
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ
Tel: 0838221909, Fax: 84-8-38221903
Website: hcmussh.edu.vn, Email: ussh@hcmussh.edu.vn
***– & —***
Thời Đại Đồ Đá Ở Thái Lan
(STONE AGE IN THAILAND)
Tác Giả: La Ngọc Điệp
Chuyên ngành: Khảo cổ học
Thành phố Hồ Chí Minh tháng 05/2012

1
MỤC LỤC
Dẫn Nhập…………………………………………….….tr.2
Nội Dung…………………………………………...........tr.4
I. Thời đại đồ đá cũ ở Thái Lan……………………………..…tr.4
1. Một số di chỉ khảo cổ học sơ kỳ đá cũ…………………………….…….…tr.4
2. Lang Rongrien – thời Hậu kỳ đá cũ ở Thái Lan…………………….…...tr.5
II. Hang Ma (Spirit Cave) – chuyển tiếp từ Hậu kỳ đá cũ sang
giai đoạn đá mới……………………………………………....tr.7
III. Thời đại đá mới ở Thái Lan…………………………..….tr.10
1. Di chỉ khảo cổ học Nong Nor………………………………………....…tr.10
2. Di chỉ khảo cổ Khok Phanom Di…………………………………….…..tr.12
3. Di chỉ khảo cổ Bản Kao……………………………………………….…..tr.15
IV. Đời sống cư dân tiền sử và vấn đề hình thành nông nghiệp
trong thời đại đồ đá ở Thái Lan…………………………..…tr.18
Tổng Kết…………………………………………..…..tr.22
Phụ lục hình ảnh……………………………………..tr.23
Tài liệu tham khảo…………………………………...tr.31

2
DẪN NHẬP
Như đã biết tổ tiên loài người có nguồn gốc từ Châu Phi nhiệt đới, những dấu
vết khảo cổ học đã chứng minh điều đó. Sau khi tiến hóa thành người mà sơ khởi là
Homo Habilis (người khéo léo) đã có một quá trình sống khá khó khăn chật vật phải
đối mặt với những nguy hiểm rình rập của đời sống tự nhiên và nhất là của những động
vật lớn như hổ báo…Qua thời gian hàng vạn năm thì họ bắt đầu biết đến việc chế tác
công cụ mà cơ bản ban đầu là đá. Nhờ biết chế tạo công cụ mà loài người mới có thể
tồn tại và sống sót được mặc dù bản thân luôn bị săn đuổi bởi những kẻ săn mồi lớn
như sư tử, báo và đại bàng. Do đời sống luôn phải đối mặt với những nguy hiểm vì vậy
muốn tồn tại lâu dài đòi hỏi họ phải tập hợp, liên kết lại thành bầy đàn, quầy tụ với
nhau để tạo ra sự chặt chẽ trong nội bộ. Do tiếp xúc nhiều nhóm người với nhau nên
nhu cầu giao tiếp trở nên thiết yếu đồng thời một khi biết chế tạo công cụ thì bản thân
não bộ của họ đã định hình suy nghĩ cần chế tác công cụ như thế nào ? Điều đó thúc
đẩy dung tích não tăng và quan trọng nhất là xuất hiện ngôn ngữ. Một điều nữa là khi
biết chế tác công cụ thì hai chi trước sử dụng linh hoạt hơn, cầm nắm công cụ về dần
thì giúp cho việc sử dụng hai chi sau để đứng thẳng là chủ yếu, còn hai chi trước trở
thành đôi tay để chế tác công cụ, cầm nắm tìm kiếm thức săn và xua đuổi thú. Qua
hàng vạn năm thì loài người tiến lên một giai đoạn cao hơn đó là chuyển hóa thành loài
mới là Homo Erectus (người đứng thẳng). Thành công quan trọng nhất đó là họ bắt
đầu mở rộng địa bàn ra khỏi khu vực Châu Phi nhiệt đới mà họ tìm tới những khu vực
mới như Châu Âu, Châu Á…Trong đó có khu vực Đông Nam Á. Khởi đầu cho khu
vực Đông Nam Á là Indonexia với việc tìm được mẫu xương người Homo Erectus ở
Java. Từ đó giúp các nhà khảo cổ trong khu vực bắt đầu nghiên cứu đi tìm những di
cốt của người cổ để chứng tỏ Đông Nam Á có thể là một trong cái nôi của loài người.
Các nhà khảo cổ học cũng cho rằng khu vực Thái Lan cũng có thể nằm trong luồng di
cư này, có thể là từ hai khu vực tiến vào Thái Lan đó là bắc Trung Quốc và Đông Nam
Á hải đảo (Java). Những cuộc tìm kiếm đó cũng mất khá nhiều thời gian và tiền của.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được là rất nhiều. Nó không chỉ mang lại những kết
quả mong muốn như tìm được xương người Homo Erectus mà ở Thái Lan đã có cư
dân đến sinh sống rất sớm và hết sức lâu dài với sự phát triển theo diễn trình của thời
đại đồ đá (từ đá cũ đến đá mới). Và để tìm hiểu về thời đại đồ đá ở Thái Lan phát triển
như thế nào ? Cư dân thời đại đó sống ra sao ? Hoạt động như thế nào để tồn tại thì
cũng thu hút khá nhiều người thắc mắc và quan tâm. Do tính thiết yếu của vấn đề nên

3
tôi bắt đầu tìm hiểu và tiếp cận tư liệu của các nhà khảo cổ học đã nghiên cứu và khai
quật ở Thái Lan để thực hiện đề tài “ Những dấu vết tiền sử thuộc thời đại đồ đá ở
Thái Lan ”. Sự tiếp cận tư liệu cũng gây khá nhiều khó khăn do trình độ ngoại ngữ
cũng như những quan điểm nhìn nhận của các nhà khảo cổ chưa thống nhất. Quan
trọng nhất là không biết tiếng Thái Lan để tìm hiểu được dễ dàng hơn mà tiếp cận chủ
yếu bằng tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Việt. Vì vậy cũng có khá nhiều sai sót trong
quá trình thực hiện đề tài. Tuy nhiên, trong khi tiếp cận và thực hiện đề tài cũng đã dựa
theo những quan điểm được chấp nhận rộng rãi cũng như trình bày vấn đề cho rõ ràng,
mạch lạc. Mong được sự đóng góp ý kiến của thầy và các bạn.

4
NỘI DUNG
I. Thời đại đồ đá cũ ở Thái Lan:
1. Một số di chỉ khảo cổ học sơ kỳ đá cũ:
Từ những giả thuyết cho rằng Thái Lan cũng nằm trong luồng di cư của người
Homo Erectus. Trong quá trình mở rộng lãnh thổ sang châu lục khác thì người Homo
Erectus đã đến khu vực Đông Á và Đông Nam Á như những di cốt xương của người
vượn Bắc Kinh ở Chu Khẩu Điếm (Trung Quốc), mẫu xương của người vượn Java
(Indonexia) và những công cụ sơ kỳ đá cũ ở Núi Đọ (Việt Nam) . Tin tưởng vào sự
xuất hiện của người Homo Erectus ở khu vực Thái Lan do dòng di cư từ Bắc Trung
Quốc và khu vực Đông Nam Á hải đảo vào nên các nhà nghiên cứu đã khảo sát nhiều
vùng đất quanh khu vực Thái Lan những nơi có thể có dấu vết của người Homo
Erectus và họ đã chọn Lampang, cho rằng có thể tìm thấy những dấu tích của người
tiền sử và những hoạt động sinh sống ở đây. Qua kết quả nghiên cứu và điều tra cho
biết không tìm thấy xương cốt của người Homo Erectus ở khu vực Lampang, tuy
nhiên, tại Bản Mae Tha và Bản Don Mun một đoàn khảo sát đã tìm thấy những công
cụ cuội trên thềm sông cổ theo những dòng chảy bazan. Những công cụ cuội này đã có
vết sử dụng với những mảnh tước còn sót lại trong quá trình chế tác công cụ. Nó có
lớp dung nham ở phía trên và lớp vỏ ngoài cuội bị phong hóa. Theo ước đoán ban đầu,
các nhà khảo cổ cho rằng những cuội này có niên đại là 700,000 năm tuổi.
Ở một di chỉ khác cũng này trong tỉnh LamPang đó là địa điểm Khao Pah Nam.
Khao Pah Nam là một vùng núi đá vôi có mặt dốc thoải triền xuống, khi các nhà khảo
cổ tới khảo sát đã phát hiện trong hang động đá vôi những mảnh tước đá nhỏ đã được
tu chỉnh lại, ngoài ra còn phát hiện được nhiều xương của nhiều động vật khác nhau
như sói, hà mã, trâu, bò rừng và nai. Một số xương hà mã đã bị cháy thành than và
những than tro cháy này nằm tập trung thành cụm và các nhà nghiên cứu cho đó là dấu
vết của bếp lò. Giáo hoàng và các cộng sự của ông ta gợi ý rằng những công cụ và
xương động vật phát hiện được ở hang động này thì nó có cùng niên đại với những
công cụ cuội nhặt được ở thềm sông trên. Đó là tất cả những gì phát hiện được về
những vết tích của thời kỳ sơ kỳ đá cũ ở Thái Lan. Dựa vào những công cụ đá, mảnh
tước và một số xương động vật thì các nhà nghiên cứu đã bước đầu lí giải về thời kỳ ở
Thái Lan có sự xuất hiện và sinh sống của người Homo Erectus. Họ cho rằng khi bắt

