Tiểu luận: Bình luận hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo pháp luật tố tụng và Luật luật sư
lượt xem 9
download
Đề tài tiểu luận đã nghiên cứu lý luận về nghề luật sư và hoạt động tham gia tố tụng của luật sư; thực trạng pháp luật về hoạt động tham gia tố tụng của luật sư; kiến nghị một số giải pháp. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Bình luận hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo pháp luật tố tụng và Luật luật sư
- 1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ NGHỀ LUẬT SƯ VÀ HOẠT ĐỘNG THAM GIA TỐ TỤNG CỦA LUẬT SƯ 1.1.Khái niệm và đặc điểm nghề luật sư 1.1.1.Khái niệm luật sư và nghề luật sư 1.1.2.Đặc điểm nghề luật sư 1.2. Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư 1.1.1.Khái niệm pháp luật tố tụng 1.1.2.Đặc điểm hoạt động tham gia tố tụng của luật sư 1.3. Địa vị pháp lý của luật sư khi tham gia tố tụng 1.2.1.Vai trò của Luật sư 1.2.2.Quyền và nghĩa vụ của Luật sư CHƯƠNG 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động tham gia tố tụng của Luật sư 2.1. Những quy định của pháp luật 2.1.1. Pháp luật Luật sư và Đạo đức nghề nghiệp Luật sư 2.1.2. Pháp luật tố tụng hình sự 2.1.3. Pháp luật tố tụng dân sự 2.2. Thực trạng hoạt động tham gia tố tụng của Luật sư ở Việt Nam hiện nay 2.2.1.Ưu điểm 2.2.2.Nhược điểm CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP 3.1.Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động tham gia tố tụng của luật sư 3.2.Nâng cao năng lực của luật sư khi tham gia hoạt động tố tụng Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo
- 2 MỞ ĐẦU Nghề luật sư trên thế giới từ lâu đã được thừa nhận là một nghề được xã hội tôn vinh và trọng vọng. Thực tiễn cho thấy, ở một quốc gia có xu hướng xây dựng nền dân chủ vững mạnh thì sứ mệnh bảo vệ công lý, công bằng xã hội của luật sư càng quan trọng hơn. Việt Nam đang trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, đây là một tiền đề quan trọng để nghề luật sư nói chung và hoạt động tranh tụng của luật sư nói riêng phát triển vượt bậc. Những năm gần đây, nghề luật sư đã có nhiều khởi sắc và đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển của đất nước. Do đó, hành lang pháp lý về nghề luật sư cũng được quan tâm, được sửa đổi và bổ sung để ngày một hoàn thiện hơn . Kể từ khi Pháp lệnh về luật sư năm 1987, Luật Luật sư năm 2006 và Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị bàn về “Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” được ban hành thì vai trò của luật sư trong hoạt động tố tụng có vị trí đặc biệt quan trọng, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo, bị hại, nguyên đơn, bị đơn dân sự và những người liên quan giúp Cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp luật. Từ nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động tham gia tố tụng của luật sư, cũng như nhận ra một số bất cập, hạn chế của quy định pháp luật trong quá trình hành nghề, tôi chọn đề tài: Phân tích và bình luận quy định: “Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo pháp luật tố tụng và Luật luật sư” theo quy định tại khoản 1, điều 27, Luật luật sư năm 2012 làm tiểu luận với mong muốn có một cái nhìn tổng quát về hoạt động hành nghề luật sư cũng như định hướng tương lai cho hoạt động nghề nghiệp của mình. Để làm rõ các nội dung trên, kết cấu của tiểu luận gồm có 3 phần: Chương 1: Lý luận về nghề luật sư và hoạt động tham gia tố tụng của luật sư Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động tham gia tố tụng của luật sư Chương 3: Kiến nghị một số giải pháp
- 3 CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ LUẬT SƯ VÀ HOẠT ĐỘNG THAM GIA TỐ TỤNG CỦA LUẬT SƯ 1.1.Khái niệm và đặc điểm nghề luật sư 1.1.1.Khái niệm luật sư và nghề luật sư Tiểu luận đưa ra một định nghĩa khái quát về nghề luật sư như sau: Luật sư là những người có đủ điều kiện hành nghề chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện việc tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức trước các cơ quan tiến hành tố tụng và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác. 1.1.2.Đặc điểm nghề luật sư Luật sư là một nghề đầy vinh quang nhưng cũng đầy thách thức với những đặc điểm như: nghề luật sư là một nghề luật, nghề luật sư hoạt động dựa trên pháp luật và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp, nghề luật sư là một nghề mang tính nhân văn sâu sắc, có tính trách nhiệm cá nhân cao và sử dụng kiến thức tổng hợp của nhiều lĩnh vực trong cuộc sống. 1.2.Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư 1.2.1.Khái niệm pháp luật tố tụng Khi bàn về hệ thống pháp luật trong khoa học pháp lý còn biết đến có sự phân chia thành pháp luật nội dung (substantive) và pháp luật thủ tục (procedural law). Việc phân chia này trên thực tế không có ý nghĩa về mặt khoa học pháp lý, nhưng có ý nghĩa rất lớn trong khoa học pháp lý cũng như thực tiễn. Khác với pháp luật nội dung, pháp luật thủ tục được hiểu là các quy phạm pháp luật xác định cơ chế, quy trình, thủ tục và hình thức pháp lý nhằm đưa các quy định pháp luật nội dung vào cuộc sống. Pháp luật tố tụng là một bộ phận quan trọng trong hệ thống luật thủ tục nói chung. Ở Việt Nam, theo pháp luật có các hình thức tố tụng sau: tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính và tố tụng trọng tài. Mỗi hình thức thức tố tụng được điều chỉnh bằng Bộ luật tố tụng tương ứng như: Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hành chính, và Luật trọng tài thương mại. Trong mỗi hình thức tố tụng, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng là khác nhau. Nhưng tựu chung lại có thể nói hoạt động tham gia tố tụng chính là hoạt động của các chủ thể có quyền và nghĩa vụ tham gia vào quá trình tố tụng theo quy định của pháp luật. Trong đó, hoạt động tham gia tố tụng của Luật sư là việc Luật sư đại diện cho khách hàng tham gia vụ việc tố tụng, thông qua Hợp đồng dịch vụ pháp lý.
- 4 1.2.2.Đặc điểm của hoạt động tham gia tố tụng của Luật sư Cũng như pháp luật, hệ thống tư pháp ở mỗi nước được tổ chức rất khác nhau tuỳ thuộc vào truyền thống lịch sử, văn hoá và trình độ phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Trong tiến trình tố tụng thường chia thành các giai đoạn, trong đó các chủ thể tham gia có các quyền nghĩa vụ khác nhau. Trong tố tụng hình sự, Cơ quan cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án có vị trí là người tiến hành tố tụng, luật sư có vị trí pháp lý là người bào chữa cho bị cáo, người bảo vệ quyền lợi cho chị hại, hoặc bảo vệ quyền và lợi ích của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Từ khái quát về các mô hình tố tụng cơ bản trên thế giới, chúng ta có thể thấy giữa hai mô hình tố tụng có sự khác nhau rất lớn về sự phân loại các chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự, có thể rút ra nhận xét mỗi hệ tố tụng (tranh tụng và thẩm vấn) sẽ tạo ra vị thế khác nhau của Luật sư trong quá trình tố tụng. Trong tố tụng tranh tụng vai trò tích cực của Thẩm phán bị hạn chế, nên sẽ tạo ra sự bất bình đẳng giữa hai bên buộc tội và bào chữa, tạo vị thế cho luật sư tích cực chủ động và có khả năng quyết định sự thắng thua (bên nào có nhiều tiền để thuê luật sư thì có nhiều khả năng hơn để giành thắng lợi). Trong tố tụng thẩm vấn, Luật sư vẫn được quyền nêu các ý kiến pháp lý, luận cứ bảo vệ và tham gia quá trình hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Tuy nhiên, đôi khi ý kiến của luật sư chưa được cân nhắc một cách nghiêm túc, Thẩm phán vẫn giữ vai trò then chốt trong việc tìm ra sự thật. Trong tố tụng dân sự, và hành chính, vai trò của luật sư được thể hiện rõ ràng hơn. Quan hệ dân sự là các quan hệ được thiết lập dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm. Các chủ thể xác lập quyền và nghĩa vụ trên nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận. Vì vậy, khi xảy ra tranh chấp, Tòa án hoặc cơ quan trọng tài (nếu thuộc thẩm quyền của trọng tài) có thẩm quyền xét xử, giải quyết, nhưng toàn bộ việc thu thập chứng cứ, tài liệu chứng minh và nộp đơn khởi kiện là quyền và nghĩa vụ của các bên. Việc tham gia của luật sư vào quá trình giải quyết với các ý kiến pháp lý, các phần tranh tụng có ý nghĩa quan trọng, có thể quyết định đến phán quyết của trọng tài hoặc hội đồng xét xử. 1.3. Địa vị pháp lý của luật sư 1.3.1.Vai trò của luật sư Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, hoạt động dịch vụ pháp lý ngày càng phát huy mạnh mẽ vai trò của mình. Dịch vụ pháp lý theo quy định của Luật luật sư 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012 về cơ bản kế thừa pháp lệnh Luật sư năm 2001, theo điều 4: “Dịch vụ pháp lý của luật sư bao gồm tham gia tố
- 5 tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các dịch vụ pháp lý khác”. Trong hoạt động tư pháp, hoạt động xét xử được coi là khâu trọng tâm vì ở đây biểu hiện sự tập trung và thể hiện đầy đủ quyền tư pháp, là nơi trên cơ sở kết quả điều tra, truy tố và bào chữa, Toà án nhân danh Nhà nước đưa ra phán xét một người có tội hay không có tội. Do vậy một phán xét chính xác, khách quan và đúng pháp luật hay không, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân có được bảo đảm hay không phụ thuộc vào quá trình điều tra, truy tố và xét xử từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, mặt khác từ phía hoạt động tích cực của luật sư với vai trò là người bào chữa cho bị can, bị cáo và góp phần bảo vệ công lý.Hoạt động của luật sư không phải là hoạt động tư pháp nhưng lại có mối liên hệ gắn chặt với hoạt động tư pháp, hỗ trợ cho hoạt động tư pháp.Vai trò của luật sư trong hoạt động tố tụng có vị trí đặc biệt quan trọng, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo, giúp giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp luật. 1.3.2.Quyền và nghĩa vụ của luật sư Trước hết, luật sư trước hết có các quyền và nghĩa vụ theo luật luật sư, đó là phải tuân theo các nguyên tắc hành nghề theo quy định tại điều 5 và các điều cấm quy định tại điều 9, cụ thể quyền và nghĩa vụ của luật sư được quy định rõ rngf tại điều 21 luật luật sư 2006 sửa đổi và bổ sung năm 2012. a, Quyền của luật sư Luật sư được pháp luật bảo đảm quyền tham gia tố tụng theo quy định của Luật luật sư và pháp luật tố tụng. Luật luật sư đảm bảo các quyền được tiến hành dịch vụ pháp lý đại diện khách hàng tham gia tố tụng một cách hợp pháp. Nhà nước nghiêm cấm các cơ quan tổ chức, cá nhân can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tham gia tố tụng của luật sư. Việc đại diện cho khách hàng tham gia tố tụng sau khi dã xác lập phạm vi, nội dung, thời hạn trong Hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng thì luật sư không phải thông qua thủ tục ủy quyền theo quy định của pháp luật Luật luật sư cung cho phép luật sư được tự do lựa chọn hình thức hành nghề, tổ cức hành nghề, và phạm vi hành nghề trên lãnh thổ Việt Nam hoặc ở ước ngoài. b, Nghĩa vụ của luật sư Luật sư có nghĩa vụ tuân theo các quy định pháp luật tại Luật luật sư và páp luật tố tụng khi tham gia hoạt động tranh tụng. Trước hết, luật sư phải tuân
- 6 thủ Hiến pháp và pháp luật, các quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư, độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan. Sử dụng các biện pháp họp pháp để bảo vệ tốt nhất lợi ích cho khách hàng. Khi tham gia hoạt động tố tụng, luật sư phải chấp hành các nội quy, các quy định có liên quan trong quan hệ với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, có thái độ tôn trọng người tiến hành tố tụng mà luật sư tiếp xúc khi làm việc. Ngoài ra, luật sư phải có mặt kịp thời, đầy đủ khi có yêu cầu tham gia tố tụng trong các vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu, thực hiện việc trợ giúp pháp lý và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ bắt buộc.
- 7 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG THAM GIA TỐ TỤNG CỦA LUẬT SƯ 2.1. Những quy định của pháp luật 2.1.1. Pháp luật Luật sư và Đạo đức nghề nghiệp Luật sư Khi tham gia tố tụng, luật sư vừa phải tuân thủ các quy định pháp luật dành cho công dân Việt Nam nói chung, Luật luật sư nói riêng và đồng thời tuân thủ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư. Khoản 1, Điều 27, Luật luật sư quy định: “Điều 27. Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư 1. Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng và Luật này.” Luật luật sư quy định về các nguyên tắc, điều kiện, phạm vi, hình thức hành nghề, tiêu chuẩn, quyền và nghĩa vụ của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư. Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư quy định những chuẩn mực về đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, là thước đo phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư. Mỗi luật sư phải lấy Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp này làm khuôn mẫu cho sự tu dưỡng, rèn luyện để giữ gìn uy tín nghề nghiệp, thanh danh của luật sư, xứng đáng với sự tôn vinh của xã hội.” 2.1.2. Pháp luật tố tụng hình sự Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có một loạt những quy phạm pháp luật mới đảm bảo cho người bào chữa thuận lợi trong quá trình tham gia tố tụng hình sự. Cụ thể như sau: Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 mặc dù thể hiện được tính tranh tụng ở một số nội dung, nhưng những quy định còn mang nặng tính thẩm vấn. Vì thế, trên thực tiễn thời gian qua, sự thống nhất thực hiện việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa vẫn chưa được đảm bảo. Trên nền tảng nguyên tắc hiến định, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Ở Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, thời điểm sớm nhất mà người bào chữa tham gia tố tụng là từ khi có quyết định tạm giữ. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã thể hiện sự tiến bộ khi quy định thời điểm sớm nhất mà người bào chữa tham gia tố tụng là từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của
- 8 cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã mở rộng quyền của người bào chữa. Người bào chữa có quyền được gặp, hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, quy định này triệt tiêu việc những người có thẩm quyền gây khó khăn cho người bào chữa khi muốn gặp thân chủ của mình. Một số quy định mới khác cũng đã cho thấy một bước tiến lớn góp phần nâng cao chất lượng tranh tụng, như: Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định người bào chữa muốn biết về thời gian, địa điểm hỏi cung bị can thì phải đề nghị với cơ quan điều tra báo trước. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã đặt trách nhiệm cho cơ quan có thẩm quyền trong việc báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác cho người bào chữa, tránh việc những người có thẩm quyền chậm trễ, gây khó khăn cho người bào chữa đối với nội dung này. Việc lựa chọn người bào chữa, thủ tục đăng ký bào chữa trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được quy định chi tiết, cụ thể, và thuận lợi để đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội. 2.1.3.Pháp luật tố tụng dân sự Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có tổng số 517 điều, được bố cục thành 10 phần, 42 chương. Theo tinh thần cụ thể hóa "nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm đã được Hiến pháp quy định, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung nguyên tắc “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử” xem đây là một trong những nội dung quan trọng nhất trong việc hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người; thực hiện mô hình tố tụng “ xét hỏi kết hợp với tranh tụng’. Theo quy định tại Điều 23 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, thì “Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, Tòa án bảo đảm để các bên đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh luận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”. Theo quy định về thủ tục tố tụng tại phiên tòa, thì “tranh luận” là một phần của tố tụng phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm xét xử vụ án dân sự được tiến hành sau khi kết thúc phần xét hỏi. Như vậy, trong hoạt động tố tụng, luật sư có địa vị pháp lý là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Các quyền và nghĩa vụ cơ bản cũng như thủ tục tham gia tiến hành tố tụng đã được quy định rõ ràng. Luật sư tham gia vào việc thu thập tài liệu chứng cứ, tham gia ý kiến pháp lý, hỏi và
- 9 tranh luận trong quá trình xét xử. Tòa án sẽ căn cứ vào các chứng cứ thu thập được và lập luận của các bên để có cách giải quyết đúng đắn. 2.2. Thực trạng hoạt động tham gia tố tụng của Luật sư ở Việt Nam hiện nay Khái quát chung, có thể nhận thấy đồng thời với quá trình hoàn thiện có thể chế về luật sư ở Việt Nam, hoạt động tham gia tranh tụng đã có những bước chuyển biến quan trọng, nâng cao vị thế của luật sư từng bước đáp ứng được yêu cầu dân chủ hóa các mặt trong đời sống chính trị xã hội. Hoạt động nghề nghiệp của luật sư đã góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế và xây dựng xã hội công bằng, dân chủ. Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, hoạt động tranh tụng cũng bộc lộ những hạn chế. Cụ thể như sau: 2.2.1.Ưu điểm a, Môi trường pháp lý Điều kiện cho luật sư hành nghề tranh tụng đã có được thuận lợi cơ bản sau khi ban hành Pháp lệnh luật sư năm 2001 và nay là Luật Luật sư (có hiệu lực từ ngày 01/01/2007) và các qui định pháp luật tố tụng khác thực sự là bước đột phá về việc xác định vai trò, vị trí và sự tham gia của luật sư trên tinh thần quán triệt Nghị quyết số 08/NQTW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49 ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam. Theo đó việc tranh tụng trở thành trọng tâm của một phiên tòa và nói một cách khác, nó đã trở thành tiêu chuẩn tố tụng hàng đầu, quan trọng nhất để tòa án dựa vào đó đưa ra những phán quyết đúng với sự thật khách quan của vụ án và đúng pháp luật. b, Chất lượng tranh tụng của luật sư Kỹ năng tham gia tố tụng được phát triển tương đối đồng đều, vai trò của luật sư tại phiên tòa đã thực sự góp phần giúp cho tòa án xét xử công minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Không ít phiên tòa, thông qua phần xét hỏi hoặc tranh luận của luật sư làm sáng tỏ nhiều tình tiết có thể làm thay đổi nội dung vụ án hoặc phổ biến hơn, những tình tiết mà luật sư tham gia làm rõ ấy, có thể bảo vệ quyền lợi hợp pháp của khách hàng trước pháp luật mà nếu không có luật sư thì họ có thể sẽ bị thiệt thòi, không được tòa án xem xét. Chất lượng tranh tụng của giới luật sư trong thời gian qua cho th ấy chuyên nghiệp và có hiệu quả hơn, hầu hết các luật sư đã tự khẳng định mình với năng lực chuyên môn cao trong hoạt động bào chữa, thể hiện được quyền bình đẳng với kiểm sát viên (công tố) trong tranh tụng. Có khá nhiều phiên tòa hoặc trong khi nghiên cứu hồ sơ chuẩn bị xét xử, nhiều luật sư cũng đã phát hiện những tình tiết chưa rõ ràng, chưa đáp ứng được yêu cầu làm rõ sự thật
- 10 khách quan của vụ án dẫn đến hoãn xử để điều tra bổ sung. Nhiều luật sư đã thẳng thắn chỉ rõ những sai phạm, thậm chí là vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng của người và cơ quan tiến hành tố tụng. Ở một số phiên tòa, bản lĩnh nghề nghiệp của luật sư còn thể hiện ở chỗ nêu lên được nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm (thường là các loại tội phạm tham nhũng, tội phạm vi phạm trật tự quản lý kinh tế, vi phạm trật tự an toàn xã hội...) để làm tiền đề, là cơ sở hoạt động bào chữa cho khách hàng của mình và đồng thời còn yêu cầu tòa án nêu trong bản án kiến nghị cơ quan, tổ chức đó phải khắc phục sửa chữa yếu kém trong quản lý để phòng tránh, ngăn ngừa tội phạm tương tự. Nhiều ý kiến băn khoăn, vướng mắc của luật sư trong quá trình thực tiễn nghiên cứu hồ sơ, hoạt động bào chữa đã góp phần quan trọng thúc đầy việc sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện các quy định tố tụng hình sự và các văn bản pháp quy khác có liên quan. Điển hình là các qui định về xét hỏi, tranh luận, đối đáp... Tòa án nhân dân tối cao cũng đã ra nghị quyết về những mẫu bản án sơ thẩm, phúc thẩm buộc các hội đồng xét xử phải phân tích chấp nhận hoặc không chấp nhận ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa. 2.2.2.Hạn chế a, Những khó khăn khách quan Đối với hoạt động tranh tụng trong vụ án hình sự, việc tham gia của luật sư với tư cách là người bào chữa cho bị can, bị cáo còn nhiều hạn chế như: Trong giai đoạn điều tra: Từ thực tiễn trong quá trình hoạt động nghề nghiệp luật sư, hầu hết các luật sư đều nhìn nhận rằng trong suốt quá trình tố tụng điều tra, truy tố, xét xử thì những khó khăn của luật sư tham gia trong giai đoạn điều tra được phản ánh nhiều nhất. Đặc biệt, nổi cộm lên vấn đề luật sư thường hay bị cơ quan điều tra gây khó khăn trong việc cấp Giấy chứng nhận người bào chữa, tham gia hỏi cung bị can, gây ảnh hưởng đến quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra. Mặc dù cản ngại này có xu hướng ngày càng giảm, nhưng vẫn là điều các luật sư ái ngại nhất. Trong thực tế ở nhiều địa phương, để được cấp Giấy chứng nhận người bào chữa, luật sư phải xuất trình đơn yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, thẻ luật sư và chứng chỉ hành nghề luật sư. Trường hợp người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam thì việc có được đơn yêu cầu nhờ luật sư của họ là không thể; còn đơn yêu cầu luật sư của thân nhân người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam thì phải chờ cơ quan điều tra xác minh quan hệ, rồi hỏi ý kiến của người bị tạm giữ, bị can mới tiến hành cấp Giấy chứng nhận.
- 11 Thực tiễn cho thấy việc cấp Giấy chứng nhận người bào chữa trong thời hạn 03 ngày như pháp luật quy định là rất hiếm; chỉ những trường hợp trong những vụ án chỉ định theo đề nghị của cơ quan điều tra thì việc cấp Giấy chứng nhận người bào chữa mới được thuận lợi. Thậm chí, có nơi cán bộ điều tra còn dùng biện pháp nghiệp vụ để bị can đang bị tạm giam từ chối luật sư. Vấn đề này được xem như bài toán nan giải, đã được các luật sư và giới truyền thông nêu lên rất nhiều lần, nhiều nơi từ trước đến nay nhưng sự chuyển biến theo hướng tích cực còn chậm. Sau khi có được Giấy chứng nhận người bào chữa, luật sư xin được gặp bị can đang bị tạm giam cũng còn gặp nhiều khó khăn. Việc gặp bị can trong giai đoạn điều tra bắt buộc phải có Điều tra viên, nên khi luật sư đề nghị được gặp bị can thì thông thường là lần đầu không được đáp ứng, các lần hẹn sau cũng không chắc chắn gặp được vì Điều tra viên lấy lý do bận công việc đột xuất… Khi tham gia hỏi cung bị can thì luật sư chỉ được hỏi khi Điều tra viên đồng ý và có trường hợp phải đưa câu hỏi cho Điều tra viên xem xong mới được hỏi câu hỏi đó. Chính vì vậy, luật sư tham gia trong giai đoạn điều tra thường chỉ mang tính hình thức, không giúp ích gì nhiều được cho khách hàng. Do đó, pháp luật về tố tụng và pháp luật về luật sư cần phải có quy định tháo gỡ những vướng mắc này. Trong giai đoạn xét xử Vấn đề cấp Giấy chứng nhận người bào chữa, tiếp xúc với bị cáo trong giai đoạn chuẩn bị xét xử có thuận lợi hơn so với giai đoạn điều tra, nhưng tại một số Tòa án vẫn không có được sự thận lợi như vậy. Những vụ án khi đến giai đoạn xét xử, bị cáo mới nhờ luật sư thì việc xin cấp Giấy chứng nhận người bào chữa của luật sư lại gặp phải khó khăn giống như tại cơ quan điều tra. Thực tế cho thấy luật sư chỉ được cấp Giấy chứng nhận người bào chữa khi có giấy yêu cầu nhờ luật sư bào chữa do chính bị can, bị cáo ký. Nhưng khi vào Trại tạm giam để gặp bị can, bị cáo viết giấy yêu cầu luật sư bào chữa thì Trại tạm giam yêu cầu phải có Giấy chứng nhận người bào chữa của Tòa án. Trong quá trình xét xử, việc đại diện Viện kiểm sát không chịu đối đáp tranh luận; hiện tượng Chủ tọa phiên tòa và thậm chí cả Hội thẩm nhân dân cắt ngang lời luật sư khi luật sư đang trình bày đúng trọng tâm vụ án vẫn thường xảy ra; nội dung tranh tụng của luật sư không được ghi nhận trong bản án (thực tế cho thấy rất ít bản án có ghi ý kiến tranh luận của luật sư). Việt Nam theo mô hình xét xử xét hỏi thẩm vấn, bản chất của nó là việc xét xử chủ yếu dựa vào kết quả điều tra, nên Thẩm phán trước khi xét xử đã bị kết quả điều tra chi phối, nếu bị cáo khai đúng sự thật nhưng khác với lời khai trong giai đoạn điều tra thì bị coi là phản cung, khai báo không đúng sự thật.
- 12 Sau khi xét xử sơ thẩm Theo quy định của pháp luật, sau khi vụ án được xét xử sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Tuy nhiên, trong thời gian 15 ngày này, các Trại tạm giam không cho phép luật sư được tiếp xúc bị cáo với lý lẽ cho rằng luật sư chỉ được cấp Giấy chứng nhận người bào chữa trong gian đoạn xét xử sơ thẩm. Lúc này, Tòa án đã xét xử sơ thẩm rồi thì Giấy chứng nhận người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm không còn giá trị pháp lý nữa nên luật sư không có quyền gặp bị cáo. Nếu luật sư muốn gặp bị cáo thì phải chờ đợi đến giai đoạn xét xử phúc thẩm. Như vậy, có thể thấy cán bộ Trại tạm giam đã cố tình gây khó khăn cho luật sư trong quá trình thực hiện quyền bào chữa cho bị cáo. Thời hạn kháng cáo 15 ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với bị cáo, ảnh hưởng đến sinh mệnh chính trị của bị cáo. Tuy nhiên trong thực tế, có những lỗ hổng pháp lý đã bị lợi dụng, gây khó khăn cho hoạt động nghề nghiệp luật sư, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền được bào chữa của bị cáo. Trong mảng tố tụng dân sự, hành chính, luật sư trong quá trình hoạt động nghề nghiệp ít gặp phải vướng mắc hơn so với mảng tố tụng hình sự. Những khó khăn mà các luật sư gặp phải chủ yếu trong việc thu thập chứng cứ, nhất là khi chứng cứ nằm tại cơ quan nhà nước, tổ chức mà các cơ quan, tổ chức này không hợp tác với luật sư… Riêng đối với các vụ án hành chính, cần nhìn nhận một thực tế rằng các luật sư ít muốn tham gia bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người khởi kiện là các cá nhân, tổ chức có quyền lợi hợp pháp bị vi phạm. Bởi lẽ, đa số trong các vụ án hành chính, bên khởi kiện bị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện, mà trong số đó nhiều vụ cái sai thuộc về bên bị kiện. Tư tưởng coi lợi ích nhà nước lớn hơn lợi ích của cá nhân, tổ chức và muốn bảo vệ uy tín của lãnh đạo, cán bộ công chức đã và đang ảnh hưởng đến kết quả giải quyết các vụ án hành chính hiện nay. Một số ít luật sư còn yếu về nghiệp vụ và kỹ năng nghề nghiệp, chưa cập nhật được các văn bản pháp luật cần thiết cho hoạt động bào chữa. Chưa phát huy hết trách nhiệm của luật sư trong khi pháp luật tố tụng đã qui định đầy đủ, cụ thể là chưa phân biệt được “quyền luật sư” qui định tại khoản 2 và “nghĩa vụ của luật sư” theo khoản 3 Điều 58 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quyền kháng cáo, khiếu nại của luật sư trong một số trường h ợp cần thiết v ẫn không được luật sư vận dụng. Sự nhầm lẫn, thiếu sót này không chỉ làm thiệt hại quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng mà còn làm tổn thất uy tín của giới luật sư nói chung. Nhiều luật sư còn lúng túng trong hoạt động của mình tại phiên tòa khi lợi ích của khách hàng đối nghịch, mâu thuẫn nhau. Có luật sư bào chữa cho bị cáo
- 13 này còn thời cũng có luật sư và khách hàng của mình lại mâu thuẫn nhau trong phần bào chữa hay không hiểu ý nhau trong phần xét hỏi. Có trường hợp bị cáo khẳng định không phạm tội thì luật sư bào chữa lại hùng biện với KSV chứng minh thân chủ mình phạm tội nhẹ hơn. Có trường hợp luật sư vắng mặt gởi bản bào chữa xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo về tội mà VKS truy tố nhưng diễn biến phiên tòa cho thấy KSV đã rút phần truy tố đó tại phiên tòa. Hoặc cũng có nhiều trường hợp luật sư khi thất KSV đề nghị mức án thấp hoặc cho hưởng án treo thì lên tiếng nhất trí, cảm ơn VKS và đề nghị HĐXX chấp nhận đề nghị của VKS, trong khi đó, thực tiễn đã có phiên tòa HĐXX đã xử tội danh nhẹ hơn với mức án cũng nhẹ hơn VKS, luật sư đề nghị. Quá trình tham gia phiên tòa, một số luật sư đã nêu ý kiến và đòi hỏi diễn biến phiên tòa phải theo mô hình tố tụng tranh tụng vấn đề này còn thuộc phạm vi nghiên cứu lý luận học thuật. Còn thực tiễn, chúng ta đều phải chấp hành các qui định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
- 14 CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP 3.1.Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động tham gia tố tụng của luật sư Để bảo đảm cho luật sư tham gia tố tụng được thuận lợi, thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự, qua đó bảo đảm quyền được bào chữa của người bị tạm giữ, của bị can, bị cáo và các đương sự, cần hoàn thiện các quy định của pháp luật theo hướng như sau: Thứ nhất, Điều 27 của Luật Luật sư quy định về hoạt động tham gia tố tụng của luật sư cần quy định chi tiết hơn trên tinh thần tháo gỡ được các khó khăn, vướng mắc của luật sư trong hoạt động tham gia tố tụng. Quy tại Khoản 1: “Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng và Luật này”, là quá chung chung, chỉ là quy định về mặt nguyên tắc, đến khi áp dụng chúng ta cần có quy định cụ thể hơn. Thứ hai, Theo tinh thần của Hiến pháp và chiến lược cải cách tư pháp, thiết nghĩ cần bỏ quy định cấp giấy chứng nhận luật sư tham gia tố tụng tại Khoản 2 Điều 27 Luật Luật sư để tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia tố tụng, đảm bảo tính tranh tụng trong tố tụng, đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo, bị can, người bị tạm giữ và quyền được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Việc xin cấp giấy chứng nhận người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự là biểu hiện của cơ chế “xincho”, gây khó khăn cho việc thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và các đương sự. Thay vì quy định thủ tục cấp Giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư như hiện nay, có thể thay bằng thủ tục “thông báo tham gia tố tụng của luật sư”. Theo đó, khi luật sư có yêu cầu của khách hàng để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp hoặc bào chữa cho chính khách hàng đó hoặc
- 15 cho người khác thì luật sư chỉ cần thông báo đến cơ quan tiến hành tố tụng về việc luật sư tham gia tố tụng. Hồ sơ thông báo bao gồm văn bản thông báo của luật sư (do chính luật sư đó lập, ký tên, không cần phải thông qua tổ chức hành nghề hay Đoàn Luật sư) và yêu cầu luật sư bằng văn bản của khách hàng. Nếu luật sư trực tiếp thông báo tại cơ quan tiến hành tố tụng thì luật sư cần xuất trình Thẻ luật sư để chứng minh tư cách của mình, trường hợp gửi hồ sơ qua đường bưu điện thì mới phải cung cấp bản sao có chứng thực Thẻ Luật sư. Kể từ thời điểm cơ quan tiến hành tố tụng nhận được hồ sơ thông báo tham gia tố tụng của luật sư thì luật sư được chính thức tham gia tố tụng, được thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật. Cơ quan tiến hành tố tụng không được từ chối quyền tham gia tố tụng của luật sư, trừ trường hợp khách hàng của luật sư (người có yêu cầu luật sư) hoặc người được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, người được bào chữa (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) có thông báo không tiếp tục yêu cầu luật sư. Trường hợp vẫn giữ nguyên cơ chế này thì cần quy định cụ thể người có quyền yêu cầu luật sư bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp không chỉ có bản thân người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, mà những người thân thích của họ cũng được quyền này (người thân thích được hiểu theo quy định của Bộ luật dân sự hoặc liệt kê cụ thể diện những người này). Thứ ba, trong tố tụng hình sự, cần phải có quy định bắt buộc Điều tra viên phải thông báo rõ nội dung, địa điểm, thời gian tiến hành hỏi cung bị can để luật sư có thể tham gia hỏi cung bị can, tránh việc điều tra viên lạm quyền, mớm cung, hoặc ép cung bị can, để luật sư có điều kiện bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho khách hàng. Thứ tư, cần hủy bỏ quy định hạn chế thời gian tiếp xúc bị can, bị cáo của luật sư trong vòng 01 tiếng trong giai đoạn điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử như quy định hiện nay. Thời gian như vậy khá eo hẹp, khiến cho luật sư không thể tiếp cận bị can, bị cáo để làm rõ các tình tiết, giúp cho Hội đồng xét xử hiểu đúng bản chất pháp lý của vụ án. Thứ năm, để tìm ra chân lý, luật sư cũng như như cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến hành việc xác minh, thu thập chứng cứ. Vì không có các quy định pháp luật rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của luật sư đối với việc yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, nên luật sư sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc làm rõ sự thật của vụ án. Vì vậy, cần phải mở rộng quyền thu thập chứng cứ của luật sư như yêu cầu các cơ quan có trách nhiệm đáp ứng các yêu cầu về thu thập và xác minh chứng cứ của luật sư. 3.2. Nâng cao năng lực của luật sư
- 16 Trong hoạt động tố tụng, tranh tụng của luật sư tại phiên tòa là vấn đề quan trọng và cốt lõi. Tuy nhiên để đạt được hiệu quả như mong muốn, thuyết phục được những người tiến hành tố tụng tại phiên tòa, bảo vệ tốt nhất lợi ích cho khách hàng, luật sư luôn phải không ngừng học tập kiến thức chuyên môn, cũng như rèn luyện các kĩ năng nghề nghiệp. Thứ nhất, cần nghiên cứu kỹ lưỡng hồ sơ vụ án; nghiên cứu bản cáo trạng; nghiên cứu kết luận điều tra của cơ quan điều tra; nghiên cứu văn bản pháp luật liên quan tới vụ án; nghiên cứu văn bản tố tụng; nghiên cứu về tài liệu liên quan tới vụ án; nghiên cứu vấn đề giám định; các loại văn bản giấy tờ chứng cứ của bị can, bị cáo; nghiên cứu các tài liệu; nghiên cứu các lĩnh vực khoa học có tính chất gần, liên quan, thu thập tất cả các tài liệu, chứng cứ có giá trị chứng minh. Luật sư là người nắm rõ và tổng hợp được tất cả những vấn đề của vụ án, có sự đánh giá, phân tích khách quan đến từng chi tiết chứng cứ, tìm ra những mâu thuẫn trong lời khai, minh chứng là cơ sở để lập luận bảo vệ cho thân chủ của mình tại phiên tòa. Thứ hai, cần gặp gỡ trao đổi với khách hàng, đặt ra các câu hỏi để khách hàng có định hướng đúng về vụ việc của mình; bên cạnh đó cũng cần phải có kiến thức, kinh nghiệm trong việc hỏi, lấy lời khai khi tham gia tiếp xúc gặp gỡ bị can, bị cáo; có kinh nghiệm sử dụng các thiết bị để lưu trữ các thông tin do khách hàng cung cấp như máy ghi âm, ghi hình. Thứ ba, cần thu thập được các tài liệu chứng cứ liên quan tới vụ việc, đặc biệt cần nắm bắt được những chứng cứ quan trọng nhằm gỡ tội hoặc giảm nhẹ tội cho thân chủ, hoặc tài liệu chứng cứ quyết định đến quyền và nghĩa vụ của khách hàng trong vụ án dân sự, kinh doanh thương mại, hành chính trên tinh thần tuân thủ pháp luật, không đi ngược lại với đạo đức nghề nghiệp của luật sư; Đây là quá trình chuẩn bị tiền tố tụng, có vai trò khá quan trọng: chuẩn bị những luận cứ quan trọng để bảo vệ cho thân chủ; chuẩn bị được câu hỏi, chiến thuật hỏi để tham gia quá trình tranh tụng; chuẩn bị các tài liệu liên quan tới vụ án; luật sư cũng cần phải có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt và kỹ năng hùng biện tranh tụng lôi cuốn, thuyết phục sự chú ý của người tiến hành tố tụng bằng các lập luật vững chắc, chứng cứ xác đáng nhằm làm có lợi cho thân chủ mà luật sư tham gia bảo vệ. Thứ tư, trong quá trình tham dự phiên tòa luật sư phải có chiến thuật trong việc nêu câu hỏi và đặt câu hỏi hướng vào các tình tiết khách quan, chứng cứ có lợi cho thân chủ được bảo vệ. Hình dung được kịch bản cho việc hỏi, đối thoại với bị can, bị cáo, bên có quyền và nghĩa vụ đối lập và những người tham gia tố tụng khác. Luật sư phải thực sự linh hoạt, ứng biến trong các tình huống diễn biến tại phiên tòa; luật sư có chiến thuật vận dụng nhuần nhuyễn kiến thức pháp lý vận dụng theo hướng có lợi nhất để bảo vệ cho thân chủ; có chiến thuật trong việc đưa ra các câu hỏi cho người làm chứng để họ cung cấp các thông tin
- 17 một cách chính xác, khách quan, chất vấn những tình tiết trong vụ án có tính chất mâu thuẫn bất hợp lý vận dụng để bảo vệ cho thân chủ. Thứ năm, luật sư cần phải được đào tạo kỹ càng chuyên sâu về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng tranh tụng. Nhà nước có chính sách hợp lý, đãi ngộ chú trọng công tác đào tạo luật sư giỏi, để làm thay đổi nhận thức hiện nay đối với giới luật sư. Kiến tạo được cán cân công bằng giữa luật sư phải thực sự bình đẳng với cơ quan tiến hành tố tụng khác, có như vậy mới khách quan, công bằng, tránh được những vụ án oan sai như báo chí đưa ra trong thời gian gần đây. Để vai trò của luật sự thực sự phát huy được hiệu quả trong hoạt động xét xử, các cơ quan có thẩm quyền cũng cần phải sớm xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục tranh tụng của luật sư tại phiên tòa, trong đó cần quy định điều kiện thuận lợi để cho luật sư được thực hiện đầy đủ các quyền của mình đã được pháp luật quy định. KẾT LUẬN Vai trò quan trọng của luật sư trong xã hội là không thể phủ nhận. Hoạt động hành nghề luật sư có mối quan hệ hữu cơ đối với việc xây dựng thành công nhà nước ph p quyền xã hội chủ nghĩa. Cùng với qu trình phát triển của đất nước và hệ thống ph p luật, nghề luật sư đã có những bước thăng trầm lịch sử. Pháp luật về luật sư và pháp luật tố tụng tuy đã có đóng góp tích cực cho sự phát triển của nghề luật sư, tiến gần hơn với các mô hình tố tụng tiên tiến trên thế giới, nhưng vẫn còn nhiều bất cập gây khó khăn cho hoạt động hành nghề luật sư và các cá nhân, tổ chức có liên quan. Do đó tôi chọn đề tài: Phân tích và bình luận quy định: “Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo pháp luật tố tụng và Luật luật sư” theo quy định tại khoản 1, điều 27, Luật luật sư năm 2012. Tiểu luận đã cố gắng làm rõ những vấn đề lý luận về luật sư và hoạt động tham gia tố tụng của luật sư giúp người viết và người đọc có được những hiểu biết cơ bản nhất, nền tảng nhất về nghề luật sư, địa vị pháp lý của luật sư trong từng hình thức tố tụng. Dựa trên nền tảng đó, tiểu luận tập trung phân tích một cách có hệ thống các quy định của pháp luật về hành nghề luật sư nói chung và hoạt động tham gia tố tụng của luật sư nói riêng, thấy được những ưu điểm, hạn chế của môi trường pháp lý và năng lực của luật sư hiện nay. Đồng thời, trên cơ sở thực tế nghề nghiệp của bản thân người viết cũng đưa vào tiểu luận một số vấn đề về thực trạng tham gia tố tụng hình sự,dân sự, hành chính ở Việt Nam hiện nay để có được cái nhìn toàn diện về nghề luật sư trong xã hội hiện
- 18 nay. Từ đó, kiến nghị một số vấn đề cần thiết để hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao năng lực của bản thân các luật sư. Sự phát triển của nghề luật sư không chỉ phụ thuộc vào nhận thức và hành động của mỗi luật sư mà nó là một quá trình lịch sử trong tổng hoà sự tác động của tất cả cả yếu tố trong xã hội. Do đó để nghề luật sư khẳng định được vị thế của mình trong xã hội cần sự đóng góp toàn xã hội, cùng chung tay góp sức để xây dựng một đất nước Việt Nam hùng cường, vững mạnh./. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Luật sư và Nghề luật sư. 2008. Học viện tư pháp 2. Nguyễn Thành Vĩnh. 2014. “Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự” 3. LS Phan Trung Hoài. 2014. “Chuyện về chiếc thẻ luật sư” 4. TS. Nguyễn Đức Mạnh. 2015. “Đặc điểm mô hình tố tụng tranh tụng và phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự ở Việt Nam” 5. Ths. Hoàng Thị Huyền Trang. 2015. “Những điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 trong việc góp phần nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp” 6. Hoàng Thị Anh Thư. 2014. “Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam”. Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. 7. TS. Mai Bộ. 2014. “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự’’ 8. Phạm Thị Hường. 2013. “Vai trò của luật sư trong tố tụng dân sự’’.Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. 9. http://luanvanaz.com/thuctrangthamgiatungcualuatsu.html
- 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Slide bài Thông tin về ngày trái đất năm 2000 - Ngữ văn 8
35 p | 1613 | 135
-
Bài 19: Khi con tu hú - Giáo án Ngữ văn 8
8 p | 1056 | 45
-
Giáo án tuần 19 bài Tập đọc: Thư Trung thu - Tiếng việt 2 - GV. Hoàng Quân
4 p | 517 | 37
-
Giáo án tuần 19 bài Tập làm văn: Đáp lời chào, lời tự giới thiệu - Tiếng việt 2 - GV. Hoàng Quân
4 p | 537 | 30
-
Bài 11: Tìm hiểu chung về văn bản thuyết minh - Giáo án Ngữ văn 8
7 p | 525 | 28
-
Giáo án Ngữ văn 7 bài Luyện tập tạo lập văn bản - GV: Nguyễn Kim Loan
10 p | 431 | 15
-
Giáo án Ngữ văn 7 bài Đại từ - GV: Nguyễn Kim Loan
10 p | 313 | 12
-
Bài Chính tả: Làm việc thật là vui. Phân biệt g/gh - Giáo án Tiếng việt 2 - GV.Ng.T.Tú
4 p | 271 | 8
-
NGUYỄN TRUNG THÀNH VÀ TÁC PHẨM “ RỪNG XÀ NU”
18 p | 83 | 5
-
Giáo án bài Chương trình địa phương ( phần văn) - Ngữ văn 8
4 p | 503 | 4
-
Giáo án Vật lý 10 chương trình phân ban hệ nâng cao (Phòng GD ĐT Đà lạt) - 3
7 p | 87 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn