hầu hết các đồng cỏ ngày nay được sử dụng cho phát triển mùa màng, đặc biệt lúa mỳ và ngô. Các loài cỏ là thực vật chiếm ưu thế, trong khi đó động vật ăn cỏ và các loài đào hang là động vật chiếm ưu thế.
- Các đồng cỏ ôn đới bao gồm các thảo nguyên ở Nga, Các đồng hoang ở Nam Mỹ, và các đồng cỏ (prairies) ở Bắc Mỹ. Đời sống của động vật bao gồm chuột, chó đồng, thỏ, và các động vật khác sử dụng nhóm này làm thức ăn. Các đồng cỏ chứa một lượng cỏ lớn cho trâu bò và loài linh dương sừng dài, nhưng với những hoạt động của con người, một lượng lớn đồng cỏ đã bị suy thoái. Vùng cây bụi thấp (savanna) là một dạng đồng cỏ của nhiệt đới nhưng có một vài cây gỗ. Savanna chứa nhiều loài động vật ăn cỏ nhất (linh dương sừng dài, ngựa vằn, linh dương đầu bò và một số các loài khác). Môi trường ở đây cung cấp một quần thể lớn các loài ăn thịt như sư tử, báo ghepa (cheetahs), linh cẩu, và báo (leopards). Các thực vật nhỏ hơn không bị tiêu thụ bởi các loài ăn cỏ, chúng bị tấn công bởi mối và các loài phân hủy khác.
- H.8 Đồng cỏ e) Cây bụi (Shrubland, Chaparral) Sinh cảnh cây bụi được ưu thế bởi các cây bụi nhưng lá nhỏ có màu xanh đậm thường có màng dày, biểu bì có sáp, và thân dưới đất dày vì vậy có thể chống chịu vào mùa hè khô và hay cháy. Một số loài cây lá tiêu giảm và phát triển thành gai. Các vùng cây bụi xuất hiện một phần ở Nam Mỹ, phía Tây Úc, miền trung Chile, và xung quanh biển Địa Trung Hải. Cây bụi dày đặc ở California, ở đó mùa hè nóng và rất khô, được gọi là chaparral. Loại cây bụi ở Địa Trung Hải thiếu một tầng dưới và có lớp mùn rác ở bề mặt đất do vậy cũng rất dễ cháy. Hạt của nhiều loài có đòi hỏi về sức nóng và hoạt động tạo sẹo do lửa để kích thích sự nảy mầm. Khu hệ động vật rất khác nhau giữa các vùng trong biome này và thường có tính đặc hữu.
- H.9 Cây bụi f) Sa mạc (Deserts) H.10 Sa mạc Các sa mạc được đặc trưng bởi điều kiện khô và biên độ nhiệt lớn. Không khí khô dẫn đến biên độ nhiệt độ rộng vào ban ngày. Hoang mạc khác nhau nhiều phụ thuộc vào lượng mưa, khoảng dưới 250 mm/năm. Một số hoang mạc khô đến nổi không có một loài thực vật nào có thể sống được. Ví dụ sa mạc Naomid ở Châu Phi, sa mạc AtacamaSechura ở Chi lê và Pêru. Các loài cây trong sinh cảnh này đã phát sinh một loạt các thích nghi để lấy nước và chống chịu với điều kiện nhiệt độ khắc nghiệt. Như cây có rể sâu để hút nước, lá biến thành gai nhọn,… Số loài động vật ít, động vật có xương sống cở lớn như lạc đà một bướu, linh dương, báo, sư tử,… Các loài gậm nhấm trong đất (chuột túi và chuột đàn) rất phong phú. Hầu hết các loài chim là chim chạy. Trong số các loài sâu bọ cánh cứng, họ Tenebrinidae chiếm ưu thế và là những loài đặc trưng của sa mạc. Sự thích ứng của động vật với đời sống hoang mạc rất rõ, biểu hiện ở những đặc điểm chống khô nóng. Ngoài ra có hiện tượng di cư theo mùa, ngủ hè hay dự trữ thức ăn, sinh sản đồng loạt vào thời kỳ có độ ẩm cao.
- g) Rừng lá kim (Taiga, Boreal Forest) H.11 Rừng lá kim Rừng lá kim phân bố rộng ở hầu hết các vùng phía Bắc của Bắc Âu và Bắc Mỹ. Ngoài ra, rừng này còn có vành đai xuất hiện ở một vài nơi khác, ở đó có các tên gọi khác nhau: khi nó ở gần các đỉnh núi gọi là rừng lá kim ở núi; và rừng mưa ôn đới dọc theo bờ biến Thái Bình Dương cho đến Nam California. Lượng mưa thấp khoảng 100 đến 400 mm/năm và có mùa sinh trưởng ngắn. Mùa đông lạnh và ngắn, trong khi đó mùa hè có xu hướng ấm. Rừng lá kim đặc trưng bởi các loài cây thẳng như Vân sam, Lãnh sam, Thiết sam và Thông. Các loài cây gỗ này có lá và vỏ bảo vệ dày, cũng như lá có dạng kim có thể chịu đựng trọng lượng của tuyết tích tụ lại. Các khu rừng lá kim hạn chế với các loài cây tầng thấp, và bề mặt đất được bao phủ bởi một lớp rêu và địa y. Thông, Tùngbách, cây Dương đỏ, cây Phong và cây Phi lao là những loài cây phổ biến; chó sói, gấu Mỹ và tuần lộc là các loài động vật phổ biến. Tính ưu thế của một số loài được thể hiện rõ ràng, nhưng tính đa dạng thấp khi so sánh với các khu sinh quyển ôn đới và nhiệt đới. 1.3.2 Các khu sinh học ở nước Môi trường nước ít khắc nghiệt hơn so với môi trường trên cạn. Các sinh vật thuỷ sinh bơi lội trong nước nhờ vào lực đẩy của nước và không phải đối phó với tình trạng khô hạn. Các chất dinh dưỡng hoà tan chi phối sự phân bố của các sinh vật. Các khu sinh học ở nước được chia thành khu sinh học nước ngọt và khu sinh học biển. a) Khu sinh học biển:
- Khu sinh học biển chứa nhiều muối hoà tan hơn khu sinh học nước ngọt. Có hai phân hạng trong khu sinh học này đó là quần xã sống đáy và quần xã sống trong tầng nước. Theo độ sâu, quần xã sống đáy được chia thành vùng ven bờ và vùng sâu. Quần xã sống trong tầng nước được chia thành quần xã sống trôi nổi và quần xã tự bơi. Tầng nước từ 200 mét trở lên có ánh sáng xâm nhập vào được gọi là tầng giàu dinh dưỡng. Vùng biển chiếm ¾ bề mặt Trái Đất, bao gồm các đại dương, các rạn san hô, cửa sông. Đại dương: Đại dương là hệ sinh thái lớn trên Trái Đất, được tách ra thành các vùng nhỏ hơn như vùng triều, vùng khơi, vùng sâu và vùng đáy. Rạn san hô Cửa sông b) Khu sinh học nước ngọt: Khu sinh học nước ngọt được chia thành 2 vùng là khu sinh học nước chảy và khu sinh học nước đứng. Nước trong các thuỷ vực nước ngọt lớn thường có sự phân tầng nhiệt độ. Ở một số hồ lớn vùng ôn đới thường có hiện tượng chu chuyển nước theo mùa, nhờ đó các chất dinh dưỡng được đưa từ tầng sâu lên tầng mặt, giúp cho sự phát triển của các sinh vật nổi trong hồ. Ao hồ: Trên thế giới có 20 hồ được liệt vào loại lớn nhất với độ sâu: trung bình trên 400m như hệ thống hồ: Laurentia ở Bắc Mỹ, hồ Victoria, Tanganyika ( châu Phi), hồ Baika (Nga)… Hồ Baika ra đời từ kỷ Đệ Tam, cách đây khoảng 1 triệu năm, độ sâu lên đến 1642 m, trung bình là 740 m, chứa tới 20% tổng lượng ngọt toàn thế giới, có nhiều họ, chi, và loài thực vật, động vật di lưu trở thành dạng đặc hữu. Sông suối: Trên thế giới có nhiều hệ thống sông lớn với lưu vực rộng, dòng chính dài, lưu lượng nước cao như sông MIssisipi (Bắc Mỹ), Amazon (Nam Mỹ), sông Công gô, Sông Nin, sông VOnga, Hoàng Hà, Mê Công… có mức đa dạng sinh học cao, nơi lưu giữ nguồn gen thủy sinh vật cho các thủy vực nội địa khác. Riêng cá, ở sông Amazon có tới 1000 loài, sông MeeKong khoảng 800 loài nhiều loài trong chúng có giá trị kinh tế cao. Vùng đất ngập nước:
- Đầm lầy này ở Everglades, Folia Trên thế giới, trong số hơn 250.000 loài thực vật có mạch thì chỉ có khoảng 110 loài thực vật là đặc trưng cho thảm cây ngập mặn, điều này cho rằng đây là một môi trườngkhắc nghiệt cho các loài thực vật.Thấy tại một khu vực ngập nước mặn, sẽ khó có thể thu thập được ba chục loài, và ở một số địa điểm, đặc biệt là địa điểm ven vùng cận nhiệt đới và các mảnh đất mới hình thành, có thể có chỉ có một hoặc hai loài. Tất cả các loài cây ngập mặn của thế giới là cây lâu năm, và không loài nào có thể phát triển hoặc là ở nơi có sự đóng băng hoặc nơi nhiệt độ nước lạnh theo mùa. Do đó, các yếu tố nhiệt độ đã hạn chế khả năng hướng cực của loại rừng này. Rừng ngập mặn có thể được tìm thấy ở trong hơn 118 quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới của thế giới. Các tỷ lệ phần trăm về diện tích lớn nhất của rừng ngập mặn được tìm thấy giữa5° vĩ Bắc và 5° vĩ Nam. Khoảng75 % rừng ngập mặn trên thế giới được tìm thấy trong chỉ 15 quốc gia. Châu Á có số lượng rừng ngập mặn lớn nhất (42%) của thế giới, tiếp theo là châu Phi (21%), Bắc và Trung Mỹ (15%), Châu Đại Dương (12%) và Nam Mỹ (11%).Theo tác giả Wahsh (1974) phân chia thảm cây ngập mặn thế giới thành 2 nhóm chính: Khu vực Ấn độ Thái Bình Dương gồm Nam Nhật Bản, Philippines, Đông Nam Á, Ấn Độ, bờ biển Hồng Hải, Đông Phi, Australia, New Zealand, quần đảo phía Nam Thái Bình Dương tới tận đảo Xamoa.
- Khu vực Tây Phi và châu Mỹ bao gồm bờ biển châu Phi phía Đại Tây Dương, đảo Galapagos và châu Mỹ. Tổng diện tích rừng ngập mặn thế giới vào khoảng 15.429.000 ha, trong đó có 6.246.000 ha thuộc châu Á nhiệt đới và châu Đại dương, 5.781.000 ha ở châu Mỹ nhiệt đới và 3.402.000 ha thuộc châu Phi. Ấn Độ và Malaysia được xem là hai khu vực có nhiều loài cây ngập mặn phong phú và có chất lượng. Các cây gỗ quan trọng nhất là Mắm (hay Mấm), Đước, Vẹt, Bần, Dà (Ceriops). Mắm trắng (Mắm lưỡi đòng) (Avicemnia alba) và Bần trắng (Sorineratia alba) phát triển theo hướng biển, còn Mắm quăn (Avicennia lanata) và Mắm đen (Avicennia officinalis) hướng về phía đất liền. Rừng ngập mặn phong phú nhất ở Đông Nam Á là Malaysia, Thái Lan, Việt Nam vì nơi đây mưa lớn, nhiều phù sa, ít sóng gió. Các loài cây ngập mặn đã tiến hóa từ những thực vật ở cạn khác nhau một cách biệt lập, cả ở những loài một lá mầm, hai lá mầm và dương xỉ. Trong số những loài cây ngập mặn, Đước đỏ, R. mangle, là loài phổ biến nhất, mọc ở dọc theo bờ biển Thái Bình Dương của châu Mỹ từ 28 độ vĩ Bắc ở Baja California và Sonora Tây bắc Nam Mỹ và quần đảo Galapagos, ở phía đông của châu Mỹ từ cực nam Florida tới miền nam Brazil, và đến vùng nhiệt đới Tây Phi. Ở Cựu thế giới (Old Worldnhững châu lục cũ ÂuÁPhi), Vẹt dù (Bruguiera gymnorrhiza) là loài đặc biệt phổ biến rộng rãi phân bố từ Đông Phi đến miền đông Úc, trong các lưu vực sông ở Thái Bình Dương, và quần đảo Ryukyu ở châu Á. Ngoài ra, Dà và Trang Kandelia candel, Mắm cũng là những loài rất phổ biến ở những khu vực này. II. SỰ ĐA ĐẠNG SINH HỌC TRÊN THẾ GIỚI NÓI CHUNG Sự sống có thể tìm thấy ở khắp mọi nơi trên trái đất, ngay cả ở những nơi có những điều kiện rất khắc nghiệt như ở vùng cực hay những vùng khô hạn. Tuy nhiên, vùng nhiệt đới là nơi có độ ĐDSH cao nhất. Chúng chỉ chiếm 6% diện tích bề mặt trái đất nhưng chứa hơn 50% số loài thực vật toàn cầu. Nếu trên 1 m2 đất rừng ôn đới có thể trú ngụ 200.000 ve bét thì trên cùng diện tích bền mặt ở vùng nhiệt đới có thể trú ngụ 32 triệu tuyến trùng và 1 g đất có thể chứa đến 90 triệu vi khuẩn và các vi sinh vật khác. Các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ trong chương trình thu mẫu tăng cường ở vùng biển Đại tây dương, đã ước tính số loài sống trong lớp trầm tích sâu của đại dương có thể lên đến hơn 10 triệu, có thể so sánh với những gì chúng ta tìm được trong các khu rừng nhiệt đới. Môi trường giàu có nhất về số loài là những khu rừng mưa nhiệt đới; những dải san hô, những khu đầm, hồ ở vùng nhiệt đới và những khu vực sâu nhất của biển (Pianka, 1966; Goombrige, 1992). Sự giàu có về loài cũng được tìm thấy trong các nơi cư trú trên cạn khác của vùng nhiệt đới như những khu rừng rụng lá, savan cây bụi, đồng cỏ và sa mạc (Mares, 1992) và các rừng cây bụi thuộc vùng ôn đới. Trong các
- rừng mưa nhiệt đới, sự ĐDSH là sự giàu có của các loài côn trùng. Tại các rạn san hô, sự đa dạng trải rộng ra ở nhiều ngành và lớp khác nhau. Sự đa dạng tại các khu vực sâu của biển có thể là do thời gian, diện tích rộng lớn và độ ổn định của môi trường cũng như là do những tính chất đặc biệt của các loại trầm tích nơi đó (Etter and Grassle, 1992). Sự phong phú của những loài cá và các loài khác trong những hồ rộng ở vùng nhiệt đới là do sự phân ly thích nghi trong một chuỗi những khu cư trú tách biệt và giàu chất dinh dưỡng. Các HST nông nghiệp thường không phong phú về thành phần loài, do đó có tính ổn định thấp. Tuy vậy, không phải là các HST nông nghiệp lúc nào cũng không ổn định. Sự ổn định của HST nông nghiệp có thể giữ được bằng tác động của con người thông qua các phương thức canh tác, sự phong phú trong loài và đa dạng hóa cây trồng. Sự phong phú (diversity) trong loài là thành phần các giống cây trồng cùng một loài được trồng trong một HST hay nói theo di truyền học là sự phong phú về kiểu di truyền (genotypes) hay về gen. Trong nông nghiệp cổ truyền, lúc nông dân còn dùng các giống địa phương, sự phong phú về di truyền của các HST nông nghiệp được đảm bảo vì mỗi vùng sản xuất có rất nhiều giống địa phương. Bản thân mỗi giống địa phương là một giống đa gen, một quần thể lại không thuần nhất về di truyền, có nhiều kiểu di truyền khác nhau nhưng kiểu hình lại tương đối giống nhau. Khi các tiến bộ khoa học kỹ thuật được áp dụng vào sản xuất, công tác chọn giống được phát triển, các giống năng suất cao dần dần thay thế các giống địa phương. Các giống này thuần nhất về mặt di truyền và thường được trồng với diện tích rất rộng, có lúc là độc nhất trong các HST nông nghiệp (hệ thống độc canh). Sự đồng nhất về mặt di truyền của các giống mới cho năng suất cao được xem như là mối rủi ro đáng lo ngại. Trong quá khứ đã có những nạn dịch lớn về bệnh cây trồng do sự đơn điệu về thành phần di truyền của giống trong HST nông nghiệp.
- H.12. Các điểm nóng về đa dạng sinh học trên thế giới: 25 điểm màu xanh lá cây được xác định trước năm 2000, 9 điểm màu xanh nước biển mới được thêm gần đây. Hình theo Wikipedia
![](images/graphics/blank.gif)
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Top Ten về ô nhiễm môi trường
6 p |
978 |
280
-
NGHIÊN CỨU VẬT LIỆU COMPOSITE TRÊN NỀN NHỰA POLYETYLENE TỈ TRỌNG CAO GIA CƯỜNG BẰNG SỢI ĐAY
7 p |
606 |
186
-
Đa dạng sinh học và các hệ sinh thái
7 p |
367 |
92
-
Thực phẩm chuyển gene
18 p |
193 |
86
-
Công nghệ chiết tách bằng phương pháp CO2 ở trạng thái siêu tới hạn-p2
6 p |
215 |
53
-
An toàn cho người tiêu dùng - Các thực phẩm chuyển gen có an toàn hay không? (Pocket 3)
3 p |
203 |
48
-
Bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam- mối liên hệ với Phát triển bền vững (SD) và biến đổi khí hậu (CC)
11 p |
219 |
44
-
Đề tài: “Phân lập và xác định hoạt tính enzyme ngoại bào của vi khuẩn ưa nhiệt ứng dụng trong xử lý môi trường”
25 p |
243 |
44
-
ỨNG DỤNG CỦA THỰC VẬT TRONG SẢN XUẤT NHIÊN LIỆU SINH HỌC
111 p |
189 |
33
-
Bước đầu tìm hiểu sự đa dạng thành phần loài chim
22 p |
173 |
18
-
Di truyền, sự tương tác giữa di truyền và môi trường - yếu tố quyết định chiều cao của con người
14 p |
136 |
15
-
Gần 50% sinh vật sống dưới bề mặt của Trái Đất
4 p |
90 |
7
-
huyết Nguyệt y học và Nguyệt sinh học
6 p |
105 |
5
-
Đề cương chi tiết học phần: Ứng dụng công nghệ sinh học trong bảo tồn
5 p |
54 |
3
-
Đánh giá khả năng ức chế enzyme tyrosinase, collagenase và kháng khuẩn của các cao chiết từ lá sài đất ba thùy (Wedelia trilobata L.)
8 p |
3 |
1
![](images/icons/closefanbox.gif)
![](images/icons/closefanbox.gif)
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
![](https://tailieu.vn/static/b2013az/templates/version1/default/js/fancybox2/source/ajax_loader.gif)