Chương 1: Tổng quát chung về hoạt động xuất khẩu hàng hóa:
1.1. Khái niệm về xuất khẩu hàng hóa:
Xuất khẩu hàng hóa là việc bán, cung cấp hàng hóa dịch vụ cho bên nước ngoài trên cơ sở dung tiền tệ làm phương tiện thanh toán.Không chỉ là những hoạt động mua bán thông thường mà hoạt động xuất khẩu đòi hỏi sự tham gia của các chủ thể mang quốc tịch khác nhau, hoạt động xuất khẩu không chỉ đơn thuần mang lại lợi nhuận cho một hay một vài chủ thể tham gia vào hoạt động này mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Hoạt động xuất khẩu mang lại nguồn thu ngoại tệ, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, nâng cao năng lực sản xuất trong nước, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.2 . Các loại hình xuất khẩu hàng hóa 1.2.1 Xuất khẩu trực tiếp Xuất khẩu trực tiếp: là hình thức mà nhà sản xuất giao dịch trực tiếp với khách hàng nước ngoài ở khu vực thị trường nước ngoài thông qua tổ chức của mình. Hình thức này thể hiện thông qua: Đại diện bán hàng xuất khẩu; Chi nhánh bán hàng tại nước ngoài.
Hình thức xuất khẩu này có ưu điểm là các nhà xuất khẩu trực tiếp tiếp xúc với thị trường, tiếp cận được với khách hàng, nắm bắt tình hình thị trường một cách trực tiếp từ đó đáp ứng nhanh nhu cầu của khách hàng. Việc tiếp xúc trực tiếp với các thị trường xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ tiếp thu kinh nghiệm quốc tế, đồng thời với hình thức này các doanh nghiệp xuất khẩu không phải chia sẻ quyền lợi của mình với các tổ chức trung gian do đó có được lợi nhuận cao hơn.
Tuy nhiên hạn chế của thị trường này là doanh nghiệp xuất khẩu sẽ phải chịu chi phí rủi ro lớn, cần có thời gian để thâm nhập được thị trường, đồng thời thông tin về thị trường cũng có phần hạn chế.
1.2.2 Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp: là hình thức khi doanh nghiệp thông qua dịch vụ
của tổ chức độc lập đặt ngay tại nước xuất khẩu để tiến hành xuất khẩu sản
phẩm của nước mình ra nước ngoài. Trong hình thức này doanh nghiệp có
thể sử dụng các trung gian phân phối như: công ty quản lý xuất khẩu, đại lý
xuất khẩu, h•ng buôn xuất khẩu…
1
Hình thức xuất khẩu này có ưu điểm là: người mua bán hoặc trung
gian nắm rõ phong tục tập quán của thị trường do đó có khả năng đẩy
nhanh việc mua bán và giảm rủi ro cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Doanh
nghiệp xuất khẩu cũng giảm được chí phí thâm nhập thị trường do các tổ
chức trung gian thường có sẵn cơ sở vật chất, đồng thời doanh nghiệp xuất
khẩu cũng sẽ có được các thông tin về thị trường, về các đối thủ cạnh tranh
thông qua các tổ chức.
Nhược điểm của hình thức xuất khẩu này là: các doanh nghiệp xuất
khẩu không tiếp cận trực tiếp với thị trường, khách hàng do đó ít có khả
năng đáp ứng đúng các nhu cầu của khách hàng tiềm năng. Bên cạnh đó
doanh nghiệp xuất khẩu còn phải đáp ứng các yêu sách của các tổ chức
trung gian, phải chia sẻ lợi nhuận với họ và cũng có thể bị họ lợi dụng về
thông tin và vốn mà mình cung cấp cho họ.
1.2.3 Buôn bán đối lưu
Là phương thức trao đổi trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với
nhập khẩu người bán đồng thời là người mua lượng hàng giao đi và nhận
về có giá trị tương đương.
Hình thức này thường được sử dụng khi các bên thiếu thị trường,
thiếu ngoại hối đặc biệt hình thức này cũng tránh cho các doanh nghiệp
được các rủi ro về ngoại hối
1.2.4 Tái xuất và chuyển khẩu
Trong hoạt động tái xuất khẩu người ta tiến hành nhập khẩu tạm thời
hàng hoá từ bên ngoài vào, sau đó lại xuất khẩu sang một thị trường thứ ba.
Hình thức này có độ rủi ro lớn nhưng lợi nhuận thu được cũng rất cao.
Chuyển khẩu là hình thức trong đó không có hành vi mua bán mà ở
đây chỉ thực hiện các dịch vụ như vận tải quá cảnh, lưu kho b•i,…
1.2.5 Xuất khẩu tại chỗ
Đây là hình thức xuất khẩu mà hàng hoá và dịch vụ có thể chưa vượt
qua ngoài biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như
2
hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hoá dịch vụ cho các ngoại
giao đoàn, khách du lịch quốc tế… Hoạt động này có thể đạt được hiệu quả
cao do giảm bớt được chi phí bao bì, đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí
vận tải, thời gian thu hồi vốn nhanh trong khi vấn có thể thu được ngoại tệ.
1.2.6 Gia công xuất khẩu:
Gia công quốc tế là một phương thức giao dịch kinh doanh trong đó
một bên (nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hay bán thành phẩm của
bên khác (bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại cho bên đặt
gia công và nhận thù lao gia công (phí gia công). Trong đó những nước
trình độ khoa học kỹ thuật còn yếu, thiếu vốn, hạn chế về thị trường thường
là những nước nhận gia công còn các nước phát triển là những nước đặt gia
công.
1.3 Vai trò & Lợi ích của việc xuất khẩu hàng hóa:
Vai trò của xuất khẩu hàng hoá đối với nền kinh tế là rất quan trọng nhất là trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, xu thế toàn cầu hoá, chuyên môn hoá sản xuất để tận dụng các lợi thế tuyệt đối hay so sánh của mỗi quốc gia. Không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế hoạt động xuất khẩu còn có ý nghĩa quan trọng đối với tình hình phát triển chung của một quốc gia.
+ Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn dự trữ ngoại tệ quan trọng
Ngày nay, việc dự trữ ngoại tệ nhất là các ngoại tệ mạnh là điều rất quan trọng, vì trong quan hệ mua bán trên thị trường thế giới hiện nay các nước đều sử dụng các ngoại tệ mạnh trong giao dịch của mình. Trong điều kiện đất nước đang trong tiến trình CNH - HĐH đất nước hiện nay thì nguồn thu ngoại tệ là rất quan trọng vì ta có thể nhập khẩu các máy móc thiết bị công nghệ hiện đại từ nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động xuất khẩu phục vụ quá trình CNH - HĐH đất nước. Đồng thời nguồn ngoại tệ có được sẽ thoả m•n được nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của người dân và góp phần vào tăng trưởng kinh tế.
+ Hoạt động xuất khẩu phát huy được các lợi thế so sánh
Trong xu thế chung của thế giới hiện nay là đang dần tiến tới chuyên môn hoá trên phạm vi toàn thế giới thì việc khai thác được lợi thế so sánh
3
cuả mình là rất quan trọng. Đối với các nước đang phát triển việc phát huy lợi thế so sánh của mình về giá nhân công rẻ, về nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào là hết sức quan trọng để bước đầu hội nhập với nền kinh tế thế giới. Xuất khẩu giúp 1 quốc gia khai thai thác có hiệu quả hơn các lợi thế của mình, phát huy các lợi thế của quốc gia mình.
+ Hoạt động xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, định
hướng sản xuất
Ngày nay, cùng với xu thế chung của các nền kinh tế, các quốc gia ngày càng nhận thức rõ vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với sự phát triển kinh tế của quốc gia mình. Sự chuyên biệt hoá các ngành sản xuất để phục xuất khẩu phù hợp với lợi thế của quốc gia mình đ• giúp các quốc gia có định hướng chiến lược đối với các ngành sản xuất trong nước. Đây là một điều có ý nghĩa quan trọng bởi lẽ việc lựa chọn các ngành sản xuất để có thể phát huy lợi thế của quốc gia mình không phải là việc dễ làm và không ít quốc gia đ• có những bước đi sai lầm trong việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế của quốc gia mình. Định hướng vào các ngành sản xuất có lợi thế sẽ dần dẫn tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao dần tỷ trọng của các ngành công nghiệp chế biến phục vụ xuất khẩu mang lại nguồn thu lớn từ hoạt động xuất khẩu.
+ Hoạt động xuất khẩu giải quyết công ăn việc làm, tạo thu nhập và
nâng cao mức sống của nhân dân
Để tập trung phát triển sản xuất phục vụ cho xuất khẩu thì cần phải gia tăng lao động, để xuất khẩu có hiệu quả tăng được khả năng cạnh tranh thì cần tận dụng lợi thế về lao động, hạn chế được tỷ lệ thất nghiệp. Đối với các nước đang phát triển, việc mở rộng hoạt động xuất khẩu thường đi kèm với các việc xuất hiện các khu công nghiệp các khu chế xuất. Các khu công nghiệp và chế xuất đ• thu hút không chỉ các nhà xuất khẩu trong nước mà cả các nhà đầu tư nước ngoài tham gia để tạo ra sản phẩm xuất khẩu ra thị trường trên thế giới. Thực tế cho thấy việc mở rộng hoạt động của các khu này đ• thu hut được một lượng lớn lao động ở các địa phương, nhất là lao động dư thừa vào mùa nông nhàn. Không những tạo việc làm cho người lao động mà hoạt động xuất khẩu còn tăng thu nhập cho họ, giúp họ nâng cao chất lượng cuộc sống.
+ Hoạt động xuất khẩu nâng cao uy tín của hàng hoá trong nước trên
thị trường thế giới, nâng cao vị thế của một quốc gia trên trường quốc tế
4
Để có thể thực hiện hoạt động xuất khẩu và không ngừng nâng cao tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu thì đòi hỏi các nhà sản xuất luôn phải biết tận dụng các lợi thế của mình đồng thời cũng luôn phải đổi mới công nghệ, trang thiết bị phục vụ sản xuất để tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao thì mới tăng được khả năng cạnh tranh hàng hoá của trên thị trường thế giới. Chính sự đầu tư đó sẽ tạo ra những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao có được lòng tin từ khách hàng trên khắp thế giới và tạo được chỗ đứng trên thị trường thế giới. Việc các sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao có được lòng tin từ phía khách hàng cũng là một hình thức các quốc gia quảng cáo về quốc gia mình, giới thiệu về quốc gia mình và với những sản phẩm chất lượng cao, có uy tín các quốc gia sẽ nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế.
+ Hoạt động xuất khẩu mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng của
một nước
Trong điều kiện sản xuất cố định
Đường ee là đường giới hạn khả năng sản xuất. Trên mỗi điểm của đường ee, nền kinh tế sản xuất và tiêu dùng một khối lượng x hàng hoá X và hàng hoá Y.
- Nếu một nước không có hoạt động xuất khẩu, nền kinh tế chỉ được tiêu dùng số lượng hàng hoá sản xuất ra. Khi ấy, đường giới hạn khả năng sản xuất cũng là đường giới hạn khả năng tiêu dùng.
- Nếu một nước có hoạt động xuất khẩu. Giả sử nền kinh tế sản xuất ở điểm a và hàng Y có thể đổi lấy hàng X qua con đường xuất khẩu. Khả năng tiêu thụ bây giờ được biểu hiện bằng đường thị trường đi qua điểm a. Độ dốc của đường thị trường chỉ ra lượng hàng Y đổi lấy một đơn vị hàng hoá X trên thị trường thế giới. Mặc dù sản xuất cố định ở a (một khối lượng x hàng X và y1 hàng hoá Y) mức tiêu dùng có thể ở bất kỳ điểm nào trên đường thị trường.
5
(Biểu đồ 1)
Y
Đường giới hạn khả năng sản xuất e
t
a y1
b y2
0 e x x1 x2 t
Biểu đồ 1
1. Trong điều kiện thay đổi
1. Một cơ hội khác để mở rộng khả năng tiêu dùng của đất nước thông qua xuất khẩu hàng hóa, đó là, lượng hàng hoá sản xuất ra có thể thay đổi
một cách có lợi dựa trên cơ sở giá cả trên thị trường thế giới. Một nước
có thể sản xuất ra những sản phẩm hàng hoá có giá trị trên thị trường thế
giới.
Nếu thay đổi điểm sản xuất từ a sang c bằng cách tăng mức độ
chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm Y. Tại điểm c, sản xuất khối lượng x3
phẩm và y3 sản phẩm Y. Và hàng Y có lợi khi đổi lấy hàng hoá X qua con
đường xuất khẩu. Khả năng tiêu thụ bây giờ được biểu thị bằng đường t't' qua điểm c. Độ dốc của đường t't' chỉ ra lượng hàng Y đổi lấy một đơn vị
hàng hoá X trên thị trường thế giới. Cũng như bất kỳ điểm nào trên đường
biểu diễn khả năng tiêu dùng thị trường (khi có hoạt động xuất khẩu), cũng
có điểm tiêu dùng d trên đường t't' cho phép tiêu dùng nhiều hơn cả hai loại sản phẩm (so sánh điểm b trên đường thị trường và điểm d trên đường t't').
6
Y
(Biểu đồ 2) t' e
c y3
t
d
a
y1
y2
b
x3 x1 e x2 t Lợi ích của việc chuyển đổi từ tình trạng không có hoạt động xuất
khẩu (a), sang tình trạng ngoại thương (b) hay (d) là những lợi ích của hoạt
động ngoại thương đối với một quốc gia. Khi việc sản xuất sản phẩm Y
tăng lên cà sản phẩm X giảm xuống, một quốc gia có thể chuyển tới những
điểm như điểm (d) bằng cách sản xuất nhiều hàng hoá Y là loại hàng mà
quốc gia đ• có lợi thế so sánh và đổi lâý sản phẩm bổ sung của hàng hoá X
qua hoạt động xuất khẩu.
+ Các nước có nền kinh tế quy mô nhỏ có thể và có lợi khi tham gia
hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hoá trong một nền kinh tế quy mô nhỏ.
7
P S0
p1 E3 E1 E2
p2 E0
D0
D1
Biểu đồ 3
Hàng xuất khẩu của một nền kinh tế quy mô nhỏ là sự khác nhau giữa
hàng cung và cầu trong nước tính theo giá quốc tế.
Trên biểu đồ: D0 và S0 là đường cầu và đường cung trong nước với
một hàng hoá xuất khẩu điển hình. Sự cân bằng tự cung tự cấp sẽ là điểm
Eơ0 khi mà lượng hàng q0 được sản xuất và tiêu thụ trong nước với giá p0.
Nếu hoạt động xuất khẩu xảy ra ở mức gia p1 (p1 > p0) sự cân bằng
tiêu dùng sẽ là E1 với lượng tiêu dùng q1, trong khi cân bằng sản xuất ở E2
với lượng sản xuất q2. Sự chênh lệch giữa sản xuất và tiêu dùng trong nước
q2 - q1 sẽ được xuất khẩu.
Nếu nhu cầu trong nước chuyển sang Dơ1, sự cân bằng tiêu dùng
trong nước chuyển sang E3 với lượng tiêu dùng q3. Với mức sản xuất trong
nước không đổi E2 lượng hàng xuất khẩu q2 - q3 sẽ tăng lên.
+ Hoạt động xuất khẩu là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Trong nền kinh tế hàng hoá, sản xuất muốn phát triển sản phẩm phải
được tiêu thụ. Hoạt động xuất khẩu ở một quốc gia có ảnh hưởng tích cực
đến phát triển kinh tế. Biểu hiện:
8
Một là, xuất khẩu đưa đến việc sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực
trong nước. Có thể do nhu cầu không lớn của thị trường trong nước và
không có hoạt động xuất khẩu, ở một nước có tình trạng sử dụng không hết
nguồn lực. Nhờ có hoạt động xuất khẩu, nước này có thể chuyển từ điểm
sản xuất không hiệu quả bên trong đường giới hạn sản xuất sang điểm sản
xuất có hiệu quả trên đường giới hạn sản xuất.
Hai là, việc mở rộng hoạt động xuất khẩu đ• tạo ra sự phân công lao
động hợp lý và có hiệu quả. Đây là điểm quan trọng đặc biệt đối với các
đơn vị kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Phát huy
lợi thế so sánh của mình các quốc gia sẽ đào tạo đội ngũ cán bộ, đội ngũ
lao động cho phù hợp từ đó dẫn tới việc phân công lao động trên phạm vi
toàn thế giới.
Ba là, hoạt động xuất khẩu tạo điều kiện chuyển dịch quốc tế công
nghệ mới, phương pháp tổ chức kinh doanh mới… làm cho hoạt động kinh
doanh có hiệu quả.
Bốn là, thương mại quốc tế khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi
cho đầu tư quốc tế. Trong trường hợp đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một
nước nào đó thì cùng với nguồn vốn nước ngoài vào thường kèm theo kỹ
thuật công nghệ mới, các chuyên gia điều hành có kinh nghiệm tổ chức và
quản lý kinh doanh.
Năm là, hoạt động xuất khẩu vũ khí chống độc quyền, bởi vì chúng
đòi hỏi các nhà sản xuất trong nước tăng cường sức mạnh kinh tế để đối
phó cạnh tranh với các nhà sản xuất nước ngoài.
Có thể thấy rằng, hoạt động xuất khẩu đ• cung cấp, tạo những điều
kiện thuận lợi đối với quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia. Và
trong xu thế thế giới hiện nay toàn cầu hoá, khu vực khoá thì các quốc gia
đều coi trọng phát triển thương mại quốc tế nói chung và hoạt động xuất
khẩu nói riêng.
9
Chương 2 : Sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt
Nam sang thị trường EU
2.1 Tổng quan chung về thị trường nông sản EU
2.1.1 Khái quát về thị trường EU
Thị trường E.U (The European Union) là một thị trường chung lớn
nhất thế giới. Và trong tương lai gần đây thị trường E.U sẽ ngày càng được
mở rộng bằng cách hoà nhập các nền kinh tế của các nước Đông Âu. Đây
là một khối thị trường chung, thị trường E.U phát triển vượt xa khỏi những
hiệp định mậu dịch tự do giữa các thành viên. Đây là một liên hiệp về hải
quan và tiền tệ, cho phép hàng hóa, dịch vụ, con người và vốn được di
chuyển một cách tự do điều hành bởi các định chế chung (Ủy Ban Châu
Âu, Nghị viện Châu Âu…), các hệ thống quy định luật lệ mang tính hoà
hợp chung và các chính sách phù hợp nhất. Tuy nhiên E.U cũng là một thị
trường bao gồm nhiều thị trường khác nhau. 15 nước thành viên, 15 khối
dân số, văn hoá, kinh tế khác nhau…. Mặc dù chúng ta nói về E.U như một
thị trường chung, tuy nhiên chúng ta cũng cần phải quan tâm đến từng đặc
điểm tính chất của từng thị trường trong các quốc gia thành viên.
2.1.2 Một số đặc điểm chung về thị trường hàng hóa EU
2.1.2.1 Về tập quán và thị hiếu tiêu dung
EU là một thị trường rộng lớn. Thị trường EU thống nhất cho phép tự
do di chuyển sức lao động, hàng hóa dịch vụ và vốn giữa các thành viên.
Mỗi quốc gia thành viên của EU lại có những đặc điểm tiêu dung
riêng. Do vậy có thể thấy rằng thị trường EU có nhu cầu rất đa dạng, phong
phú về hàng hóa, dịch vụ. Trên thực tế có những loại hàng hóa rất được ưa
chuộng ở thị truuwòng Pháp, Italy, Bỉ nhưng lại không được người tiêu
dùng ở Anh, Ailen, Đan Mạch, Đức đón chào. Giữa Eu cũ và các thành
10
viên mới cũng có những sự khác biệt về thị hiếu tiêu dùng. Tuy có sự khác
biệt về thị hiếu tiêu dùng giữa các thị trường các quốc gia trong khối EU
nhưng các quốc gia nằm trong khu vực Tây Âu, Bắc Âu, Đông Âu có
những đặc điểm tương đồng về kinh tế văn hóa. Trình độ về kinh tế, văn
hóa, xã hội các nước thành viên khá đồng đều, cho nên người dân thuộc
khối EU có những đặc điểm chung về thói quen sở thích trong tiêu dùng.
Điển hình như : đối với hàng may mặc và giày dép, người dân Áo, Đức, Hà
Lan chỉ mua hàng may mặc, giày dép không chứa chất nhuộm có nguồn
gốc hữu cơ(azodyes). Khách hàng EU đặc biệt quan tâm đến chất lượng và
thừoi trang của 2 loại sản phẩm này. Nhiều khi yếu tố thời trang có ý nghĩa
quyết định cao hơn nhiều so với giá cả. Đối với hàng giầy dép, người tiêu
dùng EU có xu hướng đi giầy vải. Xu hướng này càng tăng lên, tỷ lệ với
nhu cầu tiêu dùng giầy dép tăng lên hàng năm của EU.Hai mặt hàng này
thay đổ nhanh chóng đặc biệt về mẫu, mốt. Đối với hàng thủy sản, người
tiêu dùng EU không mua những loại hàng thủy sản nhập khẩu bị nhiễm độc
do môi trường hoặc do chất phụ gia không được phép sử dụng. Đặc biệt,
mặt hàng thủy sản xuất khẩu vào thị trường EU hiện nay đang bị rào cản kỹ
thuật rất khắt khe khống chế nên gặp rất nhiều khó khăn. Gần đây nhất Eu
quy định dư lượng kháng sinh đối với tôm xuất khẩu vào EU là 0%, một
quy định mà không một nước nào có thể đạt được.
Đặc biệt, người dân EU có sở thích tiêu dùng và thói quen sử dụng các
loại sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng trên thê giới. Họ cho rằng những nhãn
hiệu này sẽ gắn với chất lượng sản phẩm và có uy tín lâu đời, cho nên khi
dùng sản phẩm mang nhãn hiệu nổi tiếng sẽ rất an tâm về chất lượng và an
toàn cho người sử dụng. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, mặc dù giá cả rất
đắt nhưng họ vẫn mua và không thích chuyển sang tiêu dùng những sản
phẩm không nội tiếng khác cho dù giá rẻ hơn rất nhiều.
11
2.1.2.2 Về kênh phân phối của liên minh châu âu
Hệ thống kênh phân phối của EU về cơ bản cũng như hệ thống kênh
phân phối của một quốc gia, gồm mạng lưới bán buôn và bán lẻ. Tuy nhiên,
hệ thống này là một trong những hệ thống kênh phân phối phức tạp nhất
hiện nay trên thế giới, với sự tham gia của rất nhiều thành phần: công ty
xuyên quốc gia, hệ thống các của hàng, siêu thị, các công ty bán lẻ độc
lập… trong số đó nổi bật lên là vai trò của các công ty xuyên quốc gia. Các
công ty này thường phát triển theo mô hình chiều ngang, gồm ngân hàng
hoặc công ty tài chính, nhà máy, công ty thương mại, các cửa hàng.
Với sự hiện diện của các công ty ( hoặc tập đoàn) xuyên quốc gia này,
hệ thống phân phối của EU trở thành một tổ hợp rất chặt chẽ và có nguồn
gốc lâu đời. Hai hình thức tổ chức phổ biến nhất của các kênh phân phối
trên thị trường EU là: theo tập đoàn và không theo tập đoàn.
Theo kênh phân phối theo tập đoàn, các nhà sản xuất hoạc nhập khẩu
của một tập đoàn chỉ cung cấp hàng hóa cho hệ thống các cửa hàng và siêu
thị của tập đoàn này mà không cung cấp cho hệ thống bán lẻ bên ngoài.
Ngược lại, trong kênh phân phối không theo tập đoàn, các nhà sản xuất và
nhập khẩu của một tập đoàn có thể cùng lúc cung cấp hàng hóa cho hệ
thống bán lẻ của nhiều tập đoàn và các công ty bán lẻ độc lập khác.
Thông thường các siêu thị hoặc công ty bán lẻ độc lập trên thị trường
EU không mua bán hàng trực tiếp từ các nhà sản xuất nước ngoài mà
thường thông qua các “nhà bán buôn”-là các trung tâm thu mua lớn của
EU(xem bảng). Mối quan hệ bạn hàng này không phải là ngẫu nhiên mà
chủ yếu là vì những ràng buộc trong quan hệ tín dụng, hoặc do mua cổ
phần của nhau, do đó thương là những quan hệ khá bền vững và lâu dài .
Hơn nữa theo quan điểm của các nhà phân phối châu Âu, mối quan hệ như
vậy còn đảm bảo sự ổn định nguồn hàng và chất lượng hàng, nhờ đó họ có
12
thể giữ được chữ tín với khách hàng-mục tiêu hàng đầu mà các nhà kinh
doanh EU luôn hướng tới. Kiểu liên kết này trong hệ thốngkênh phân phối
EU đã tạo nên những chuỗi mắt xích chặt chẽ được gắn với nhau bằng các
hợp đồng kinh tế, mà việc tiếp cận và trở thành một trong các mắt xích đó
không dễ dàng với các nhà xuất khẩu Việt Nam vốn chỉ quen làm ăn chộp
giật và theo từng hợp đồng riêng biệt.
Các trung tâm thu mua lớn tại EU
2.1.3 Chính sách ngoại thương của Liên Minh Châu Âu
Đặc điểm cơ bản nhất trong chính sách ngoại thương của EU là tất cả
các nước thành viên EU cùng áp dụng một chính sách ngoại thương chung
đối với các nước ngoài khối. Ủy ban châu Âu (EC) là người đại diện duy
nhất cho Liên minh trong việc đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại
và dàn xếp tranh chấp trong lĩnh vực này, buôn bán trong nội bộ khối EU
được miễn hoàn toàn thuế hải quan và các thủ tục xuất nhập khẩu khác.
Liên minh châu Âu thực sự là một không gian kinh tế thống nhất và mô
hình “nhà nước Châu Âu” đang trở thành hiện thực, đặc biệt khi hầu hết
các nước thành viên sử dụng chung một đồng tiền.
Chính sách ngoại thương của EU bao gồm chính sách thương mại tự
trị(AUTONOMOUS Commercer) và chính sách thương mại chung dựa
trên nguyên tắc không phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại, và cạnh
tranh công bằng. Các biện pháp được áp dụng phổ biến trong chính sách
ngoại thương của Liên minh Châu Âu là thuế quan, hạn chế về số lượng,
hang rào kỹ thuật, chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu.
Về các quy chế nhập khẩu chung, để đảm bảo cạnh tranh công bằng
trong thương mại quốc tế, EU thực hiện các biện pháp: chống bán phá giá
(ANTI-dumping), chống trợ cấp xuất khẩu và chống hàng giả. EU đã ban
hành chính sách chống bán phá giá và áp dụng thuế “chống xuất khẩu bán
13
phá giá” để đấu tranh với tình trạng cạnh tranh không lành mạnh và bất
bình đẳng trong buôn bán với các nước ngoaì liên minh. Bên cạnh đó, các
biện pháp chống hàng giả của EU cho phép ngăn chặn không cho nhập
khẩu những hàng hóa được sao chép lậu và đánh cắp bản quyền.
2.1.4 Chính sách thương mại đối với mặt hàng nông sản của EU
Các công cụ chính sách thương mại trong lĩnh vực nông nghiệp được
áp dụng tùy thuộc vào tình hình thị trường của từng sản phẩm cụ thể. Tuy
nhiên các hình thức chính là thuế linh hoạt, thuế nhập khẩu, trợ cấp xuất
khẩu và ứng trước vốn. Nếu giá cả thị trường bên ngoài còn cao hơn giá cả
trên thị trường EU thì xuất khẩu có thể bị đánh thuế, nhập khẩu sẽ được trợ
cấp.
Đối với hầu hết các mặt hàng nông sản được nhập khẩu từ bên ngoài,
không xây dựng biểu thuế cố định mà thường áp dụng các mức thuế quan
linh hoạt nhằm đảm bảo cho các nhà sản xuất được hưởng những mức giá
cao hơn giá thị trường thế giới.Các mức thuế được tính bằng chênh lệch
giữa giá CIF nhập khẩu, kể cả chi phí vận chuyển trong EC, và làm cho
mức cung của thế giới tăng đến các mức giá mục tiêu. Trong trao đổi với
các nước không phải là thành viên, chế độ giấy phép được áp dụng, cả
những người xuất khẩu đều phải xin giấy phép tiến hành các giao dịch.
Đối với nhập khẩu thì EC không áp dụng các hạn chế vêg số lượng.
Thay vào đó là các thỏa thuận về hạn chế xuất khẩu tự nguyện được ký kết
với các nước không phải là thanh viên trong đó các nước này cam kết rằng
xuất khẩu của họ vào EC sẽ không vượt quá giới hạn quy định. Ngoài ra
còn có các điều khoản cho phép EC, trong những trường hợp ngoại lệ, áp
dụng bất kỳ biện pháp nào nhằm bảo vệ thị trường cộng đồng một khi xảy
ra những rối loạn nghiêm trọng.
14
Ứng trước vốn là công cụ chủ yếu hỗ trợ XK, nhằm đảm bảo cho sản
phẩm của EC có tính cạnh tranh cao. Những người sản xuất được ứng trước
vốn với quy mô bằng chênh lệch mức giá nội địa ( bao gồm cả chi phí
chuyên trở hàng hóa đến cảng) và giá bán trên thị trường thế giới. Ngoài ra
mức vốn ứng trước còn phụ thuộc vào việc hàng hóa bán đi đâu và vào
hoàn cảnh cụ thể.Các mức vốn ứng trước là thống nhất cho toàn bộ cộng
đồng và lấy từ ngân sách nông nghiệp.
Tác động của các công cụ chính sách áp dụng đối với các sản phẩm
nông nghiệp được đánh giá như sau. Các mức thuế linh hoạt có tác dụng
hạn chế thương mại hơn so với thuế quan nhập khẩu thông thường. Xét về
mặt trung hạn hay dài hạn thì nước XK có thể hạn chế tác động của thuế
quan nhập khẩu bằng cách nâng cao hiệu quả sản xuất tương đối, cắt giảm
chi phí sản xuất. Điều này không thể thực hiện được trong trường hợp thuế
quan linh hoạt bởi vì một khi giá chào hàng giảm xuống thì mức thuế linh
hoạt lại tự động tăng lên. Do đó bất chấp năng suất lao động tăng lên, các
nước XK tính gộp lại không thể gia tăng tỷ trọng của mình trên thị trường
EC, mặc dù tỷ trọng mỗi nước có thể thay đổi.
Như vậy tác động của những công cụ chính sách ngoài EC liên quan
trực tiếp đến mức thuế linh hoạt và hình thức ứng trước vốn cho XK. Các
biện pháp này được áp dụng một cách tương xứng đối với toàn bộ cộng
đồng bất chấp có tình trạng dư thừa hay thiếu hụt. Thuế linh hoạt sẽ có tác
dụng hạn chế nhập khẩu những mặt hàng có tình trạng dư thừa. Các mức
thuế quan bảo hộ này có thể biến động rất mạnh từ năm này sang năm khác
vì chúng phụ thuộc trực tiếp vào giá cả thế giới.
Nói một cách chung nhất, tác động trực tiếp của chính sách bảo hộ nói
trên là đem lại lợi ích cho các nhà sản xuất, còn người tiêu dùng của EC bị
đánh thuế. Tuy nhiên sự bảo hộ như vậy chỉ là bề ngoài vì nó không chỉ
phụ thuộc vào mức thuế linhhoạt và ứng trước vốn XK. Mà còn các biện
15
pháp chính sách nông nghiệp khác. Đây là hình thức bảo hộ danh nghĩa vì
các mức thuế linh hoatj và ứng trước vốn cho XK còn phụ thuộc vào các
yếu tố tiền tệ và tỷ giá hối đoái. Do các mức nói trên được tính bằng tiền tệ
châu Âu (EUR) trong khi thế giới lại tính bằng USD nên khi USD lên cao
hơn so với EUR thì các mức đó giảm xuống. Vì vậy trên thực tế các mức
thuế linh hoạt và ứng trước vốn có thể tăng hay giảm tùy thuộc vào tỷ
giáhối đoái mà không cần đến sự biến động danh nghĩa của cả thế giới.
Cơ chế giá cả và kiểm soát đối với từng sản phẩm cũng có tác động
đến quan hệ thương mại đến các nước ngoài EC. Lý do là vì chúng ảnh
hưởng không chỉ đến các mức thuế quan linh hoạt và ứng trước vốn mà còn
tới số lượng, và từ đó tới nhu cầu nhập khẩu và lượng hàng hóa dành cho
XK. Do các cơ chế kiểm soát nói trên là mức giá nội địa cao hơn so với
mức giá trên thị trường thế giới cho nên sản xuất có xu hướng gia tăng và
tiêu dùng có xu hướng giảm sút. Kết quả là nhập khẩu của EC có xu hướng
giảm xuống trong khimức cung XK tăng lên. Tuy mức giá chung cao hơn
mức giá thế giới, nhưng nhập khẩu lại có xu hhướng giá sút vì tác động của
các mức thuế quan lin hoạt, còn XK được khuyến khích bởi cơ chế ứng
trước vốn nên có xu hướng tăng lên.
2.1.5 Thị trường nông sản EU
Thị trường EU là một thị trường giàu tiềm năng đối với hàng nông sản
của VIệt Nam. Nhận định này dựa trên hai căn cứ sau đây:
- Thứ nhất, tuy nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp của thị
trường EU chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch nhập khẩu của thị
trường này, nhưng đó vẫn là một thị trường rất lớn, các số liệu thống kê đều
cho thấy rằng, bên cạnh việc vẫn đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm nông
nghiệp ra thị trường thế giới, nhưng để đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao
của chính mình, EU vẫn đẩy mạnh nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp.
16
- Thứ hai, với các định hướng phát triển nền nông nghiệp hàng hoá
lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và tăng cường tiềm lực khoa học và công
nghệ trong nông nghiệp…, đưa nhanh công nghệ mới vào sản xuất, thu
hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp,
chúng ta sẽ nâng cao được chất lượng và VSATTP của sản phẩm nông
nghiệp.
Sự ra đời của Luật và các văn bản pháp luật bảo vệ môi trường, cùng
với những yêu cầu ngày càng cao của các thị trường nhập khẩu về sản phẩm
thân thiện với môi trường, ngành nông nghiệp Việt Nam phát triển theo
hướng bảo vệ môi trường. Hiện nay, ở nước ta các trang trại, các khu vực sản
xuất hàng hóa lớn theo hướng nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo ra nhiều
sản phẩm hàng hóa phù hợp với các tiêu chuẩn về chất lượng, VSATTP và
môi trường để đáp ứng nhu cầu của thị trường nhập khẩu còn nhiều khó
khăn. Nhiều tỉnh đang phát triển nuôi lợn xuất khẩu với quy mô lớn: hệ
thống chuồng trại và thức ăn đạt tiêu chuẩn, kỹ thuất không có biến đổi gen
chưa tốt lên làm hạn chế chất lượng, phẩm cấp của sản phẩm.
Theo như phân tích ở trên, có thể khẳng định rằng, EU là một thị
trường xuất khẩu cực kỳ lớn đối với hàng nông sản Việt Nam, nhưng chúng
ta có khai thác được thị trường này và thị trường nông sản thế giới nói chung
hay không là tuỳ thuộc vào hai yếu tố: Một là, phải căn cứ vào nhu cầu của
thị trường để tính toán khối lượng nông sản sẽ sản xuất, và hai là, phải đáp
ứng được những yêu cầu ngặt nghèo về các tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hàng
nhập khẩu đặc biệt là các quy định về chất lượng, VSATTP và môi trường.
Sau nhiều năm nỗ lực mở rộng thị trường EU, nhưng năm 2002 hàng
nông sản Việt Nam đã giảm thị phần so với các năm trước, một phần là do
một số mặt hàng nông sản mất giá quá mạnh (cà fê, chè, hạt tiêu, gao,…) và
phần khác là do những quy định quá ngặt nghèo về các tiêu chuẩn kỹ thuật
đối với hàng nông sản của EU. Do đó, trong giai đoạn từ năm 2003 đến 2005
17
trở đi Việt Nam cần khôi phục thị trường này với hai nhiệm vụ quan trọng
nhất là:
- Thứ nhất, căn cứ vào nhu cầu của thị trường EU để điều chỉnh khối
lượng hàng nông sản xuất khẩu, đặc biệt là đối với những mặt hàng mà Việt
Nam có thế mạnh như cà fê, hạt tiêu, gạo và cao su…; đồng thời đẩy mạnh
xuất khẩu quả nhiệt đới, thịt gia súc, gia cầm, và các loại thực phẩm chế biến
khác.
- Thứ hai, về lâu dài là phải từng bước nâng cao chất lượng và VSATTP
của hàng nông sản Việt Nam, tạo ra nhiều nông sản thực phẩm phù hợp với môi
trường để đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng khắc khe của người tiêu dùng
EU.
Làm tốt được các nội dung nói trên chúng ta đã nhanh chóng triển
khai, khôi phục thị trường EU đưa tổng kim ngạch xuất khẩu có thể đạt 431,7
triệu USD tương đương với năm 1998, thậm trí đạt 500 triệu USD trong vài
ba năm tới là có thể thực hiện được.
Thị trường EU có nhu cầu lớn đối với hàng nông sản xuất khẩu của
Việt Nam như đã nói trên và với ưu thế của hàng loạt nông sản nhiệt đới, một
khi đã đạt được những đòi hỏi về chất lượng, VSATTP và môi trường cũng
như các yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật khác đối với hàng nhập khẩu, việc
mở rộng thị trường EU cho hàng nông sản Việt Nam có thể thực hiện được.
Theo chiến lược xuất khẩu của Bộ thương mại, dự báo triển vọng xuất
khẩu hàng nông sản sang thị trường EU sẽ có hai phương án sau:
- Phương án thấp, trên cơ sở đạt mức tăng trưởng bình quân
11%/năm như trong giai đoạn 1996 - 2001 trên cơ sở đã hoàn thành hoặc
hoàn thành tốt việc khôi phục thị trường EU vào năm 2005 (đạt 430 - 500
triệu USD) như đã nói ở trên, thì kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản xuất
18
khẩu sang thị trường này sẽ đạt khoảng 730 - 840 triệu USD vào năm 2010,
tức là tăng khoảng 4,51 - 5,18 lần trong vòng tám năm tới.
- Phương án cao, đạt mức tăng trưởng bình quân 15%/năm trên cơ
sở đã đạt được 430 - 500 triệu USD vào năm 2005, thì kim ngạch xuất khẩu
hàng nông sản sang thị trường EU sẽ đạt khoảng 860 triệu USD đến 1 tỷ
USD vào năm 2010, tức là sẽ tăng 5,31 - 6,17 lần trong vòng tám năm tới.
2.1.5 Những thách thức đối với Việt Nam trong xuất khẩu hàng
nông sản sang EU
Xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường EU trong những
năm tới nhiều khả năng sẽ phải đối mặt với những thách thức dưới đây:
- Thứ nhất, hệ thống các quy định hết sức ngặt nghèo về tiêu chuẩn kỹ
thuật đối với hàng hoá trong đó bao gồm: tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn
về môi trường, tiêu chuẩn về VSATTP, tiêu chuẩn an toàn cho người sử
dụng, cũng như hàng loạt các biện pháp và chế tài mà EU áp dụng đối với
hàng nông sản nhập khẩu vi phạm các biện pháp và chế tài mà EU áp dụng
đối với hàng nông sản nhập khẩu vi phạm các quy định của EU đối với hàng
nông sản nhập khẩu. Luật thực phẩm của EU nâng từ 10 chất kháng sinh bị
cấm năm 2002 lên 26 chất vào năm 2005. EU duy trì chính sách "dư lượng =
0" đối với mười kháng sinh (năm 2005 là 26 kháng sinh). Như vậy sẽ rất khó
khăn đối với hàng nông sản thực phẩm của Việt Nam khi thâm nhập vào thị
trường này.
Hiện EU đang hoàn thiện Quy trình GAP (Quy trình canh tác nông
nghiệp đảm bảo) và cũng đang xây dựng một nhãn hiệu duy nhất cho thực
phẩm có nguồn gốc hữu cơ. Chính vì vậy mà trong những năm tới, yêu cầu
hàng nhập khẩu của thị trường EU sẽ là hàng nông sản hữu cơ, tức là nông
sản sạch (nông sản được sản xuất theo quy trình GAP, hạn chế sử dụng thuốc
trừ sâu và phân hoá học,…). Hàng nông sản nhập khẩu vào thị trường này
19
phải có nhãn hiệu của thực phẩm có nguồn gốc hữu cơ. EU sẽ sử dụng GAP
để kiểm soát dư lượng kháng sinh và thuốc trừ sâu có trong hàng nông sản.
EU cho rằng sản xuất nông nghiệp theo Quy trình GAP không chỉ bảo vệ
môi trường sinh thái, mà sản phẩm làm ra còn đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng
và VSATTP.
Đối với các sản phẩm thịt gia súc, gia cầm phải tuân thủ Quy đinh
kiểm tra thú y. Quy định này sẽ ngày càng khó thực hiện vì EU duy trì "dư
lượng = 0" đối với 10 chất kháng sinh. Trong số 10 chất, có 7 chất gây ô
nhiễm môi trường. Để đáp ứng được quy định trên, sản phẩm thịt của Việt
Nam phải tuân thủ rất nhiều chỉ thị của Hôi đồng ủy ban Châu Âu, và các chỉ
thị thường xuyên được EU chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với thực tế luôn
biến đổi. Thêm vào đó, thực phẩm chế biến còn phải tuân thủ Quy định chất
phu gia trong thức phẩm. Đây quả là một thách thức không nhỏ đối với thực
phẩm chế biến của ta xuất khẩu sang EU trong thời gian tới, vì hiện tại mới
chỉ có một khối lượng rất nhỏ mặt hàng này thâm nhập được vào thị trường
EU.
Đối với rau, quả, hạt có dầu,… xuất khẩu vào thị trường EU phải tuân
thủ Quy định mức thuốc trừ sâu tối đa có trong sản phẩm nông nghiệp. Trong
khi đó tại Việt Nam hiện nay, sử dụng thuốc trừ sâu quá liều lượng và không
đúng kỹ thuật đã gây tác động xấu tới môi trường sinh thái. Nếu chúng ta
không có các biện pháp khắc phục và hướng dẫn bà con nông dân sử dụng
thuốc trừ sâu theo quy định của EU thì sẽ rất khó cho các sản phẩm nông
nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này.
Quy định bao bì và phế thải bao bì của EU đang dặt ra nhiều thách
thức đối với các doang nghiệp Việt Nam sản xuất hàng xuất khẩu sang thị
trường EU. Những năm tới, các doanh nghiệp phải chú trọng tới khía cạnh
môi trường của bao bì sản phẩm nhiều hơn và phải tuân thủ các yêu cầu
trong quy định này.
20
Bên cạnh sự phức tạp và ngặt nghèo ngày càng tăng của hệ thống các
tiêu chuẩn kỹ thuật của EU đối với hàng nông sản nhập khẩu, các biện pháp
và chế tài mà EU áp dụng đối với các trường hợp vi phạm sẽ ngày càng chặt
chẽ và hà khắc hơn. Như vậy, để tránh tổn thất và đẩy mạnh được xuất khẩu
sang EU, chúng ta cần phải tuân thủ các quy định về chất lượng, môi trường
và VSATTP của EU đối với nhập khẩu hàng nông sản. Hơn nữa, việc thực
hiện các quy định này sẽ góp phần mang lại môi trường sống lành mạnh cho
chính chúng ta.
- Thứ hai, Nông sản là một nhóm hàng nhạy cảm và được EU trợ cấp
rất lớn. Mức trợ cấp tăng lên hàng năm để bảo hộ nền sản xuất nông nghiệp
trong Liên Minh. Bởi vậy, hàng nông sản xuất khẩu của ta sẽ ngày càng khó
khăn hơn khi thâm nhập vào thị trường này. Ngoài việc phải cạnh tranh với
các đối tác xuất khẩu khác có tiềm lực mạnh hơn ta, chúng ta còn phải cạnh
tranh với hàng nội địa được hưởng nhiều ưu đãi.
- Thứ ba, ngoài nhu cầu ngày càng cao cảu người tiêu dùng EU về
nông sản thực phẩm thân thiện với môi trường, yêu cầu của họ về chất lượng
và VSATTP đối với nhóm hàng này cũng ngày càng khắt khe đây. Chẳng
hạn người tiêu dùng EU đã từng tẩy chay thịt bò điên, thịt gà có dioxin,…
được nhập khẩu từ các nước. Đây cũng là thách thức không nhỏ đối với các
doanh nghiệp chế biến hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang thị
trường EU.
2.2 Những tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hàng nông sản nhập khẩu
vào thị trường EU
Nhập khẩu vào Thị trường E.U
Tiến trình tự do thương mại đã được tăng tốc bởi vòng đàm phám
Uruguay, điều này có nghĩa rằng các hàng rào phi quan thuế như quota sẽ
được bãi vỏ và những hàng rào thuế quan cũng sẽ bị cắt giảm. Tuy nhiên
21
điều này không có nghĩa là các nhà xuất khẩu có thể dễ dàng tiếp cận vào
thị trường E.U. Việc tiếp cận thị trường E.U trở nên khó khăn hơn nhiều do
việc tăng nhanh những quy định và các yêu cầu thị trường trong các lãnh
khía cạnh về an toàn, sức khỏe, chất lượng và các vấn đề môi trường và xã
hội. Sự khác biệt giữa những hàng rào kỹ thuật so sánh với các hàng rào
trước đây đó là những quy định và yêu cầu của thị trường được phát triển
từ những một quan tâm chung của cả các chính phủ và người tiêu dùng về
an toàn, sức khỏe, chất lượng và môi trường. Trong quá khức các hàng rào
thuế quan và phi thuế quan nhìn chung nhằm bảo vệ các nhà sản xuất của
Châu Âu. Việc bảo vệ môi trường và bảo vệ cho người tiêu dùng ngày càng
tăng đã dần thay thế cho việc bảo vệ nhà sản xuất và lao động.
Việc sử dụng các hàng rào kỹ thuật được điều chỉnh thông qua các
hàng rào kỹ thuật trong hiệp định thương mại của WTO. Bên cạnh đó cần
phải chú ý rằng đây không chỉ là những quy định luật lệ mà các chính phủ
áp dụng thêm nhằm xác định các tiêu chuẩn cao trong an toàn, sức khỏe và
môi trường, mà người tiêu dùng trở nên ngày càng khó chịu trước những
sản phẩm và những ảnh hưởng có hại tiềm tàng. Điều này dẫn tới các quy
định khó khăn hơn xuất phát từ phía thị trường.
Các hàng rào kĩ thuật trong thương mại
Hiệp định về các hàng rào kỹ thuật (BTT) đã thảo luận trong vòng
đàm phán Uruguay là một phần không thể thiếu trong hiệp định của WTO.
Trong phần đầu của hiệp định có ghi rõ: “không một quốc gia nào bị
ngăn cấm đưa ra những biện pháp cần thiết nhằm bảo vệ con người, động
vật, cuộc sống hoặc sức khỏe của thực vật, của môi trường hoặc không bị
ngăn cấm đưa ra các biện pháp nhằm ngăn cản các hành động lừa bịp với
mức độ phù hợp”.
22
Tuy nhiên, Hiệp định cũng xác định rằng” Sự linh động điều chỉnh
của các thành viên bị giới hạn bởi yêu cầu về các quy định kỹ thuật không
được chuẩn bị, điều chỉnh hoặc áp dụng mới mục đích hoặc ảnh hưởng làm
tạo ra các cản trở khôngcần thiết trong thương mại”. (Mục 2.2).
Tiêu chuẩn hoá
CENELEC, CEN và ETSI là 3 cơ quan tiêu chuẩn hoá của Châu Âu
được coi là đủ năng lực trong việc tiêu chuẩn hoá kỹ thuật, 3 cơ quan này
đã đưa ra các tiêu chuẩn của E.U trong từng lãnh vực riêng biệt và tạo ra
“hệ thống tiêu chuẩn hoá Châu Âu”.
Các tiêu chuẩn là các thỏa thuận bằng văn bản chức đựng những
đặc điểm kỹ thuật hoặc những tiêu chuẩn chính xác khác được sử dụng một
cách nhất quán như những luật lệ, hướng dẫn, hoặc định nghĩa của các đặc
tính nhằm bảo đảm rằng các vật liệu, sản phẩm, các phương pháp chế biến
và các dịch vụ đáp ứng các mục đích của chúng.
Vì vậy mà các tiêu chuẩn quốc đóng góp vào việc làm cho cuộc sống
trở nên đơn giản hơn, và làm tăng tính tin cậy và hiệu quả của hàng hoá và
dịch vụ chúng ta sử dụng.
Hiện tại E.U đang tạo ra các tiêu chuẩn thống nhất và điều hoà cho
toàn E.U đối với các lãnh vực sản phẩm chính nhằm thay thế hàng ngàn các
tiêu chuẩn quốc gia khác nhau. Nhìn chung, các mức độ yêu cầu được đặt
ra hoặc sẽ được đặt ra trong những năm tới đây. Các quốc gia thành viên
được cho phép đưa ra thêm các yêu cầu cho ngành công nghiệp của mình.
Tuy nhiên, nếu sản phẩm nào đáp ứng được những yêu cầu tối thiểu sẽ
được cho phép lưu hành tự do tại E.U.
Tiêu chuẩn hoá không chỉ quan trọng trong lãnh vực sức khỏe, an
toàn mà còn trong lãnh vực quản lý chất lượng, sản xuất mang tính môi
23
trường, trách nhiệm xã hội. Việc tiêu chuẩn hoá sẽ tạo ra các nhãn, các giấy
chứng nhận nhằm chứng minh cho việc tuân thủ các tiêu chuẩn. Trong lược
đồ dưới đây, việc tiêu chuẩn hoá tạo ra những nhãn, giấy chứng nhận trong
nhiều lãnh vực hàng hoá.
Các loại nhãn, giấy chứng nhận, và mã số được thực hiện được yêu
cầu nhằm tuân thủ các quy định và yêu cầu thị trường.
Các quy định bắt buộc
Sức khỏe an toàn
Môi trường
Nhãn CE
Nhãn Green Dot
Chứng nhận HACCP
Chứng
Các tiêu
Nhãn
Chứng
Các quy
Nhãn sinh
Chứng nhận
thái
ISO14000
nhận ISO
chuẩn
hiệu xã
nhận
tắc đạo
9000
SA8000
đức
EN/ISO
hội
công
bằng
Trách nhiệm xã hội
Môi trường
Chất lượng
Các yêu cầu của thị trường
2.2.1 Sức khỏe và an toàn
Vấn đề sức khỏe và an toàn trở nên ngày càng quan trọng đối với
mỗi cá nhân tại E.U. Việc áp dụng chủ yếu liên quan đến phía khách hàng
hơn là phía lao động.
24
Phương pháp tiếp cận mới và chỉ thị về an toàn sản phẩm
Từ tháng 5 năm 1985 Hội Đồng Châu Âu đã duyệt Phương pháp tiếp cận
mới (New Approach) liên quan đến việc bình thường hoá và điều hòa hoá.
Phương pháp tiếp cận mới với tiêu chuẩn hoá và quản lý chất lượng nhằm
đảm bảo rằng chỉ có những sản phẩm an toàn và thỏa mãn các yêu cầu bảo
vệ sức khỏe, môi trường và người tiêu dùng lưu thông tạo khu vực kinh tế
Châu Âu (EEA – European Economic Area). Phương pháp tiếp cận mới
được ban hành như 1 kế hoạch cho việc phát triển thị trường trong E.U,
hàng trăm vấn đề xác định cho việc hoà hợp hoá các quy định và luật lệ,
tuy nhiên cũng có hàng ngàn các chỉ thị của E.U được bãi bỏ do phương
pháp tiếp cận cũ về tiến trình hoà hợp hoá chi tiết được chấm dứt. Theo như
Phương pháp mới này thì nhãn CE là một nhãn bắt buộc đối với nhiều sản
phẩm công nghiệp.
Nghị định về an toàn sản phẩm chung 92/59/EC (thường được biết
dưới tên Nghị định về an toàn sản phẩm) được Cộng Đồng Châu Âu thông
qua ngày 29/6/0992. Và nghị định có hiệu. lực hoàn toàn từ tháng 6/1994
và áp dụng cho an toàn sản phẩm khi sản phẩm có mặt lần đầu tại thị
trường E.U và được kéo dài suốt đời sống có thểcó của sảnn phẩm. Theo
Nghị định, những nhà sản xuất và phân phối chỉ được kinh doanh những
sản phẩm an toàn.
Một “sản phẩm an toàn” được định nghĩa là một sản phẩm không có
- đặc biệt ở khía cạnh thiết kế, cấu thành, hoạt động, chức năng, bao bì, các
điều kiện lắp ráp, bảo trì hoặc thải hồi, cá hướng dẫn sử lý và sử dụng, hoặc
các đặc tính khác của sản phẩm – bất cứ một rủi ro trực tiếp hay gián tiếp
không thể chấp nhận cho an toàn và sức khỏe con người hoặc ảnh hưởng
trên các sản phẩm khác hoặc phụ tùng của nó.
25
Chỉ thị quy định cả đối với sản phẩm mới và các sản phẩm tái chế
mặt do các sản phẩm đã qua sử dụng không được xác định rõ ràng như là
đồ cổ hoặc cần phải sử chữa hoặc tái chế. Mặc dù Chỉ thị về an toàn sản
phẩm đã tồn tại, tuy nhiên chưa quy định đối với nhiều loại sản phẩm.
Chỉ thị yêu cầu các sản phẩm cho người tiêu dùng không được có bất
cứ rủi ro không thể chấp nhận nào và cũng yêu cầu những người sử dụng
tiềm năng những sản phẩm này được cảnh báo đầy đủ các rủi ro có thể xẩy
ra. Chỉ thị về an toàn sản phẩm được đặt ra nhằm vào các sản phẩm cho
người sử dụng cuối cùng (thực phẩm và phi thực phẩm), nếu như không có
các quy định đặc biệt nào cho những sản phẩm này. Ngoài ra nếu có các
quy định đặc biệt khác của EC thì Chỉ thị này không được áp dụng.
2.2.2 Nhãn CE (European Conformity)
Mục đích của nhãn CE là đặt ra yêu cầu chung đối với các nhà sản
xuất nhằm chỉ đưa ra những sản phẩm an toàn tại thị trường E.U. Nhãn CE
được coi là 1 giấy thông hành của nhà sản xuất lưu thông nhiều sản phẩm
công nghiệp như máy móc thiết bị, các thiết bị điện có hiệu điện thế thấp,
đồi chơi, các thiết bị an toàn cá nhân, các thiết bị y tế… Trên thị trường
E.U. Tuy nhiên nhãn CE không áp dụng cho tất cả các hàng hoá công
nghiệp. Nhãn CE không chỉ là ràng buộc duy nhất đối với sản phẩm. Nhãn
CE không áp dụng cho các sản phẩm trang trí nội thất, quần áo và các sản
phẩm da. Nhãn CE chỉ ra rằng sản phẩm tuân thủ các yêu cầu về luật định
và có thể được áp dụng về an toàn, sức khỏe, môi trường và bảo vệ người
tiêu dùng. Cần phải chú ý rằng, nhãn EC không bảo đảm về chất lượng sản
phẩm.
26
Đối với các sản phẩm thực phẩm
HACCP (the Hazard Analysis Critical Control Point system) được áp dụng
cho ngành công nghiệp thực phẩm. Chỉ thị về vệ sinh thực phẩm
(93/43/EC) có hiệu lực từ tháng 1/1996 xác định rằng “các công ty thực
phẩm sẽ xác định từng khía cạnh của các hoạt động ảnh hưởng đến an toàn
thực phẩm và bảo đảm rằng các biện pháp an toàn có thể có sẽ được thiết
kế, áp dụng, thực hiện và kiễm tra lại trên cơ sở của hệ thống HACCP.
Các nguyên tắc cơ bản của HACCP
Xác định tất cả các nguy cơ có thể xẩy ra cho sản phẩm trong chu kỳ
sống của sản phẩm;
Xác định các Điểm Kiểm Soát Tới Hạn (Critical Control Points), các
giai đoạn có thể kiểm soát được trong chu kỳ sống của sản phẩm;
Xác định những biên độ tiêu chuẩn cao nhất có thể cho phép cho mỗi
điểm kiểm soát tới hạn;
Thiết kế và thực hiện một hệ thống kiểm soát kiểm nghiệm hoặc
quan sát cho mỗi Điểm Kiểm Soát Tới Hạn, bao gồm 1 lịch trình
theo thời gian;
Thiết kế và thực hiện các kế hoạch hành động chính xác cho mỗi
Điểm Kiểm Soát Tới Hạn;
Đưa ra một tiến trình xác nhận, bao gồm các kiểm nghiệm và tiến
trình khác nhằm kiểm tra tính hiệu quả của hệ thống HACCP;
Chứng từ hoá tất cả các tiến trình và kết quả kiểm nghiệm.
27
2.2.3 Môi trường Trách nhiệm xã hội
Tại nhiều quốc gia Châu Âu, nhiều thỏa thuận mang tính tình nguyện
và mang tính pháp lý được thông qua giữa các chính phủ và các nhà sảnn
xuất. Các thỏa thuận không chỉ áp dụng cho sản phẩm mà còn áp dụng cho
bao bì của sản phẩm. Các nhà xuất khẩu của Việt Nam phải tuân thủ những
quy định về môi trường để được xuất khẩu và E.U, do đó các nhà nhập
khẩu sẽ chuyển những yêu cầu này cho nhà xuất khẩu.
Theo đó, các nhà xuất khẩu buộc phải xem xét ảnh hưởng môi
trường của sản phẩm của mình, của quá trình sản xuất và đóng gói. Người
tiêu dùng yêu cầu các sản phẩm mang tính môi trường. Do vậy các nhà
xuất khẩu Việt Nam phải hiểu rằng việc tuân thủ các quy định về sản phẩm
là rất cần thiết, tuy nhiên đầu tiên là đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng
E.U là điều quan trọng trong thành công tại thị trường E.U
Chính sách môi trường của EU
Chính sách môi trường của E.U dựa trên cơ sở các hiệp định toàn
cầu, đặc biệt trong Lịch trình 21 của Hiệp định Rio de Janeiro . Trong Hội
nghị Liên Hiệp Quốc về Môi trường và Phát triển, được tổ chức năm 1992
tại Brazin đã hình thành nền tảng đầu tiên cho sự phát triển bền vững trên
toàn thế giới, áp dụng răng trưởng kinh tế cân bằng có quan tâm đến môi
trường. E.U và các quốc gia thành viên đã cam kết thực hiện hành động
theo nội dung Hiệp định Rio.
Nội dung chính trong "Chương trình hành động thứ 5 về môi trường"
liên quan nhiều hơn những nguyên nhân nguồn gốc hơn là những vấn đề
xảy ra. Danh sách các sản phẩm bị ảnh hưởng bởi chính sách môi trường
của E.U và ảnh hưởng bởi sự quan tâm của khách hàng rất dài như các sản
phẩm thực phẩm tươi, thực phẩm chế biến, hoá chất y tế, sản phẩm da, các
sản phẩm gỗ, dệt, may, điện tử các sản phẩm khoáng. Các vấn đề nhạy cảm
28
là mức độ thặng dư thuốc trừ sâu, phụ gia thực phẩm, sự hiện diện của kim
loại nặng, sự hiện diện của các chất gây ô nhiễm, sử dụng hoá chất, gỗ rừng
nhiệt đới, ô nhiễm nguồn nước vá không khí và việc sử dụng cạn kiệt các
tài nguyên không thể tái tạo. Ngoài ra còn những vấn đề ảnh hưởng trực
tiếp ngay đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam là:
Các biện pháp được thực hiện nhằm giảm thiểu chất thải bao bì và tái
sử dụng, tái chế các vật liệu bao bì;
Tăng cường thực hiện quản lý môi trường và các hệ thống đánh giá
và sử dụng các dấu hiện xác nhận tiêu chuẩn;
Tăng cường tầm quan trọng của các dấu hiệu xác nhận tiêu chuẩn cho
nhiều loại sản phẩm theo thái độ của người tiêu dùng Châu Âu.
Chính sách môi trường của E.U
(Thể hiện ở 2 cấp độ là: Cấp độ sản phẩm và cấp độ công ty)
Quản lý chất thải bao bì đóng gói
Chỉ thị 94/62/EEC về đóng gói và chất thải bao bì đóng gói: có quy định
các mức độ tối đa của các kim loại nặng trong bao bì và mô tả các yêu cầu
đối với sản xuất và thành phần của bao bì:
Bao bì được sản xuất bằng phương pháp để cho thể tích và cân nặng
được giới hạn ở mức thấp nhất nhằm duy trì mức độ an toàn, vệ sinh
cần thiết và sự chấp thuận của người tiêu dùng cho sản phẩm đóng
gói.
Bao bì được thiết kế, sản xuất và thương mại hoá sao cho có thể
được tái sử dụng hoặc thu hồi, bao gồm tái chế, và để giảm thiểu ảnh
hưởng về môi trường khi chất thải bao bì hoặc những phần dư từ
chất thải bao bì được loại trừ.
29
Bao bì phải được sản xuất để giảm thiếu sự hiện diện của các chất
độc hại và các chất nguy hiểm khác có quan tâm đến sự hiện diện
của các chất tro, bức xạ khi bao bì hoặc các phần dư được thiêu hủy
hoặc chôn.
Việc thực hiện Chỉ thị đã được nhiều quốc gia thành viên đưa vào luật tuy
nhiên các quy định ở mỗi quốc gia khác nhau.
Thông dụng nhất là hệ thống “Green Dot” do Chính phủ Đức áp dụng. Biểu
tượng Green Dot thể hiện cho người mua biết rằng bao bì có thể được tái sử
dụng hoặc tái chế và cũng cho biết việc loại bỏ và tái chế bao bì vận
chuyển sẽ do các bên liên quan chịu chi phí.
Các tiêu chuẩn quản lý môi trường
Các tiêu chuẩn quản lý môi trường cho phép các nhà sản xuất và nhà xuất
khẩu cơ hội nhằm giới thiệu cho các đối tác bên ngoài rằng việc sản xuất
được thực hiện theo phương pháp trung thành với môi trường. Các tiêu
chuẩn quản lý môi trường là các tiêu chuẩn mang tính tự nguyện. Hiện nay
tiêu chuẩn môi trường cho các quốc gia đang phát triển được áp dụng nhiều
nhất là ISO 14001.
Các đặc điểm của tiêu chuẩn quản lý môi trườngISO14001
Chứng nhận ISO dựa trên cơ sở tự nguyện, mặc dù nó có 1 sức ép
đáng kể từ những người mua hàng Tây Âu;
Nó là một quyết định của đội ngũ quản lý nhằm tránh sự ô nhiễm và
chất thải và trở nên hiệu quả hơn và cạnh tranh hơn khi tôn trọng môi
trường;
Các bộ tiêu chuẩn được thể hiện chi tiết dưới dạng thực hiện các
công việc gì chứ không phải là như thế nào;
30
Một chính sách môi trường cần được trình bày 1 cách có hệ thống;
Huấn luyện nhân viên đóng vai trò gì trong các vấn đề môi trường;
Kế hoạch, trách nhiệm và các tiến trình phải được ghi chép bằng văn
bản;
Các cơ chế kiểm soát, điều chỉnh và hoạt động ngăn cản cần được
định ra;
Yêu cầu kiểm toán nội bộ và kiểm toán bên ngoài;
Yêu cầu thực hiện kiểm tra quản lý định kỳ;
Giấy chứng nhận do phía thứ 3 cấp.
Nhãn hiệu sinh thái (Ecolabelling)
Nhãn hiện sinh thái của quốc gia và E.U dựa trên cơ sở đánh giá trên
toàn chu kỳ sống của sản phẩm và áp dụng cho nhiều loại sản phẩm. Trong
khi những nhãn hiệu cho từng sản phẩm có thể có những giới hạn và chỉ
được áp dụng cho 1 sản phẩm, 1 nhóm sản phẩm hoặc 1 tiến trình sản xuất
riêng biệt.
Nhãn hiệu sinh thái quốc gia: Hệ thống nhãn hiệu sinh thái quốc gia
nhằm cung cấp cho các khách hàng một lựa chọn khi mua các sản phẩm
được thiết kế, sản xuất, đóng gói và có thể được loại bỏ cuối chu trình đời
sống của sản phẩm mang tính chất môi trường. Việc sử dụng những nhãn
hiệu như vậy khuyếnh khích những ngành sản xuất và chế biến sử dụng
nhiều hơn các nguồn tài nguyên có thể duy trì. Nhãn hiệu sinh thái quốc gia
áp dụng cho nhiều loại sản phẩm và dự trên Việc đánh giá chu trình sống.
Đánh giá ảnh hưởng môi trường thông qua toàn bộ chu trình sống của sản
phẩm.
31
Những nhãn hiệu sinh thái quốc gia được thấy ở các quốc gia Tây
bắc E.U như
Nhãn Mileukeur tại Hà lan.
Nhãn Blue Angel tại Đức.
Nhãn Swan tại các quốc gia Scandinavia.
Nhãn Swan tại các quốc gia Scandinavia
Nhãn sinh thái E.U (E.U ecolabel): Áp dụng cho 14 nhóm sản phẩm.
Nhà sản xuất hoặc người nhập khẩu áp dụng một dấu xác nhận môi
trường của E.U trên cơ sở tự nguyện.Để có được dấu xác nhận môi
trường của E.U, các doanh nghiệp phải trả 1 khoản phí và phụ thuộc
vào doanh nghiệp nhập khẩu hoặc doanh thu của công ty sản xuất.
Khoản phí này không giống nhau giữa các quốc gia.
Các nhãn sản phẩm riêng biệt
Nhãn hiệu cho các sản phẩm thực phẩm được sản xuất theo phương
pháp hữu cơ: KRAV tại Thụy Sĩ, EKO tại Hà Lan
Nhãn hiệu cho duy trì rừng – cho các sản phẩm gỗ: FSC và ISO
14000.
Nhãn hiệu cho duy trì hải sản: MSC (Marine Stewardship Cuncil).
Nhãn hiệu cho các sản phẩm may mặc : Oko-Tex đặc biệt tại Đức.
32
2.2.4 Quản lý chất lượng
Sê-ri ISO 9000
Tổ Chức Quốc Tế Tiêu Chuẩn Hoá (International Organization for
Standardisation – ISO) phát triển và một cách tổng quát chấp nhận sê ri
ISO 9000 nhằm cung cấp 1 cơ cấu cho quản lý và bảo đảm chất lượng. Các
nhà sản xuất xem chứng nhận ISO 9001, ISO 9002 như là một tài sản quan
trọng và như 1 điểm bắt đầu để cạnh tranh trong thị trường E.U. Chứng
nhận ISO sẽ tạo 1 niềm tin mạnh mẽ của đối tác. Giấy chứng nhận ISO chỉ
có giá trị trong 3 năm, do vậy để tiếp tục duy trì ISO, các đợt kiểm toán nội
bộ (1-2 lần/năm) và kiểm toán từ bên ngoài (2 lần trong năm) cần được
thực hiện. Điều này có nghĩa là công ty cần phải có 1 người quản lý chịu
trách nhiệm cho các chánh sách về quản lý chất lượng.
Các nội dung cơ bản của ISO
Các tiêu chuẩn ISO 9000: 9001 và 9002 là quan trọng nhất
ISO 9000: Hướng dẫn cho việc lựa chọn và sử dụng hệ thống chất
lượng;
ISO 9001: Mô hình bảo đảm chất lượng trong thiết kế, phát triển, sản
xuất, lắp đặc và dịch vụ;
ISO 9002: Mô hình bảo đảm chất lượng trong sản xuất, lắp đặt và
dịch vụk;
ISO 9003: Mô hình bảo đảm chất lượng trong kiểm tra và kiểm định
cuối cùng;
ISO 9004: Những hướng dẫn cho thiết kế và thực thi các hệ thống
chất lượng.
33
ISO 9000: là gì?
Các tiêu chuẩn ISO 9000 không phải là các tiêu chuẩn của sản phẩm
mà là các tiêu chuẩn hệ thống;
Các tiêu chuẩn ISO 9000 không đề cập đến sự tuân thủ những đặc
điểm kỹ thuật của sản phẩm;
Các tiêu chuẩn ISO 9000 không đề cập về các biện pháp quản lý chất
lượng trong 1 công ty;
Các tiêu chuẩn ISO 9000 nhấn mạnh nhiều vào ngăn chặn sự không
tuân thủ hơn là kiểm tra đối với các đặc điểm kỹ thuật.
Các đặc điểm của ISO 9000
Hệ thống và ghi chép bằng văn bản chính sách chất lượng;
Trách nhiệm, quản hạn và mối tương quan của nhân sự được định
nghĩa và được ghi chép bằng văn bản;
Rà soát định kỳ thường xuyên;
Hệ thống các kế hoạch chất lượng;
Tất cả các tiến trình được ghi chép bằng văn bản;
Sự tham gia cao của toàn bộ nhân viên;
Các hướng dẫn công việc tại nơi làm việc;
Các chương trình huấn luyện nhân sự;
Các hoạt động chỉnh lý và ngăn cản;
34
Kiểm soát tiến trình từ mua nguyên vật liệu cho đến đóng gói, bốc
dỡ, giao hàng, dịch vụ và sử lý khiếu nại;
Chứng nhận từ phía thứ 3;
Kiểm toán nội bộ và từ bên ngoài.
Lợi ích từ giấy chứng nhận ISO 9000
Tạo ra sự nhận diện từ khách hàng;
Phát triển hình ảnh của công ty;
Tạo sự tin tưởng;
Tăng sự tín nhiệm;
Tăng sự chấp nhận từ phía khách hàng;
Giảm các tranh chấp;
Hệ thống hoá các nỗ lực nhằm tăng chất lượng;
Tạo sự thông suốt và hiểu biết;
Cung cấp một nguồn quan trọng cho tham khảo và giám sát;
Có thể nhận dạng được các điểm yếu;
Có thể nhận dạng đ
ược những khả năng để tăng hiệu quả;
Có thể nhận dạng được những khả năng để tăng sự thỏa mãn của khách
hàng.
35
Sê-ri ISO 9000 phiên bản 2000
Hiện nay Sê ri ISO 9000 phiên bản 2000 giảm còn 3 hệ thống tiêu
chuẩn quản lý chất lượng :
ISO 9000: 2000
ISO 9001: 2000
ISO 9004: 2000
Phiên bản ISO 9001 mới thay thế cho các phiên bản cũ của ISO 9001, ISO
9002, ISO 9003
Các nội dung tiêu chuẩn thay đổi bao gồm:
Phù hợp với các tiêu chuẩn quản lý môi trường;
Dễ dàng áp dụng cho các tổ chức nhỏ, vừa và lớn trong khu vực tư
nhân và công cộng;
Có thể áp dụng đều nhau trong các lãnh vực sản xuất, dịch vụ và
phần mềm.
36
Chương 3: Thực trạng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị
trường EU
3.1 Kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU
Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường
EU những năm gần đây thường xuyên chiếm 18-19% kim ngạch xuất khẩu
toàn ngành nông nghiệp nước ta. Những nhóm hàng có kim ngạch xuất
khẩu vào thị trường EU ổn định và liên tục tăng từ năm 2000 đến nay: sản
phẩm gỗ 77%/ năm, chè 35,8%/năm, cao su sơ chế 44,7%/năm, rau quả
35,5%/năm.
Riêng cà phê đ• có dấu hiệu phục hồi sau 10năm đi xuống. Cà phê là
một trong những mặt hàng nông sản đang khai thác tốt và có thị phẩm
tương đối lớn ở khu vực này: Tại Bỉ chiếm 10,1% thị trường nhập khẩu,
Pháp chiếm 48.5%, Đức chiếm 57%, Italy chiếm 49.6%, Tây Ban Nha
chiếm 53.9%, Anh chiếm 64.2%... Có những mặt hàng vẫn chưa tương
xứng với tiềm năng của nước ta, sản phẩm chè năm 2003 mới chỉ chiếm
khoảng 1.8% thị phần nhập khẩu của EU, gỗ chiếm khoảng 1%, rau quả
không đáng kể. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam
vào EU đạt trên 577 triệu USD, chiếm khoange 18% kim ngạch xuất khẩu
nông sản. Trong đó, cà phê đứng đầu với 391 nghìn tấn đạt 262 triệu USD.
Hiện nay thị trường EU mới chiếm gần 20 % tổng kim ngạch xuất khẩu
hàng nông sản của Việt Nam. Bộ Nông Nghiệp và phát triển Nông Thôn có
kế hoạch nâng tỷ lệ này lên 30% với các mặt hàng chủ lực như cao su, cà
phê, chè, rau quả, hạt có dầu...
3.2. Cơ cấu thị trường và hàng nông sản Việt Nam vào EU
EU hiện có 27 nước thành viên, với gần 500 triệu người có thu nhập
cao, một nền kinh tế lớn nhất thế giới. Dự báo năm 2007, tổng kim nghạch
37
ngoại thương của EU gần 1.400 tỉ USD, chiếm gần 20% thương mại toàn
cầu. Nếu tính cả mậu dịch nội khối thì tổng kim nghạch mậu dịch là 3.092
tỉ USD, chiếm 41,4% thị phần thế giới. EU chiếm 42,7% nhập khẩu dịch vụ
thế giới, trong đó 7,2% là nông sản. Đây là thị trường xuất khẩu to lớn của
Việt Nam nói chung và khu vực ĐBSCL nói riêng. ĐBSCL hiện chiếm hơn
90% lượng gạo xuất khẩu và 70% sản lượng trái cây của cả nước,có nhiều
cơ hội thâm nhập thị trường EU mở rộng.Cà phê là mặt hàng nông sản
đang được khai thác tốt và có thị phần tương đói lớnở khu vực này:tại Bỉ
chiếm 10,1% thị trường nhập khẩu, Pháp chiếm 48,5%, Đức chiếm 57%,
Italy chiếm 49,6% Tây Ban Nha chiếm 53,9% Anh chiếm 64,2%... Có
nhưỡng mặt hàng vẫn chư tương xứng với tiềm năng của nước ta,sản phẩm
chè năm 2003 mới chỉ chiếm 1,8% thị phần nhập khẩu của EU, Gỗ chiếm
khoảng 1% Rau quả không đáng kể.
3.2.1. Mặt hàng rau quả
Xuất khẩu rau, hoa, quả Việt nam trong những năm qua có chiều
hướng gia tăng nhưng vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Nhiều hộ sản xuất và
doanh nghiệp vẫn chưa yên tâm đầu tư phát triển do thị trường rau, hoa quả
tươi luôn tiền ẩn nhiều rủi ro. Hiện nay cả nước có 680.000 ha trồng cây ăn
quả, trên 760.000 ha trồng rauvà hoa các loại phục vụ tiêu dùng nội địa và
một phần cho xuất khẩu. Kim nghạch xuất khẩu hoa, rau quả ở việt nam có
chiều hướng tăng: năm 2000 đạt 213 triệu USD, năm 2005 đạt 230
triệuUSD, năm 2006 đạt 280 triệu USD. Một số mô hình phát triển sản
xuất và xuất khẩu rau, hoa, quảđạt hiệu quả kinh tế cao, có giá trị sản xuất
từ 400 - 500 triệu đồng/ha/năm,có doanh nghiệp xuất khẩu hàng chục triệu
USD/năm.
Tuy nhiên vẫn còn nhiếu hạn chế trong nghành rau hoa quả tươi ở
việt nam đến nay vẫn chưa được khắc phục.Nông dân xuất khẩu chủ yếu
theo kinh nghiệm truyền thống, theo mùa vụ.Vì vậy , cao điểm mùa vụ thì
38
hàng hoá tập trung cao, không tiêu thụ nhanh thì thua lỗ; ngược lại trái vụ
thì không tạo ra được sản phẩm lớn, ổn định cho xuất khẩu.Mặt khác, do
quy mô nhỏ lẻ(mỗi hộ từ 200 -300m2 rau,1000m2 cho hoa và quả) nên sản
lượng hàng hoá không nhiều và gây trở ngại cho việc áp dụng các kĩ thuận
tiên tiến hiện đại trong sản xuất và kinh doanh. Đến nay vấn đề bảo quản
sau thu hoạch vẫn là vấn đề nóng bỏng, cản trở khả nang xuất khẩu rau hoa
quả ở Việt namđến các thị trường xa.Như xoài, vú sữa, chuối... tuy thơm
ngon nhưng mỏng vỏ không cất giữ được lâu. không bảo quản được để chủ
động đọ chín đáp ứng cho thị trườngPháp, Hà Lan, Ai Cập .Các đợn vị kinh
doanh rau, hoa, quả thiếu hệ thống kho bảo ôn, phương tiện vận chuyển bảo
ôn chuyên dùng, trong khi cước vận chuyển cao nên viẹc vận chuyển bảo
quản xa gặp khó khăn.Phổ biến hiện nay là các thương lái thu mua của dân,
thuê phương tiện vận chuyển lên biên giới bán tại cửa khẩu theo đường tiểu
ngạch .Do không có kho bảo ôn, nên thương lái bán vội là bị ép giá. Rau,
hoa, quả Việt Nam không xuát khẩu được một phần do chưa đảm bảo được
vệ sinh an toàn thực phẩm. Ngoài vài Công ty đầu tư nước ngoài, các công
ty Việt Nam chưa tổ chức có bài bản việc tập kết hàng, phân loại, đóng gói
bao bì, bảo quản kho lạnh.
Những hạn chế trên phần lớn xuất phát từ khâu tổ chức sản xuất và
kinh doanh. Hiện tại, có 3 phương thức tổ chức sản xuất, kinh doanh chủ
yếu là Công ty nhà nước chuyển sang cổ phần, có khách hàng nước ngoài
nhưng còn hạn hẹp. Các Công ty ở địa phương thu gom hàng từ các hộ
nông dân và giao lại cho các Công ty lớn ở Thành phố Hồ Chí Minh, Hà
Nội hoặc khách nước ngoài thu mua xuất khẩu. Một số nơi xuất hiện một
số mô hình liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với nông dân hoặc hợp
tác x• với nông dân. Sản phẩm được doanh nghiệp thu mua theo hợp đồng
đ• ký, đưa vào phân loại, chế biến, đóng gói và xuất khẩu. Nhưng những
39
mô hình này tập trung chủ yếu ở Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Lạt và một
số tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long ngân hàng.
Xuất khẩu rau quả sản thị trường EU tháng 11 năm 2006
So tháng
So tháng
So tháng
Tháng 11/06
So tháng 11/05
10/06
10/06
11/05
Thị trường
(Nghìn USD)
%
%
(Nghìn USD)
%
Hà Lan
842
14.35
42.58
1.41
8.281
Italia
653
18.04
13.89
64.11
4.082
Đức
358
12.50
55.78
2.503
-26.81
Anh
199
34.02
5.34
-29.53
2.301
59
16.88
Thuỵ Điển
*
160.38
592
Bỉ
43
27.33
-72.84
-76.38
1.493
Hà Lan
37
*
18.08
*
258
Séc
0
-22.63
*
-100.00
208
0
-69.51
*
273
Tây Ban Nha
-100.00
Pháp
329
6.20
-39.46
3.567
36.61
3.2.2. Mặt hàng cà phê
Buôn bán hai chiều Việt Nam - EU tăng nhanh trong những năm gần
đây, tư 3.6 tỉ USD năm 1999 lên 9.9 tỉ USD năm 2006, trong đó Việt Nam
Xuất khẩu 6.9 tỷ USD chiếm 17.4% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước
... Dự báo xuất khẩu vào EU năm 2007 đạt 8.3 tỷ USD, tăng 2% so với năm
trước.
Quy mô tiêu dùng của EU đang ở mức 8.000 tỉ Euro, trong đó giao
dịch thương mại chiếm đến 90% giữa các nước EU (70% giao dịch trong
40
nước, 20% giao dịch giữa các nước trong khu vực), 10% nhập khẩu (kim
ngạch nhập khẩu từ các nước Châu á Thái Bình Dương và Caribea mới chỉ
chiếm 3% trong tổng kim ngạch nhập khẩu 4 tỉ Euro). Thị trường EU đang
tràn ngập hàng hoá, nhu cầu b•o hoà, cung vượt cầu. Xuất khẩu vào thị
trường EU, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh gay
gắt.
3.2.3. Mặt hàng chè
Trong cơ cấu mặt hàng chè xuất khẩu của Việt Nam hiện nay, chè
xanh chiếm 20%, chè đen 79% và 1% là các loại chè khác. Ngành chè đặt
mục tiêu đến năm 2010, tỷ lệ xuất khẩu chè xanh sẽ tăng lên 60%, giảm
dần tỷ lệ chè đen. Việt Nam hiện thuộc nhóm 10 nước đứng đầu thế giới cả
về diện tích và sản lượng chè.
Với EU, nhu cầu chè của khối này chủ yếu đều được đáp ứng bằng
nhập khẩu với gần 300.000tấn/năm. EU đòi hỏi hết sức cao về chất lượng
và VSATTP. Chính vì thế, chè Việt Nam mới xuất khẩu sang EU có 5.000
- 7.000tấn/ năm, trong lúc nhu cầu về chè của EU rất lớn. Chè Việt Nam
xuất khẩu sang thị trường này chiếm khoảng hơn 2% tổng kim ngạch. Giá
chè của Việt nam tại đây chỉ bằng 40% so với mặt bằng giá 2.500USD/tấn
nhập khẩu từ các nước khác. Mặt khác trong 15 nước thành viên EU, chỉ có
Hylạp và Luxemboug là khách hàng thường xuyên, 13 nước còn lại có
nhập khẩu chè của Việt nam nhưng không ổn định.
Để tăng kim ngạch xuất khẩu chè sang thị trường EU, cần lưu ý:
- Tăng thị phần chè Việt Nam trên các nước EU bằng cách tìm hiểu
thị hiếu, khẩu vị của người dùng chè ở các nước EU, nghiên cứu và áp
dụng khoa học và quy trình công nghệ chè tiên tiến từ khâu trồng trọt, thu
hái, ủ sao, đóng gói, mẫu m•, bao bì, bảo quản, vận chuyển ... phù hợp với
thị hiếu, khẩu vị của người tiêu dùng.
41
- Tăng cường xúc tiến thương mại, quảng bá và từng bước khẳng
định thương hiệu chè Việt nam trên thị trường EU.
- Tích cực triển khai chương trình xúc tiến thương mại, sử dụng có
hiệu quả kinh phí hỗ trợ từ ngân sách của chương trình xúc tiến thương mại
trọng điểm và hỗ trợ xuất khẩu từ Quỹ hỗ trợ xuất khẩu để mở rộng thị
trường đ• có và tìm kiếm thị trường mới, nhất là thị trường có tỷ trọng xuất
khẩu lớn.
3.2.4. Mặt hàng hồ tiêu
Hiện nay, lượng hồ tiêu của Việt Nam đang chiếm tới 50% lượng hồ
tiêu xuất khẩu của cả thế giới. Tỷ lệ này có khả năng sẽ còn tăng nhanh
trong những năm tới. Không những thế, Việt Nam đang được đánh giá là
nhà cung ứng hồ tiêu lý tưởng nhất trên thế giới với giá cả và chất lượng
cạnh tranh.
Tính đến cuối năm 2006, Việt Nam đ• xuất khẩu được hơn 100.000
tấn, xấp xỉ với lượng xuất khẩu hồ tiêu cả năm 2005. Hiện tại, giá xuất
khẩu hồ tiêu của các doanh nghiệp Việt Nam đ• đạt từ mức 1.959USD/tấn -
2.000USD/tấn so với thời điểm tháng 7/2006. Trong nước, các doanh
nghiệp thu mua cho nông dân với giá 31.500đồng/kg tiêu đen, cao gấp đôi
so với giá bình quân năm 2005. Với giá th mua trong nước và xuất khẩu
như trên, hồ tiêu Việt Nam đang có một năm đạt hiệu quả rất cao cả về sản
xuất lẫn kinh doanh. Dự kiến, kim ngạch xuất khẩu hồ tiêu của Việt Nam
trong năm 2007 sẽ tăng mạnh và đạt tới 200triệu USD.
EU là thị trường lớn, có tính ổn định lâu dài. Song song đó, các
doanh nghiệp trong nước đã bán hàng trực tiếp cho nhà nhập khẩu, hạn chế
được xuất khẩu qua trung gian. Điều này làm cho giá xuất tăng, sản lượng
xuất khẩu tăng và tránh được tình trạng bị ép giá. Hiện tại, hồ tiêu Việt
Nam xuất khẩu vào thị trường EU đạt hơn 40% nhu cầu tiêu thụ.
42
3.3 Đánh giá hoạt động xuất khẩunông sản Việt Nam sang thị
trường EU
Trong những năm gần đầy, xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang
thị trường Liên minh châu Âu (EU) đ• đạt được những thành tựu đáng kể,
song vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức đặt ra đòi hỏi Nhà nước cũng
như các doanh nghiệp phải có chiến lược phát triển phù hợp để giữ và mở
rộng thị phần. Nếu xét riêng kim ngạch thì xuấtd khẩu hàng nông sản của
Việt Nam vào EU trong 2 năm trở lại đây có sự tăng trưởng khá. Số liệu
thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy, năm 2003, kim ngạch xuất khẩu
các mặt hàng nông sản vào thị trường này đạt trên 577 triệu USD, chiếm
gần 18% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản cả nước, trong đó, một số mặt
hàng xuất khẩu chính như cà phê, hạt điều, hồ tiêu và nhất là các sản phẩm
gỗ có kim ngạch tăng hơn hẳn so với những năm trước. Bên cạnh đó, khối
lượng xuất khẩu các mặt hàng nông - lâm sản vào EU cũng ngày càng tăng
với sự đa dạng về chủng loại, mẫu m• và chất lượng ngày càng cao. Điều
này cho thấy, tiềm năng xuất khẩu hàng nông - lâm sản vào EU là rất lớn
và đang được các doanh nghiệp bước đầu khai thác một cách tương đối có
hiệu quả.
Có 4 điểm cần chú ý cho các doanh nghiệp khi xuất khẩu sang thị
trường EU gồm: Tính năng sản phẩm phải phù hợp với người tiêu dùng.
Thực phẩm phải đóng gói nhỏ, gọn, tiện lợi, đảm bảo chất lượng, mẫu m•
đa dạng và luôn luôn thay đổi. Giá cả sản phẩm không phụ thuộc vào giá
thành sản xuất mà phụ thuộc vào thời điểm bán ra và khả năng đáp ứng nhu
cầu của người tiêu dùng. Linh hoạt và cứng rắn, đảm bảo quyền lợi của
mình trong quá trình đàm phán. Tìm đối tác (nhà phân phối hoặc đại lý),
đặt quan hệ làm ăn lâu dài với các đối tác dựa trên nguyên tắc hai bên cùng
có lợi và sự tin cậy về chất lượng hàng hoá. Tìm hiểu kỹ các tiêu chuẩn
xuất khẩu hàng hóa, thị trường và đối tượng tiêu dùng, đáp ứng được 2 yếu
43
tố sản phẩm đó, công ty tốt (hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm, quản lý
về doanh nghiệp).
Để xuất khẩu thành công vào thị trường EU, các doanh nghiệp phải
quan tâm đến một số luật thương mại quốc tế có liên quan như các hiệp
định WTO, các hiệp định khu vực và song phương trong đó có các hiệp
định ký với các nước ASEAN, các luật về thâm nhập thị trường do EU ban
hành, và của từng nước thành viên, các quy định về thị trường và sản phẩm
do đối tác yêu cầu. Ngoài ra, các quy định pháp lý và phi luật về thâm nhập
thị trường EU gồm các quy định về thuế quan, các luật của EU về thâm
nhập thị trường, các đòi hỏi phi luật của đối tác thương mại về thâm nhập
thị trường. Các quy định về thuế như thuế nhập khẩu: 4% trở xuống với
hàng công nghiệp, trên dưới 10% đốivới hàng nông sản (áp dụng với giá
nhập khẩu tối thiểu ...) và các thuế khác như VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt
đánh trên các sản phẩm như rượu, bia, thuốc lá ... ở mỗi nước. Các quy
định về rào cản hạn ngạch và thuế hạn ngạch, EU có 87 loại thuế theo hạn
ngạch. Quy định về giấy phép nhập khẩu và các chất cấm nhập khẩu.
Nét đặc trưng trong chính sách thương mại của EU là bảo hộ nông dân, bảo
vệ môi trường và sức khoẻ người tiêu dùng. EU trợ cấp sản xuất nông
nghiệp trong khối, đồng thời đánh thuếcao và áp dụng hạn ngạch đối với
một số nông sản nhập khẩu như gạo, đường, muối, sắn lát. Các yêu cầu về
xuất xứ, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm .... luôn được thực hiện
nghiêm ngặt. EU đang thực hiện chương trình mở rộng hàng hoá dưới hình
thức đẩy mạnh tự do hoá thương mại, giảm dần thuế quan đánh vào hàng
hoá XNK và tiến tới xoá bỏ hạn ngạch GPS. Những điều kiện thuận lợi này
sẽ mở ra nhiều triển vọng xuất khẩu vào thị trường EU cho các doanh
nghiệp Việt Nam.
3.3.1 Những lợi thế
44
- Thứ nhất: So với các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu như hàng dệt
may, giầy da hay cơ khí, điện tử lắp ráp... thì trong cùng một lượng kim
ngạch xuất khẩu thu về như nhau, tỷ lệ chi phí sản xuất có nguồn gốc
ngoại tệ của hàng nông sản rất thấp, do đó nhu cầu nhập ngoại tệ ròng của
hàng nông sản xuất khẩu sẽ cao hơn nhiều.
Ví dụ: Chi phí sản xuất gạo xuất khẩu có nguồn gốc ngoại tệ (phân
bón, thuốc sâu bệnh và các loại hoá chất, xăng dầu ...) chỉ chiếm từ 15 đến
20% giá trị xuất khẩu kim ngạch gạo. Điều đó có nghĩa là xuất khẩu gạo đ•
tạo ra từ 80 đến 85% thu nhập ngoại tệ thuần cho đất nước, chỉ số này đối
với nhân hạt điều xuất khẩu là khoảng 27% và 73%.
Đây là lợi thế ban đầu của các nước nghèo, khi chưa có đủ nguồn
ngoại tệ để đầu tư xây dựng các nhà máy lớn, khu công nghiệp để sản xuất,
kinh doanh những mặt hàng tiêu tốn ngoại tệ.
- Thứ hai: Ngành nông nghiệp là ngành sử dụng nhiều lao động vào
quá trình sản xuất - kinh doanh. Đây là một ưu thế quan trọng hiện nay của
ngành, vì hàng năm nước ta phải giải quyết thêm việc làm cho 1,4 triệu
người bước vào tuổi lao động. Ví dụ, để trồng và chăm sóc 1 ha dứa hay 1
ha dâu tằm mỗi năm sử dụng tới 20 lao động. Trong khi đó, giá nhân công
Việt Nam rẻ hơn các nước khác trong khu vực, phổ biến với mức1-1,2
USD/ngày công lao động như trong sản xuất lúa, cà phê. Tất nhiên lợi thế
này sẽ không tồn tại lâu do sự phát triển kinh tế - x• hội của đất nước và thế
giới.
- Thứ ba: Điều kiện sinh thái tự nhiên của nhiều vùng nước ta rất
thuận lợi cho việ phát triển sản xuất một số loại rau quả vụ đông có hiệu
quả như cà chua, bắp cải, tỏi, khoai tây ... Trong khi cũng vào thời gian này
ở cả vùng Viễn Đông của Liêng Bang Nga và thậm chí ở cả Trung Quốc
đang bị tuyết dày bao phủ không thể trồng trọt được gì, nhưng những nơi
45
này lại là thị trường tiêu thụ lớn và tương đối dễ tính. Các đối thủ cạnh
tranh như Thái Lan, Philipin lại kém lợi thế hơn so với Việt Nam cả về điều
kiện tự nhiên sinh thái, cả về kỹ năng, kinh nghiệm sản xuất và tính cần cù
lao động của người nông dân trong việc trồng trọt các loại rau quả đó.
- Thứ tư: Một số ít nông sản được các nước phát triển ở châu âu;
Bắc Mỹ ưa chuộng như nhân hạt điều, dứa, lạc lại có thể trồng ở Việt Nam
trên các đất bạc màu, đồi núi trọc (như điều) hay trên đất phèn, mặn (như
dứa), lạc vụ 3 xen canh, nên không bị các cây trồng khác cạnh tranh, mà
trên thực tế vẫn còn có khả năng mở rộng sản xuất.
- Thứ năm: Các nước Đông âu, SNG và Trung Quốc vốn là thị
trường truyền thống với quy mô lớn và tương đối dễ tính đối với các mặt
hàng nông sản của Việt Nam. Mặt khác, trên các nước này hiện có một
lượng doanh nhân và doanh nghiệp Việt Nam đang làm ăn phát đạt ở đó.
Đây là một lợi thế lớn để nối lại thị trường tiêu thụ mà bấy lâu nay nước ta
đã bỏ qua chưa khai thác có hiệu quả.
- Thứ sáu: Nhiều tư liệu sản xuất dùng trong quá trình sản xuất
nông, lâm nghiệp, thủy sản vẫn còn phải nhập khẩu, mà phần lớn lại nhập
với giá cao hơn giá thế giới, chi phí để sản xuất các loại tư liệu đó trong
nước rất cao. Do vậy mở cửa hội nhập kinh tế, tự do hóa thương mại sẽ làm
cho giá nhập khẩu mặt hàng này rẻ hơn, làm cho giá thành sản xuất và chế
biến các loại hàng nông, lâm, thủy sản của nước ta giảm xuống một lượng
đáng kể do đó sẽ tạo thêm ưu thế cạnh tranh.
- Thứ bảy: Thể chế chính trị ổn định, môi trường đầu tư và hệ thống
pháp luật của Việt Nam ngày càng được cải thiện và điều chỉnh thích ứng
dần với tiến trình tự do hóa thương mại trong khu vực và toàn cầu.
2.3.3 Bên cạnh đó còn có những bất lợi
46
1. Nhìn chung, tuy Việt Nam đã bước đầu hình thành các vùng sản xuất
hàng hóa tập trung nhưng khối lượng hàng hóa còn nhỏ bé, thị phần trên
thế giới thấp, chất lượng chưa đồng đều và ổn định.
Việt Nam chưa hình thành được các vùng chuyên canh sản xuất hàng
tươi sống và vùng nguyên liệu tập trung cho các nhà máy chế biến lớn theo
yêu cầu kỹ thuật và kinh tế. Gạo của Việt Nam chưa đảm bảo độ đồng nhất
về quy cách chất lượng ngay trong từng lô gạo, bao bì đóng gói kém hấp
dẫn và chưa có nhãn thương hiệu của doanh nghiệp mình trên vỏ bao bì.
Điều đó làm cho giá xuất khẩu của nông sản Việt Nam thấp hơn các nước
khác.
2. Phần lớn các loại giống cây con hiện đang được nông dân sử dụng
có năng suất và chất lượng thấp hơn so với các nước trên thế giới và các
đối thủ cạnh tranh trong khối ASEAN. Trên địa bàn cả nước chưa hình
thành được một hệ thống cung ứng giống cây con tốt cho người sản xuất, từ
giống tác giả, giống nguyên chủng cho đến giống thương phẩm. Hầu hết
người nông dân đã tự sản xuất giống cây con cho mình từ vụ thu hoạch
trước hoặc mua giống trên thị trường trôi nổi mà không có sự đảm bảo về
chất lượng, đặc biệt là giống các loại cây ăn quả, cây lương thực, cây rau…
Năng suất lúa của Việt Nam chỉ bằng 61% năng suất lúa của Trung Quốc
và thấp thua nhiều so với lúa của Nhật Bản, Italia, Mỹ. Năng suất cà chua
của ta chỉ bằng 65% năng suất cà chua thế giới, cao su Việt Nam mới đạt
năng suất 1,1 tấn/ha, so với năng suất thế giới là 1,5 - 1,8 tấn/ha - thấp hơn
tới 30-40%.
3. So với các đối thủ cạnh tranh, Việt Nam có công nghệ chế biến lạc
hậu, chưa đảm bảo chất lượng sản phẩm theo yêu cầu tiêu dùng của các thị
trường khó tính như Nhật Bản, EU, Bắc Mỹ. Mặt khác, kết cấu hạ tầng
phục vụ cho việc vận chuyển, bảo quản dự trữ, bốc xếp hàng hóa nông sản,
nhất là hàng tươi sống rất yếu kém nên giá thành sản phẩm và phí gián tiếp
47
khác tăng nhanh. Ví dụ: Do công suất bốc xếp ở cảng Sài Gòn là 1000
tấn/ngày chỉ bằng 1/2 công suất cảng Băng Cốc (Thái Lan), cho nên cảng
phí cho 1 tàu chở gạo 10000 tấn ở Việt Nam là 40000 USD, còn ở cảng
Băng Cốc là 20000 USD, như vậy là chi phí tại cảng trong khâu bốc xếp
của Việt Nam đã cao hơn gấp đôi so với cảng Băng Cốc.
4. Năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, chế biến và xuất khẩu
nông sản chưa đáp ứng được yêu cầu trong điều kiện tự do hóa thương mại,
đặc biệt là khâu marketing, dự tính dự báo thị trường. Mối liên kết kinh tế
giữa các khâu sản xuất - chế biến - xuất khẩu, giữa khâu cung ứng vật tư
đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra, giữa khâu kỹ thuật với khâu kinh tế...
chưa thiết lập được một cách vững chắc để đảm bảo sự ổn định về số lượng
và chất lượng cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh hàng nông sản xuất
khẩu theo yêu cầu của thị trường.
5. Tuy chủng loại hàng hóa xuất khẩu của ta đa dạng hơn nhưng
nhìn chung thì diện mặt hàng vẫn còn khá đơn điệu, chưa có sự thay đổi
đột biến về chủng loại, về chất lượng, xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa vào một
vài mặt hàng chủ lực, truyền thống như gạo, cà phê, cao su, hải sản… mà
phần lớn chúng đều tiềm ẩn nguy cơ tăng trưởng chậm dần do gặp phải
những hạn chế mang tính cơ cấu như diện tích có hạn, năng suất có hạn,
khả năng khai thác có hạn… và khả năng cạnh tranh ngày càng giảm dần.
6.Bộ máy quản lý hành chính Nhà nước vẫn còn quan liêu, trì trệ,
chưa thông thoáng và bảo thủ để làm nản lòng các nhà đầu tư kinh doanh
trong và ngoài nước và làm tăng giá thành sản xuất và giá thành sản phẩm
xuất nhập khẩu. Do vậy, lợi thế tiềm năng không thể phát huy hết được.
7.Trong quá trình tự do hoá thương mại, một số doanh nghiệp kinh
doanh hàng nông, lâm, thuỷ sản làm ăn thua lỗ, không có khả năng cạnh
tranh sẽ bị phá sản theo quy luật. Điều bất lợi này Việt Nam cũng phải chấp
nhận một cách tự nhiên, bình thường theo vận hành của quy luật kinh tế thị
48
trường. Một số mặt hàng nông sản tiêu thụ nội địa trong nhiều năm qua sẽ
bị cạnh tranh và giảm dần hoặc mất thị trường tiêu thụ ngay trên quê hương
mình. Điều đó cũng dễ hiểu và chúng ta phải tiếp nhận nó như một việc
bình thường, không phải chỉ đối với nước ta mà đối với tất cả các nước
khác. Nhưng trước mắt, điều bất lợi này sẽ gây ra những tác động tiêu cực
tạm thời cả trên lĩnh vực kinh tế - xã hội và chính trị.
Những bất lợi phân tích trên đây phần lớn do nguyên nhân chủ quan
gây ra nên có thể khắc phục được trong tương lai gần nếu chúng ta có quyết
tâm và có các giải pháp kịp thời, đúng đắn. Nếu khắc phục tốt thì những bất
lợi này có thể trở thành các lợi thế tiềm ẩn của hàng hoá nông sản xuất
khẩu của nước ta nói riêng và cho tất cả các loại nông sản phẩm khác nói
chung trong bối cảnh tự do hoá thương mại toàn cầu.
Chương 4: Giải pháp thúc đẩy, xuất khẩu hàng nông sảnViệt Nam vào
thị trường EU
Một trong những mục tiêu của chiếm lược của ngành nông nghiệp
Việt Nam là đạt kim ngạch xuất khẩu nông - lâm sản từ 6 đến 7 tỷ USD vào
năm 2010, trong đó, thị trường EU chiếm tỷ trọng khoảng 30%. Hiện nay
thị trường EU mới chiếm gần 20% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng nông
49
sản của Việt Nam. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có kế hoạch
nâng tỷ lệ này lên 30% với các mặt hàng chủ lực như cao su, cà phê, chè,
rau quả, hạt có dầu ... Tuy nhiên muôn đạt hiệu quả cao, ngoài việc tăng
kim ngạch xuất khẩu, trong thời gian tới, việc làm cấp bách là phải làm
cho hàng nông sản Việt Nam có khả năng cạnh tranh tại thị trường EU.
Muốn làm được việc đó, cần phải có những biện pháp phối hợp đồng bộ
giữa người sản xuất, chế biến, xuất khẩu cùng các Bộ ngành chức năng có
liên quan. Một số giải pháp cơ bản được đề xuất:
4.1 Về phía Nhà nước
4.1.1 Định hướng chiến lược phát triển nông sản xuất khẩu
Lâu nay, sản xuất nông nghiệp Việt Nam chủ yếu phát triển theo bề
rộng trên cơ sở khai thác các khả năng sẵn có mặt số lượng đựơc coi trọng
hơn mặt chất lượng. Đó chính là một trong những nguyên nhân quan trọng
làm cho nông sản Việt Nam chưa đáp ứng tốt nhu cầu của các thị trường
khác nhau, hiệu quả xuất khẩu thấp và người sản xuất gặp khó khăn trong
tiêu thụ hàng hoá. Việc hình thành một chiến lược phát triển có luận cứ
khoa học đựoc coi là điều kiện tiền đề để áp dụng các thành tựu tiến bộ
khoa học và công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh và hiêu quả xuất
khẩu nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Chiến lược phát triển nông nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường
phải xuất phát từ nhu cầu cụ thể của thị trường, bảo đảm khả năng đáp ứng
tốt nhu cầu thị trường về chủng loại, số lượng, chất lượng, thời gian và chi
phí. Điều này hoàn toàn trái với tư duy kiểu cũ trong xây dựng chiến lược:
dựa vào cơ sở khả năng để hoạch định phương hướng sản xuất. Trong quá
trình hoạch định chiến lược phát triển nông nghiệp, phải coi trọng công tác
dự báo nhu cầu trung hạn và dài hạn theo từng loại nông sản và theo từng
khu vực thị trường để vừa có cơ sở định hướng phát triển sản xuất, vừa có
50
chính sách thích ứng đảm bảo khả năng xâm nhập thị trường và củng cố vị
thế của hàng hoá trên từng thị trường cụ thể. Chiến lược phát triển nông
nghiệp phải hướng tới hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung
nhằm tạo điều kiện đầu tư ứng dụng các thành tự mới của khoa học và
công nghệ , nâng cao chất lượng và giá trị nông sản hàng hoá. Chiến lược
này phải được sử dụng như một trong những công cụ trọng yếu để Nhà
nước định hướng phát triển sinh học và xây dựng các cơ chế chính sách
thúc đẩy các nhà sản xuất đầu tư theo định hướng đó.
Bên cạnh đó cần hoàn thiện hành lang pháp lý tạo thuận lợi tối đa
cho xuất khẩu. Rà soát lại hệ thống, điều chỉnh các quy định không còn phù
hợp hoặc chưa rõ rang, trước hết là Luật thương mại, Luật khuyến khích
đầu tư trong nước và Luật đầu tư nước ngoài.
4.1.2. Đầu tư nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ
Nâng cao trình độ khoa học và công nghệ là tạo điều kiện cơ bản làm
tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Sự phát triển mạnh mẽ
của nông nghiệp trong những năm qua có phần đóng góp quan trọng của
khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học.
Để khoa học và công nghệ góp phần tích cực vào phát triển nền nông
nghiệp hàng hoá, trong những năm trước mắt cần chú trọng tập trung
nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ cao vào việc chuyển đổi cơ
cấu sản xuất nông nghiệp, khai thác các lợi thế của từng vùng sinh thái vừa
đảm bảo phát triển bền vững, vừa nâng cao năng suất, chất lượng, giảm giá
thành, nâng cao sức cạnh tranh của nông sản, tăng giá trị kinh tế trên một
đơn vị diện tích . Với từng vùng, từng loại cây trồng, vật nuôi, cần chú ý
đổi mới công nghệ đồng bộ ở các khâu trước, trong và sau sản xuất theo
hướng hiện đại. Đẩy mạnh việc phát triển công nghệ sinh học trong nông
nghiệp bằng việc sử dụng các giống cây trồng và vật nuôi mới có năng
51
suất, chất lượng cao đảm bảo những tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm nghiêm
ngặt nhất theo yêu cầu thị trường trong nước và quốc tế.
Cùng với đó, cần hết sức coi trọng nghiên cứu và ứng dụng khoa học
và công nghệ vào khâu sau thu hoạch nhằm giảm tổn thất, năng cao hiệu
quả sản xuất, đáp ứng tốt yêu cầu của người tiêu dùng. Ngoài việc hiện đại
hoá kỹ thuật phơi sấy cần chú trọng nghiên cứu các phương pháp bảo
quản, đảm bảo đưa đến người tiêu dùng những nông sản tươi sống hấp dẫn
cảm quan bằng sắc màu, hương vị và bảo đảm tuyệt đối vệ sinh an toàn
thực phẩm.
4.1.3. Phát triển công nghiệp chế biến nông sản
Phát triển công nghiệp chế biến là cách nâng cao giá trị gia tăng của
nông sản và thu hẹp tình trạng xuất khẩu sản phẩm thô, đồng thời tạo nên
thị trường nội địa to lớn và ổn định cho sản xuất nông nghiệp. Hiện nay,
công nghiệp chế biến nông sản của Việt Nam còn nhỏ bé, công nghệ lạc
hậu, tỷ trọng nông sản chế biến trong tổng sản lượng còn rất thấp. Để phát
triển mạnh công nghiệp chế biến, cần giải quyết nhiều vấn đề trong đó chủ
yếu là:
- Quy hoạch xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung, quy mô lớn
theo định hướng xuất khẩu. Từ đó tập trung đầu tư thâm canh, ứng dụng
các thành tựu khoa học và công nghệ mới để đáp ứng tốt yêu cầu chế biến
xuất khẩu.
- Tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông sản gần
với vùng nguyên liệu. Có những chính sách ưu đ•i kích thích sự tham gia
của tất cả các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp chế biến
xuất khẩu. Thực hiện song song hai hướng: Đầu tư đổi mới hiện đại hoá
thiết bị công nghệ của các doanh nghiệp chế biến nông sản hiện có; đầu tư
xây dựng các doanh nghiệp chế biến mới với trình độ công nghệ hiện đại.
52
- Thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các chủ thể sản xuất nguyên
liệu và chủ thể chế biến nguyên liệu nông sản. Vấn đề quan trọng là đề cao
trách nhiệm và sự hợp tác của các bên trong việc thực hiện điều đ• cam kết.
4.1.4. Các giải pháp thị trường và hỗ trợ xuất khẩu
- Trợ giúp nâng cao năng lực thị trường cho các chủ thể sản xuất
nông sản. Chỉ khi nào bản thân người sản xuất hàng hoá có đầy đủ thông
tin hiểu biết về thị trường và các quan hệ thị trường thì họ mới biết cách
điều chỉnh sản xuất của mình theo yêu cầu của thị trường. Đây chính là mặt
yếu của những người sản xuất hàng hoá ở nông thôn hiện nay. Do vậy, họ
dễ bị điều tiết một cách tự phát bởi các quan hệ thị trường, dễ bị thua thiệt
trong hành xử trên thị trường. Công tác khuyến nông, khuyến thương cần
đặc biệt quan tâm đến việc cung cấp những kiến thức cơ bản về thị trường
và nâng cao năng lực thị trường của các chủ thể sản xuất hàng hoá ở nông
thôn.
- Trợ giúp các chủ thể sản xuất nông sản xây dựng thương hiệu hàng
hoá, trước hết với những cây, con đặc sản ở từng vùng . Đây vừa là cách
thức thâm nhập và củng cố vị thế của hàng hoá trên thị trường quốc tế, vừa
là cách thức hữu hiệu bảo vệ quyền lợi của người sản xuất trong cạnh tranh
quốc tế.
- Tạo điều kiện công nghiệp các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham
gia trực tiếp vào việc tìm kiếm thị trường, khách hàng và tổ chức sự phối
hợp hành động giữa các chủ thể ấy trong việc xử lý các tình huống khác
nhau trên cùng một thị trường và cùng một loại hàng hoá.
- Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại nông sản thông qua việc
tham gia hội chợ triển l•m trong và ngoài nước, quảng bá hàng hoá và
doanh nghiệp sản xuất hàng hoá, tiến tới thành lập các trung tâm giao dịch
nông sản ở các vùng sản xuất hàng hoá tập trung ...
53
- Nhanh chóng xây dựng bộ quy trình VietGAP: muốn tham gia
WTO thành công, có thể đi vào thị trường thế giới thì VN phải chứng tỏ
khả năng cung cấp các sản phẩm đáp ứng yêu cầu về ATVSTP theo tiêu
chuẩn GAP (Good Agricultural Practice - nông nghiệp an toàn). Các nước
trong WTO đều đặt ra những yêu cầu riêng về ATVSTP như EU có
EuroGAP, Australia có Fresh care ... không chỉ đảm bảo sức khoẻ người
tiêu dùng còn là rào cản kỹ thuật mà các nước sử dụng để hạn chế mặt hàng
nhập khẩu nào đó. Vì vậy, bên cạnh việc “trông giỏ” để “bỏ thóc” nhằm
định vị lại cây trồng chủ lực và đáp ứng cho được những yêu cầu kỹ thuật
đặt ra của mỗi quốc gia nhập khẩu nông sản, Việt Nam cầm tham khảo bộ
AseanGAP (quy trình GAP chính thức của các nước thành việc Asean, vừa
công bố tháng 11/2006) và các yêu cầu của bộ EuroGAP để nhanh chóng
xây dựng bộ quy trình VietGAP. Từ đó có chương trình tập huấn tập trung
cho bà con và xem đây là hình thức “trợ cấp” của Nhà nước giúp nông dân
tham gia vào cuộc chơi WTO một cách hợp lệ, lúc đó mới nói đến khả
năng cạnh tranh xuất khẩu nông sản. Điều quan trọng không kém, bộ
VietGAP cũng phải được sử dụng như là một “rào cản” bảo vệ nông sản
trong nước, buộc hàng nông sản các nước nhập khẩu vào Việt Nam cũng
phải đáp ứng những quy định này.
4.1.5. Liên kết quốc tế trong sản xuất và xuất khẩu nông sản
So với một số nước Đông Nam á, Việt Nam có điều kiện tự nhiên và
cơ cấu sản xuất nông nghiệp khá tương đồng, song các nước này lại có lợi
thế hơn chúng ta ở trình độ khoa học công nghệ và kinh nghiệm hoạt động
thương mại quốc tế. Trong điều kiện đó, để đảm bảo hiệu quả của sản xuất
và nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản, cần coi trọng việc mở rộng
54
quan hệ liên kết quốc tế trong cả sản xuất và xuất khẩu. Quan hệ liên kết
này có thể bao gồm những nội dung chủ yếu sau :
- Phối hợp trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và công nghệ để tạo
ra những giống cây trồng, vật nuôi có kha năng cạnh tranh cao;
- Phối hợp xây dựng hệ thống kiểm dịch động thực vật xuất khẩu
theo tiêu chuẩn quốc tế;
- Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển nông nghiệp và
nông thôn.
- Phối hợp các chính sách thương mại của các nước trong khu vực
trong hiện thực hoạt động xuất khẩu nông sản;
- Hình thành các hiệp hội theo nganh hàng để phối hợp hành động
trên thị trường quốc tế.
4.1.6. Định vị lại cây trồng chủ lực
Việc tổ chức lại sản xuất là yêu cầu bức bách, không thể phát triển tự
phát, hết cây non này đến cây non khác với điệp khúc “trồng, chặt”. Đến
lúc phải tính toán lại lợi thế so sánh, lợi nhuận thực sự mang lại cho nông
dân để định vị lại cây trồng chủ lực và có các bước đi phù hợp, không thể
chạy theo số lượng m•i.
Trong sân chơi WTO, rau quả là mặt hàng giao dịch lớn nhất, với
gần 103 tỷ USD, nhưng xuất khẩu rau quả VN những năm qua rất ì ạch, bị
phụ thuộc quá nhiều vào thị trường Trung Quốc, chưa thể hiện đúng tiềm
năng; trong khi lúa gạo, cà phê, cao su giao dịch nhỏ hơn rất nhiều, không
quá 10 tỷ USD/ năm cho mỗi loại. Những mặt hàng nông sản khác như trà,
điều nhân, hồ tiêu lại nhỏ hơn, khoảng 3 tỷ USD/ năm.
Nhìn lại cơ cấu, cây lúa vẫn còn” độc canh” với khoảng 7 triệu ha
gieo trồng hàng năm(chiếm 74% diện tích đất nông nghiệp), trên 1 triệu ha
55
cao su, trà, cà phê và 1,4 triệu ha trồng cây ăn trái, rau quả và hoa (chiếm
15% diện tích). Dù là cây cung cấp lương thực cho mọi người, nhưng giá
trị lợi nhuận mang lại trên đơn vị diên tích lại kém nhất, nên nông dân
trồng lúa có thu nhâp thấp nhất.
Trong khi đó, mức đầu tư của nhà nước về con người, công tác
nghiên cứu, bảo dưỡng đất đai và kĩ năng lao động cho các loại cây khác
kém xa cây lúa. Về mặt kinh tế và hiệu quả sử dụng đất, việc định vị cây
trồng và quy hoạch sản xuất nông nghiệp như vậy chưa hợp lí.
4.2. Về phía doanh nghiệp và nhà sản xuất
4.2.1. Đầu tư xây dựng thương hiệu
Muốn hàng nông sản Việt Nam có khả năng cạnh tranh tại thị trường
EU, các doanh nghiệp cần tăng cường đầu tư cho việc xây dựng thương
hiệu nông sản, coi trọng đăng ký thương hiệu, thiết kế nh•n mác và mẫu
m•, bao bì cho sản phẩm, liên kết với người sản xuất nguyên liệu đăng ký
xuất xứ hàng hoá, đảm bảo các chứng chỉ cần thiết khi xuất khẩu vào thị
trường EU. Thương hiệu không chỉ là của doanh nghiệp mà còn là của cả
nhà nông. Cần liên kết với nông dân, trong đó nông dân có trách nhiệm
đảm bảo chất lượng và được chung chia lợi nhuận từ doanh nghiệp. Đối với
rau quả, đây là giải pháp có tính quyết định đến việc tiêu thụ và xuất khẩu
trái cây tươi. Đối với cà phê nhân, việc liên kết giữa cơ sở chế biến với
nông dân sẽ tăng thêm thu nhập cho cả hai, nhờ tăng sản lượng và chất
lượng cà phê, đồng thời còn đảm bảo sự phát triển hợp với tự nhiên và bền
vững hơn của cây cà phê. Sự liên kết các doanh nghiệp để điều tiết giá
mua, giá bán hợp lý, chia sẻ thông tin thị trường sẽ đảm bảo hiệu quả ổn
định cho cả nông dân và doanh nghiệp. Trong đó các nhà máy, các công ty
lớn có thể sử dụng thương hiệu của mình để tiêu thụ sản phẩm cho các đơn
vị nhỏ trên cơ sở kiểm soát công nghệ, chất lượng sản phẩm, đào tạo và
hướng dẫn họ sản xuất để tạo ra nguồn hàng hoá đồng nhất, ổn định.
4.2.2. Tìm hiểu luật pháp và các tiêu chuẩn quốc tế
56
Để xuất khẩu thành công vào thị trường EU, các doanh nghiệp phải
quan tâm đến một số luật thương mại quốc tế có liên quan như các hiệp
định WTO, các hiệp định khu vực và song phương trong đó có các hiệp
định ký với các nước ASEAN, các luật về thâm nhập thị trường do EU ban
hành, và của từng nước thành viên; các quy định về thị trường và sản phẩm
do đối tác yêu cầu. Ngoài ra, các quy định pháp lý và phi luật về thâm nhập
thị trường EU gồm các quy định về thuế quan, các luật của EU về thâm
nhập thị trường, các đòi hỏi phi luật của đối tác thương mại về thâm nhập
thị trường. Các quy định về thuế như thuế nhập khẩu: 4% trở xuống với
hang công nghiệp, trên dưới 10% đối với hàng nông sản (áp dụng với giá
nhập khẩu tối thiểu)... và các thuế khác như VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt
đánh trên các sản phẩm như rượu, bia, thuốc lá.... ở mỗi nước. Các quy
định về rào cản hạn ngạch và thuế theo hạn ngạch (trong đó hạn ngạch cho
hàng dệt may đ• b•i bỏ từ tháng 1/2005 và hạn ngạch cho nông sản cũng sẽ
phải b•i bỏ), EU có 87 loại thuế theo hạn ngạch. Quy định về giấy phép
nhập khẩu và các chất cấm nhập khẩu. Các quy định pháp lý về thâm nhập
thị trường của EU như: Quy định về sức khoẻ, an toàn đối với các sản
phẩm công nghiệp phi thực phẩm, đối với thực phẩm, nông nghiệp hữu
cơ... Quy định về môi trường đối với những giải pháp bắt buộc nhằm giảm
thiểu chất thải bao bì và tái chế bao bì, EU có chỉ thị về hạn chế các chất
nguy hiểm.
KẾT LUẬN
Xét về tổng thể, hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam đã đạt
được nhiều thành tích đáng khích lệ và có nhiều lợi thế cần được khai thác,
nhưng vẫn còn nhiều tồn tại và bất lợi. Những tồn tại và bất lợi này đều có
sự liên quan chặt chẽ với nhau, vừa là nguyên nhân vừa là hậu qua của
nhau, đòi hỏi phải được xử lý một cách dứt điểm, đồng bộ và toàn diện.
57
Nền nông nghiệp Việt Nam đang trên đà phát triển và hoà nhập vào
xu thế chung của nông nghiệp các nước trong khu vực và toàn cầu, tuy
nhêin tiến trình này về mức độ và hiệu quả không chỉ phụ thuộc vào bản
thân sự cố gắng của phía Việt Nam, mà còn phụ thuộc vào xu thế chung
của thị trường hàng hoá nông sản thế giới. Trong định hướng phát triển
nông nghiệp của mình vấn đề quan trọng được đặt ra là khả năng thực sự về
mức độ đáp ứng của sản xuất - xuất khẩu đối với nhu cầu thế giới đến đâu,
không chỉ về số lượng mà còn yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm, đẹp về
hình thức, phong phú và đa dạng về chủng loại và giá cả hợp lý nhằm tăng
sức hấp dẫn đối với người tiêu dùng. Do vậy, nâng cao khả năng sản xuất,
phát huy các lợi thế cạnh tranh của nông sản hàng hoá Việt Nam trên thị
trường là vấn đề cốt lõi trong chiến lược phát triển nông nghiệp hướng ra
xuất khẩu của Việt Nam, trước hết có thể tập trung vào các mặt hàng nông
sản chủ yếu có nhiều lợi thế nhất.
58
MỤC LỤC
Chương 1: Tổng quát chung về hoạt động xuất khẩu hàng hóa: ........... 1
1.1. Khái niệm về xuất khẩu hàng hóa: .................................................... 1
1.2 . Các loại hình xuất khẩu hàng hóa ................................................. 1
1.2.1 Xuất khẩu trực tiếp ................................................................. 1
1.2.2 Xuất khẩu gián tiếp ................................................................ 1
1.2.3 Buôn bán đối lưu .................................................................... 2
1.2.4 Tái xuất và chuyển khẩu ......................................................... 2
1.2.5 Xuất khẩu tại chỗ......................................................................... 2
1.2.6 Gia công xuất khẩu: ..................................................................... 3
1.3 Vai trò & Lợi ích của việc xuất khẩu hàng hóa: ............................. 3
Chương 2 : Sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt
Nam sang thị trường EU ........................................................................ 10
2.1 Tổng quan chung về thị trường nông sản EU ................................... 10
2.1.1 Khái quát về thị trường EU........................................................ 10
2.1.2 Một số đặc điểm chung về thị trường hàng hóa EU ................... 10
2.1.2.1 Về tập quán và thị hiếu tiêu dung ........................................ 10
2.1.2.2 Về kênh phân phối của liên minh châu âu ........................... 12
2.1.3 Chính sách ngoại thương của Liên Minh Châu Âu .................... 13
2.1.4 Chính sách thương mại đối với mặt hàng nông sản của EU ....... 14
2.1.5 Thị trường nông sản EU ............................................................ 16
2.1.5 Những thách thức đối với Việt Nam trong xuất khẩu hàng nông
sản sang EU ....................................................................................... 19
2.2 Những tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hàng nông sản nhập khẩu vào thị
trường EU ............................................................................................. 21
2.2.1 Sức khỏe và an toàn ................................................................... 24
2.2.2 Nhãn CE (European Conformity) .............................................. 26
2.2.3 Môi trường Trách nhiệm xã hội ................................................. 28
59
2.2.4 Quản lý chất lượng .................................................................... 33
Chương 3: Thực trạng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị trường
EU............................................................................................................ 37
3.1 Kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU ......................... 37
3.2. Cơ cấu thị trường và hàng nông sản Việt Nam vào EU................... 37
3.2.1. Mặt hàng rau quả ...................................................................... 38
3.2.2. Mặt hàng cà phê ....................................................................... 40
3.2.3. Mặt hàng chè ............................................................................ 41
3.2.4. Mặt hàng hồ tiêu ....................................................................... 42
3.3 Đánh giá hoạt động xuất khẩunông sản Việt Nam sang thị trường EU
.............................................................................................................. 43
3.3.1 Những lợi thế ............................................................................ 44
2.3.3 Bên cạnh đó còn có những bất lợi .............................................. 46
Chương 4: Giải pháp thúc đẩy, xuất khẩu hàng nông sảnViệt Nam vào
thị trường EU ......................................................................................... 49
4.1 Về phía Nhà nước ............................................................................ 50
4.1.1 Định hướng chiến lược phát triển nông sản xuất khẩu ............... 50
4.1.2. Đầu tư nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ ................ 51
4.1.3. Phát triển công nghiệp chế biến nông sản ................................. 52
4.1.4. Các giải pháp thị trường và hỗ trợ xuất khẩu ............................ 53
4.1.5. Liên kết quốc tế trong sản xuất và xuất khẩu nông sản ............. 54
4.1.6. Định vị lại cây trồng chủ lực .................................................... 55
4.2. Về phía doanh nghiệp và nhà sản xuất ............................................ 56
4.2.1. Đầu tư xây dựng thương hiệu ................................................... 56
4.2.2. Tìm hiểu luật pháp và các tiêu chuẩn quốc tế ........................... 56
KẾT LUẬN .............................................................................................. 57
60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình chính sách kinh tế đối ngoại.