intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thơ – những cấu trúc ngoài văn bản _3

Chia sẻ: Nguyenkiki Nguyenkiki | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

54
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Những năm 60 của thế kỷ XX đã hình thành một thuật ngữ mới liên văn bản (intertextuality). Julia Kristeva, người xây dựng thuật ngữ này khẳng định: văn bản nào cũng chịu sự tác động của một văn bản khác

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thơ – những cấu trúc ngoài văn bản _3

  1. Thơ – những cấu trúc ngoài văn bản
  2. Những năm 60 của thế kỷ XX đã hình thành một thuật ngữ mới liên văn bản (intertextuality). Julia Kristeva, người xây dựng thuật ngữ này khẳng định: văn bản nào cũng chịu sự tác động của một văn bản khác, nó có quá trình và tương tác với hoàn cảnh văn hóa, xã hội. Với ý nghĩa đó, theo tôi, người đọc phải đạt tới một chuẩn nhất định, có đủ độ từ ngữ, khả năng nhận biết các mã văn hóa. Và như vậy những khả năng tiếp nhận khác sẽ xảy ra ở cùng một văn bản khi mà các đối tượng tiếp nhận phân hóa. Tìm hiểu một văn bản, chỉ ra cấu trúc những mối quan hệ giữa các từ, ngữ, hình ảnh, thanh điệu, vần điệu, nhịp điệu, giọng điệu. Văn bản này lại gợi lên những quan hệ ngoài văn bản nhưng nhờ vậy văn bản có ý nghĩa phong phú, tính đa trị, đa năng được mở rộng. Ở đấy tác giả trở nên bị động, “người viết thuê”. Từ trung tâm ra ngoại vi, văn bản nào cũng có kết nối, trường liên tưởng càng rộng, văn bản càng sâu. Đây là tính theo tác động thuận: văn bản gợi đến văn bản. Theo tôi, vấn đề đặt ra là cần chú ý đến những cấu trúc ngoài văn bản, tác động ngược lại, thúc đẩy, vận hành cấu trúc văn bản. Những cấu trúc này không phải là ghép vào dưới danh nghĩa bộ phận mà là hòa nhập vào làm thay đổi, biến dạng cấu trúc bên trong văn bản. Những mối quan hệ nào sẽ được tính đến. Những ký hiệu ngôn ngữ, văn hóa, tâm lý có tính thẩm mỹ mà bỏ qua, khó nhận ra quá trình và những quan hệ của văn bản. Trở lại với văn bản Nhạc sầu, một hệ từ ngữ tập trung vào “cái chết”: nhạc buồn, xe tang, ảo não, vĩnh biệt, bóng quạ, hồn người, kèn đám ma, đau thương, nức nở, chiều tận thế... Từ ngữ xuất hiện không phải là tự nó mà chính là nhu cầu gợi lên, ghi lại, mã hóa hiện tượng văn hóa. Những quan hệ bên ngoài, cấu trúc ngoài văn bản, quy định từ ngữ và theo đó là âm thanh, nhịp điệu, câu, đoạn của văn bản, dẫn đến ổn định một văn bản. Chúng ta hãy nghe Huy Cận kể lại: Độ tháng 10 năm 1940, vào những ngày rét, cô con gái hay cô cháu gái chủ nhà ở tầng dưới, chết. Đám tang làm theo kiểu xưa, có mời hàng kèn về thổi những bài nhạc đám ma suốt ngày đêm... Tôi ngồi trên gác nghe nhạc tang buồn không thể nói được. Mỗi câu nhạc len thấm vào từng thớ thịt, thớ da của mình. Rồi đến buổi chiều đưa đám tang đi, tôi cũng có đi đưa đám. Có hai hàng cờ đen do người phu cờ bận toàn đen đi trước, cái xe tang cũng phủ toàn màu đen, mà con ngựa kéo xe tang cũng được phủ tấm vải đen lên mình nó. Người ngồi xe tang điều khiển
  3. ngựa cũng bận toàn đồ đen và điệu nhạc đám ma thì buồn xé gan xé ruột, nhất là trong buổi chiều gió lạnh hiu hắt, chân trời xám xịt thì có thể nói là buồn “tận thế”. Trên gác Hàng Than số 40, Huy Cận thuê, ông viết bài thơ Nhạc sầu và in trên báo Ngày nay(8). Như vậy những quan hệ ngoài văn bản này hình thành dưới những ký hiệu. Không ai phủ nhận bài thơ là công trình tạo tác của tác giả, nhưng nếu quên đi những ký hiệu văn hóa, tâm lý thì tác phẩm sẽ hiện ra trong một màu sắc không phải như thế. Nó chỉ còn là điểm dừng của một phác thảo, mọi quá trình biến mất. Tính liên văn bản phụ thuộc vào trình độ, thái độ người đọc, người tiếp nhận. Cùng một văn bản, các đối tượng tiếp nhận sẽ đưa ra những giá trị, ý nghĩa rộng hẹp khác nhau. Điều này không thể tránh khỏi “sự đọc” vượt thoát ý đồ tư tưởng của tác giả như trường hợp đối với thơ Vương An Thạch và thơ Lê Khắc Thiền đã nói ở trên. Nhà thơ cũng tùy thuộc vào nội lực tài năng của mình ký hiệu lại quá trình hình thành văn bản. Tác phẩm nghệ thuật thế nào không phải chỉ là chủ quan mà được khách quan hóa bởi người viết. Trong nghệ thuật, thơ và nhạc luôn nương tựa nhau, nâng đỡ nhau. Nói thơ, đọc thơ, ngâm thơ, hát thơ, trình diễn thơ thường có nhạc trợ giúp. Nhiều trường hợp nhờ thơ để tạo giai điệu cho nhạc. Nhiều trường hợp nhạc sĩ cũng là “người viết thuê”, ký âm lại những mối quan hệ bên ngoài. Bettôven (1770-1822), nhạc sĩ thiên tài người Đức, sáng tác bản Sônat số 14 (Sônat Ánh trăng) trong một đêm đi dạo và vào thăm cô gái mù vừa chơi rất tuyệt một bản nhạc của ông trong ngôi nhà nhỏ tồi tàn. Ngọn nến đơn độc bỗng nhiên tắt ngấm, qua cửa sổ ánh trăng tràn ngập ngôi nhà. Ánh trăng, những vì sao lấp lánh là nguồn cảm hứng, là những cấu trúc tác động hình thành bản Sônat Ánh trăng ngay trong đêm ấy. Từ bài Đêm đông của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương gợi ra nhiều ý nghĩa của cấu trúc ngoài văn bản: Đêm đông, xa trông cố hương buồn lòng chinh phu Đêm đông, bên song, ngẩn ngơ, kìa ai mong chồng Đêm đông, thi nhân lắng nghe tâm hồn tương tư Đêm đông, ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng Gió nghiêng chiều say, gió lay ngàn cây, gió nâng thuyền mây Gió reo sầu riêng, gió đau niềm riêng, gió than triền miên
  4. Đêm đông, ôi ta nhớ nhung đường về xa xa Đêm đông, ta mơ giấc mơ gia đình yêu thương Đêm đông, ta lê bước chân phong trần tha phương Có ai thấu tình cô lữ đêm đông không nhà?(9). Tác giả ký hiệu một đêm ba mươi Tết phải ở lại Hà Nội, không có tiền về quê ăn Tết cùng gia đình, đêm giao thừa dạo phố, qua Khâm Thiên. “Nghe tiếng chân qua đường, cô gái vội bước ra nhìn, rồi thất vọng quay lại, ghé mình soi vào gương treo cạnh cửa, từ từ đưa cánh tay trần lên vuốt mái tóc”. Tác giả kể tiếp: “Phòng trọ bé nhỏ của tôi chỉ có một cửa sổ. Hai cánh bằng gỗ chỉ khép đ ược kín trong mùa mưa ẩ m. Đến mùa heo may như đêm nay qua các khe hở, gió than vãn suốt đêm, lúc vi vi nhẹ nhàng như tiếng sáo, lúc rít lên từng hồi, não nuột, da diết. Đêm ấ y tôi trăn trở với ý đồ sáng tác và đã dành hẳn một đoạn giữa điệp khúc cho lời của gió. Trong đó tôi không quên ghi lại hình ảnh cô gái Khâm Thiên tối hôm ấy. Còn những chuyện chinh phu, chinh phụ phong trần tha hương là do chịu ảnh hưởng của sách báo Tự lực văn đoàn”. Thế thì cái đêm giao thừa ấy đ ã gợi hứng cho ca từ, giai điệu bài hát Đêm đông, nhạc sĩ ghi lại, hoàn chỉnh. Roland Barthes và Julia Kristeva, học trò của ông, người sáng tạo ra thuật ngữ “liên văn bản” đều nhấn mạnh đến tính đa nghĩa, đa tầng của văn bản, đặt trọng tâm vào độc giả chứ không phải tác giả. Mỗi văn bản là giao điểm của nhiều văn bản từ những trình độ văn hóa, màu sắc văn hóa khác nhau, mỗi văn bản lại dẫn đến những văn bản. Vậy thì trước một văn bản nên như thế nào? Có ba cách ứng xử: - Văn bản với giá trị chức năng tự thân ổn định. Ý tưởng của chủ thể sáng tạo trùng hợp với ngôn ngữ thể hiện, diễn ngôn được công nhận là chuẩn mực, văn bản có tính tự trị khép kín. - Văn bản chỉ là một gợi ý dẫn dụ đến những văn bản khác, văn bản nào cũng là “liên văn bản”.
  5. - Văn bản chỉ là một phác thảo. Những cấu trúc ngoài văn bản, các mối quan hệ ngoài văn bản sẽ cung cấp cho cách hiểu văn bản và làm hiện lên quá trình hình thành văn bản. Từ chủ thể, tác giả trở thành “người viết thuê”. Cách thứ nhất văn bản nằm ở điểm dừng, điểm chết. Văn bản là duy nhất. Ý nghĩa, giá trị của văn bản nằm ở chính bản thân nó. Cách thứ hai văn bản là một giao điểm, tỏa đi mọi hướng lan tới vô cùng, phát tán muôn màu ý nghĩa giá trị tác phẩm, từ văn bản đến những văn bản khác như trò chơi Rubic, quên đi vai trò tác giả, đưa đến “Cái chết của tác giả” (tên một bài viết của Roland Barthes). Cách thứ ba, văn bản là điểm hội tụ, thu hút mọi ký hiệu tạo vóc dáng tác phẩm nghệ thuật. Văn bản bao giờ cũng có một giá trị, ý nghĩa tương đối trong ý tưởng ban đầu và chuyển dịch dần theo những đối tượng tiếp nhận, trạng thái tâm lý xã hội mà nó tồn tại. Chúng ta giữ lại vai trò kiến trúc sư công trình và những cộng sự của tác giả mới thấy được quá trình hình thành tác phẩm nghệ thuật trong quan hệ cấu trúc văn bản và cấu trúc ngoài văn bản. Vấn đề không phải là “ăn chia” mà là cần có cái nhìn công bằng thỏa đáng về tác giả. Trong thực tế tiếp nhận, người đọc nhiều khi không chú ý, không biết đến những cấu trúc ngoài văn bản đã đưa ra những nhận xét, khái quát thiếu thuyết phục, có khi làm nghèo, làm lệch ý nghĩa giá trị văn bản. Không nên huyền bí hóa, cũng không nên đơn giản hóa quá trình sáng tạo nghệ thuật. Giải mã văn bản làm rõ quan hệ tác giả - tác phẩm - người đọc luôn là cách ứng xử đòi hỏi lý luận văn học hiện đại tiếp tục dành nhiều thời gian
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2