Sử dụng thí nghiệm và các phương tiện hiện đại trong dạy học vật lí
lượt xem 32
download
VL là môn khoa học thực nghiệm, do đó việc khai thác các TN nhằm tạo ra tình huống có vấn đề là một thế mạnh rất cần được phát huy. Sử dụng TN mở đầu để tạo ra tình huống có vấn đề tạo ra sự hứng thú, thu hút sự chú ý đối với HS, đặt HS vào những tình huống có vấn đề và làm cho HS tích cực, chủ động trong việc tìm hiểu giải quyết vấn đề.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sử dụng thí nghiệm và các phương tiện hiện đại trong dạy học vật lí
- Sử dụng thí nghiệm và các phương tiện hiện đại trong dạy học vật lí VL là môn khoa học thực nghiệm, do đó việc khai thác các TN nhằm tạo ra tình huống có vấn đề là một thế mạnh rất cần được phát huy. Sử dụng TN mở đầu để tạo ra tình huống có vấn đề tạo ra sự hứng thú, thu hút sự chú ý đối với HS, đặt HS vào những tình huống có vấn đề và làm cho HS tích cực, chủ động trong việc tìm hiểu giải quyết vấn đề. Khi sử dụng TN trong giai đoạn này, GV cần chú ý phải làm thế nào để thông qua TN, gây được cho HS sự ngạc nhiên, tạo ra được những sự khó khăn nhất định về mặt nhận thức đối với vấn đề đặt ra, HS chưa biết cách giải thích hiện tượng, sự vật, quá trình của thực tế, chưa thể đạt tới mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình huống này kích thích HS tìm tòi cách giải thích hay hành động mới. Thông qua TN, HS phải thấy được tại sao những gì các em quan sát được có vẻ khác với những dự đoán trong suy luận của chính các em, từ đó dần đưa HS vào những bài toán nhận thức để HS tích cực hoạt động hơn, coi việc giải quyết vấn đề tiếp theo như một nhiệm vụ mà chính các em tự đặt ra, đồng thời tạo cho các em một niềm vui nhận thức mới.
- 1.3.2. Sử dụng thí nghiệm đúng lúc để giải quyết vấn đề cụ thể Ngoài việc sử dụng TN để tạo ra tình huống có vấn đề, TN còn được sử dụng ngay trong quá trình giải quyết vấn đề. Thông qua TN, bằng cách quan sát diễn biến của hiện tượng xảy ra, ghi chép số liệu từ TN, HS có thể thu nhận được một số thông tin nhất định từ những vấn đề đang học. Dựa trên những thông tin thu được HS có thể sơ bộ dự đoán về tính chất của các sự vật, về nguyên nhân của hiện tượng … Việc đưa TN ra đúng lúc không những có tác dụng kiểm tra dự đoán của HS trước một vấn đề đã được nêu ra, mà còn khuyến khích được HS mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ riêng của mình. Khi những dự đoán suy luận của HS được TN xác nhận là đúng một cách kịp thời thì HS sẽ rất phấn khởi, tin tưởng hơn vào bản thân, dần khắc phục tâm lí thường gặp ở HS là sự thiếu tự tin vào bản thân. 1.3.3. Kết hợp thí nghiệm biểu diễn của giáo viên và thí nghiệm học sinh đểkích thích hứng thú và rèn luyện kĩ năng chohọc sinh Cả lí luận và thực tiễn dạy học cho thấy, đối với HS phổ thông, bản thân HS không thể tự sử dụng thành thạo các TN, lắp ráp tiến hành các TN một cách có hiệu quả nếu không có sự hỗ trợ, hướng dẫn của GV. Khi làm TN không thành công, HS thường tỏ ra chán nản và mất đi lòng tự tin vào bản thân. Chính vì vậy mà GV cần phải kiên trì, có kế hoạch tỉ mỉ và vận dụng kết hợp TN của GV và TN của HS để rèn luyện dần những khả năng tối thiểu mà một HS cần phải đạt được. Điều này đặc biệt quan trọng với HS, làm cho các em có điều kiện tiếp xúc với các dụng cụ đo lường, thiết bị kĩ thuật thông dụng trong cuộc sống hàng ngày. Việc kết hợp TN biểu diễn của GV và TN của HS còn tạo ra ở các em một tinh thần say mê học tập, ham hiểu biết khoa học, tìm tòi nghiên cứu và trên cơ sở đó mới có thể nảy sinh ra những vấn đề hay, những vấn đề lí thú và bổ ích cho các giờ học VL. Để việc kết hợp thí nghiệm biểu diễn của giáo viên và thí nghiệm học sinh đạt hiệu quả, nhằm kích thích tính tích cực của HS, GV không nên chỉ cho HS quan sát kết quả cuối cùng, trước khi đi đến những kết luận, cần biểu diễn TN sao cho HS thấy được quá trình vận động của hiện tượng, cần giới thiệu thí nghiệm dưới
- dạng phân tích, so sánh, trình bày thí nghiệm như một quá trình nghiên cứu và tổ chức cho HS tham gia vào quá trình nghiên cứu đó qua một hệ thống các câu hỏi theo hai dạng cơ bản là dự đoán hiện tượng sẽ xảy ra và giải thích các hiện tượng đã quan sát được. 1.3.4. Chú trọng đến việc rèn luyện cho học sinh kĩ năng giải bài tập thí nghiệm Bài tập TN là loại bài tập đòi hỏi phải làm TN để kiểm chứng lời giải lý thuyết hoặc để tìm những số liệu cần thiết cho việc giải bài tập. Bài tập TN có tác dụng tốt về cả ba mặt: giáo dục, giáo dưỡng và giáo dục kĩ thuật tổng hợp, đặc biệt nó giúp làm sáng tỏ mối quan hệ giữa lí thuyết và thực tiễn. Thông qua các bài tập TN, có thể rèn luyện tư duy cho HS, nâng cao khả năng độc lập suy nghĩ, tuy nhiên, để làm được điều này thì kĩ năng TN của HS phải đạt được trình độ nhất định nào đó. Cũng cần chú ý rằng, trong các bài tập TN thì TN chỉ cho các số liệu để giải bài tập, chứ không cho biết tại sao hiện tượng lại xảy ra như thế, cho nên phần vận dụng các định luật VL để lí giải các hiện tượng mới là nội dung chính của bài tập TN. 1.3.5. Thảo luận ở lớp về các phương án thiết kế, chế tạo và tiến hành các thí nghiệm đơn giản nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo cho học sinh Có thể nói rằng, việc thảo luận ở lớp về các phương án thiết kế, chế tạo và tiến hành các TN đơn giản là công việc cực kì khó khăn và rất khó thực hiện ở các trường phổ thông trong điều kiện hiện nay. Ngoài những nguyên nhân chủ quan từ phía GV và HS, thì một nguyên nhân khác rất kho khắc phục là thời gian dành cho việc thảo luận là khá dài, trong khi đó thời gian của một giờ học VL là có hạn. Tuy nhiên, nếu thực hiện được thì đây quả là một biện pháp hữu hiệu nhất, phát huy được tổng lực của tất cả các biện pháp nêu trên. Việc trao đổi thảo luận sẽ rèn luyện cho HS khả năng diễn đạt tư tưởng rõ ràng, lập luận chính xác, học tập được kinh nghiệm của các bạn, đồng thời phát triển được tư duy sáng tạo về mặt kĩ thuật. Khi các TN được hình thành từ chính ý tưởng sáng tạo của các em, được làm từ chính bàn tay của các em thì các em sẽ có niềm vui lớn lao, sự tự tin về khả năng
- của bản thân được nâng cao, từ đó tính chủ động, sáng tạo khoa học của HS được phát triển hơn. II. PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ 2.1. Các phương tiện trực quan trong dạy học 2.1.1. Chức năng của phương tiện trực quan Phương tiện trực quan bao gồm mọi thiết bị và thiết bị kĩ thuật từ đơn giản đến phức tạp được dùng trong quá trình dạy học để hỗ trợ cho quá trình dạy và học của GV và HS. Phương tiện trực quan có tác động trực tiếp đến giác quan của người học, qua đó những thông tin được HS tiếp thu và xử lí. Tuỳ theo quan điểm lí luận nhận thức hay quan điểm về lí luận dạy học mà phương tiện trực quan có những chức năng khác nhau. – Theo quan điểm của lí luận nhận thức, phương tiện trực quan góp phần hỗ trợ cho quá trình nhận thức của HS, định hướng hoạt động nhận thức của HS trong quá trình dạy học và kích thích hứng thú hoạt động nhận thức của HS. Ngoài ra, phương tiện trực quan còn góp phần phát triển năng lực làm việc độc lập, sáng tạo của HS, qua đó góp phần rèn luyện phẩm chất của người lao động mới. – Theo quan điểm của lí luận dạy học, trước hết phương tiện trực quan là một phương tiện để hình thành những kiến thức, kĩ năng mới, góp phần nâng cao chất lượng kiến thức. Sử dụng phương tiện trực quan góp phần đơn giản hoá các hiện tượng, quá trình VL và kích thích hứng thú học tập của HS. Ngoài ra, việc sử dụng phương tiện trực quan còn có tác dụng nâng cao cường độ lao động, học tập của HS. 2.4.2. Các loại phương tiện trực quan Phương tiện trực quan trong dạy học có thể phân thành 2 nhóm gồm: các phương tiện dạy học truyền thống và các phương tiện nghe nhìn. – Các phương tiện trực quan truyền thống thường được dùng phổ biến trong nhà trường có thể kể đến là: Các vật thật trong đời sống và kĩ thuật; các thiết bị TN được dùng để tiến hành TN hoặc TN HS, các mô hình vật chất, như: mô hình máy biến thế; mô hình động cơ điện, mô hình máy phát điện ...; bảng; tranh ảnh, biểu
- bảng và các bản vẽ sẵn; các tài liệu in như sách giáo khoa, sách bài tập, các tranh ảnh in sẵn và các tài liệu tham khảo. – Phương triện nghe nhìn bao gồm hai khối, đó là: khối mang thông tin và khối chuyển tải thông tin. Khối mang thông tin, chẳng hạn: Phim học tập: phim đèn chiếu; phim nhựa; phim truyền hình, Các băng hình, đĩa CD, đĩa DVD, đĩa VCD, Băng Casette, Các phần mềm dạy học, Giấy bóng trong đã có nội dung; Folie màu... Khối chuyển tải thông tin, như: Máy vi tính, Máy chiếu qua đầu, Máy chiếu đa chức năng, Đèn chiếu, Ti vi, Đầu Video, đầu đĩa: CD, VCD, DVD, Máy Cassette. Máy chiếu phim, Camera, Đèn chiếu Slide.... 2.2. Cách sử dụng một số phương tiện dạy học hiện đại trong dạy học vật lí 2.2.1. Sử dụng phim học tập trong dạy học vật lí Trong dạy học VL, phim học tập được sử dụng bao gồm: Phim đèn chiếu, phim chiếu bóng (bao gồm phim quay các cảnh thật và phim hoạt hình), phim vô tuyến truyền hình, phim trên băng video. Các phim học tập nói trên thường được sử dụng trong các trường hợp sau: – Khi nghiên cứu các đề tài không thể làm được thí nghiệm, mặc dù các thí nghiệm đó là những thí nghiệm rất cơ bản, do thiết bị thí nghiệm cần sử dụng cồng kềnh, phức tạp, đắt tiền, hoặc không an toàn đối với GV và HS. Chẳng hạn như thí nghiệm Cavendisơ để xác định hằng số hấp dẫn, thí nghiệm Miliken xác định điện tích nguyên tố hoặc các thí nghiệm về tia X, về phản ứng hạt nhân … – Khi nghiên cứu các đối tượng, hiện tượng VL không thể quan sát, đo đạc trực tiếp được do chúng quá nhỏ hoặc quá to,. Chẳng hạn khi nghiên cứu về cấu trúc vật chất, các đối tượng vi mô trong trong cơ chế dẫn điện ở các môi trường khác nhau, người ta thường sử dụng phim đèn chiếu, phim chiếu bóng để cung cấp cho HS những biểu tượng có tính chất mô hình về các đối tượng và các quá trình VL này. – Khi nghiên cứu các quá trình VL diễn ra quá nhanh (như sự biến dạng của hai quả cầu khi va chạm đàn hồi với nhau) hoặc quá chậm (nh ư hiện tượng khuếch
- tán diễn ra trong chất rắn). Trong những trường hợp này, việc sử dụng phim chiếu bóng, phim vô tuyến truyền hình hoặc băng video đã quay với tốc độ mong muốn là hợp lí nhất, vì như thế, HS sẽ quan sát được toàn bộ quá trình trong một khoảng thời gian quan sát thích hợp. – Khi nghiên cứu những hiện tượng diễn ra ở những nơi hoặc những thời điểm không thể đến quan sát trực tiếp được, chẳng hạn như nghiên cứu về sự hình thành dải plasma, động đất, … người ta có thể sử dụng các phim đèn chiếu về các nội dung này. – Khi nghiên cứu các ứng dụng kĩ thuật của VL như nguyên tắc hoạt động, cấu tạo của các máy đo, các máy phức tạp, dây chuyền sản xuất, …) ta cũng có thể sử dụng phim đèn chiếu, phim chiếu bóng, phim vô tuyến truyền hình, bằng cách đưa thêm dần các chi tiết vào hình vẽ, sẽ chỉ ra được trên phim đèn chiếu, phim chiếu bóng sự chuyển từ sơ đồ nguyên lí sang thiết kế cụ thể các máy móc tương ứng. – Các loại phim học tập cũng còn được sử dụng khi trình bày lịch sử phát triển của một vấn đề VL, một phát minh khoa học … Qua việc xem phim, HS thấy được con đường thu nhận các kiến thức trong các bối cảnh xã hội cụ thể và vị trí của các nhà khoa học trong sự phát triển của VL học. Có thể khẳng định rằng, việc sử dụng phim học tập trong dạy học VL có nhiều lợi ích thiết thức. Phim học tập giúp thu nhận thế giới tự nhiên vào lớp học, xoá bỏ những hạn hẹp về mặt không gian của lớp học và thời gian của giờ học. Nhờ các cuốn phim được quay trước mà HS quan sát được với tốc độ mong muốn, thậm chí có thể dừng lại các hình ảnh để quan sát kĩ hơn. Nhờ vào khả năng đồ hoạ (như đánh dấu, đóng khung, tô màu …) kết hợp hài hoà với tín hiệu âm thanh và sự thuyết minh phim, không những tạo được ở HS những biểu tượng tốt hơn về đối tượng nghiên cứu mà còn làm tăng tính trực quan và hiệu quả xúc cảm của phương tiện dạy học. Ngoài ra, phim học tập có thể sử dụng được ở tất cả các giai đoạn của quá trình dạy học, ở trong và ngoài lớp học, ở trong và ngoài các giờ học chính khoá. Để việc sử dụng phim học tập đạt hiệu quả cao, GV cần chú ý những điểm sau:
- Thứ nhất,GV cần căn cứ vào mục đích sử dụng, nội dung cuốn phim để định ra những biện pháp sư phạm thích hợp nhằm làm tăng hiệu quả của cuốn phim đối với quá trình nhận thực của HS. Thứ hai, GV cần xác định rõ các giai đoạn làm việc chủ yếu đối với phim học tập. Đặt kế hoạch sử dụng phim (sử dụng vào lúc nào, nhằm đạt được mục đích gì trong lí luận dạy học …) trong kế hoạch dạy học tổng thể một chương, một phần cụ thể. Trước khi sử dụng phim, cần giao cho HS nhiệm vụ ôn tập ở nhà những kiến thức cần thiết để có thể hiểu được nội dung cuốn phim; nêu rõ mục đích sử dụng phim nhằm đặt HS ở tâm thế chờ đợi tích cực, khêu gợi tính tò mò nhận thức. Trước khi chiếu phim, để định hướng sự chú ý cho HS vào những nội dung cơ bản của cuốn phim, GV cần giao cho HS các nhiệm vụ cần hoàn thành sau khi xem phim. Trong khi HS xem phim, GV cần quan sát, có thể đưa ra những gợi ý nhỏ để hướng sự chú ý của HS vào những cái cơ bản, cái đặc biệt có trong đoạn phim để HS không bị bỏ sót những điểm cần thiết. Sau khi xem xong cuốn phim, GV có thể đánh giá hiệu quả của việc sử dụng phim thông qua sự trả lời của HS về các câu hỏi đã đặt ra ban đầu. Trong những trường hợp cần thiết, cũng có thể tiến hành những TN của GV hoặc TN của HS trước hoặc ngay sau khi chiếu phim. 2.2.1. Sử dụng dao động kí điện tử trong dạy học vật lí Dao động kí điện tử là một thiết bị đo lường đa chức năng, hiển thị kết quả đo dưới dạng đồ thị trên màn hình và có thể quan sát bằng mắt được. Dao động kí điện tử có thể hỗ trợ nhiều trong các TN nghiên cứu về các dao động điện, dòng điện xoay chiều, dao động và sóng điện từ. Ở một số trường phổ thông hiện nay, hai loại dao động kí được sử dụng phổ biến là loại dao động kí một chùm tia và dao động kí hai chùm tia. Hiện nay, dao động kí điện tử được sử dụng khá phổ biến trong dạy học VL. Nhờ có dao động kí điện tử mà ta có thể đo được nhiều đại lượng VL khác nhau như điện trở, điện dung, độ tự cảm, hiệu điện thế, độ lệch pha, tần số, hệ số khuếch đại của một tầng khuếch đại hay một máy khuếch đại … Kết quả đo từ dao động kí điện tử có tính chính xác cao, có thể đo được các đại lượng VL có độ lớn khá nhỏ. Việc ứng dụng dao động kí điện tử trong dạy học VL không những cho phép ta
- quan sát được các dao động điều hoà, dao động tắt dần, đường đặc trưng vôn- ampe của đèn điện tử, tranzitor … mà còn giúp ta nghiên cứu được các quá trình điện có tần số từ vài Hz đến hàng triệu Hz. Ngoài ra, dao động kí điện tử còn có thể được sử dụng để nghiên cứu các loại dao động khác, không phải là dao động điện như dao động âm, hiện tượng giao thoa, nhiễu xạ … bằng cách biến đổi chúng thành các dao động điện rồi đưa các tín hiệu dao động điện này vào đầu vào của dao động kí điện tử. 2.2.1. Sử dụng máy vi tính trong dạy học vật lí MVT với tư cách là một PTDH hiện đại, sử dụng nó một cách hợp lý trong dạy học có nhiều ưu điểm. Nhờ các chương trình mô phỏng và minh họa được cài đặt sẵn, MVT có thể xây dựng nên các mô hình tĩnh hoặc động với chất lượng cao, thể hiện ở độ trung thực của màu sắc, các vận động tuân theo các quy luật khách quan của hiện tượng mà người lập trình đã đưa vào làm tăng tính trực quan trong dạy học, tăng hứng thú học tập và tạo sự chú ý học tập của HS ở mức độ cao. MVT có khả năng lặp lại nhiều lần, thậm chí là vô hạn lần ở cùng một vấn đề, giúp GV và HS có thể nghe lại, xem lại những tình huống, những hiện tượng hoặc những thông tin mà họ chưa kịp nhận biết ở lần quan sát đầu tiên. Điều này rất khó thực hiện ở người GV. Việc sử dụng MVT trong dạy học tạo cơ hội để chương trình hoá không chỉ nội dung tri thức mà cả những con đường nắm vững kiến thức, hoạt động trí tuệ của HS, vì thế có thể điều khi ển được quá trình dạy học. GV có thể xây dựng bài giảng bằng cách lắp ráp các môđun có sẵn. Một trong những ưu điểm không thể phủ nhận là việc sử dụng MVT trong dạy học có tác dụng giảm thiểu thời gian cho việc biểu diễn, thể hiện thông tin của GV trong giờ lên lớp. MVT còn cho phép củng cố ngay tức thời và thường xuyên hơn so với dạy học truyền thống, đồng thời việc kế thừa, rút kinh nghiệm, chỉnh sửa, bổ sung bài giảng … từ kết quả của các hoạt động dạy học trước đó là rất thuận lợi và không mất quá nhiều thời gian. Việc sử dụng MVT trong dạy học còn có tác dụng rất tốt đối với HS, trong đó cá thể học tập của học sinh ở mức độ cao. Với những chương trình đã được cài đặt sẵn (trắc nghiệm, đố vui …) MVT có thể
- đưa ra lời khen ngợi mỗi khi HS thực hiện tốt một nội dung học tập, và cũng có thể phê phán một cách nhẹ nhàng mỗi khi các em làm không tốt nhiệm vụ của mình. Vì thế HS thấy mình được tôn trọng, được cư xử công bằng và khách quan, giúp các em tự tin hơn vào chính bản thân mình. Thông qua đó cũng rèn luyện cho HS tính độc lập, tự chủ và sáng tạo. Học tập thông qua MVT đòi hỏi HS phải kiên trì, nhẫn nại, cần cù và chăm chỉ, đó cũng là những nét nhân cách cần thiết phải hình thành ở HS. Một ưu điểm khác của việc sử dụng MVT trong dạy học là khả năng đánh giá kết quả học tập một cách công bằng, khách quan, điều đó giúp HS đánh giá đúng khả năng học tập của mình. Nhờ có MVT mà kết quả học tập của HS được lưu lại trong các tệp số liệu, giúp GV có thể so sánh, đánh giá, nhận xét quá trình học tập của HS một cách nhanh chóng, chính xác. Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học vật lý nói riêng, các thí nghiệm tự động hoá có sự trợ giúp của MVT được thực hiện một cách nhanh chóng với độ chính xác cao; các số liệu thực nghiệm được xử lý, đánh giá và trình bày dưới dạng bảng biểu, đồ thị hay các tệp số liệu, có thể lưu trữ trên các thiết bị nhớ ngoài của MVT, điều đó giúp GV và HS dễ dàng trong việc khảo sát và xử lý thông tin. Việc sử dụng MVT trong dạy học cũng làm thay đổi nội dung và phương pháp giảng dạy, các hình thức dạy học cũng từ đó mà được cải tiến, các phương pháp dạy học tích cực cũng có thể được hoàn thiện, bổ sung và sử dụng rộng rãi hơn, nhất là phương pháp dạy học chương trình hoá; mô hình hoá. MVT có một ưu điểm nổi trội khác là khi kết nối vào mạng máy tính, nó tạo điều kiện để tiến hành dạy học từ xa một cách thuận tiện và hiệu quả. Ngoài ra, thông qua mạng internet, GV có thể cập nhật được những thông tin mới nhất liên quan đến nội dung dạy học để bổ sung, hoàn thiện bài giảng một cách có chất lượng. Như đã phân tích trên, việc sử dụng MVT trong dạy học có nhiều ưu điểm, tuy vậy nó cũng có những nhược điểm đáng lưu ý. – Thứ nhất, về mặt kích thước, màn hình MVT là khá nhỏ có thể gây khó khăn cho việc quan sát của HS, nhất là đối với các lớp đông HS.
- Để khắc phục nhược điểm này, GV có thể thực hiện việc học tập với mạng máy tính, học theo từng nhóm nhỏ để các em dễ quan sát. Một trong những biện pháp khắc phục thường được áp dụng ở nhiều trường học hiện nay là sử dụng thiết bị khuếch đại nối với MVT (Projector), chiếu dữ liệu trên màn hình của MVT lên màn ảnh rộng, nhờ đó những hạn chế về kích thước nhỏ của màn hình sẽ được khắc phục. – Thứ hai, việc học tập với MVT trong thời gian dài có thể làm hạn chế năng lực giao tiếp xã hội của HS, vì HS chỉ im lặng trước MVT mà không có nhiều điều kiện để trao đổi thông tin bằng lời. Để khắc phục nhược điểm này, biện pháp tốt nhất là nên tổ chức cho HS học tập theo nhóm, thông qua nhóm học tập để HS có thể trao đổi, thảo luận. GV cũng thường xuyên theo sát các nhóm HS để hướng dẫn, trao đổi vối HS. – Thứ ba, để sử dụng MVT trong dạy học có hiệu quả, đòi hỏi người GV phải có kiến thức nhất định về tin học. Đây là một trong những khó khăn thuộc về lĩnh vực con người nên không thể giải quyết nhanh một sớm một chiều mà cần phải có thời gian và có những quyết sách từ phía các nhà quản lý giáo dục và sự năng động, tâm huyết của người GV. Để giải quyết vấn đề này, nên tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức tin học định kỳ cho GV phổ thông. Trong các trường sư phạm, cần phải đưa vào nội dung chương trình đào tạo những chương trình về tin học ứng dụng, nhất là các chương trình ứng dụng tin học vào phương pháp giảng dạy bộ môn.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tài liệu thí nghiệm vật lý phổ thông ( Tập 1)
28 p | 1151 | 388
-
SKKN: Một vài kinh nghiệm giảng dạy trong một tiết dạy Hoá học 8 có sử dụng thí nghiệm biểu diễn nhằm phát huy năng lực nhận thức của học sinh
19 p | 612 | 187
-
SKKN: Một vài kinh nghiệm sử dụng đồ dùng thí nghiệm có hiệu quả trong giảng dạy Vật lý lớp 7
14 p | 532 | 98
-
SKKN: Nâng cao hiệu quả sử dụng thí nghiệm trong dạy học Sinh học tế bào (Sinh học 10)
32 p | 500 | 72
-
Sử dụng thí nghiệm biểu diễn của giáo viên theo phương pháp nghiên cứu
4 p | 445 | 33
-
SKKN: Hiệu quả của việc sử dụng thí nghiệm trực quan trong giảng dạy Hóa học ở trường phổ thông
8 p | 180 | 33
-
Kiểm tra miệng – Phương pháp quan trọng để kiểm tra đánh giá học sinh
3 p | 90 | 8
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Phát triển năng lực học sinh qua sử dụng thí nghiệm dạy học chương Trao đổi chất và chuyển hóa năng lượng ở sinh vật - Khoa học tự nhiên 7
23 p | 21 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Sử dụng thiết bị và đồ dùng dạy học Vật lý
13 p | 15 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng video thí nghiệm và các hình ảnh phù hợp trong dạy học chương Chất rắn và chất lỏng. Sự chuyển thể Vật lí 10 THPT
28 p | 36 | 6
-
SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm ở chương trình hóa học Trung học cơ sở
36 p | 75 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Xây dựng thí nghiệm sử dụng trong giảng dạy chương Cân bằng và chuyển động của vật rắn - Vật lí 10 Trung học phổ thông
48 p | 20 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng thí nghiệm trong dạy học khám phá môn Hóa học nhằm phát triển năng lực và phẩm chất cho học sinh
54 p | 31 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng bài tập thực hành, thí nghiệm và dự án thực tiễn trong dạy học Hóa học 11 để phát triển tư duy kinh tế cho học sinh phổ thông
64 p | 21 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phương pháp sử dụng thí nghiệm hóa học khi nghiên cứu bài mới theo hướng dạy học tích cực trong chương trình SGK lớp 12 trung học phổ thông
156 p | 15 | 4
-
SKKN: Sử dụng thí nghiệm đối chứng trong giảng dạy môn Hoá học
15 p | 68 | 4
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nghiên cứu, chế tạo và sử dụng bộ thí nghiệm tích hợp khảo sát chuyển động cơ học dùng cảm biến khoảng cách kết nối với máy tính
25 p | 6 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn