Thực trạng sản xuất của trang trại chăn nuôi tỉnh Vĩnh Phúc năm 2012
lượt xem 3
download
Thực tế những năm qua, các trang trại chăn nuôi có tốc độ phát triển nhanh nhất và đạt hiệu quả kinh tế cao. Mô hình này thể hiện những ưu thế vượt trội về sử dụng vốn, thiết bị, lao động, tăng hiệu quả sản xuất trong nông nghiệp và góp phần giải quyết vấn đề môi trường trong chăn nuôi.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Thực trạng sản xuất của trang trại chăn nuôi tỉnh Vĩnh Phúc năm 2012
- JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Social Sci., 2014, Vol. 59, No. 3, pp. 155-162 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn THỰC TRẠNG SẢN XUẤT CỦA TRANG TRẠI CHĂN NUÔI TỈNH VĨNH PHÚC NĂM 2012 Nguyễn Tú Linh Khoa Địa lí, Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Vĩnh Phúc là tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng có tốc độ phát triển kinh tế khá cao. Trong nông nghiệp, tỉnh xác định hướng đi là sản xuất hàng hóa, phát triển bền vững theo xu hướng hội nhập kinh tế và mở rộng sản xuất theo hình thức trang trại. Thực tế những năm qua, các trang trại chăn nuôi có tốc độ phát triển nhanh nhất và đạt hiệu quả kinh tế cao. Mô hình này thể hiện những ưu thế vượt trội về sử dụng vốn, thiết bị, lao động, tăng hiệu quả sản xuất trong nông nghiệp và góp phần giải quyết vấn đề môi trường trong chăn nuôi. Từ khóa: Vĩnh Phúc, trang trại chăn nuôi, hiệu quả sản xuất. 1. Mở đầu Trang trại của nước ta được hình thành trên nền tảng kinh tế hộ tự chủ trong cơ chế thị trường, mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hóa, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu (hoặc quyền sử dụng) của một người chủ, quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung đủ lớn và cách thức tổ chức, quản lí tiến bộ, trình độ kĩ thuật cao [3]. Những năm qua, các trang trại ở Vĩnh Phúc đã khai thác có hiệu quả tiềm năng đất đai, lao động, nguồn vốn, thể hiện ưu thế vượt trội về kinh tế, xã hội, môi trường so với kinh tế hộ. Do diện tích đất đai hạn chế, nhu cầu thị trường lớn và khả năng quay vòng vốn nhanh nên loại hình trang trại chăn nuôi phát triển rất mạnh. Năm 2008, trang trại chăn nuôi chiếm 18% tổng số trang trại và đến năm 2012 chiếm hơn 41% [4]. Những năm qua, tình hình sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, nhiều trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp, trồng trọt bị phá sản thì trang trại chăn nuôi vẫn phát triển và có tốc độ tăng nhanh nhất trong các loại hình. Thế mạnh của trang trại chủ yếu do sử dụng các giống vật nuôi nhập ngoại, các vật nuôi đặc sản và quy trình chăn nuôi công nghiệp. Tuy nhiên, các trang trại vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn trong giải quyết các vấn đề về vốn, tiêu thụ và chế biến sản phẩm, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường. Ngày nhận bài 11/1/2014. Ngày nhận đăng 25/05/2014. Liên lạc Nguyễn Tú Linh, e-mail: nguyenlinh.geo@gmail.com 155
- Nguyễn Tú Linh Theo thông tư 27/2011/Trang trại - BNNPTNT, ngày 13/4/2011 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn quy định về tiêu chí và thủ tục cấp giấy chứng nhận trang trại, Chi cục Phát triển nông thôn Vĩnh Phúc đã điều tra về hiện trạng sản xuất, kinh doanh của các trang trại trên địa bàn tỉnh. Kết quả cho thấy, Vĩnh Phúc hiện có 446 trang trại, trong đó, trang trại chăn nuôi là 185, chiếm 41,5%. Thành phố Vĩnh Yên không có trang trại chăn nuôi nào đạt tiêu chí của thông tư 27. Chúng tôi phân tích dựa trên kết quả điều tra này. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Những thuận lợi trong việc phát triển trang trại chăn nuôi của Vĩnh Phúc - Chính sách: Tỉnh Vĩnh Phúc đã có nhiều chính sách hỗ trợ chăn nuôi phát triển. Nghị quyết 10 của Tỉnh ủy Vĩnh Phúc, Đề án 2103 của UBND tỉnh về chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp đã xác định chăn nuôi là khâu đột phá, được quan tâm đầu tư bằng các dự án cụ thể nhằm hướng đến sản xuất hàng hóa, tạo được sự phát triển nhanh và bền vững. Đề án 3116 của UBND tỉnh và Nghị quyết 88-2013 của HĐND tỉnh đã đề ra các mục tiêu, phương hướng cụ thể cho việc phát triển chăn nuôi trong giai đoạn 2013-2020. Theo đó, các điều kiện phát triển chăn nuôi nói chung và các trang trại chăn nuôi khá thuận lợi. - Thức ăn chăn nuôi: Thức ăn cho vật nuôi đa dạng nhưng chủ yếu là thức ăn công nghiệp. Vĩnh Phúc hiện có 3 cơ sở chế biến thức ăn gia súc, gia cầm: Công ti Japfa Comfeed, Công ti sản xuất thức ăn Voi vàng và Công ti thức ăn Newhope. Các đại lí kinh doanh thức ăn chăn nuôi phân bố rộng khắp. Theo đề án phát triển chăn nuôi giai đoạn 2013-2020, các trang trại chăn nuôi được hỗ trợ về máy móc thiết bị, vốn để tự chế biến thức ăn hỗn hợp cho gia súc, gia cầm nhằm sử dụng các sản phẩm của trồng trọt tại địa phương như ngô, đậu tương,. . . và hạ giá thành chăn nuôi. Các trang trại đang đề nghị được hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất thức ăn sạch, tham gia vào chuỗi sản xuất nuôi lợn thịt, gà thịt để tạo sản phẩm thịt sạch mang thương hiệu thịt lợn sạch, thịt gà sạch Vĩnh Phúc. - Giống vật nuôi: Giống vật nuôi được sản xuất, cung ứng và quản lí chặt chẽ. Trên địa bàn tỉnh hiện có nhiều cơ sở sản xuất giống vật nuôi. Công ti Japfa Comfeed và công ti cổ phần gà Tam Đảo chuyên cung cấp giống gia cầm có cơ sở vật chất kĩ thuật khá hiện đại. Về giống lợn, công ti chăn nuôi lợn giống ngoại Tam Đảo và Trung tâm giống vật nuôi đã tích cực thực hiện chương trình nạc hóa đàn lợn, góp phần đẩy nhanh tốc độ cải tạo chất lượng đàn lợn thịt, đảm bảo an toàn dịch bệnh. Ngoài ra ngành chăn nuôi còn có 48 hộ, trang trại sản xuất giống gia cầm, 49 trang trại sản xuất giống lợn cung cấp con giống đến tận nơi nuôi [4]. - Cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng của các trang trại được đầu tư khá lớn nhưng chưa đồng bộ. Một số trang trại nuôi lợn áp dụng kĩ thuật nuôi chuồng kín có hệ thống làm mát tự động để chống nóng, có chuồng trại theo quy trình công nghiệp khép kín (nuôi lợn bố mẹ - lợn con - lợn thịt). Tuy nhiên, đa số các trang trại do các hộ 156
- Thực trạng phát triển trang trại chăn nuôi tỉnh Vĩnh Phúc năm 2012 tự đầu tư, xây dựng chắp vá, cơi nới theo từng năm. Phần lớn trang trại không có thiết kế kiểu chuồng, thiết bị đồng bộ cho từng đối tượng vật nuôi. - Hoạt động thú y: Hoạt động thú y và công tác phòng chống dịch bệnh cũng được quan tâm, đầu tư. Hệ thống tổ chức quản lí chăn nuôi, thú y ở cấp tỉnh và cấp huyện khá đầy đủ, các xã, phường, thị trấn đều có người làm công tác thú y. Hàng năm, tỉnh tổ chức tiêm phòng và phun thuốc tiêu độc, khử trùng môi trường chăn nuôi 2 đợt chính vào tháng 4 và tháng 10. Các trang trại thường chủ động tiêm phòng và phun thuốc định kì theo kế hoạch nên dịch bệnh ít xảy ra. Tuy nhiên hiện nay, tỉnh mới chỉ có 1 cơ sở an toàn dịch bệnh của công ti Japfa Comfeed. Nhìn chung, công tác giám sát, quản lí dịch bệnh gia súc, gia cầm của tỉnh khá chủ động, giúp ổn định sản xuất và giảm thiểu thiệt hại, đưa chăn nuôi phát triển bền vững. - Thị trường tiêu thụ: Thị trường tiêu thụ hiện nay chủ yếu là trong tỉnh và một số tỉnh lân cận. Các sản phẩm xuất bán chủ yếu là thịt lợn, thịt gia cầm, thịt bò và trứng. Việc buôn bán chủ yếu thông qua các hộ tư thương chuyên kinh doanh. Toàn tỉnh hiện có 228 hộ kinh doanh lớn, có phương tiện vận chuyển bằng ô tô. Việc tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi của trang trại gặp nhiều khó khăn do quá phụ thuộc vào tư thương. Vĩnh Phúc hiện có 1100 hộ hành nghề giết mổ gia súc, gia cầm, phần lớn giết mổ tại nhà và tiêu thụ thịt tại 57 chợ và các tụ điểm trong toàn tỉnh [4]. Trên địa bàn tỉnh chưa có cơ sở chế biến sản phẩm chăn nuôi quy mô lớn, mới chỉ có một số cơ sở làm giò, chả, nem chua... Việc chế biến và tiêu thụ được các chủ trang trại đánh giá là khó khăn lớn nhất trong việc mở rộng và phát triển sản xuất. Sự tăng trưởng của toàn ngành chăn nuôi, sự quan tâm đầu tư của các ban ngành là điều kiện rất thuận lợi cho các trang trại phát triển. Khó khăn lớn nhất hiện nay của các trang trại là thiếu vốn để mở rộng sản xuất. Cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, việc chế biến và tiêu thụ vẫn tự phát nên hiệu quả sản xuất của trang trại chưa cao. 2.2. Thực trạng sản xuất, kinh doanh của trang trại chăn nuôi 2.2.1. Số lượng gia súc, gia cầm và cơ cấu vật nuôi Bảng1. Số lượng gia súc, gia cầm, năm 2012 [1] Đơn vị: Con Lợn Gà, vịt Trâu, Bò Khác Toàn tỉnh 25836 1374302 30 19150 TX. Phúc Yên 1024 6900 0 0 Tam Dương 16348 985500 10 140 Sông Lô 2405 33090 17 500 Tam Đảo 1202 287890 0 700 Lập Thạch 4130 33272 3 110 Yên Lạc 170 1500 0 0 Bình Xuyên 124 9500 0 0 Vĩnh Tường 433 16650 0 17700 157
- Nguyễn Tú Linh Tam Dương là địa phương có đàn lợn, gia cầm lớn nhất. Trong đó, đàn lợn của huyện chiếm 63,3% và đàn gia cầm chiếm 71,7% đàn lợn, gia cầm của tỉnh. Các trang trại chăn nuôi của huyện Lập Thạch có 4130 con lợn, chiếm 16% và trang trại của huyện Tam Đảo có 287890 con gia cầm, chiếm 20,9% số con của cả tỉnh. Trâu, bò được nuôi chủ yếu trong các trang trại của huyện Sông Lô. Huyện Vĩnh Tường có số vật nuôi khác chiếm tỉ lệ rất cao, 92,4% tổng số vật nuôi khác của tỉnh. Cơ cấu vật nuôi của các trang trại chăn nuôi khá đa dạng nhưng quan trọng nhất là lợn và gia cầm. Số lợn được nuôi trong trang trại chăn nuôi là 25.836 con, chiếm 5,4% tổng đàn lợn của tỉnh và 50% của các loại hình trang trại khác. Tam Dương là huyện có số trang trại chăn nuôi lớn nhất, 13 trang trại với đàn lợn lên đến 16.348 con. Trang trại chăn nuôi lợn có quy mô đàn lớn nhất là của ông Bùi Quốc Việt, thôn Hợp Ninh, xã Thanh Vân với 10.000 con, cả lợn nái và lợn thịt. Đàn gà, vịt của trang trại chăn nuôi là hơn 1,3 triệu con, chiếm 67% tổng đàn gia cầm trong các trang trại. Tam Dương cũng là nơi có số trang trại gia cầm lớn nhất tỉnh, 985.500 con. Trang trại của ông Phan Chí Dũng, thôn Đồng Bông, xã Kim Long có tới 52.000 con gia cầm, lớn nhất tỉnh [1]. Các trang trại chăn nuôi bò, chủ yếu là bò sữa chưa đạt các tiêu chí theo thông tư 27 nên chưa được thống kê. Vật nuôi đặc sản được nuôi trong các trang trại ở Vĩnh Phúc khá đa dạng: chó, thỏ, rắn, ong, nhím, bồ câu, chim cút,. . . Lớn nhất là các trang trại rắn ở thôn 3, thôn 4, xã Vĩnh Sơn, huyện Vĩnh Tường. Các trang trại chăn nuôi có sự chuyên môn hóa khá cao, hầu hết chỉ nuôi lợn, hoặc gia cầm chứ không nuôi kết hợp. Rất nhiều trang trại quy mô nhỏ cũng chỉ chuyên môn hóa một loại vật nuôi. Tỉnh Vĩnh Phúc chỉ có các trang trại ở xã miền núi Ngọc Mỹ của huyện Lập Thạch, xã Hải Lựu của Sông Lô chăn nuôi kết hợp cả lợn và gia cầm. Các trang trại chăn nuôi ở Hải Lựu có quy mô khá lớn, số đầu con lợn và gia cầm tương đương nhau. Các trang trại ở Ngọc Mỹ chủ yếu chăn nuôi lợn, có thêm gà thả vườn phục vụ nhu cầu thị trường. Điều này chứng tỏ tỉ suất hàng hóa của các trang trại rất cao. 2.2.2. Lao động trong các trang trại chăn nuôi Bảng 2. Lao động của trang trại chăn nuôi, 2012, [1] Đơn vị: Người Lao động thuê Lao động Tổng số Lao động thường xuyên thời vụ lao động của hộ Toàn tỉnh 731 400 191 140 TX. Phúc Yên 16 9 7 0 Tam Dương 242 125 117 0 Sông Lô 118 90 4 24 Tam Đảo 142 80 56 6 Lập Thạch 54 52 2 0 Yên Lạc 6 6 0 0 Bình Xuyên 25 10 0 15 Vĩnh Tường 128 28 5 95 158
- Thực trạng phát triển trang trại chăn nuôi tỉnh Vĩnh Phúc năm 2012 Trang trại chăn nuôi hiện tạo ra việc làm cho 731 lao động, trong đó lao động của hộ là 400, thuê mướn thường xuyên là 191 và thuê theo thời vụ là 140. Trung bình lao động của 1 trang trại là 4 người, cao hơn trang trại trồng trọt, nhưng thấp hơn nhiều so với trang trại tổng hợp và thủy sản (12 và 11 lao động/trang trại). Trang trại chăn nuôi sử dụng ít lao động, chỉ chiếm 18,4% trong tổng số lao động đang làm việc ở trang trại. Tỉ lệ lao động của hộ khá cao, 54,7%, lao động thuê thường xuyên là 19,1%. Dù vậy, trang trại chăn nuôi sử dụng lao động thuê thường xuyên cao hơn các loại hình trang trại khác. Điều này do đặc thù của công việc chăn nuôi phải luôn chăm sóc, cho ăn, vệ sinh, theo dõi sức khỏe vật nuôi. Các trang trại chăn nuôi lợn sử dụng nhiều lao động hơn cả và chủ yếu là lao động thuê thường xuyên. Trang trại của ông Bùi Quốc Việt, huyện Tam Dương sử dụng nhiều nhất, 24 lao động và đều là thuê thường xuyên. Các trang trại chăn nuôi gà chủ yếu sử dụng lao động trong gia đình nên số lao động không tỉ lệ thuận với quy mô trang trại. Trình độ của lao động khá chênh lệch. Một số ít được thuê là lao động có trình độ, có chuyên môn về thú y. Tuy nhiên đại đa số là lao động phổ thông, không qua đào tạo. Theo kết quả điều tra, 180 chủ trang trại là nông dân, không có nghề phụ khác, có 180 chủ trang trại tham gia trực tiếp vào hoạt động sản xuất, việc tiếp xúc và tra cứu thông tin thị trường qua đài, báo, ti vi là chủ yếu. Do chủ yếu sử dụng lao động trong gia đình, lao động chưa qua đào tạo nên các trang trại khó phát triển theo chiều sâu. Các chủ trang trại mới chủ yếu tập trung mở rộng diện tích, áp dụng kĩ thuật truyền thống mà chưa quan tâm nhiều tới việc áp dụng các tiến bộ kĩ thuật, công nghệ mới, đưa cơ giới hóa vào quá trình sản xuất chăn nuôi, công tác bảo quản, chế biến v.v. . . nên năng suất, chất lượng sản phẩm làm ra chưa cao. 2.2.3. Vốn đầu tư của trang trại chăn nuôi Vốn là một trong những khó khăn lớn nhất hiện nay của các trang trại. Đa số trang trại chăn nuôi đi lên từ kinh tế hộ nên nguồn vốn của trang trại ban đầu là vốn tự có của hộ nông dân. Sau khi mở rộng sản xuất, các chủ trang trại sử dụng vốn vay của ngân hàng. Tuy nhiên, việc tiếp cận nguồn vốn vay không dễ dàng vì không có thế chấp. Khi đấu thầu đất sản xuất, các trang trại đều phải thế chấp bằng sổ đỏ, vì vậy, rất khó khăn khi vay vốn ngân hàng. Tỉnh Vĩnh Phúc và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh đã có nhiều giải pháp hỗ trợ người chăn nuôi (sử dụng tài sản hình thành từ tiền vay để đảm bảo nguồn vốn vay) nhưng chưa thực sự hiệu quả, nguồn vốn ưu đãi chưa đến tay các chủ trang trại. Để có vốn sản xuất, các chủ trang trại phải chủ động tìm ra các giải pháp: liên kết với các công ti cung cấp thức ăn chăn nuôi, vay nợ cám, tự tìm nhà đầu tư,. . . Tổng số vốn trang trại chăn nuôi đã đầu tư là hơn 206 tỉ đồng, trong đó vốn cố định là 137 tỉ đồng và vốn lưu động là 69 tỉ đồng. Năm 2012, do nạn nhập lậu gia cầm và các sản phẩm từ gia cầm khiến giá trong nước giảm mạnh, nhiều trang trại chăn nuôi gia cầm thua lỗ lớn. Đây là một khó khăn ảnh hưởng rất lớn đến người sản xuất, khiến họ không còn nguồn vốn lưu động và không dám đầu tư lớn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn đầu tư của trang trại chăn nuôi rất lớn, bình quân 1,1 tỉ đồng/trang trại, đứng thứ hai trong các loại hình trang trại (sau trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp). Nguyên 159
- Nguyễn Tú Linh nhân do những chi phí về xây dựng chuồng trại, mua con giống, dịch vụ thú y khá tốn kém. Đặc biệt chi phí thức ăn chiếm tỉ lệ cao nhất trong vốn đầu tư của trang trại và đòi hỏi phải đầu tư thường xuyên. Đối với những trang trại chăn nuôi cơ bản, trong thời gian kiến thiết và sản xuất phải đầu tư khá lớn cho việc chăm sóc, vệ sinh, thức ăn. 2.2.4. Cơ sở vật chất kĩ thuật của trang trại chăn nuôi Phương tiện, thiết bị kĩ thuật chưa được đầu tư thích đáng. Đây cũng là tình hình chung của các trang trại ở Vĩnh Phúc. Các trang trại chăn nuôi hiện mới có 531 máy, thiết bị, trung bình một trang trại đầu tư 2,9 máy. Mặc dù số máy chưa cao nhưng vẫn chiếm 40% số thiết bị của trang trại nói chung. Các trang trại mới chủ yếu đầu tư vào hệ thống chuồng trại, thiết bị làm mát, máng ăn, máng uống, hầm xử lí chất thải,. . . Một số trang trại chăn nuôi gà ở xã Tam Quan, huyện Tam Đảo đầu tư trên 25 máy, chủ yếu là máy ấp trứng, máy sưởi, máy băm rau. Các trang trại chăn nuôi bò sữa chưa đầu tư máy móc gì đáng kể gây khó khăn cho việc sản xuất và tiêu thụ. Như vậy, thiếu vốn đầu tư và máy móc, thiết bị là khó khăn cơ bản của các chủ trang trại. Tỉnh Vĩnh Phúc đang triển khai nhiều chương trình để giải quyết các khó khăn này: Nghị quyết 52 của HĐND về cơ chế đầu tư hỗ trợ phát triển chăn nuôi 2012-2015, Nghị quyết 88/2013 quyết định từng loại đối tượng chăn nuôi sẽ được hỗ trợ ở các mức độ khác nhau: về lãi suất, đầu tư bể chất thải, máy trộn thức ăn. . . và tiền hỗ trợ sẽ được chi từ ngân sách của địa phương. 2.2.5. Kết quả sản xuất và lợi nhuận của trang trại Tổng giá trị sản lượng hàng hóa các trang trại chăn nuôi thu được năm 2012 là 283 tỉ đồng, trong đó: thu từ trồng trọt 4 tỉ, chăn nuôi 277 tỉ, thủy sản 1,38 tỉ và lâm nghiệp 150 triệu đồng. Trung bình giá trị sản xuất của 1 trang trại là 1,5 tỉ đồng, mặc dù cao hơn các loại hình trang trại khác nhưng vẫn thấp hơn khá nhiều so với năm 2011 là 2,1 tỉ đồng. Nguyên nhân do tình hình chăn nuôi năm 2012 rất khó khăn, sản phẩm chăn nuôi mất giá và khó tiêu thụ [1, 4]. Bảng 3. Giá trị sản xuất và lợi nhuận của trang trại, 2012, [1] Đơn vị: Triệu đồng Lợi Tỉnh, huyện Giá trị sản xuất nhuận Tổng số Trồng trọt Chăn nuôi Thủy sản Lâm nghiệp Toàn tỉnh 283452 4015 277907 1380 150 35298 TX. Phúc Yên 14475 25 14450 0 0 4570 Tam Dương 116810 50 116760 0 0 8364 Sông Lô 33053 2000 30973 80 0 4279 Tam Đảo 79546 1015 78531 0 0 11163 Lập Thạch 25397 564 24683 0 150 6112 Yên Lạc 970 0 970 0 0 360 Bình Xuyên 2500 0 2500 0 0 450 Vĩnh Tường 10701 361 9040 1300 0 0 160
- Thực trạng phát triển trang trại chăn nuôi tỉnh Vĩnh Phúc năm 2012 Các trang trại chăn nuôi lợn có giá trị sản xuất kinh doanh và lợi nhuận cao hơn trang trại gia cầm. Theo kết quả điều tra, trang trại nuôi lợn của ông Nguyễn Văn Tuấn ở TX. Phúc Yên có giá trị sản xuất cao nhất: 12 tỉ đồng và lợi nhuận 4 tỉ đồng. Tính chuyên môn hóa của các trang trại chăn nuôi khá cao; hầu hết các trang trại tập trung vào ngành chính, không sản xuất kinh doanh tổng hợp. Tuy nhiên, một số trang trại ở Vĩnh Tường, Tam Đảo, Sông Lô để tận dụng đất đai, diện tích mặt nước của địa phương cũng như lao động và các điều kiện sản xuất khác đã mở rộng sản xuất sang trồng trọt và thủy sản. Giá trị sản xuất của hai nhóm ngành phụ này trung bình khoảng 100 triệu đồng/1 trang trại. Tổng lợi nhuận thu được năm 2012 của trang trại chăn nuôi là 35 tỉ đồng, trung bình 190 triệu đồng/trang trại. Tuy nhiên, mức thu không đồng đều giữa các trang trại. Trang trại chăn nuôi lợn quy mô lớn có lợi nhuận cao nhất, nhiều trang trại thu hơn 300 triệu đồng/năm. Các trang trại chăn nuôi gia cầm ở huyện Tam Đảo đạt doanh thu khá cao, hơn 100 triệu đồng/trang trại. Đa số các trang trại gia cầm khác, cả quy mô lớn và nhỏ, chỉ đạt vài chục triệu 1 năm, thậm chí nhiều trang trại thua lỗ hàng trăm triệu đồng. Nguyên nhân do giá đầu vào cao, sản phẩm nhập lậu nhiều làm cho giá bán sản phẩm thấp. 2.2.6. Các địa phương phát triển trang trại chăn nuôi Xét theo ba tiêu chí: số trang trại, quy mô trang trại và hiệu quả sản xuất, tỉnh Vĩnh Phúc hiện có 2 huyện tập trung phát triển trang trại chăn nuôi là: Tam Dương và Tam Đảo. Tam Dương hiện có 66 trang trại chăn nuôi, chiếm 35,7% số trang trại của cả tỉnh. Thế mạnh của huyện là chăn nuôi gia cầm (54 trang trại). Đàn gà của huyện chiếm 71% của tỉnh. Đại đa số các trang trại có quy mô nuôi trên 15.000 con và chỉ chuyên môn hóa nuôi gà. Về sử dụng lao động, Tam Dương có số lao động làm việc trong trang trại nhiều nhất, 242 người. Khác với các huyện khác, số lao động thuê mướn thường xuyên trong các trang trại của Tam Dương rất cao, 117 người, chiếm 48,3% và không có lao động thuê theo thời vụ. Số máy, thiết bị sử dụng trong các trang trại của huyện chiếm 55,4% của toàn tỉnh [1]. Việc sử dụng lao động và máy móc chứng tỏ các trang trại chăn nuôi ở đây có sự đầu tư lớn, tỉ suất hàng hóa cao. Năm 2011, vốn đầu tư của trang trại chăn nuôi ở Tam Dương là 81,8 tỉ đồng, trung bình 1,2 tỉ đồng/trang trại. Đây là mức đầu tư lớn nhất của 1 trang trại chăn nuôi trong toàn tỉnh. Những trang trại đang trong thời kì đầu xây dựng chỉ có vốn đầu tư khoảng 400 triệu, một số trang trại mở rộng quy mô có mức vốn đầu tư trên 3 tỉ đồng. Vốn đầu tư lớn nhất đạt hơn 10 tỉ đồng của trang trại bà Cao Thị Xuân Phương, đầu tư vào các vật nuôi đặc sản. Về hiệu quả sản xuất kinh doanh, giá trị sản xuất tỉ lệ thuận với vốn đầu tư. Một số trang trại có vốn đầu tư thấp nhưng có giá trị sản xuất cao và ngược lại. Nguyên nhân chủ yếu do quá trình sản xuất của trang trại; những trang trại sản xuất lâu năm thường có thu nhập ổn định và khá cao. Do chủ yếu là trang trại nuôi gia cầm, thời gian sinh trưởng ngắn nên các trang trại mới thành lập cũng có thu nhập tốt. Năm 2011, do khâu tiêu thụ khó khăn, giá gà và trứng thấp nên lợi nhuận của trang trại không cao, chỉ đạt 8,4 tỉ đồng, trung bình 126,7 triệu đồng/trang trại. Các con số này khá thấp so với các trang trại chăn nuôi khác trong tỉnh. 161
- Nguyễn Tú Linh Tam Đảo có 40 trang trại chăn nuôi, đứng thứ hai của tỉnh. Các trang trại chủ yếu nuôi gia cầm nhưng quy mô vừa và nhỏ, trung bình dưới 10.000 con. Các trang trại có số vốn đầu tư trung bình nhưng giá trị sản xuất kinh doanh và lợi nhuận cao nhất cả tỉnh. Năm 2011, vốn đầu tư trung bình 1 trang trại là 1,1 tỉ đồng, giá trị sản xuất kinh doanh gần 2 tỉ đồng và lợi nhuận là 279 triệu đồng [4]. 3. Kết luận Trang trại ở Vĩnh Phúc phát triển khá nhanh, đặc biệt là trang trại chăn nuôi. Trong những năm qua, số trang trại tăng liên tục, quy mô mở rộng và tập trung chuyên môn hóa nuôi gà hoặc lợn. Nhiều trang trại đã qua thời kì xây dựng cơ bản và cho lợi nhuận cao đang phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Các chủ trang trại đã đầu tư vốn lớn và thuê lao động thường xuyên nhằm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, các trang trại đều gặp khó khăn là thiếu vốn đầu tư để mở rộng sản xuất. Những tác động của thị trường như giá thức ăn không ổn định, nạn nhập lậu gia cầm, trứng, chưa dự báo được giá ở thời điểm bán ra,. . . gây thiệt hại không nhỏ đối với chủ trang trại. Do đó, mặc dù giá trị sản xuất của trang trại chăn nuôi cao nhưng lợi nhuận vẫn còn thấp. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Chi cục Phát triển Nông thôn Vĩnh Phúc. Kết quả điều tra trang trại theo thông tư 27-BNNPTNT, 2011, 2012. [2] Kết quả tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản - 2011. [3] Lê Trọng, 2000. Phát triển và quản lí trang trại trong kinh tế thị trường. Nxb Nông nghiệp. [4] Niên giám thống kê tỉnh Vĩnh Phúc các năm 2008, 2011, 2012. [5] Nguyễn Minh Tuệ, Lê Thông (chủ biên), 2013. Địa lí nông, lâm, thủy sản Việt Nam. Nxb Đại học Sư Phạm. [6] Nguyễn Sinh Cúc, 2003. Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kì đổi mới. Nxb Thống kê. ABSTRACT The developing of livestock farms in Vinh Phuc Province Located in the Red River Delta, Vinh Phuc Province is experiencing a high growth rate. Vinh Phuc focuses on commodity production and farm economy development. In the last few years, a farming model has been used in Vinh Phuc that has brought great economic results. This farming model makes use of capital, equipment and labor to improve production efficiency and deal with environment issues in agriculture. 162
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
GIÁO TRÌNH KINH TẾ HỘ VÀ TRANG TRẠI - Chuơng 5. QUẢN LÝ CÁC YẾU TỐ SẢN XUẤT TRONG TRANG TRẠI
17 p | 420 | 136
-
GIÁO TRÌNH LẬP KẾ HOẠCH SẢN XUẤT NGÀNH MAY - LẬP KẾ HOẠCH SẢN XUẤT NGÀNH MAY - BÀI 4
9 p | 565 | 117
-
GIÁO TRÌNH KINH TẾ HỘ VÀ TRANG TRẠI - Chương 6. HẠCH TOÁN SẢN XUẤT VÀ TỔ CHỨC TIÊU THỤ SẢN PHẨM
13 p | 395 | 114
-
Bài giảng Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin: Chương 3 - Chủ nghĩa duy vật lịch sử
68 p | 250 | 65
-
Đề tài "Tìm hiểu thực trạng phát triển sản xuất RAT ở Văn Đức - Gia Lâm - Hà Nội"
31 p | 191 | 37
-
Tăng cường cơ giới hóa trong sản xuất lương thực, góp phần đảm bảo an ninh lương thực ở đồng bằng sông Cửu Long
11 p | 89 | 12
-
Sản xuất phù hợp với Xuất khẩu tại Cty que hàn VIWELCO - 3
6 p | 79 | 11
-
Cơ sở lý luận triết học của đường lối quá độ lên CNXH ở Việt Nam - 2
6 p | 141 | 10
-
Thực trạng sản xuất của các cơ sở nghề và làng nghề truyền thống ở Hà Tĩnh
15 p | 123 | 9
-
Thực trạng sản xuất nông nghiệp của các hộ gia đình ở một huyện đồng bằng sông Cửu Long - Tôn Thiện Chiếu
0 p | 139 | 8
-
Phụ nữ trong sản xuất và tham gia xã hội ở nông thôn: Thực trạng và khuyến nghị chính sách
7 p | 74 | 4
-
Tiềm năng và thực trạng sản xuất rau ở thành phố Hà Nội
9 p | 43 | 4
-
Thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất các sản phẩm thủ công của hộ gia đình tại làng nghề Đệm Bàng Phò Trạch, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
10 p | 22 | 3
-
Hoạt động thực tập sản xuất ngành Cơ khí tại trường Cao đẳng nghề Việt Nam – Singapore
9 p | 19 | 3
-
Bước đầu khảo sát công tác kế toán trong các trang trại ở tỉnh Thừa Thiên Huế
8 p | 29 | 2
-
Đề cương chi tiết học phần: Thực tập nghề nghiệp 1 (Phân tích hiện trạng nông thôn)
5 p | 58 | 2
-
Đánh giá thực trạng và đề xuất biện pháp tiếp cận lịch sử địa phương qua di sản văn hóa cho học sinh trung học phổ thông tỉnh Bến Tre
6 p | 12 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn