intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tài liệu Giáo dục địa phương tỉnh Bến Tre lớp 6

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:84

142
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung Giáo dục địa phương tỉnh Bến Tre lớp 6 là những vấn đề cơ bản về văn hóa, lịch sử, địa lý, kinh tế, xã hội, môi trường, hướng nghiệp,… của địa phương bổ sung cho nội dung giáo dục chung thống nhất trong cả nước, nhằm trang bị cho học sinh những hiểu biết về nơi sinh sống, bồi dưỡng cho học sinh tình yêu quê hương, ý thức tìm hiểu và vận dụng những điều đã học để giải quyết những vấn đề của quê hương Bến Tre. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tài liệu Giáo dục địa phương tỉnh Bến Tre lớp 6

  1. LA THỊ THÚY (Tổng chủ biên) CAO MINH SƠN (Chủ biên) NGUYỄN MINH CHÍ – LÊ THANH THÔNG TÀI LIỆU GIÁO DỤC ĐỊA PHƯƠNG TỈNH Bến Tre Lớp 6
  2. Chịu trách nhiệm xuất bản Chịu trách nhiệm nội dung Tổ chức và chịu trách nhiệm bản thảo Biên tập nội dung: Trình bày bìa: Hình minh hoạ: Thiết kế sách: Sửa bản in: Chế bản: CÔNG TY CỔ PHẦN DỊCH VỤ XUẤT BẢN GIÁO DỤC GIA ĐỊNH 2
  3. Lời nói đầu Thực hiện Chương trình Giáo dục phổ thông (ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo), Sở Giáo dục và Đào tạo Bến Tre tổ chức biên soạn bộ Tài liệu Giáo dục địa phương tỉnh Bến Tre dùng cho cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông. Nội dung Giáo dục địa phương tỉnh Bến Tre là những vấn đề cơ bản về văn hóa, lịch sử, địa lý, kinh tế, xã hội, môi trường, hướng nghiệp,… của địa phương bổ sung cho nội dung giáo dục chung thống nhất trong cả nước, nhằm trang bị cho học sinh những hiểu biết về nơi sinh sống, bồi dưỡng cho học sinh tình yêu quê hương, ý thức tìm hiểu và vận dụng những điều đã học để giải quyết những vấn đề của quê hương Bến Tre. Từ năm học 2021 – 2022, Sở Giáo dục và Đào tạo Bến Tre triển khai nội dung Giáo dục địa phương tỉnh Bến Tre dành cho học sinh lớp 6 cấp trung học cơ sở. Tài liệu được cấu trúc thành 6 chủ đề tương ứng với nội dung các môn học và hoạt động giáo dục lớp 6 trong chương trình giáo dục phổ thông. Ban biên soạn rất mong được sự đóng góp ý kiến của các nhà giáo, các bậc phụ huynh và học sinh về cấu trúc, nội dung của tài liệu để được bổ sung, hoàn thiện trong lần tái bản sau. BAN BIÊN SOẠN 3
  4. CAÙC KÍ HIEÄU DUØNG TRONG SAÙCH Những kiến thức, phẩm chất, năng lực, thái độ Mục tiêu mà các em cần đạt được sau mỗi bài học. Giúp các em vui vẻ, có hứng thú và dẫn Khởi động dắt vào bài học mới. Giúp các em huy động kiến thức nền, tạo Khám phá hứng thú và kết nối với chủ đề bài học. Giúp các em tập làm và hiểu rõ hơn những Luyện tập điều vừa khám phá được. Giúp các em vận dụng những nội dung đã Vận dụng học vào thực tiễn. Giúp các em được tiếp cận những kiến thức Mở rộng nâng cao và mở rộng liên quan đến bài học. 4
  5. CHỦ ĐỀ 1 VĂN HỌC DÂN GIAN BẾN TRE BÀI 1 TRUYỆN DÂN GIAN Mục tiêu  Nhận biết nội dung, ý nghĩa được gợi ra từ câu chuyện, nhân vật của truyền thuyết và truyện cổ tích trong kho tàng truyện dân gian Bến Tre.  Hiểu được ý nghĩa của các yếu tố kì ảo, cách thức xây dựng cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ của truyền thuyết và truyện cổ tích được lưu truyền trong nhân dân.  Phân biệt, viết đúng các phụ âm đầu, dấu thanh hỏi, ngã, lỗi do phát âm địa phương.  Xác định ngôi kể, nhân vật chính trong truyện dân gian và viết bài văn tự sự: kể chuyện tưởng tượng.  Biết tự hào về quê hương xứ sở và con người Bến Tre. GIỚI THIỆU BÀI HỌC Là một tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, Bến Tre có nền văn học dân gian vừa mang những đặc điểm chung của văn học dân gian khu vực này, vừa có những nét riêng độc đáo. Các thể loại văn học dân gian Bến Tre khá đa dạng, phong phú, từ tự sự (truyền thuyết, cổ tích, truyện cười,…) đến trữ tình (ca dao) và lời ăn tiếng nói của nhân dân (tục ngữ, thành ngữ,…). Những thể loại văn học dân gian đó phản ánh nét đẹp của lịch sử, văn hoá và con người vùng đất Bến Tre trong suốt quá trình hình thành và phát triển. Trong bài học này, các em sẽ tiếp cận với các văn bản thuộc thể loại truyền thuyết và cổ tích được lưu truyền ở Bến Tre. Những tác phẩm ấy đã khắc hoạ nên vẻ đẹp của con người trong hành trình chinh phục tự nhiên trong những ngày đầu khẩn hoang, lập ấp cũng như những nét đẹp trong văn hoá ứng xử đời thường. 5
  6. ĐỌC VÀ TRẢI NGHIỆM VĂN BẢN VĂN BẢN 1 TRUYỀN THUYẾT VỀ CỒN TÀU THÔNG TIN TRƯỚC KHI ĐỌC Cù lao Tam Hiệp (dân gian gọi là Cồn Tàu) nay thuộc xã Tam Hiệp, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Từ thời phong kiến, địa danh Cồn Tàu đã được nhắc đến trong các sách địa chí của nhà Nguyễn như Gia Định thành thông chí (Trịnh Hoài Đức), Đại Nam nhất thống chí (Quốc sử quán triều Nguyễn),... Xoay quanh nguồn gốc tên gọi Cồn Tàu, có nhiều câu chuyện khác nhau. Truyền thuyết về Cồn Tàu là một trong những truyện kể thú vị, hấp dẫn đó. Hình 1.1. Cù lao Tam Hiệp (Cồn Tàu), huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre Đọc văn bản Ngày xưa ở làng Cả Sê, bấy giờ thuộc tỉnh Tiền Giang, có hai anh em ruột thịt, một người tên là Bảy Giao, một người tên là Chín Quỳ. Cha mẹ họ mất sớm, chỉ để lại vài mẫu ruộng xấu. Vốn có sức khoẻ lại có chí lập thân, họ tìm thầy học võ để sau này có dịp giúp đời. Họ nghe đồn ở ngoài Bình Định có nhiều thầy giỏi võ, bèn bán hết số ruộng của cha mẹ để lại, rồi khăn gói lên đường. Gặp được những thầy võ nổi tiếng hết lòng bày vẽ, nên chẳng bao lâu họ thông thuộc hết 18 ban võ nghệ. Hai chàng nức chí muốn lập công danh, nhưng gặp lúc triều đình Huế mở rộng cửa văn, đóng chặt cửa võ, nên cuối cùng 6
  7. họ đành trở về quê cũ. Về đến làng, họ tổ chức dạy võ để kiếm sống, nhưng tiếc thay nghề này cũng không đủ nuôi thân. Túng thiếu, họ rủ nhau đi làm cái nghề đục vách, trèo tường. Dần dần, họ trở thành những tay ăn trộm, cướp của nổi tiếng. Nhưng có điều là họ chỉ chuyên cướp của nhà giàu, rồi đem của đó chia bớt cho những người nghèo khó. Sau hơn chục năm làm nghề lục lâm này, cuộc đời họ áo rách vẫn hoàn áo rách. [1] Bảy Giao bèn bảo Chín Quỳ: – Chúng mình muốn đem tài sức giúp thiên hạ, nhưng không gặp thời làm nghề trộm cướp, trốn tránh mãi thế này rồi cũng có ngày sa lưới pháp luật. Chi bằng ta bỏ cái nghề này, đi đến chỗ khác chọn nghề lương thiện mà làm ăn. [2] Hồi ấy, đất Cồn Tàu – một cù lao nằm giữa sông Tiền – chưa được khai phá, nửa cồn trên toàn là cây gáo, cây gừa, nửa cồn dưới thì dừa nước mọc chi chít, rậm rạp như rừng. Đó là giang sơn của một vị thần rất thiêng, có hai bộ hạ là hổ và heo (lợn) ngày ngày canh giữ. Dân trong vùng đồn rằng: hễ ai đến chặt một khoảnh rừng, thì phải nộp một mạng người. Đã có nhiều người chỉ vô ý đến chặt ít lá, hay gánh củi, chưa ra khỏi rừng thì đã bị thần sai bộ hạ quật chết. Vì thế từ lâu rồi không ai dám lai vãng. Một cành lá, một nhánh củi khô cũng còn nguyên vẹn. [3] Hai anh em Giao và Quỳ một hôm, đến Cồn Tàu, khấn với thần rằng: – Chúng tôi nghe biết đất này là của thần, rất linh thiêng, hễ ai đến khai phá phải nộp một mạng người. Chúng tôi xin tuân thủ, nhưng xin ngài rộng lượng cho chúng tôi đến đây làm ăn ba năm. Hễ đủ ba năm, lúc ấy ngài muốn đòi hỏi gì cũng được, hoặc bắt đến mạng cả hai thì chúng tôi cũng xin vui lòng. Thấy họ cam đoan như thế, thần bằng lòng cho Bảy Giao, Chín Quỳ đến chặt cây, đốn củi. Họ sắm một chiếc ghe đưa đến đẩy cây, chặt lá, chở ra chợ bán. Hết chuyến này đến chuyến khác, chẳng bao lâu họ chặt trọc một khu rừng hoang. Vì đã lỡ hứa nên phải để cho họ làm, nhưng thần trong bụng rất căm tức. Lần lữa đến ba năm, hai anh em nhớ tới lời hứa, bèn tìm một thợ rèn giỏi trong vùng, rèn hai cây côn rất to và nặng. Xong họ đi ghe đến Cồn Tàu. Vừa bước lên bờ, họ khấn với thần rằng: 7
  8. – Chúng tôi y theo lời hứa xưa, xin tới nộp mạng. Mời thần cho người đến nhận. Nói rồi họ cởi áo, mỗi người một côn, đứng đâu lưng lại với nhau, thủ thế. Ban đầu, thần ra lệnh cho bộ hạ thứ nhất là hổ đen ra lấy mạng. Hổ đen từ trong hang tiến đến, nhảy ngay vào người Chín Quỳ. Chín Quỳ nhanh tay choảng cho một côn, hổ đen ngã lăn ra chết không kịp ngáp. Thấy thế, thần nổi giận xung thiên, sai ngay bộ hạ thứ hai là heo rừng ra hạ đối thủ. Heo rừng bằng con nghé, răng nanh dài hơn gang tay, miệng sủi đầy bọt, xồng xộc xông vào người Bảy Giao. Chàng vụt luôn một côn trúng vào đùi. Heo tuy què một chân nhưng nhờ được thần tiếp sức, cho nên vẫn dũng mãnh nhảy xổ vào người Bảy Giao. Cả hai anh em chật vật lắm mới hạ được con ác thú. Thần đất thấy một lúc mất hai hộ hạ đắc lực của mình thì sợ quá, chuồn mất. Đến chiều, hai anh em mới khiêng xác heo và hổ xuống ghe mà khấn rằng: – Ngài thương chúng tôi đã không giết, lại thương cho thịt, chúng tôi xin đa tạ! Vậy từ nay xin thần hãy huỷ bỏ tục lệ cũ. Khấn xong, họ chèo ghe về nhà, xẻ thịt hai con thú, chia cho làng xóm cùng chung vui mừng thắng lợi. Kể từ đó, Cồn Tàu mất thiêng. Thần giữ đất ở đây cũng biến đi đâu mất. Dân quanh vùng đổ về đây ngày một đông. Họ phá rừng vỡ ruộng cấy lúa, trồng hoa màu, lập vườn, biến nơi đây thành một cù lao trù phú nhất vùng. Hình ảnh Bảy Giao, Chín Quỳ vẫn được bà con ở đây nhắc đến trong những ngày giỗ, ngày Tết, những đêm vui quây quần bên ấm trà, coi như những vị tiền hiền có công khai phá đầu tiên vùng đất cù lao màu mỡ này. [4] (Theo Huỳnh Ngọc Trảng – Trương Ngọc Tường, Nghìn năm bia miệng, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 1992) Trả lời câu hỏi 1. Hai nhân vật Bảy Giao và Chín Quỳ có những phẩm chất nổi bật nào? 2. Công cuộc khai phá và đấu tranh chinh phục tự nhiên của người dân nơi đây được miêu tả ra sao? 3. Theo em, sự xuất hiện của chi tiết kì ảo (thần linh) trong truyện mang ý nghĩa gì? 4. Chi tiết Bảy Giao, Chín Quỳ vẫn được bà con ở đây nhắc đến trong những ngày giỗ, ngày Tết, những đêm vui quây quần bên ấm trà, coi như những vị tiền hiền có công khai phá đầu tiên vùng đất cù lao màu mỡ này nói lên tình cảm gì của nhân dân dành cho hai người anh hùng khẩn hoang? Theo em, vì sao trong tâm thức của nhân dân, họ là những người anh hùng của cộng đồng? 5. Nhận xét nghệ thuật kể chuyện trong Truyền thuyết về Cồn Tàu. 6. Nêu thông điệp ý nghĩa nhất mà em rút ra được từ câu chuyện trên. 7. Tóm tắt ngắn gọn truyện đã học (có thể tóm tắt bằng sơ đồ). 8
  9. Hướng dẫn tự học 1. Đọc và suy ngẫm Truyền thuyết về Cồn Tàu để hiểu thêm về người dân Bến Tre trong buổi đầu khẩn hoang, khai phá và trong hiện tại. 2. Tìm đọc, sưu tầm các truyện khác trong tài liệu, trên Internet về chủ đề buổi đầu khẩn hoang, mở đất của người dân Bến Tre để thấy được ý chí, nghị lực phi thường của người xưa trong công cuộc chinh phục, khai phá tự nhiên. Chia sẻ với các bạn cùng lớp về các câu chuyện đó. Đọc kết nối với viết 1. Viết đoạn văn Từ hai nhân vật chính của truyện, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) về chủ đề: Ý chí, nghị lực của con người trong công cuộc chinh phục, khai phá tự nhiên. 2. Rèn viết đúng chính tả do phát âm địa phương a. Tìm những từ láy có trong văn bản trên (mẫu: màu mỡ, chi chít,…) và tập viết đúng những từ láy đó. b. Tìm trong văn bản đã học những từ có các tiếng chứa thanh ngã (mẫu: mẫu ruộng, bày vẽ,…) và thanh hỏi (mẫu: huỷ bỏ), tập phát âm chuẩn những từ vừa tìm được. c. Thảo luận nhóm về cách đọc các từ ngữ chứa tiếng có âm đầu là v/gi, âm cuối n/ng; t/c có trong văn bản. VĂN BẢN 2 SỰ TÍCH CHÙA TRÀ NỒNG THÔNG TIN TRƯỚC KHI ĐỌC Chùa Trà Nồng (tên chữ là Long An Tự) là một trong những ngôi chùa cổ nổi tiếng ở huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre. Xung quanh sự hình thành của ngôi chùa, có nhiều câu chuyện khác nhau vừa mang màu sắc tâm linh, huyền thoại, vừa mang màu sắc thế sự (chẳng hạn như Sự tích 100 vị phật cổ bằng vàng nơi nền chùa Trà Nồng làng An Thạnh, Sự tích chùa Trà Nồng,…). Nổi bật lên trong những câu chuyện đó là tính cách Hình 1.2. Chùa Trà Nồng tại xã An Thạnh, chung thuỷ, nghĩa tình, nhân hậu, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre khảng khái,… trong ứng xử của (Ảnh: Thanh Vũ) người xưa. 9
  10. Đọc văn bản Ngày trước ở Vùng Thom có nhà kia sinh được một cô con gái đặt tên là Nồng. Càng lớn, cô gái càng xinh đẹp. Nhà nàng Nồng khá giả, có của ăn của để, có vựa lúa lớn, vườn cây rộng. Trong vùng, có một chàng trai khoẻ mạnh, tên là Ếch. Nhưng nhà chàng Ếch lại nghèo khó, gia sản chẳng có gì ngoài túp lều ở cạnh bờ sông. Cha mẹ mất sớm, nên Ếch phải sống bằng nghề mò cua, bắt ốc. Đặc biệt, chàng có biệt tài bắt ếch rất giỏi. Chàng thường bắt ếch đem ra chợ bán để sinh sống. [1] Một hôm, nàng Nồng đi chợ sớm, đường vắng vẻ, nàng bị một toán cướp ba tên chặn lại, định hành hung. Khi ấy, Ếch vừa đi tới, chàng dùng sức đánh ba tên cướp, cứu được nàng Nồng. Cảm ơn nghĩa cử đẹp đẽ ấy, nàng Nồng hỏi chuyện gia cảnh, rồi đem bụng thương yêu kẻ mình đã hàm ơn. Chàng Ếch cũng không ngờ mình gặp được một cô gái xinh đẹp đến thế, nên đem bụng thương thầm. Nhưng khi tính tới chuyện trăm năm, thì chàng Ếch ngại ngần mãi sau mới nói ra: – Nhà tôi với nhà nàng không môn đăng hộ đối, chắc khó mà thành. Cha nàng chắc không bao giờ bằng lòng cho tôi lấy nàng đâu! [2] Nghe vậy nàng Nồng vội gạt đi: – Bộ anh không nghe người ta hát: “Đôi ta gá nghĩa chung tình, dù ăn cơm quán, ngủ đình cũng ưng” sao? Rồi nàng nói tiếp: – Không lấy được anh, thì cả đời em nguyền không lấy ai làm chồng cả. [3] Chuyện hai người thương nhau đến tai cha mẹ nàng Nồng. Cha nàng gọi nàng ra tra hỏi: Nàng định giấu, nhưng về sau phải thưa hết chuyện cho cha mình nghe. Người cha giận con lắm, bèn lấy roi đánh tới tấp, rồi mang cây mác cắm phập ngoài sân và thét lớn: – Mày còn đi lại với thằng khố rách áo ôm đó, thì hãy nhìn cây mác này! Biết chuyện, chàng Ếch đau buồn, bỏ làng ra đi không một lời từ biệt. Sau khi biết tin người yêu bỏ làng ra đi nàng Nồng đau khổ vô cùng, nàng xin cha mẹ cho mình cắt tóc đi tu. Nàng lập một ngôi chùa ở ven rừng nơi đầu làng, ngày ngày tụng kinh niệm Phật để giữ trọn lời thề hẹn với người thương của mình. [4] 10
  11. Ở nơi xa chàng Ếch được tin, rất lấy làm phục người yêu đã giữ trọn lời hứa với mình, liền quay về làng Đa Phước, cách quê của nàng Nồng không xa, cũng lập chùa thờ Phật, ngày ngày vui với tiếng kinh, tiếng mõ. Người trong vùng gọi chùa của chàng Ếch là chùa Sãi Ếch, về sau nói trại thành chùa Soi Ếch. Còn chùa Nàng Nồng về sau được nói trại thành chùa Trà Nồng. Cả hai ngôi chùa ngày nay vẫn còn ở huyện Mỏ Cày. (Theo Huỳnh Ngọc Trảng – Trương Ngọc Tường, Nghìn năm bia miệng, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 1992) Trả lời câu hỏi 1. Tóm tắt các tình tiết chính của truyện Sự tích chùa Trà Nồng. 2. Chuyện tình của nàng Nồng và chàng Ếch bị ngăn cấm bởi ai? Theo em, quan niệm hôn nhân “môn đăng hộ đối” có còn phù hợp trong xã hội hiện nay hay không? Vì sao? 3. Ý nghĩa cuộc sống được gợi ra từ truyện kể trên là gì? 4. Theo em, kết thúc của truyện cổ tích trên là có hậu hay không có hậu? Vì sao? 5. Thử kể lại truyện cổ tích Sự tích chùa Trà Nồng bằng một kết thúc khác. Hướng dẫn tự học 1. Tìm đọc và suy ngẫm một số truyện cổ tích trong kho tàng truyện dân gian Bến Tre. 2. Kể lại một truyện cổ tích mà em nghe kể từ trong trong nhân dân (gắn với vùng đất và người Bến Tre), rút ra bài học cuộc sống từ câu chuyện cổ tích đó. Đọc kết nối với viết 1. Viết đoạn văn Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của em về những ứng xử đẹp, văn minh của con người trong xã hội hiện nay. 2. Rèn viết đúng chính tả do cách phát âm địa phương a. Chữa lại lỗi chính tả trong đoạn văn sau: Bến Tre là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Củ Long. Tỉnh Bến Tre có diện tích tự nhiên là 2 360 km2, địa bàng nằm trên ba cù lao là cù lao An Quá, cù lao Bão, cù lao Minh và do phù xa của bốn nhánh xông Củ Long bồi tụ nên (gồm xông Tiềng dài 83 km, xông Ba Lai dài 59 km, xông Hàm Luôn dài 71 km, sông Cỗ Chiêng dài 82 km). b. Điền dấu hỏi hoặc ngã cho đúng vào những từ in đậm dưới đây: Đẹp đe, khe khe, vắng ve, mơn mơn, inh oi, ầm i, vò vo, lẻ te, nhẹ nhom, phu phàng, mai miết, mệt moi, khúc khuyu, tua tua, thoang thoang, thấp thom, vân vơ, vắt veo, lẽo đeo, lịch lam. c. Điền t hoặc c vào chỗ trống: Loắ… choắ…, khao khá…, dõng dạ…, trau chuố…, hun hú…, kí thá…, lay lắ…, khoáng đạ…, lạ… lẽo, ướt á…, man má…, khoác lá…, bàn bạ…, nghiêm khắ…, đen đé…, khắ… khe, biêng biế…, hoạt bá…, khắ… khoải, sắ… sảo. 11
  12. SỰ TÍCH ÔNG GỐC Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, để lánh nạn, mọi người thường tránh xa vùng chiến sự, tìm về những vùng đất yên ả để sinh cơ, lập nghiệp. Lúc này, vùng cù lao An Hoá (Bến Tre) còn hoang vu, rừng cây rậm rạp, bao quanh là sông Ba Lai và sông Cửa Đại. Trong số những người tha hương lập nghiệp đó có ông Võ Hữu Vai, gốc miền Trung vào đây lánh nạn. Lúc đầu, ông đến cạnh sông Vàm Cỏ Đông để sinh sống. Sau khi chiến sự nổ ra nơi đây, ông bỏ sang kênh Giao Hoà lập nghiệp nhưng cũng bị giặc bắt quay trở lại Định Tường. Tức chí, ông đánh nhau với giặc, căng buồm chạy về Mỹ Tho. Ông bị bắt giam, sau hơn một năm, chúng thả ông ra. Ông đến vùng cù lao An Hoá để khai khẩn. Vào thời điểm đó, vùng cù lao này có rất nhiều thú dữ. Trong buổi đầu khai phá người dân gặp nhiều khó khăn, đe doạ tính mạng. Ông Gốc là người rất giỏi võ nghệ. Ông đã giết chết con cá sấu hung hăng. Ông còn diệt cọp để đem lại yên bình cho người dân. Tương truyền sau khi ông qua đời, người dân khi đi rừng thường lấy áo ông treo lên cây để doạ cọp. Cọp nghe hơi của ông Gốc sợ hãi bỏ đi, không dám tiến đến gần. Họ cũng dùng cán mác gõ vào gốc cây để đuổi cọp như ông đã từng làm. (Theo Nguyễn Phương Thảo – Hoàng Thị Bạch Liên, Văn học dân gian Bến Tre, Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Bến Tre xuất bản, 1988). VÌ SAO CÓ CỒN ÔNG HỔ Hồi trước, cửa sông Hàm Luông đổ ra biển, sát mé bờ cù lao Bảo có một cái cồn khá rộng, cây cối rậm rạp và đặc biệt là có rất nhiều thú dữ. Trong đó, loài cọp là nhiều nhất ở cồn này. Vì vậy, dân trong vùng gọi nơi này là cồn Ông Hổ. Vì miếng cơm, manh áo, dân nghèo phải mạo hiểm đánh cược tính mạng, liều mình ra đây đốn củi kiếm sống. Có người có bị cọp vồ mất xác, người thì thương tật. Họ cầu mong có ai đó đủ sức diệt cọp để họ có thể mưu sinh. Một hôm, có một ngư dân già đến đây. Ông vốn là người Chăm ở tận miền Trung xuôi ghe vào. Ngày đầu, mấy con cọp nhỏ kéo ra đều bị ông đánh chết, hoặc bị thương, phải tháo chạy. Ngày thứ hai, những con lớn hơn kéo ra lại bị ông đánh chết gần hết. Đến ngày thứ ba, cọp chúa thấy thuộc hạ chết nhiều bèn ra giao chiến với ông lão. Hai bên chiến đấu quyết liệt từ sáng đến chiều mà vẫn bất phân thắng bại. Cọp giở chiêu cuối cùng nhằm triệt hạ đối thủ nhưng bị ông đánh lại, lăn ra chết tươi. Ông quay ra, 12
  13. vẫy trai tráng dưới ghe lên vác xác cọp về, nhiều vô kể. Lát sau, quay lại thì họ không thấy ông đâu hết. Người dân nghĩ rằng ông chính là người mà trời sai xuống để trị cọp cho dân nên lập miếu thờ ông. Từ đó về sau, tục gọi cồn này là cồn Ông Hổ để nhớ về cuộc chiến giữa ông với cọp chứ không gọi là Cồn Hổ như trước nữa. (Theo Nguyễn Phương Thảo, Mãnh hổ giữa đồng hoang, NXB Văn hoá Dân tộc, 1993) SỰ TÍCH ĐỊA DANH MỎ CÀY Hồi buổi đầu khẩn hoang mở đất, để chống chọi với thú dữ, ông bà ta phải dựng hàng rào trước nhà để bảo đảm an toàn trong khi họ đi làm đồng, để con nhỏ ở nhà hay những lúc tối trời tránh bị thú dữ tấn công bất ngờ. Nổi bật nhất trong đám thú dữ đó là cọp. Chúng không vào làng nữa mà phục kích người đang làm đồng, chặt cây để ăn thịt. Một hôm, có một anh trai cày dùng mõ, đánh lên để dắt trâu về. Không ngờ âm thanh liên hồi của tiếng mõ làm cho lũ cọp rình mồi bắt anh phải khiếp sợ, bỏ chạy vào rừng. Dân làng từ đó học được cách đuổi cọp hiệu nghiệm của anh. Vùng đất này về sau được đặt tên là Mõ Cày, sau gọi chệch ra thành Mỏ Cày. (Theo Nguyễn Phương Thảo, Huyền thoại miệt vườn, NXB Văn hoá Thông tin, 1993) ĐỊA DANH ĐỒN CỌP Tại Long Thới, Chợ Lách, đầu thế kỉ trước nạn cọp hoành hành rất dữ, dân làng không cách nào ứng phó, diệt trừ được chúng. Trong một ngày nọ, lệnh từ quan ban xuống, trong ngày hôm đó, dân làng phải bắt được cọp để nộp cho quan. Họ rất lo lắng vì không biết có đủ sức chiến đấu với cọp hay không. May thay, có hai cha con ở Bình Định tình cờ đi ngang qua và giúp dân làng. Cô con gái của ông độ chừng 22 tuổi, tay không chiến đấu với cọp và giết chết được nó. Dân làng mừng vui khôn xiết. Chưa kịp tạ ơn thì họ đã bỏ xuống ghe đi mất. Dân chúng gọi nơi này là Đồn Cọp nhằm nhắc nhở đời sau về câu chuyện trên. (Theo Nguyễn Ngọc Quang (Chủ biên) và nhiều tác giả khác, Văn học dân gian Bến Tre, NXB Khoa học Xã hội, 2015) 13
  14. VĂN HỌC DÂN GIAN BẾN TRE BÀI 2 CA DAO – DÂN CA Mục tiêu  Nhận biết ca dao – dân ca Bến Tre thuộc dòng chảy của ca dao – dân ca vùng Đồng bằng sông Cửu Long.  Hiểu được nội dung tư tưởng và nghệ thuật tiêu biểu của các bài ca dao.  Có ý thức giữ gìn, phát huy vẻ đẹp truyền thống văn hoá của địa phương qua việc sưu tầm, giới thiệu những bài ca dao nói về con người và vùng đất Bến Tre. GIỚI THIỆU BÀI HỌC Vùng đất Bến Tre được hình thành từ ba dải cù lao, mang vẻ đẹp trù phú, đa dạng của vùng sông nước Tây Nam Bộ. Vẻ đẹp ấy được phản ánh sinh động, rõ nét trong kho tàng ca dao, dân ca của địa phương. Bên cạnh vẻ đẹp tự nhiên, vẻ đẹp tâm hồn của người dân nơi đây cũng là một trong những nội dung tiêu biểu của ca dao, dân ca Bến Tre. Bài học này sẽ cung cấp cho các em những nội dung cơ bản trên. 14
  15. ĐỌC VÀ TRẢI NGHIỆM VĂN BẢN VĂN BẢN 1 CA DAO VỀ VÙNG ĐẤT MỚI, VỀ SẢN VẬT QUÊ HƯƠNG 1. Bến Tre dừa ngọt sông dài, Nơi chợ Mỏ Cày có kẹo nổi danh. Kẹo Mỏ Cày vừa thơm vừa béo, Gái Mỏ Cày vừa khéo vừa ngoan. Anh đây muốn hỏi thiệt nàng, Là trai Thạnh Phú cưới nàng được chăng? [1] 2. Sông Ba Lai bên bồi bên hẳm, Đất Ba Lai đỏ thẳm phù sa. Nàng về kết bạn cùng ta, Ăn cá thay bánh, uống trà thay cơm. [2] 3. Tôm càng xanh nước quơ râu, Rừng vàng biển bạc còn đâu phải tìm. [3] 4. Bến Tre giàu mía Mỏ Cày, Giàu nghêu Thạnh Phú, giàu xoài Cái Mơn. [4] (Theo Bùi Mạnh Nhị, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bảo Định Giang, Ca dao – dân ca Nam Bộ, NXB Giáo dục, 1985) Trả lời câu hỏi 1. Các bài ca dao – dân ca đã nói đến các địa danh thuộc tỉnh Bến Tre ngày nay và gắn với mỗi địa danh là những sản vật nổi tiếng. Qua đó, em có suy nghĩ gì? 2. Đằng sau những bài ca dao – dân ca đều ẩn chứa tình cảm, tâm hồn con người. Theo em, tình cảm, tâm hồn đó là gì? 3. Cho biết thể thơ của các bài ca dao – dân ca trên. 4. Em thích nhất bài ca dao – dân ca nào trong các bài ca dao – dân ca trên. Vì sao? 15
  16. Hướng dẫn tự học 1. Tiếp tục đọc, suy ngẫm những điều đã tiếp nhận từ ca dao về vùng đất mới về sản vật quê hương. 2. Tìm đọc, suy ngẫm và ghi lại cảm nhận về những bài, những câu ca dao – dân ca có cùng chủ đề. 3. Em và các bạn sẽ làm gì để góp phần xây dựng quê hương Bến Tre ngày càng giàu đẹp? VĂN BẢN 2 CA DAO VỀ TÌNH CẢM GIA ĐÌNH, XÃ HỘI 1. Ai từng sang Bảo về Minh, Ghé qua Bình Khánh em xin đãi chè. [1] 2. Chẳng chè, chẳng chén sao say, Chẳng thương chẳng nhớ sao hay đi tìm. [2] 3. Tiếc công đắp đập be bờ, Để ai quẩy đó, mang lờ đến đơm. [3] 4. Bước xuống ruộng sâu mãng sầu con bìm bịp, Nước lớn rồi, đâu còn kịp kiếm ăn, Dẫu thương anh, em vẫn giữ đạo hằng, Anh về cậy may mối nói, phụ mẫu bằng em mới ưng. [4] 5. Sông Cửa Đại hai chiều nước chảy, Gái Bình Đại chẳng ngại gian nan. Quý thay những tấm lòng vàng, Làm ăn chất phác, đảm đang mọi điều. [5] (Theo Bùi Mạnh Nhị, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bảo Định Giang, Ca dao – dân ca Nam Bộ, NXB Giáo dục, 1985) 16
  17. Trả lời câu hỏi 1. Trong các bài ca dao – dân ca về tình cảm gia đình, xã hội thường nói về tình cảm của con người luôn gắn với quê hương Bến Tre. Em hãy cho biết điều này có ý nghĩa gì? 2. Hãy nêu khái quát về vẻ đẹp tâm hồn của người dân Bến Tre thể hiện trong các bài ca dao trên. Theo em, điều đó còn tiếp nối đến ngày hôm nay không? 3. Nêu tên những biện pháp tu từ được sử dụng trong các bài ca dao – dân ca trên? 4. Cho biết thể thơ của các bài ca dao – dân ca trên. Hướng dẫn tự học 1. Sưu tầm những câu, bài ca dao – dân ca đang lưu truyền trong nhân dân (thường là hát ru, hát đưa em), chỉ ra những câu ca, bài ca dao – dân ca thuộc kho tàng văn học dân gian Bến Tre. 2. Viết một đoạn văn (hoặc một bài văn ngắn) giới thiệu vẻ đẹp tâm hồn của người dân Bến Tre thể hiện trong ca dao – dân ca. 1. Bến Tre nước ngọt lắm dừa, Ruộng vườn màu mỡ biển thừa cá tôm. Sầu riêng, măng cụt Cái Mơn, Nghêu sò Cồn Lợi, thuốc ngon Mỏ Cày. Xoài chua, cam ngọt Ba Lai, Bắp thì chợ Giữa, giồng khoai Mỹ Hoà. Mắm, bần ven đất phù sa, Bà Hiền, Tân Thuỷ hằng hà cá tôm. Quýt đường, vú sữa ngổn ngang, Dừa xanh Sóc Sãi, tơ vàng Ba Tri. Xẻo Sâu cau tốt ai bì, Lúa vàng Thạnh Phú, khoai mì Thạnh Phong. Muối khô ở Gảnh mặn nồng, Giồng Trôm, Phong Nẫm dưa đồng giăng giăng. Bến Tre trai lịch, gái thanh, Nói năng duyên dáng, ai nhìn cũng ưa. 17
  18. 2. Đồng Bến Tre nhiều bưng, nhiều lác, Đường về Ba Vát nặng trĩu sầu riêng. Anh ra đi đã bốn năm liền, Sao không trở lại kết bạn hiền với em. 3. – Nghe nói anh đi đó đi đây, Em xin hỏi nhỏ câu này: Bánh phồng, bánh tráng, đất này đâu ngon? – Bánh tráng Mỹ Lồng, Bánh phồng Sơn Đốc, Măng cụt Hàm Luông, Vỏ ngoài nâu, trong trắng tợ bông gòn, Anh đây nói thiệt sao em còn so đo? 4. Dừa Bến Tre ba đồng một trái, Chuối Bến Tre một nải đồng ba. Ai biểu anh đến đây rồi lại đi ra, Để em thương, em nhớ, em chờ, em đợi, nước mắt sa vắn dài. (Theo Bùi Mạnh Nhị, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bảo Định Giang, Ca dao – dân ca Nam Bộ, NXB Giáo dục, 1985) 18
  19. CHỦ ĐỀ 2 BẾN TRE TỪ TRƯỚC CÔNG NGUYÊN ĐẾN THẾ KỈ X BÀI 1 BẾN TRE THỜI TIỀN SỬ ĐẾN THẾ KỈ X Mục tiêu GIỚI THIỆU BÀI HỌC  Nắm được một cách khái quát về việc phát hiện dấu tích và ý nghĩa Từ trước Công nguyên, trên vùng đất của việc phát hiện các dấu tích Bến Tre đã từng tồn tại những những dấu của người tiền sử ở Bến Tre. tích của thời kì văn hoá tiền Óc Eo, thuộc hậu kì đồ đá đến sơ kì đồ sắt, cách đây trên  Khái quát được vài nét về đời sống vật chất và tinh thần của người tiền 2 500 năm. sử ở Bến Tre.  Rèn luyện kĩ năng quan sát, mô tả, nhận xét. KHỞI ĐỘNG Dựa vào thông tin trong bài học và qua các hình từ 1.1 đến 1.11, hãy trình bày những hiểu biết của em về vùng đất Bến Tre từ trước Công nguyên đến thế kỉ X. KHÁM PHÁ I. BẾN TRE THỜI TIỀN SỬ 1. Dấu tích người tiền sử ở Bến Tre Tại Bến Tre, các nhà khảo cổ đã phát hiện nhiều hiện vật: rìu, bôn, đục, hòn ghè, mảnh gốm,… thuộc di chỉ Giồng Nổi có từ 2 000 – 2 500 năm trước. 19
  20. Hình 1.1. Hiện trường khai quật di chỉ Giồng Nổi (Ảnh: Bảo tàng Bến Tre) Những dấu tích tại di chỉ Giồng Nổi giúp các nhà khảo cổ xác định đây là một ngôi làng cổ với nhiều cư dân sinh sống, toạ lạc trên một giồng cát nổi thuộc vùng đầm lầу duyên hải rộng lớn đã có cách đây trên 2 500 năm, tức là thời kì văn hoá tiền Óc Eo, thuộc hậu kì đồ đá đến sơ kì đồ sắt. Câu hỏi Việc phát hiện di tích khảo cổ của người tiền sử ở Bến Tre cho em những nhận định gì? 2. Đời sống vật chất và tinh thần của người tiền sử tại Bến Tre Những hiện vật khảo cổ tại Giồng Nổi đã giúp các nhà khảo cổ học phác hoạ một bức tranh sinh tồn với môi trường sống phong phú của người tiền sử ở Bến Tre. Nơi cư trú của người tiền sử ở Bến Tre là giồng cát cao, gần biển, mọi hoạt động sống đều chịu sự chi phối của môi trường biển. Khối lượng lớn các hiện vật tìm được là xương, răng động vật chủ yếu là thú rừng và sinh vật biển gồm lợn, khỉ, chim, kì đà, rắn, chó, mèo, rùa, cá,… cho thấy săn bắn, hái lượm và đánh bắt thuỷ sản là những hoạt động sống thiết yếu của cư dân cổ vùng này. Ngoài ra, các hiện vật như cưa đá, đục đá, rìu đá,... đã cho thấy cư dân nơi đây đã biết làm nông nghiệp, thủ công nghiệp. Câu hỏi Tại sao người tiền sử ở Giồng Nổi lại chọn nơi sinh sống trên giồng cát cao? 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0