intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sự tiếp xúc và giao lưu văn minh thời cổ đại

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

596
lượt xem
23
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiếp xúc và giao lưu văn minh là sự tiếp nhận yếu tố văn minh bên ngoài của những dân tộc chủ thể thông qua nhiều con đường và cách thức khác nhau. Mỗi dân tộc có thành tựu văn minh độc đáo của mình, đóng góp vào nền văn minh nhân loại những thành tựu đặc sắc, đồng thời cũng tiếp thu, kế thừa những tinh hoa của các nền văn minh khác, làm phong phú thêm cho nền văn minh của dân tộc mình.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sự tiếp xúc và giao lưu văn minh thời cổ đại

Dƣơng Thị Huyền<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 84(08): 9 - 16<br /> <br /> SỰ TIẾP XÚC VÀ GIAO LƯU VĂN MINH THỜI CỔ ĐẠI<br /> Dương Thị Huyền*<br /> Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Tiếp xúc và giao lƣu văn minh là sự tiếp nhận yếu tố văn minh bên ngoài của những dân tộc chủ<br /> thể thông qua nhiều con đƣờng và cách thức khác nhau. Mỗi dân tộc có thành tựu văn minh độc<br /> đáo của mình, đóng góp vào nền văn minh nhân loại những thành tựu đặc sắc, đồng thời cũng tiếp<br /> thu, kế thừa những tinh hoa của các nền văn minh khác, làm phong phú thêm cho nền văn minh<br /> của dân tộc mình. Quá trình tiếp xúc và giao lƣu văn minh diễn ra một cách rộng lớn và sâu sắc<br /> trên toàn thế giới, trong phạm vi từng khu vực, không phân biệt nền văn minh lớn hay nhỏ. Trong<br /> đó xuyên suốt và điển hình nhất là quá trình tiếp xúc và giao lƣu giữa các nền văn hóa, văn minh<br /> phƣơng Đông với phƣơng Tây. Quá trình này diễn ra rõ nét nhất là trong thời kỳ cổ đại, tạo nên<br /> những nền văn minh đa dạng, phong phú, trở thành những di sản của văn minh nhân loại.<br /> Từ khoá: văn hoá, văn minh, tiếp xúc và giao lưu văn minh<br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ*<br /> Thời cổ đại, trên thế giới đã xuất hiện những<br /> nền văn minh rực rỡ. Các nhà nghiên cứu đã<br /> chia nền văn minh thế giới cổ đại thành 2 loại:<br /> văn minh phƣơng Đông (bao gồm văn minh Ai<br /> Cập, Lƣỡng Hà, Trung Quốc, Ấn Độ) và văn<br /> minh phƣơng Tây (gồm văn minh Hy Lạp và La<br /> Mã). Các nền văn minh đã hình thành nên<br /> những phong cách độc đáo của mình, không<br /> trộn lẫn vào các nền văn minh khác. Nhƣng<br /> giữa chúng không hề tách biệt nhau mà luôn có<br /> sự tiếp xúc và giao lƣu với nhau. Sự tiếp xúc và<br /> giao thoa này diễn ra chậm chạp, nhiều khi<br /> mang tính gián tiếp do sự cách biệt về địa lý và<br /> do các phƣơng tiện giao thông, thông tin liên<br /> lạc không thuận tiện. Tuy nhiên, cuộc gặp gỡ<br /> Đông- Tây đã diễn ra một cách mạnh mẽ thông<br /> qua nhiều con đƣờng khác nhau: con đƣờng<br /> buôn bán của các thƣơng nhân, con đƣờng du<br /> lịch, con đƣờng truyền giáo, con đƣờng chiến<br /> tranh… tạo nên sự giao lƣu văn minh giữa các<br /> khu vực trên thế giới thời cổ đại. Sự tiếp xúc<br /> văn minh có tác động vô cùng to lớn tới “số<br /> phận” của các nền văn minh trên thế giới.<br /> Một mặt, nó thúc đẩy các nền văn minh phát<br /> triển phong phú đa dạng hơn. Mặt khác, nó sẽ<br /> dẫn tới sự “xung đột” văn minh và huỷ diệt văn<br /> minh nếu trong quá trình tiếp xúc mà không có<br /> sự giao thoa văn minh. Chỉ có nền văn minh<br /> *<br /> <br /> nào mở cửa để vừa truyền bá những thành tựu<br /> của mình, vừa tiếp thu những thành tựu của nền<br /> văn minh khác thì mới kéo dài đƣợc “số phận”<br /> và phát triển ở mức độ cao. Vì vậy, tiếp xúc và<br /> giao lƣu văn minh đã trở thành quy luật phát<br /> triển của nhân loại. Do đó, việc tìm hiểu sự tiếp<br /> xúc và giao lƣu giữa các nền văn minh trong<br /> thời cổ đại là một điều cần thiết.<br /> Trong thời cổ đại, sự tiếp xúc và giao lƣu văn<br /> minh diễn ra không đơn giản mà theo nhiều<br /> chiều khác nhau, đan xen vào nhau: ĐôngĐông, Tây- Tây, Đông- Tây… Nhƣng trong<br /> phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ tập trung<br /> nghiên cứu sự giao lƣu văn minh giữa phƣơng<br /> Đông và phƣơng Tây.<br /> KẾT QUẢ CỦA SỰ TIẾP XÚC VÀ GIAO<br /> LƢU VĂN MINH<br /> 1. Chính trị<br /> Các quốc gia cổ đại phƣơng Đông theo thể chế<br /> quân chủ chuyên chế trung ƣơng tập quyền.<br /> Vua đứng đầu nhà nƣớc nắm mọi quyền lực và<br /> chi phối mọi việc trong nƣớc. Còn các quốc gia<br /> cổ đại phƣơng Tây lại theo thể chế dân chủ hơn,<br /> quyền lực nằm trong tay đại đa số ngƣời. Tuy<br /> nhiên đã có một thời, hai thể chế chính trị này<br /> lại kết hợp, giao thoa với nhau cùng tồn tại trên<br /> một lãnh thổ. Sau khi thiết lập đƣợc một quốc<br /> gia rộng lớn trên cả 3 châu lục châu Á- châu<br /> Âu- châu Phi, Alêchxanđrơ đã nhanh chóng bắt<br /> tay vào việc tổ chức bộ máy cai trị. Tổ chức<br /> <br /> Tel: 0975702362; Email: duonghuyen.sudhkh@gmail.com<br /> <br /> 9<br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Dƣơng Thị Huyền<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> chính quyền của đế quốc dựa trên sự phối hợp<br /> giữa chế độ chính trị của thị quốc Hy Lạp với<br /> nội dung chuyên chế của các quốc gia phƣơng<br /> Đông. Hoàng đế Alêchxanđrơ đƣợc thần thánh<br /> hoá cao độ, nắm mọi quyền lực trong tay.<br /> Những ngƣời thân cận của Hoàng đế đƣợc giao<br /> giữ các trọng trách trong bộ máy nhà nƣớc.<br /> Qua tiếp xúc với phƣơng Đông, giai cấp chủ nô<br /> La Mã rất thích thú với mô hình nhà nƣớc<br /> chuyên chế trung ƣơng tập quyền. Họ có mong<br /> muốn và khát vọng tập trung quyền lực vào<br /> trong tay mình. Do đó, nền đế chế ở La Mã<br /> đƣợc thiết lập dƣới thời vua Ôtaviuxơ (TK ITK V) thay cho nền cộng hòa trƣớc đó. Giống<br /> nhƣ tổ chức nhà nƣớc phƣơng Đông, quyền lực<br /> tối cao của nền đế chế nằm trong tay nhà vua.<br /> Viện nguyên lão suy tôn ông là “quốc phụ” và<br /> tặng cho ông danh hiệu “Ôguxtuxơ”- đấng cao<br /> cả, tối cao. Đại hội công dân và Viện nguyên<br /> lão không còn giữ đƣợc vai trò nhƣ thời kỳ<br /> trƣớc mà trở thành công cụ thống trị của chính<br /> quyền quân chủ. Tính chất dân chủ của nhà<br /> nƣớc Cộng hoà La Mã thời kỳ trƣớc đến nay<br /> dần bị phai nhạt. Đây là bƣớc thụt lùi của văn<br /> minh La Mã.<br /> Tuy nhiên, chế độ quân chủ chuyên chế trung<br /> ƣơng tập quyền ở phƣơng Đông không thể<br /> thắng nổi nền dân chủ tiến bộ của phƣơng Tây.<br /> Giai cấp chủ nô chỉ tiếp thu những mặt tích cực<br /> trong hệ thống tổ chức nhà nƣớc phƣơng Đông<br /> vì họ thấy hợp với tham vọng của mình lúc đó,<br /> chứ không tiếp thu toàn bộ những đặc điểm<br /> chính trị của phƣơng Đông. Vua ở phƣơng Tây<br /> có quyền lực tối cao nhƣng không đƣợc cha<br /> truyền con nối và không đƣợc có nhiều vợ nhƣ<br /> vua chuyên chế phƣơng Đông. Không phải giai<br /> cấp chủ nô La Mã không muốn mà điều này<br /> không phù hợp với phong tục tập quán của<br /> ngƣời phƣơng Tây và Viện nguyên lão chi phối<br /> bộ máy chính quyền nên giai cấp chủ nô không<br /> dám coi thƣờng chế độ Cộng hoà và Viện<br /> nguyên lão. Nhƣ vậy, văn minh phƣơng Tây đã<br /> tiếp thu một cách có chọn lọc yếu tố văn minh<br /> tích cực của phƣơng Đông và loại bỏ những yếu<br /> tố không phù hợp với mình.<br /> 2. Kinh tế- xã hội<br /> <br /> 84(08): 9 - 16<br /> <br /> Thông qua tiếp xúc, nhiều cây trồng của<br /> phƣơng Đông và phƣơng Tây đã đƣợc trao đổi<br /> cho nhau. Nho, dƣa chuột, dƣa hấu đƣợc<br /> chuyển từ Tây Vực- các nƣớc Trung Á, vào<br /> Trung Quốc. Trong tập “Bản thảo cương mục”<br /> của nhà y dƣợc Lý Thời Trân đời Minh có viết:<br /> “Trương Khiên đi xứ Tây Vực đem về trồng cây<br /> “hồ qua” (Dưa của người Hồ). Sau đổi thành<br /> hoàng qua” [6, tr.50]. Dƣa hấu đƣợc đƣa từ Tây<br /> Vực vào trồng phổ biến ở Trung Quốc. Ngoài<br /> ra, nho là sản phẩm nổi tiếng của phƣơng Tây<br /> cũng đƣợc truyền sang Trung Quốc, ngƣời<br /> Trung Quốc rất thích nho và coi đây là một loại<br /> hoa quả quý. Đồng thời, ngƣời Tây Vực cũng<br /> du nhập nhiều sản vật có ảnh hƣởng đến đời<br /> sống của nhân dân nhƣ nông cụ, cây ăn quả, rau<br /> chân vịt, hồ đào, thạch lựu, kiều mạch, chanh…<br /> sau đó truyền sang các nƣớc Hy Lạp và La Mã.<br /> Qua các thƣơng nhân, những kĩ thuật trong sản<br /> xuất thủ công nghiệp và nông nghiệp cũng đƣợc<br /> phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới. Nền văn<br /> minh thế giới cổ đại hình thành và phát triển<br /> trên lƣu vực các dòng sông lớn hoặc ven bờ Địa<br /> Trung Hải, nên cƣ dân thời cổ đại sớm biết đến<br /> nghề đóng thuyền. Kĩ thuật đóng thuyền của<br /> ngƣời Phênixi đạt trình độ cao nhất. Qua buôn<br /> bán, ngƣời Hy Lạp đã học kĩ thuật đóng thuyền<br /> của ngƣời Phênixi. Gỗ dùng để đóng thuyền lấy<br /> từ cây tuyết tùng nhập từ Lƣỡng Hà về. Họ đã<br /> đóng đƣợc những chiếc thuyền với hàng trăm<br /> mái chèo. Mặt khác, ngƣời Hy Lạp còn thiết kế<br /> thuyền cho phù hợp với nhiều chức năng khác<br /> nhau. Bình thƣờng, thuyền dùng để chuyên chở<br /> hàng hoá nhƣng khi có chiến tranh thì trở thành<br /> những thuyền chiến. Trung Quốc cũng là quốc<br /> gia đầu tiên biết sử dụng tiền để làm vật trao<br /> đổi buôn bán nhƣng ngƣời Hy Lạp mới là ngƣời<br /> biết đến kĩ thuật đúc tiền đầu tiên trên thế giới.<br /> Theo bƣớc chân chinh phục của Alêchxanđrơ<br /> đại đế, tiền đúc của Hy Lạp đƣợc trải rộng ra<br /> khắp vùng Địa Trung Hải. Ấn Độ đã học đƣợc<br /> kĩ thuật đúc tiền của Hy Lạp. Ngoài ra, kĩ thuật<br /> chế thuỷ tinh của ngƣời Ai Cập cũng nhanh<br /> chóng đƣợc ngƣời Hy Lạp tiếp thu.<br /> Về trang phục, ngƣời Hy Lạp quen mặc hàng<br /> len thô dệt bằng lông cừu. Khi Alêchxanđrơ<br /> <br /> 10<br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Dƣơng Thị Huyền<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> tiến quân sang xâm lƣợc Ấn Độ, ngƣời Hy Lạp<br /> đã vô cùng thán phục vải trắng dệt sợi bông của<br /> Ấn Độ. Một vị tƣớng của Alêchxanđrơ là<br /> Nearchus đã tả: “Họ mặc quần dài chấm gót,<br /> choàng tấm vải qua vai, một góc quấn trên đầu<br /> bằng một thứ vải sợi bông trắng chưa từng thấy<br /> ở bất cứ nơi đâu” [4, tr.98]. Ngƣời Hy Lạp đã<br /> nhanh chóng tiếp nhận loại vải bông này và<br /> mặc trang phục theo kiểu Ấn Độ.<br /> Sử gia Hêrôđốt viết “Vài thứ cây mọc hoang<br /> trong rừng. Không có trái mà lại có len, thứ len<br /> đó đẹp hơn, tốt hơn thứ len ở lông cừu. Người<br /> Ấn dùng cây đó để dệt áo” [4, tr.159]. Do cuộc<br /> chiến tranh xâm lƣợc vùng Cận Đông mà ngƣời<br /> La Mã biết đến loại “len” ở cây này: “Ở đó- Ấn<br /> Độ- người ta dệt thứ vải tuyệt vời không thấy ở<br /> đâu trên thế giới, mịn và nhẹ đến mức có thể<br /> cuốn lại cho luồn qua một chiếc vòng nhỏ” [4,<br /> tr.159]. Vải lụa của Ấn Độ đƣợc truyền sang<br /> phƣơng Tây làm cho cƣ dân ở đây vô cùng<br /> thích thú, nhất là những chiếc khăn soan mỏng,<br /> mịn, nhẹ và lộng lẫy. Các ngôn ngữ châu Âu<br /> chỉ bông và các loại vải lụa, phần lớn đều có<br /> nguồn gốc từ ngữ âm Ấn Độ.<br /> Thông qua buôn bán, những sản phẩm tơ lụa<br /> đặc sắc của Trung Quốc đã đƣợc mang đến bán<br /> cho ngƣời Tây Á, đặc biệt là ở La Mã. Thời kỳ<br /> đầu, những bậc đế vƣơng và những nhà quý tộc<br /> Rôma thích tơ lụa Trung Quốc đến mức họ cân<br /> lụa lên và đổi chỗ lụa đó bằng vàng với cân<br /> nặng tƣơng đƣơng. Tƣơng truyền, một vị hoàng<br /> đế Rôma lần đầu tiên mặc bộ quần áo tơ lụa<br /> Trung Quốc đi xem hát gây chấn động khắp<br /> kinh thành Rôma. Vua Xêda (100 TCN)<br /> thƣờng mặc áo tơ lụa Trung Quốc trong những<br /> dịp thiết triều hoặc tiếp sứ giả nƣớc ngoài. Còn<br /> Nữ hoàng Ai Cập Clêôpatra lúc đó chỉ diện váy<br /> lụa Trung Quốc. Quần áo của họ có hoạ tiết<br /> trang trí với màu sắc tƣơi sáng và chất liệu vải<br /> bền đẹp. Về sau mọi tầng lớp trong xã hội<br /> phƣơng Tây đều sử dụng lụa Trung Quốc để<br /> may váy áo, trang phục. Nhƣ vậy, qua tiếp xúc<br /> với ngƣời phƣơng Đông, ngƣời phƣơng Tây đã<br /> tiếp thu cách ăn mặc của ngƣời phƣơng Đông.<br /> Về ẩm thực, trƣớc kia, ngƣời phƣơng Tây ăn<br /> uống rất đơn giản và không biết sử dụng các gia<br /> <br /> 84(08): 9 - 16<br /> <br /> vị. Bánh mì, lƣơng khô đƣợc làm từ lúa mì, lúa<br /> đại mạch hoặc lúa mạch đen và cá là lƣơng thực<br /> cơ bản của họ. Thực phẩm rất ít loại, chủ yếu<br /> đƣợc ƣớp muối. Trƣớc đây, cách duy nhất để<br /> làm cho thực phẩm trở nên ngọt là dùng mật<br /> ong. Qua tiếp xúc với ngƣời phƣơng Đông, cƣ<br /> dân vùng Điạ Trung Hải đã biết cách chế biến<br /> nhiều món ăn ngon và biết đến gia vị của họ.<br /> Điều đó đã làm thay đổi căn bản văn hoá ẩm<br /> thực của vùng Địa Trung Hải. Họ không những<br /> có một nguồn lƣơng thực phong phú đủ loại mà<br /> còn biết sử dụng các gia vị của phƣơng Đông<br /> vào việc chế biến món ăn. Gia vị làm các món<br /> ăn trở nên cầu kì hơn, đậm đà và hấp dẫn hơn.<br /> Điều này có thể lí giải vì sao từ thời cổ đại về<br /> sau ngƣời phƣơng Tây luôn tìm mọi cách sang<br /> buôn bán ở phƣơng Đông- xứ sở của hƣơng<br /> liệu, gia vị.<br /> Nhƣ vậy, tiếp xúc và giao lƣu văn minh thời cổ<br /> đại là một trong những nhân tố thúc đẩy tình<br /> hình kinh tế chính trị, xã hội của các quốc gia<br /> trên toàn thế giới phát triển ngày một đa dạng<br /> và phong phú hơn. Mặt khác, các thành tựu<br /> văn hóa cũng có ảnh hƣởng rất lớn đến văn<br /> hóa của các quốc gia khác trên thế giới.<br /> 3. Văn hóa<br /> Về chữ viết, mọi cộng đồng ngƣời trong thế<br /> giới cổ đại nói chung đều biết dùng hình vẽ để<br /> biểu đạt thông tin. Đây là cơ sở để họ tiến tới<br /> sáng tạo ra chữ viết. Lƣỡng Hà, Ai Cập, Trung<br /> Quốc, Ấn Độ cổ đại đƣợc coi là chốn sinh thành<br /> và phát triển của hệ thống chữ viết đầu tiên của<br /> loài ngƣời. Chữ viết của các quốc gia cổ đại<br /> phƣơng Đông chủ yếu là chữ tƣợng hình, chƣa<br /> có sự khái quát cao.<br /> Ngƣời Phênixi ở Tây Á đã mở rộng buôn bán<br /> với tất cả các khu vực trên thế giới trong đó có<br /> Lƣỡng Hà và Ai Cập. Họ đã biết dùng chữ<br /> tƣợng hình của ngƣời Ai Cập và chữ hình góc<br /> của ngƣời Lƣỡng Hà. Nhƣng do yêu cầu của<br /> việc giao dịch quốc tế, của sự phát triển ngành<br /> thƣơng mại, ngƣời Phênixi đã cải tiến chữ viết<br /> cho đơn giản và thuận tiện hơn. Hệ thống chữ<br /> cái a, b, c đã đƣợc phát minh trên cơ sở chữ viết<br /> Ai Cập vào khoảng thế kỷ XIV TCN. Loại mẫu<br /> <br /> 11<br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Dƣơng Thị Huyền<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> tự này có khoảng 30 ký tự nhƣng nhiều âm<br /> khác nhau, có thể đƣợc biểu thị bằng một vài ký<br /> hiệu. Tính chính xác và đa dạng của chúng<br /> khiến loại chữ này dễ nắm bắt hơn những loại<br /> chữ hình nêm.<br /> Trong khi đó, ngƣời Hy Lạp vẫn ở trong tình<br /> trạng mù chữ. Thật may mắn cho văn minh<br /> phƣơng Tây khi việc buôn bán đã đƣa ngƣời Hy<br /> Lạp tiếp xúc với ngƣời Phênixi. Họ đã tiếp thu<br /> bảng chữ cái của ngƣời Phênixi và đem lại sự<br /> chính xác hơn cho loại chữ này bằng cách thay<br /> đổi một số ký tự hoàn toàn là phụ âm thành<br /> nguyên âm. Bảng chữ cái của ngƣời Hy Lạp đã<br /> phát triển thành hai phiên bản. Một phiên bản<br /> Tây sau đó đến với ngƣời Etơruxcơ- những<br /> ngƣời sau này cai quản La Mã. Về sau, ngƣời<br /> dân La Mã đã biến nó thành mẫu tự đƣợc sử<br /> dụng khắp thế giới phƣơng Tây. Phiên bản<br /> phƣơng Đông đã trở thành bảng chữ cái chuẩn<br /> ở chính sứ Hy Lạp. Nhờ hệ thống mẫu tự này,<br /> ngƣời Hy Lạp đã để lại cho hậu thế một di sản<br /> văn hóa vô cùng phong phú, nhất là trong lĩnh<br /> vực văn học.<br /> Nhƣ vậy, đa phần thế giới ngày nay sử dụng<br /> nguồn này hay nguồn khác của bảng chữ cái<br /> Phênixi theo dạng mà nó tiếp nhận của ngƣời<br /> Ai Cập và Lƣỡng Hà.<br /> Về khoa học kỹ thuật<br /> Phƣơng Đông đƣợc coi là nôi của nền khoa học<br /> thời cổ đại. Nơi đây là nơi phát tích rất nhiều<br /> những thành tựu khoa học đặc sắc có giá trị đến<br /> ngày nay. Tuy ra đời ở phƣơng Đông, những<br /> thành tựu này lại phát triển rực rỡ ở phƣơng<br /> Tây. Bởi trong quá trình tiếp xúc với phƣơng<br /> Đông, phƣơng Tây đã học tập và tiếp thu những<br /> thành tựu này và không ngừng phát triển lên<br /> một tầm cao mới.<br /> Về thiên văn và lịch pháp, dựa vào sự quan sát<br /> thiên văn, ngƣời phƣơng Đông đã biết làm ra<br /> lịch, sớm nhất là ngƣời Ai Cập. Cũng giống<br /> nhƣ các quốc gia cổ đại phƣơng Đông khác,<br /> ban đầu ngƣời Ai Cập đặt ra một niên lịch chia<br /> thời gian thành năm âm lịch, mỗi năm có 364<br /> ngày, chia thành 12 tháng. Khi cầm quyền ở La<br /> Mã, Xêda đã biết đến loại lịch này và cho đây là<br /> <br /> 84(08): 9 - 16<br /> <br /> “niên lịch vĩ đại và thông minh nhất thế giới”.<br /> Do đó, sau khi ở Ai Cập về, năm 45 TCN, Xêda<br /> đã mời nhà toán học và thiên văn học Ai Cập<br /> Xôđigien dựa vào lịch Ai Cập để cải cách lịch<br /> của La Mã bởi một phép làm lịch của nhà nƣớc<br /> trƣớc đó đã bị quan lại La Mã thao túng có<br /> nhiều tiêu cực. Lịch mới của La Mã mang tên<br /> Xêda gọi là lịch Julien, đƣợc sử dụng phổ biến<br /> ở phƣơng Tây từ năm 45 TCN đến năm 1582<br /> sau CN. Phép lịch này lấy một năm có 365 ngày<br /> ¼, cứ 4 năm lại có một năm nhuận, các tháng lẻ<br /> có 31 ngày, tháng chẵn có 30 ngày. Tháng hai<br /> của năm không nhuận có 28 ngày, năm nhuận<br /> có 29 ngày. Nhƣ vậy, lịch của ngƣời La Mã có<br /> sự tiếp thu lịch Ai Cập cơ bản hoàn thiện nhƣ<br /> lịch ngày nay.<br /> Về toán học, phƣơng Đông đƣợc coi là cái nôi<br /> của nền toán học cổ đại. Trung tâm toán học<br /> lớn nhất thời cổ đại là thƣ viện Alêchxanđrơ và<br /> Viện hàn lâm khoa học. Nơi đây tập trung tất cả<br /> các nhà khoa học từ Hy Lạp, La Mã đến học<br /> tập, trong đó có một số nhà toán học nổi tiếng<br /> nhƣ Pytago, Ơclít, Talét, Acsimet… Họ tiếp thu<br /> những thành tựu toán học của phƣơng Đông và<br /> vƣợt qua cách tính nhân chia, cộng trừ sơ cấp,<br /> vƣơn tới sự khái quát thành những định lí, định<br /> đề, nguyên lí vẫn đƣợc sử dụng trong toán học<br /> hiện đại: Định lý Pytago, định lý Talét, định đề<br /> Ơclít, định luật Acsimet…<br /> Ngƣời Ai Cập dùng hình học để đo đạc lại đất<br /> đai của nhà nông sau những con lũ hàng năm do<br /> sông Nil gây ra. Các nƣớc gọi môn hình học là<br /> Gieometri- tiếng Hy Lạp có nghĩa là sự đo đạc<br /> đất đai. Ơclít sau một thời gian du lịch ở đây đã<br /> học tập những kiến thức hình học này, sắp xếp<br /> và tổ chức lại hình học thành một môn học quy<br /> củ. Ông cũng đơn giản hóa và sắp xếp lại các<br /> tác phẩm riêng lẻ của các bậc tiền bối, hệ thống<br /> các định lý và chứng minh nó thành một chuỗi<br /> logic. Trong đó nổi bật nhất là định đề về tỷ lệ<br /> thức giữa các cạnh của tam giác.<br /> Sự liên hệ giữa các cạnh của tam giác vuông đã<br /> đƣợc nêu trƣớc Pytago khoảng 1000 năm vào<br /> thời cổ Babilon nhƣng Pytago là ngƣời đầu tiên<br /> chứng minh công thức đó và phát triển nó thành<br /> một định lý nổi tiếng mang tên ông: “Trong tam<br /> <br /> 12<br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Dƣơng Thị Huyền<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> giác vuông, bình phương cạnh huyền bằng tổng<br /> bình phương hai cạnh góc vuông”. Đây là chìa<br /> khóa để xây dựng nhiều định lý trong hình học<br /> có ý nghĩa vô cùng to lớn tới ngày nay. Nhờ<br /> định lý này, ta tìm đƣợc nhiều hệ thức lƣợng<br /> trong các hình. Việc tính các cạnh của tam giác<br /> thƣờng, chiều cao, trung tuyến của tam giác,<br /> đƣờng chéo của hình bình hành đều dựa vào<br /> định lý Pytago.<br /> Ngƣời Ấn Độ đã biết tới và sử dụng hệ thập<br /> phân ngay từ đầu công nguyên. Hệ số 10 chữ số<br /> trong đó có một số đƣợc khắc trên cột đá dƣới<br /> triều vua Asôka là phát minh vĩ đại của ngƣời<br /> Ấn Độ, có tác dụng rất lớn tới toán học thế giới<br /> cổ đại. Một nhà toán học châu Âu sau này đã<br /> đánh giá cao giá trị của phát minh rằng “Chính<br /> nhờ Ấn Độ mà chúng ta học được cái cách tài<br /> tình chỉ dùng có 10 chữ số mà viết đủ các số.<br /> Mỗi chữ số vừa có một trị số tùy theo vị trí của<br /> nó, vừa có một trị số tuyệt đối. Ý đồ tế nhị mà<br /> quan trọng. Ngày nay chúng ta cho đó là bình<br /> thường nên không thấy hết công lao của người<br /> Ấn. Nhưng chính nhờ nó đơn giản mà làm toán<br /> mới dễ dàng và hệ thống số học đó là sáng kiến<br /> vĩ đại nhất. Hai nhà bác học thiên tài của<br /> phương Tây thời cổ đại Acsimet và Apôlôniut<br /> mà cũng không tìm ra được hệ thống đó thì mới<br /> nhận định nổi sáng kiến của người Ấn tài tình<br /> ra sao”[5, tr. 83].<br /> Các kiến thức toán học khác của phƣơng Đông<br /> nhƣ: Số căn, số âm, các quy tắc về hoán vị, tổ<br /> hợp, số pi = 3,1416 cũng đƣợc các nhà khoa<br /> học phƣơng Tây tiếp thu và truyền sang phƣơng<br /> Tây bằng nhiều con đƣờng khác nhau. Đóng<br /> góp vĩ đại của các nhà toán học phƣơng Tây là<br /> đã tiếp thu các thành tựu toán học phƣơng Đông<br /> rồi không ngừng phát triển lên làm cho “Toán<br /> học trở thành nền tảng của nhiều ngành khoa<br /> học khác”.<br /> Về hóa học, thời cổ đại, nền hóa học của Ai<br /> Cập vô cùng phát triển. Nghệ thuật ƣớp xác là<br /> một bằng chứng nói lên trình độ cao của nghề<br /> thủ công hóa học Ai Cập. Đặc biệt chính ở khu<br /> vực châu thổ sông Nil này đã xuất hiện mầm<br /> mống đầu tiên của thứ “Nghệ thuật bí mật<br /> thiêng liêng” nhằm biến đổi kim loại không quý<br /> <br /> 84(08): 9 - 16<br /> <br /> thành vàng, chế tạo ngọc giả, chế tạo thuốc<br /> trƣờng sinh. Những điều ghi chép của họ dƣới<br /> hình thức thần bí, đôi khi lọt ra ngoài và đã có<br /> tác dụng kích thích các thế hệ bác học nƣớc Hy<br /> Lạp cổ sau này tiếp tục tìm kiếm với một quy<br /> mô rộng lớn hơn nhiều.<br /> Sau khi Alêchxanđrơ Makêđônia chiếm Ai Cập<br /> thì những kiến thức về “Nghệ thuật bí mật” mà<br /> các giáo sĩ nhà thờ Odirít và nhà thờ Iziđa đã<br /> tích lũy và giữ kín đƣợc hòa hợp với triết học<br /> và kỹ thuật thủ công Hy Lạp. Lúc đó, trình độ<br /> khoa học chƣa đủ để xác định vàng thật, vàng<br /> giả nên “Nghệ thuật bí mật” của các giáo sỹ Ai<br /> Cập đƣợc các nhà bác học Hy Lạp coi nhƣ một<br /> khoa học chân chính và chẳng bao lâu đƣợc phổ<br /> biến rộng rãi ở khắp miền đất Hy Lạp rồi truyền<br /> sang các nƣớc khác ở vùng Địa Trung Hải.<br /> Ngƣời Hy Lạp đã học đƣợc nghề nhuộm và các<br /> loại thuốc nhuộm của Ai Cập. Ngoài thuốc<br /> nhuộm vô cơ của Ai Cập, ngƣời Hy Lạp còn<br /> dùng nhiều loại thuốc nhuộm thiên nhiên có<br /> màu đỏ tƣơi. Công thức nhuộm và cách nhuộm<br /> đã đƣợc mô tả trong các tập sách viết ở giai<br /> đoạn viện hàn lâm khoa học Alechxanđrơ.<br /> Về nghệ thuật<br /> Nghệ thuật điêu khắc của Ai Cập cũng ảnh<br /> hƣởng rõ rệt với nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp<br /> thời mới ra đời. Hình tƣợng thanh niên Kouros<br /> độc đáo của nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp cổ xƣa<br /> bắt nguồn từ Ai Cập: Chàng trai thân thẳng, cao<br /> dong dỏng, ở tƣ thế đứng, chân trái đƣa lên<br /> trƣớc, hai cánh tay áp sát vào thân, bàn tay nắm<br /> lại. Những pho tƣợng kiểu này không những<br /> mô phỏng dáng điệu của nhân vật Ai Cập mà<br /> còn tôn trọng các quy tắc cổ truyền của nghệ<br /> thuật Ai Cập, nhất là “Nguyên lý tỷ lệ” mà<br /> những ngƣời sáng tạo đã áp dụng từ hơn hai<br /> trăm năm trƣớc công nguyên. Họ chia cơ thể<br /> thành 8 hình vuông bằng nhau, từ vƣơng triều<br /> XVI trở đi thì đƣợc chia làm 21 hình vuông khi<br /> mà đơn vị đo độ dài là cubit đƣợc thay đổi.<br /> Phiđiát và Pôlinhốt, hai nhà điêu khắc Hy Lạp<br /> nổi tiếng, đã xuất phát từ truyền thống đó để tạc<br /> pho tƣợng Apollon, chia cơ thể làm 21,1/4 hình<br /> vuông [1, tr.607 ]. Họ xem điêu khắc tả hình<br /> thể con ngƣời nhƣ một bản hợp xƣớng các giai<br /> <br /> 13<br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2