Thực trạng và giải pháp cho việc đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
lượt xem 70
download
Khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam trong đó phần lớn bao gồm các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngày càng được coi là đóng vai trò quan trọng đối với việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà Việt Nam đã đạt được trong thập niên vừa qua. Đảng Cộng Sản Việt Nam và Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần khẳng định tầm quan trọng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong khu vực kinh tế tư nhân trong các chiến lược phát triển của mình, đặc biệt là về phương diện...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Thực trạng và giải pháp cho việc đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
- Bài Luận Đề Tài: Thực trạng và giải pháp cho việc đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay 1
- LỜI MỞ ĐẦU Khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam trong đó phần lớn bao gồm các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngày càng được coi là đóng vai trò quan trọng đối với việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà Việt Nam đã đạt được trong thập niên vừa qua. Đảng Cộng Sản Việt Nam và Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần khẳng định tầm quan trọng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong khu vực kinh tế tư nhân trong các chiến lược phát triển của mình, đặc biệt là về phương diện tạo công ăn việc làm và xóa đói giảm nghèo. Trong những năm vừa qua đã có một loạt những cải cách mang lại những kết quả đáng khích lệ như Luật Doanh nghiệp (năm 2000) và Nghị định Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (năm 2001), tạo một môi trường thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong khu vực tư nhân. Mặc dù môi trường hoạt động đã dần được cải thiện, các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong khu vực kinh tế tư nhân vẫn tiếp tục gặp nhiều khó khăn trong quá trình tăng trưởng. Các doanh nghiệp tư nhân vẫn chưa được hưởng một sân chơi bình đẳng với các doanh nghiệp nhà nước. Những hạn chế về khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng và công nghệ hiện đại vẫn là những rào cản làm chậm lại tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa mới thành lập đồng thời cũng thiếu công cụ quản lý hiện đại, khả năng tiếp cận thông tin và các mối liên hệ với các thị trường xuất khẩu. Có thể nói Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 và Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) mới có hiệu lực từ năm 1999 đã có những đóng góp đáng kể cho việc thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, giải phóng sức sản xuất, khơi dậy nhiều tiềm năng, phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh. Số lượng các doanh nghiệp mới thành lập trong cả nước tăng lên 2
- nhanh chóng, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế này đang giữ vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế như tạo thêm việc làm, thu hút vốn vào sản xuất, kinh doanh, tăng thêm thu nhập và đa dạng hóa thu nhập dân cư, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn, góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, kết quả đạt được vẫn còn khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu. Có tình trạng đó là do những tồn tại như môi trường đầu tư chưa thông thoáng, thủ tục còn nhiều phiền hà, mức độ hỗ trợ và ưu đãi đầu tư chưa thật hấp dẫn. Vì vậy, nhằm góp phần thúc đẩy phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta trong thời gian tới, em chọn đề tài nghiên cứu: “Thực trạng và giải pháp cho việc đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”. Đề tài gồm có các phần sau: - M ụ c lụ c - Lờ i m ở đ ầ u - Phần 1: Lý luận chung - Phần 2: Thực trạng đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa - Phần 3: Phương hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong thời gian tới - Kết luận - Danh mục tài liệu tham khảo Em xin bày tỏ lời cảm ơn trân trọng tới TS. NGUYỄN BẠCH NGUYỆT đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện cho em hoàn thành đề tài này. 3
- PHẦN 1 LÝ LUẬN CHUNG I. Đầu tư và đầu tư phát triển 1. Khái niệm Xuất phát từ phạm vi tác dụng của các kết quả hoạt động đầu tư, chúng ta có những cách hiểu khác nhau về đầu tư. Theo nghĩa rộng, đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho nhà đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục đích của việc đầu tư là thu được cái gì đó lớn hơn những gì mà mình đã bỏ ra. Do vậy, nền kinh tế không xem những hoạt động như gửi tiền tiết kiệm là hoạt động đầu tư vì nó không làm tăng của cải cho nền kinh tế mặc dù người gửi vẫn có khoản thu lớn hơn so với số tiền gửi. Từ đó, người ta biết đến một định nghĩa hẹp hơn về dầu tư hay chính là định nghĩa về đầu tư phát triển. Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thương xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế - xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của các thành viên trong xã hội. Trước đây, theo quan niệm truyền thống, vốn đầu tư phát triển chỉ là những chi phí bằng tiền dùng cho việc xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại và khôi phục tài sản cố định trong nền kinh tế. Như vây, về thực chất, vốn đầu tư phát triển chỉ gồm những chi phí trực tiếp làm tăng tài sản cố định. Theo khái 4
- niệm đầu tư phát triển vừa nêu ở trên, vốn đầu tư phát triển dược quan niệm là những chi phí bỏ ra găn liền với việc làm tăng thêm tài sản cho toàn xã hội. Nghĩa là, vốn đầu tư phát triển ngoài vai trò làm tăng tài sản cố định còn làm tăng tài sản lưu động, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực, nâng cao mức sống dân cư, mặt bằng dân trí, bảo vệ môii trường sinh thái,... Nói cách khác, vốn đầu tư phát triển có thể chia thành các nội dung cơ bản sau: vốn đầu tư xây dựng cơ bản và sửa chữa lớn tài sản cố định; vốn lưu động bổ sung; vốn đầu tư phát triển khác. Trong đó, vốn đầu tư xây dựng cơ bản chiếm tỷ trọng lớn nhất. Hoạt động đầu tư diễn ra một cách sôi nổi và thường xuyên từ những hoạt động lớn đến những hoạt động trưởng chừng như bình thường: Nhà nước đầu tư xây dựng cầu đường, một gia đình cho con đi học, một doanh nghiệp mua thêm máy móc để sản xuất thêm sản phẩm... Trong phạm vi nghiên cứu còn hạn hẹp, đề tài xin đi sâu vào phân tích hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp nhỏ và vừa - một lực lượng đông đảo có những đóng góp lớn vào công cuộc đầu tư phát triển của nền kinh tế. 2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư Hoạt động đầu tư phát triển là một hoạt động mang tính quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương, mỗi quốc gia cũng như toàn thế giới. Sở dĩ như vậy là do đầu tư phát triển có những đặc điểm riêng có khác biệt với những loại hình đầu tư khác. Thứ nhất, hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một lượng vốn rất lớn, lại nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Điều này cũng đồng nghĩa với việc đã đem vốn đầu tư vào dự án này thì không thể sử dụng vốn đó cho một dự án khác. Đặc điểm này của hoạt động đầu tư buộc các nhà đầu tư phải suy nghĩ, cân nhắc rất kỹ trước khi lựa chon dự án và đưa ra quyết định đầu tư. 5
- Thứ hai, thời gian tiến hành hoạt động đầu tư và kết quả của hoạt động đầu tư phát huy tác dụng lâu dài. Để có được một tài sản cố định có thể phát huy tác dụng một cách độc lập trong nền kinh tế thì cần một khoảng thời gian rất dài. Ví dụ: để xây dựng một nhà máy sản xuất mới, chủ đầu tư phải trải qua nhiều giai đoạn chuẩn bị đầu tư, giai đoạn thực hiện đầu tư với rất nhiều công việc. Nhưng bù vào đó, nhà máy lại có thể hoạt động trong một thời gian dài đủ cho nhà đầu tư thu hồi lại những chi phí đã bỏ ra, đồng thời có được một khoản lợi nhuận hợp lý. Thêm vào đó là những thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài, thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới như Kim Tự Tháp ở Ai Cập, nhà thờ La Mã ở Rome, vạn lý trường thành ở Trung Quốc... Điều này nói lên giá trị to lớn của các thành quả đầu tư phát triển. Do hoạt động đầu tư phát triển cần lượng vốn lớn và tồn tại lâu dài nên nó chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Có những yếu tố đã được nhận dạng, tính toán từ trước, nhưng cũng có những yếu tố bất định xảy ra bất ngờ, không thể lường trước được. Những yếu tố này tác động đến hoạt động đầu tư theo hai chiều hướng: tích cực và tiêu cực. Thông thường những tác động tích cực thì ít mà tác động tiêu cực thì nhiều, gây ảnh hưởng không nhỏ đến công cuộc đầu tư. Từ việc thời gian để tiến hành hoạt động đầu tư đến thời gian vận hành kết quả đầu tư để thu hồi đủ vốn kéo dài làm cho công cuộc đầu tư chịu ảnh hưởng rất nhiều của yếu tố tự nhiên, chính trị, xã hội, kinh tế... Hoạt động đầu tư còn chịu tác động mạnh mẽ của yếu tố địa hình nơi công cuộc đầu tư được tiến hành bởi một đặc điểm riêng có của hoạt động đầu tư là kết quả vận hành ngay tại nơi sản xuất, xây dựng. Với những đặc điểm nêu trên, hoạt động đầu tư yêu cầu chủ đầu tư cũng như toàn bộ nền kinh tế phải quan tâm đến rất nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, tự nhiên... để hoạt động đầu tư có thể diễn ra đúng như kế hoạch và mang lại kết quả như mong muốn. 6
- 3. Vai trò của đầu tư Như trên đã phân tích, đầu tư là hoạt động hy sinh nguồn lực ở hiện tại để có thể thu lại những kết quả cao hơn trong tương lai. Thực tế thế giới và tình hình Việt Nam từ thời kỳ kế hoạch hóa tập trung đến nền kinh tế thị trường đã chứng minh nếu không có đầu tư phát triển thì không có sự tăng trưởng và phát triển, nền kinh tế sẽ lâm vào thoái trào và đình trệ, đời sống người dân sẽ ngày càng nghèo khó... Trong thời đại hiện nay, tất cả các nước trên thế giới đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế và là chìa khóa của sự tăng trưởng, hội nhập vào nền kinh tế chung của khu vực cũng như toàn thế giới. Đầu tư phát triển có những vai trò vô cùng quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung cũng như mỗi doanh nghiệp nói riêng. 3.1. Đầu tư tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu của nền kinh tế. Đầu tư là một yếu tố quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24~28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đầu tư tác động đến tổng cầu trong ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, đầu tư tăng lên làm cho tổng cầu tăng lên, kéo theo sản lượng cân bằng tăng lên và giá cả của hàng hóa cũng tăng lên. Ngược lại với tổng cầu, đầu tư tác động đến tổng cung trong dài hạn. Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới được sử dụng thì tổng cung tăng lên, kéo theo sản lượng tăng lên và giá cả hàng hóa giảm. Theo tác động dây chuyền, giá cả giảm lại khuyến khích tiêu dùng và kích thích đầu tư sản xuất hơn nữa. Cứ như vậy, đầu tư phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích lũy, phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. 7
- 3.2. Đầu tư tác động đến sự ổn định về kinh tế Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế. Sự tác động không đồng thời của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung làm cho sự tăng giảm của hoạt động đầu tư cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế. Cụ thể, nếu đầu tư tăng lên, như phân tích ở trên làm cho giá cả tăng lên gây ra tình trạng lạm phát. Lạm phát lại làm chõ đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn, thâm hụt ngân sách, kinh tế châm phát triển. Mặt khác, đầu tư tăng lên làm cho sản xuất phát triển, thu hút thêm nhiều lao động, tăng thu nhập cho dân cư, giảm tệ nạn xã hội... Đây là yếu tố cơ bản tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế. Nói như thế không có nghĩa là chúng ta không nên tăng đầu tư phát triển vì nếu giảm đầu tư sẽ đưa đến nhiều hậu quả to lớn hơn nữa. Vì vậy, trong hoạt động kinh tế vĩ mô, các nhà hoạch định chính sách cần nhận thức đúng đắn về sự tác động hai mặt này để đưa ra những chính sách hợp lý có thể phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế. 3.3. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế Chúng ta sẽ xem xét sự tác động qua lại giữa vốn đầu tư và thu nhập của nền kinh tế thông qua hai lý thuyết: lý thuyết của Keynes về đầu tư và lý thuyết gia tốc đầu tư. Theo Keynes, mỗi sự gia tăng về vốn đầu tư dều kéo theo sự gia tăng nhu cầu bổ sung về nhân công và nhu cầu về tư liệu sản xuất. Do đó làm tăng việc làm và nhu cầu về tư liệu sản xuất sẽ làm tăng thu nhập của nền kinh tế và đến lượt nó làm tăng đầu tư mới. Quá trình này thể hiện thông qua số nhân đầu tư - đại lượng thể hiện mối quan hệ tác động dây chuyền: tăng đầu tư làm tăng thu nhập, tăng thu nhập làm tăng đầu tư mới. Số nhân đầu tư được xác định: 8
- dY m= dI dY: Mức gia tăng thu nhập dI: Mức gia tăng đầu tư m: Số nhân đầu tư Vì I = S nên dY dY 1 1 m= = = = 1 − dC/dY 1 − MPC dI dY – dC Bên cạnh đó, lý thuyết gia tốc nói về nguyên nhân quyết định đầu tư. Theo thuyết này, ngoài các yếu tố thông thường như lãi suất, thuế...; việc tăng vốn, tăng đầu tư còn xảy ra khi sản lượng tăng. Hơn nữa, sản lượng phải tăng liên tục cùng nhịp độ mới đảm bảo cho vốn đầu tư không đổi. Khi sản lượng ngừng tăng, đầu tư ròng bằng 0 nhưng tổng đầu tư vẫn lớn hơn 0 nhằm duy trì năng lực sản xuất hiện có. Điều này được chứng minh ở công thức: Kt x= Yt x: Đại lượng thể hiện mối quan hệ giữa đầu tư và sản lượng đầu ra Kt: Vốn đầu tư trong thời gian t Yt: Sản lượng đầu ra trong thời gian t 9
- Từ công thức trên, ta có: Kt = x.Yt ; Kt+1 = x.Yt+1 ⇒ NI = Kt+1 – Kt = x.(Yt+1 – Yt) = x.ΔY Sự phối hợp nhân tố gia tốc và mô hình số nhân có thể được thể hiện ở mô hình sau: Sản lượng tăng ở tương lai → Đầu tư tăng (theo nhân tố gia tốc) → Sản lượng tăng (mô hình số nhân) → Đầu tư tăng... và ngược lại Sự tác động của đầu tư lên tăng trưởng và phát triển kinh tế còn thể hiện ở hệ số ICOR. Vốn đầu tư ICOR = Mức tăng GDP Từ đó suy ra: Vốn đầu tư Mức tăng GDP = ICOR Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP phụ thuộc hoàn toàn vào vốn đầu tư. Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc nhiều vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, vùng lãnh thổ cũng như hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp. Đối với các nước đang phát triển, phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt được một tỷ lệ tăng 10
- thêm sản phẩm quốc dân dự kiến. Ở nhiều nước, đầu tư đóng vai trò như một “cú hích ban đầu” để thoát ra khỏi “cái vòng luẩn quẩn” tạo đà cho sự cất cánh. 3.4. Đầu tư tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế Sự tác động này được thể hiện rõ ở chính sách đầu tư ở mỗi quốc gia, mỗi địa phương. Đối với cơ cấu ngành, thông thường đầu tư cho ngành công nghiệp, dịch vụ thường chiếm tỷ trọng cao nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở những khu vực này. Đối với cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi thình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn tạo thành lực kéo và bàn đạp để thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. 3.5. Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp Đầu tư trong các cơ sở sản xuất kinh doanh có thể hiểu đó là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để duy trì và tăng cường, mở rộng năng lực sản xuất kinh doanh hiện có của cơ sở. Như vậy đầu tư có vai trò rất quan trọng trong doanh nghiệp. Nó quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp muốn thành lập trước hết phải xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật như nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua săm các máy móc thiết bị, thuê nhân công... Sau đó để duy trì hoạt động bình thường của mình, các doanh nghiệp phải định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hay thay mới các cơ sở vật chất đã hư hỏng, hao mòn hoặc đổi mới để thích ứng với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Có như vậy, doanh nghiệp mới tồn tại và phát triển được. Ngoài ra, đầu tư còn là cách thức cơ bản giúp doanh nghiệp thực hiện được các mục tiêu của mình như tăng lợi nhuận, nâng cao vị thế, uy tín... 11
- Đối với các doanh nghiệp vô vị lợi (hoạt động không để thu lợi nhuận cho bản thân mình) để tồn tại, duy trì sự hoạt động, ngoài việc tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất – kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư. Thực tế đã chỉ rõ, rất nhiều doanh nghiệp do không có phương án đầu tư kinh doanh đúng đắn hoặc không có khả năng huy động vốn đầu tư đều thất bại trong kinh doanh dẫn tới phá sản. Đó là quy luật không thể phủ nhận của nền kinh tế thị trường. 3.6. Đầu tư tác động tới khoa học và công nghệ Đầu tư tác giúp tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của mỗi nước. Hiện nay, công nghệ đang là trung tâm của công nghiệp hóa. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của mỗi quốc gia, đặc biệt là những nước đang phát triển như Việt Nam. Như chúng ta đã biết có hai con đường cơ bản để có công nghệ mới. Đó là: tự nghiên cứu phát minh và nhập công nghệ của nước khác. Dù là tự nghiên cứu hay nhập công nghệ đều cần phải có vốn đầu tư với khối lượng lớn. Tự nghiên cứu thì cần vốn đầu tư cho việc lắp đặt phòng thí nghiệm, cho công tác nghiên cứu, thử nghiệm... Còn đối với việc nhập công nghệ thì lại càng cần phải có vốn đầu tư. Cần có vốn đầu tư lớn để mua thiết bị, chuyển giao công nghệ... nhất là trong thời kỳ hiện nay, giá công nghệ cùng với giá chất xám ngày càng tăng cao. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi. 12
- II. Doanh nghiệp nhỏ và vừa 1. Khái niệm doanh nghiệp Thực tế trên thế giới, các nước có quan niệm rất khác nhau về doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nguyên nhân sự khác nhau này là do các nước dùng các tiêu thức để phân loại quy mô doanh nghiệp khác nhau. Tuy nhiên trong hàng loạt các tiêu thức đó thì có 2 tiêu thức phân loại được sử dụng ở phần lớn các nước. Đó là tiêu thức quy mô vốn và tiêu thức số lượng lao động. Việc lượng hóa các tiêu thức để phân loại quy mô doanh nghiệp tùy thuộc vào một số yếu tố như: + Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước và những quy định cụ thể phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn. + Trong ngành nghề khác nhau thì chỉ tiêu về độ lớn của các tiêu thức cũng khác nhau. Điều này ta có thể thấy rõ thông qua số liệu ở bảng 1. 13
- Bảng 1: Tiêu thức xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước và vùng lãnh thổ Tiêu thức áp dụng Nước Sè lao động Tổng vốn hoặc giá trị tài sản Inđônêxia
- nghiệp nhà nước thuộc nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong khu vực kinh tế tư nhân doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ trọng 97% xét về vốn và 99% xét về lao động so với tổng số doanh nghiệp của cả nước. 2. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa Khi nói tới doanh nghiệp nhỏ và vừa nói chung, chúng ta đều nghĩ đến đặc điểm chung nhất đó là: số lượng lao động ít, trình độ không cao, nhu cầu về vốn đầu tư nhỏ nhưng tỷ suất vốn cao và thời gian hoàn vốn nhanh, chi phí sản xuất cao do đó giá thành đơn vị sản phẩm cao hơn so với sản phẩm của các doanh nghiệp lớn nên vị thế của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên thị trường ít được chú ý. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa bị hạn chế trong việc đáp ứng nhu cầu rộng nhưng lại có ưu thế trong việc đáp ứng nhu cầu đặc thù. Các doanh nghiệp này dễ phân tán và ít gây tác động mạnh tới nền kinh tế - xã hội. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay ngoài những đặc điểm trên còn có những đặc điểm cơ bản sau: + Sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trải qua nhiền biến động thăng trầm đặc biệt là sự chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường. + Việt Nam là một nước kinh tế kém phát triển nên sản xuất nhỏ là phổ biến nên các doanh nghiệp có quy mô nhỏ có diện rộng phổ biến. + Phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong khu vực ngoài quốc doanh mới thành lập, thiếu kiến thức kinh doanh, chưa quen với thị trường. Các doanh nghiệp nhà nước quy mô nhỏ và vừa còn chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế cũ, máy móc, thiết bị công nghệ lạc hậu, bế tắc về thị trường tiêu thụ. 15
- + Sở hữu nhà nước có trên 4000 doanh nghiệp nhỏ và vừa và sở hữu tư nhân có trên 17000 doanh nghiệp và công ty tư nhân, trên 1,8 triệu hộ kinh tế cá thể hoạt động theo Nghị định 66/HĐBT. + Về hình thức tổ chức gồm các loại hình: Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hộ kinh tế cá thể. + Trình độ quản lý trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn rất hạn chế, thiếu kiến thức về quản trị kinh doanh và luật pháp, thiếu kinh nghiệm. Trình độ văn hóa kinh doanh còn thấp, tồn tại nhiều tiêu cực. + Các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta phân bố không đồng đều, tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn. Xu hướng tập trung vào các ngành cần đầu tư ít vốn, thời gian thu hồi vốn nhanh, lãi suất cao như thương nghiệp, du lịch, dịch vụ. + Nhà nước chỉ mới có các định hướng lớn khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa, cơ chế chính sách thiếu đồng bộ, nguồn lực tài chính còn hạn chế. 3. Các tiêu chí phân loại doanh nghiệp áp dụng ở Việt Nam Việc đưa ra các tiêu chí chuẩn xác để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tổ chức quản lý, nghiên cứu và thực hiện các chính sách hỗ trợ. Chính vì vậy, hầu hết các nước đều rất chú trọng nghiên cứu tiêu thức phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên, trên thế giới tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa có một số nét chung nhưng cũng có nhiều chỗ còn chưa thống nhất vì điều kiện kinh tế - xã hội mỗi nước khác nhau. 16
- Thậm chí trong cùng một nước, sự phân loại cũng khác nhau tùy theo thời kỳ, từng ngành nghề và từng vùng lãnh thổ. Có hai tiêu chí phổ biến dùng để phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa: tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng. Nhóm tiêu chí định tính: Dựa trên những đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp nhỏ và vừa như trình độ chuyên môn hóa thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý thấp... Các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng khó xác định trên thực tế. Do đó, nó thường chỉ làm cơ sở để tham khảo, kiểm chứng mà ít được sử dụng để phân loại trong thực tế. Nhóm tiêu chí định lượng: Có thế sử dụng các tiêu chí như số lao động, giá trị tài sản vốn, doanh thu, lợi nhuận. Trong đó: - Số lao động có thể lao động trung bình trong danh sách, lao động thường xuyên hoặc lao động thực tế hiện có. - Tài sản hoặc vốn có thể sử dụng tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản cố định (hay vốn cố định), giá trị tài sản còn lại. - Doanh thu có thể là tổng doanh thu hàng năm, tổng giá trị gia tăng hàng năm. Ở nhiều nước trên thế giới, tiêu chí định lượng để xác định quy mô doanh nghiệp rất đa dạng. Các nước APEC thường sử dụng tiêu chí số lao động (11/12 nước sử dụng). Một số tiêu chí khác thì tùy thuộc vào điều kiện của từng nước: vốn đầu tư (3 nước), tổng giá trị tài sản (4 nước), doanh thu (4 nước) và tỷ lệ vốn góp (1 nước). Số lượng tiêu chí dùng để phân loại ở mỗi nước cũng chỉ từ một đến hai và cao nhất là ba tiêu chí nêu trên để phân loại. 17
- Ở Việt Nam, sử dụng hai tiêu chí là số vốn điều lệ và số lao động. Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam là các cơ sở sản xuất kinh doanh có đăng ký, không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô về vốn và lao động thỏa mãn với quy định của Chính phủ đối với từng ngành nghề tương ứng với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế. Trước đây, do chưa có tiêu chí chung xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa, nên một số cơ quan Nhà nước, một số tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đã chủ động đưa ra những tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa phục vụ cho công tác của mình. Cụ thể như sau: - Ngân hàng công thương Việt Nam coi doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp có: + Lao động thường xuyên dưới 500 người; + Vốn cố định dưới 10 tỷ đồng, vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng; + Doanh thu hàng tháng dưới 29 tỷ đồng. - Liên Bộ Lao động và Tài chính coi doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp có: + Lao động thường xuyên dưới 100 người; + Doanh thu hàng năm dưới 10 tỷ đồng; + Vốn pháp định dưới 10 tỷ đồng. 18
- - Dự án VIE/US/95/004 do UNIDO tài trợ về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam coi doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có: + Lao động dưới 30 người; + Vốn đăng ký dưới 100000 USD. Doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có: + Lao động từ 31~200 người; + Vốn đăng ký dưới 400000 USD. - Quỹ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc chương trình Việt Nam – EU quy định các doanh nghiệp nhỏ và vừa được hỗ trợ gồm các doanh nghiệp có: + Số công nhân từ 10~500 người; + Vốn điều lệ từ 50000 đến 300000 USD. - Quỹ phát triển nông thôn thuộc ngân hàng Nhà nước coi doanh nghiệp Nhà nước nhỏ và vừa là các doanh nghiệp có: + Giá trị tài sản không quá 2000000 USD; + Lao động không quá 500 người. 19
- - Trong các ngành sản xuất vật chất, các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách đã thống nhất quan niệm về quy mô doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng và có dưới 100 lao động; doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có vốn từ 1 tỷ đến 10 tỷ đồng và có từ 100~500 lao động. Đến ngày 26/6/1998, Thủ tướng Chính phủ đã tạm thời thống nhất các tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa được quy định tại công văn số 681/CP-KTN. Theo công văn này, doanh nghiệp nhỏ và vừa là những doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động dưới 200 người. Theo tiêu thức phân loại này, ở Việt Nam số doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm khoảng 89% tổng số doanh nghiệp hiện có. Tuy nhiên, qua thực tiễn, có thể thấy tiêu chí về doanh nghiệp nhỏ và vừa trên đây (theo công văn số 681) có những vấn đề đáng suy nghĩ như sau: - Có thể chỉ dùng một tiêu chí là lao động hoặc số vốn, bởi vì hai tiêu chí đó không phải là luôn luôn tương thích với nhau, nhất là trong điều kiện hiện nay, có những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao, số vốn hoặc doanh thu khá lớn nhưng lại có rất ít lao động, vì đó là những lao động với chuyên môn kỹ thuật cao. - Theo kinh nghiệm của nhiều nước, nên có tiêu chí riêng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau như công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ... và cần có sự điều chỉnh qua từng thời gian, tùy thuộc vào yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước, vì mục đích của tiêu chí này là xác định đối tượng để thực hiện những chính sách của Nhà nước trong từng thời gian, đối với từng ngành, nghề. Do vậy, ngày 23/11/2001, chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo Nghị định 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận : " Thực trạng và giải pháp cho hoạt động xuất khẩu giầy dép của công ty giầy Thuỵ Khuê "
52 p | 617 | 217
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Hiệu quả cho vay tiêu dùng cá nhân tại Ngân hàng TMCP Á Châu (ABC) – chi nhánh Sài Gòn – Thực trạng và giải pháp
117 p | 673 | 182
-
Khóa luận tốt nghiệp: Quản trị quan hệ khách hàng - thực trạng và giải pháp cho các doanh nghiệp Việt Nam
83 p | 902 | 164
-
Tiểu luận - Thực trạng và giải pháp cho xuất khẩu lao động ở Việt Nam
14 p | 442 | 122
-
TIỂU LUẬN: Huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam: Thực trạng và giải pháp cho những năm đầu thế kỷ 21
40 p | 203 | 66
-
Tiểu luận nhóm: Nhập cư tại thành phố Hồ Chí Minh – Thực trạng và giải pháp
18 p | 682 | 64
-
Đề án: Thực trạng và giải pháp cho ngành thép Việt Nam
32 p | 425 | 54
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho thuê tài chính của Ngân hàng Công thương Việt Nam
99 p | 199 | 51
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Hoạt động quản lý giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Cao đẳng Công nghiệp Thực phẩm TP. Hồ Chí Minh - Thực trạng và giải pháp
121 p | 156 | 41
-
Luận văn Thực trạng và giải pháp cho đầu tư phát triển nông nghiệp, thẩm định- Xây dựng cơ bản tại Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hà Tây
92 p | 132 | 31
-
Đề tài: Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về công tác quản lý và tổ chức trong Công ty cổ phần theo luật Doanh nghiệp 2005 – Thực trạng và giải pháp cho Công ty cổ phần Thể dục thể thao Việt Nam
58 p | 153 | 29
-
Đề tài “Thực trạng và giải pháp cho hoạt động xuất khẩu giầy dép của công ty giầy Thuỵ Khuê ” 2
52 p | 133 | 18
-
Báo cáo tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Bình Dương – PGD Hòa Phú
71 p | 29 | 13
-
Tiểu luận Triết học số 68 - Công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Thực trạng và giải pháp ở nước ta hiện nay
31 p | 80 | 12
-
Khóa luận tốt nghiệp: Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động cho vay tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Đồ Sơn
80 p | 104 | 7
-
Tiểu luận Triết học số 45 - Giao thông đường bộ ở Hà Nội - thực trạng và giải pháp
12 p | 81 | 6
-
Khóa luận tốt nghiệp: Quan hệ thương mại Việt Nam – Brasil - Thực trạng và giải pháp phát triển
70 p | 108 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Thực trạng và giải pháp cho phúc lợi bổ sung trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
100 p | 19 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn