intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Bình luận hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo pháp luật tố tụng và Luật luật sư

Chia sẻ: Ngoc Pham | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:19

80
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài tiểu luận đã nghiên cứu lý luận về nghề luật sư và hoạt động tham gia tố tụng của luật sư; thực trạng pháp luật về hoạt động tham gia tố tụng của luật sư; kiến nghị một số giải pháp. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Bình luận hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo pháp luật tố tụng và Luật luật sư

  1. 1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ  NGHỀ  LUẬT SƯ  VÀ HOẠT ĐỘNG THAM GIA  TỐ TỤNG CỦA LUẬT SƯ 1.1.Khái niệm và đặc điểm nghề luật sư 1.1.1.Khái niệm luật sư và nghề luật sư 1.1.2.Đặc điểm nghề luật sư  1.2. Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư 1.1.1.Khái niệm pháp luật tố tụng 1.1.2.Đặc điểm hoạt động tham gia tố tụng của luật sư 1.3. Địa vị pháp lý của luật sư khi tham gia tố tụng 1.2.1.Vai trò của Luật sư  1.2.2.Quyền và nghĩa vụ của Luật sư CHƯƠNG 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động tham gia tố tụng của Luật sư 2.1. Những quy định của pháp luật  2.1.1. Pháp luật Luật sư và Đạo đức nghề nghiệp Luật sư 2.1.2. Pháp luật tố tụng hình sự 2.1.3. Pháp luật tố tụng dân sự 2.2. Thực trạng hoạt động tham gia tố tụng của Luật sư ở Việt Nam hiện nay 2.2.1.Ưu điểm 2.2.2.Nhược điểm CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP 3.1.Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động tham gia tố tụng của luật sư 3.2.Nâng cao năng lực của luật sư khi tham gia hoạt động tố tụng Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo
  2. 2 MỞ ĐẦU Nghề luật sư trên thế giới từ lâu đã được thừa nhận là một nghề được xã   hội tôn vinh và trọng vọng. Thực tiễn cho thấy, ở một quốc gia có xu hướng xây   dựng nền dân chủ  vững mạnh thì sứ  mệnh bảo vệ  công lý, công bằng xã hội  của luật sư  càng quan trọng hơn. Việt Nam đang trong quá trình xây dựng nhà  nước pháp quyền, đây là một tiền đề  quan trọng để  nghề  luật sư  nói chung và  hoạt động tranh tụng của luật sư nói riêng phát triển vượt bậc. Những năm gần đây, nghề luật sư đã có nhiều khởi sắc và đóng góp nhiều  hơn cho sự  phát triển của đất nước. Do đó, hành lang pháp lý về  nghề  luật sư  cũng được quan tâm, được sửa đổi và bổ sung để ngày một hoàn thiện hơn . Kể  từ khi Pháp lệnh về luật sư năm 1987, Luật Luật sư năm 2006 và Nghị quyết số  08­NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ  Chính trị  bàn về  “Một số  nhiệm vụ  trọng   tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” được ban hành thì  vai trò của luật  sư  trong hoạt động tố tụng có vị  trí đặc biệt quan trọng, góp phần bảo vệ công  lý, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo, bị hại, nguyên đơn, bị đơn   dân sự và những người liên quan giúp Cơ  quan tiến hành tố  tụng giải quyết vụ  án khách quan, đúng pháp luật.  Từ nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động tham gia tố tụng của luật   sư, cũng như nhận ra một số bất cập, hạn chế của quy định pháp luật trong quá   trình hành nghề, tôi chọn đề  tài: Phân tích và bình luận quy định: “Hoạt động   tham gia tố  tụng của luật sư phải tuân theo pháp luật tố  tụng và Luật luật sư”   theo quy định tại khoản 1, điều 27, Luật luật sư  năm 2012 làm tiểu luận với   mong muốn có một cái nhìn tổng quát về hoạt động hành nghề luật sư cũng như  định hướng tương lai cho hoạt động nghề nghiệp của mình. Để làm rõ các nội dung trên, kết cấu của tiểu luận gồm có 3 phần: Chương 1: Lý luận về nghề luật sư và hoạt động tham gia tố tụng của luật sư Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động tham gia tố tụng của luật sư Chương 3: Kiến nghị một số giải pháp
  3. 3 CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ  LUẬT SƯ  VÀ HOẠT ĐỘNG THAM GIA TỐ  TỤNG CỦA LUẬT SƯ 1.1.Khái niệm và đặc điểm nghề luật sư 1.1.1.Khái niệm luật sư và nghề luật sư Tiểu luận đưa ra một định nghĩa khái quát về  nghề  luật sư như sau: Luật   sư là những người có đủ điều kiện hành nghề chuyên nghiệp theo quy định của  pháp luật nhằm thực hiện việc tư  vấn pháp luật, tham gia tố  tụng để  bảo vệ  quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ  chức trước các cơ  quan tiến hành tố  tụng và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác. 1.1.2.Đặc điểm nghề luật sư  Luật   sư   là   một   nghề   đầy   vinh   quang   nhưng   cũng   đầy   thách   thức   với  những đặc điểm như: nghề  luật sư  là một nghề  luật, nghề  luật sư  hoạt động  dựa trên pháp luật và quy chế  trách nhiệm nghề  nghiệp, nghề  luật sư  là một   nghề  mang tính nhân văn sâu sắc, có tính trách nhiệm cá nhân cao và sử  dụng  kiến thức tổng hợp của nhiều lĩnh vực trong cuộc sống. 1.2.Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư 1.2.1.Khái niệm pháp luật tố tụng Khi bàn về  hệ thống pháp luật trong khoa học pháp lý còn biết đến có sự  phân chia thành pháp luật nội dung (substantive) và pháp luật thủ tục (procedural   law). Việc phân chia này trên thực tế không có ý nghĩa về mặt khoa học pháp lý,   nhưng có ý nghĩa rất lớn trong khoa học pháp lý cũng như  thực tiễn. Khác với  pháp luật nội dung, pháp luật thủ tục được hiểu là các quy phạm pháp luật xác  định cơ chế, quy trình, thủ tục và hình thức pháp lý nhằm đưa các quy định pháp   luật nội dung vào cuộc sống. Pháp luật tố tụng là một bộ phận quan trọng trong   hệ thống luật thủ tục nói chung. Ở Việt Nam, theo pháp luật có các hình thức tố tụng sau: tố tụng hình sự,   tố  tụng dân sự, tố  tụng hành chính và tố  tụng trọng tài. Mỗi hình thức thức tố  tụng được điều chỉnh bằng Bộ  luật tố  tụng tương  ứng như: Bộ  luật tố  tụng   hình sự, Bộ  luật tố  tụng dân sự, Bộ  luật tố  tụng hành chính, và Luật trọng tài  thương mại. Trong mỗi hình thức tố tụng, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các   chủ  thể  người tiến hành tố  tụng, người tham gia tố  tụng là khác nhau. Nhưng  tựu chung lại có thể nói hoạt động tham gia tố tụng chính là hoạt động của các  chủ  thể  có quyền và nghĩa vụ  tham gia vào quá trình tố  tụng theo quy định của  pháp luật. Trong đó, hoạt động tham gia tố tụng của Luật sư là việc Luật sư đại   diện cho khách hàng tham gia vụ việc tố tụng, thông qua Hợp đồng dịch vụ pháp   lý.
  4. 4 1.2.2.Đặc điểm của hoạt động tham gia tố tụng của Luật sư Cũng như pháp luật, hệ thống tư pháp ở mỗi nước được tổ chức rất khác  nhau tuỳ  thuộc vào truyền thống lịch sử, văn hoá và trình độ  phát triển kinh tế,   xã hội của mỗi quốc gia.  Trong tiến trình tố tụng thường chia thành các giai đoạn, trong đó các chủ  thể tham gia có các quyền nghĩa vụ  khác nhau. Trong tố  tụng hình sự, Cơ  quan   cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án có vị  trí là người tiến hành tố  tụng,  luật sư  có vị  trí pháp lý là người bào chữa cho bị  cáo, người bảo vệ  quyền lợi   cho chị  hại, hoặc bảo vệ  quyền và lợi ích của nguyên đơn, bị  đơn, người có  quyền lợi nghĩa vụ  liên quan. Từ  khái quát về  các mô hình tố  tụng cơ  bản trên  thế  giới, chúng ta có thể thấy giữa hai mô hình tố  tụng có sự  khác nhau rất lớn  về sự  phân loại các chủ  thể tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự, có  thể rút ra nhận xét mỗi hệ tố tụng (tranh tụng và thẩm vấn) sẽ tạo ra vị thế khác   nhau của Luật sư  trong quá trình tố  tụng. Trong tố  tụng tranh tụng vai trò tích  cực của Thẩm phán bị  hạn chế, nên sẽ  tạo ra sự  bất bình đẳng giữa hai bên  buộc tội và bào chữa, tạo vị  thế  cho luật sư tích cực chủ  động và có khả  năng  quyết định sự thắng thua (bên nào có nhiều tiền để thuê luật sư thì có nhiều khả  năng hơn để giành thắng lợi). Trong tố tụng thẩm vấn, Luật sư vẫn được quyền   nêu các ý kiến pháp lý, luận cứ bảo vệ và tham gia quá trình hỏi, tranh luận tại   phiên tòa. Tuy nhiên, đôi khi ý kiến của luật sư  chưa được cân nhắc một cách  nghiêm túc, Thẩm phán vẫn giữ vai trò then chốt trong việc tìm ra sự thật.  Trong tố tụng dân sự, và hành chính, vai trò của luật sư được thể hiện rõ   ràng hơn. Quan hệ dân sự là các quan hệ được thiết lập dựa trên nguyên tắc bình  đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm. Các chủ thể xác lập  quyền và nghĩa vụ trên nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận. Vì vậy, khi xảy ra  tranh chấp, Tòa án hoặc cơ quan trọng tài (nếu thuộc thẩm quyền của trọng tài)  có thẩm quyền xét xử, giải quyết, nhưng toàn bộ  việc thu thập chứng cứ, tài   liệu chứng minh và nộp đơn khởi kiện là quyền và nghĩa vụ  của các bên. Việc  tham gia của luật sư  vào quá trình giải quyết với các ý kiến pháp lý, các phần  tranh tụng có ý nghĩa quan trọng, có thể quyết định đến phán quyết của trọng tài   hoặc hội đồng xét xử. 1.3. Địa vị pháp lý của luật sư  1.3.1.Vai trò của luật sư Trong xu thế  hội nhập và toàn cầu hóa, hoạt động dịch vụ  pháp lý ngày   càng phát huy mạnh mẽ  vai trò của mình. Dịch vụ  pháp lý theo quy định của   Luật luật sư 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012 về cơ bản kế thừa pháp lệnh Luật  sư  năm 2001, theo điều 4: “Dịch vụ  pháp lý của luật sư  bao gồm tham gia tố 
  5. 5 tụng, tư  vấn pháp luật, đại diện ngoài tố  tụng cho khách hàng và các dịch vụ  pháp lý khác”.  Trong hoạt động tư pháp, hoạt động xét xử được coi là khâu trọng tâm vì    ở đây biểu hiện sự tập trung và thể  hiện đầy đủ  quyền tư  pháp, là nơi trên cơ  sở kết quả điều tra, truy tố và bào chữa, Toà án nhân danh Nhà nước đưa ra phán   xét một người có tội hay không có tội. Do vậy một phán xét chính xác, khách  quan và đúng pháp luật hay không, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân có   được bảo đảm hay không phụ  thuộc vào quá trình điều tra, truy tố  và xét xử từ  phía cơ quan tiến hành tố tụng, mặt khác từ phía hoạt động tích cực của luật sư  với vai trò là người bào chữa cho bị can, bị cáo và góp phần bảo vệ công lý.Hoạt  động của luật sư không phải là hoạt động tư pháp nhưng lại có mối liên hệ gắn   chặt với hoạt động tư  pháp, hỗ  trợ  cho hoạt động tư  pháp.Vai trò của luật sư  trong hoạt động tố  tụng có vị trí đặc biệt quan trọng, góp phần bảo vệ công lý,  bảo vệ  quyền, lợi ích hợp pháp cho bị  can, bị  cáo, giúp giải quyết vụ  án khách  quan, đúng pháp luật. 1.3.2.Quyền và nghĩa vụ của luật sư Trước hết, luật sư trước hết có các quyền và nghĩa vụ  theo luật luật sư,  đó là phải tuân theo các nguyên tắc hành nghề  theo quy định tại điều 5 và các  điều cấm quy định tại điều 9, cụ  thể  quyền và nghĩa vụ  của luật sư  được quy  định rõ rngf tại điều 21 luật luật sư 2006 sửa đổi và bổ sung năm 2012. a, Quyền của luật sư Luật sư  được pháp luật bảo đảm quyền tham gia tố  tụng theo quy định  của Luật luật sư  và pháp luật tố  tụng. Luật luật sư  đảm bảo các quyền được  tiến hành dịch vụ  pháp lý đại diện khách hàng tham gia tố  tụng một cách hợp   pháp. Nhà nước nghiêm cấm các cơ  quan tổ  chức, cá nhân can thiệp trái pháp  luật vào hoạt động tham gia tố tụng của luật sư. Việc đại diện cho khách hàng tham gia tố tụng sau khi dã xác lập phạm vi,  nội dung, thời hạn trong Hợp đồng dịch vụ  pháp lý với khách hàng thì luật sư  không phải thông qua thủ tục ủy quyền theo quy định của pháp luật Luật luật sư  cung cho phép luật sư  được tự  do lựa chọn hình thức hành  nghề, tổ  cức hành nghề, và phạm vi hành nghề  trên lãnh thổ  Việt Nam hoặc  ở  ước ngoài. b, Nghĩa vụ của luật sư Luật sư  có nghĩa vụ  tuân theo các quy định pháp luật tại Luật luật sư và  páp luật tố tụng khi tham gia hoạt động tranh tụng. Trước hết, luật sư phải tuân 
  6. 6 thủ Hiến pháp và pháp luật, các quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư,   độc lập, trung thực, tôn trọng sự  thật khách quan. Sử  dụng các biện pháp họp   pháp để bảo vệ tốt nhất lợi ích cho khách hàng. Khi tham gia hoạt động tố  tụng, luật sư phải chấp hành các nội quy, các   quy định có liên quan trong quan hệ  với cơ  quan tiến hành tố  tụng, người tiến  hành tố  tụng, có thái độ  tôn trọng người tiến hành tố  tụng mà luật sư  tiếp xúc   khi làm việc. Ngoài ra, luật sư phải có mặt kịp thời, đầy đủ  khi có yêu cầu tham gia tố  tụng trong các vụ  án do cơ  quan tiến hành tố  tụng yêu cầu, thực hiện việc trợ  giúp pháp lý và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ bắt buộc.
  7. 7 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ  HOẠT ĐỘNG THAM GIA  TỐ TỤNG CỦA LUẬT SƯ 2.1. Những quy định của pháp luật  2.1.1. Pháp luật Luật sư và Đạo đức nghề nghiệp Luật sư Khi tham gia tố  tụng, luật sư  vừa phải tuân thủ  các quy định pháp luật   dành cho công dân Việt Nam nói chung, Luật luật sư nói riêng và đồng thời tuân  thủ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư. Khoản 1, Điều 27, Luật luật sư quy định: “Điều 27. Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư 1. Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định của pháp   luật về tố tụng và Luật này.” Luật luật sư quy định về các nguyên tắc, điều kiện, phạm vi, hình thức hành  nghề, tiêu chuẩn, quyền và nghĩa vụ của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư.  Quy tắc Đạo đức và  Ứng xử  nghề  nghiệp luật sư  quy định những chuẩn  mực về  đạo đức và  ứng xử  nghề  nghiệp, là thước đo phẩm chất đạo đức và  trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư. Mỗi luật sư phải lấy Quy tắc Đạo đức và   Ứng xử nghề nghiệp này làm khuôn mẫu cho sự tu dưỡng, rèn luyện để giữ gìn  uy tín nghề  nghiệp, thanh danh của luật sư, xứng đáng với sự  tôn vinh của xã  hội.” 2.1.2. Pháp luật tố tụng hình sự Bộ  luật Tố tụng hình sự  năm 2015 đã có một loạt những quy phạm pháp   luật mới đảm bảo cho người bào chữa thuận lợi trong quá trình tham gia tố tụng  hình sự. Cụ thể như sau: Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận “nguyên tắc tranh   tụng trong xét xử  được bảo đảm”. Bộ  luật Tố  tụng hình sự  năm 2003 mặc dù  thể  hiện được tính tranh tụng  ở  một số  nội dung, nhưng những quy định còn  mang nặng tính thẩm vấn. Vì thế, trên thực tiễn thời gian qua, sự  thống nhất   thực hiện việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa vẫn chưa được đảm  bảo. Trên nền tảng nguyên tắc hiến định, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã   bổ sung nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”.  Ở Bộ  luật Tố tụng hình sự năm 2003, thời điểm sớm nhất mà người bào  chữa tham gia tố  tụng là từ  khi có quyết định tạm giữ. Tuy nhiên, Bộ  luật Tố  tụng hình sự năm 2015 đã thể hiện sự tiến bộ khi quy định thời điểm sớm nhất   mà người bào chữa tham gia tố tụng là từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của  
  8. 8 cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều   tra. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã mở rộng quyền của người bào chữa.   Người bào chữa có quyền được gặp, hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can,   bị cáo, quy định này triệt tiêu việc những người có thẩm quyền gây khó khăn cho  người bào chữa khi muốn gặp thân chủ  của mình. Một số  quy định mới khác  cũng đã cho thấy một bước tiến lớn góp phần nâng cao chất lượng tranh tụng,  như: Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì   người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can. Bộ luật Tố tụng hình   sự năm 2003 quy định người bào chữa muốn biết về thời gian, địa điểm hỏi cung   bị can thì phải đề nghị với cơ quan điều tra báo trước. Bộ luật Tố tụng hình sự  năm 2015 đã đặt trách nhiệm cho cơ  quan có thẩm quyền trong việc báo trước  về  thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành   hoạt động điều tra khác cho người bào chữa, tránh việc những người có thẩm  quyền chậm trễ, gây khó khăn cho người bào chữa đối với nội dung này. Việc lựa chọn người bào chữa, thủ tục đăng ký bào chữa trong Bộ luật Tố  tụng hình sự năm 2015 được quy định chi tiết, cụ thể, và thuận lợi để đảm bảo   quyền bào chữa của người bị buộc tội. 2.1.3.Pháp luật tố tụng dân sự Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có tổng số  517 điều, được bố  cục thành   10 phần, 42 chương. Theo tinh thần cụ thể hóa "nguyên tắc tranh tụng trong xét  xử  được bảo đảm đã được Hiến pháp quy định,  Bộ  luật tố  tụng dân sự  năm  2015 đã sửa đổi, bổ  sung nguyên tắc “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử”   xem  đây là một trong những nội dung quan trọng nhất trong việc  hoàn thiện các thủ  tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn   trọng và bảo vệ quyền con người; thực hiện mô hình tố tụng “ xét hỏi kết hợp   với tranh tụng’. Theo quy định tại Điều 23  Bộ  luật tố  tụng dân sự  năm 2015, thì “Trong  quá trình giải quyết vụ án dân sự, Tòa án bảo đảm để các bên đương sự, người   bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh luận để  bảo vệ  quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”. Theo quy định về  thủ  tục tố  tụng tại phiên tòa, thì “tranh luận” là một phần của tố  tụng phiên tòa sơ  thẩm,   phúc thẩm xét xử vụ án dân sự được tiến hành sau khi kết thúc phần xét hỏi. Như vậy, trong hoạt động tố  tụng, luật sư có địa vị  pháp lý là người bảo  vệ  quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Các quyền và nghĩa vụ  cơ  bản  cũng như thủ tục tham gia tiến hành tố  tụng đã được quy định rõ ràng. Luật sư  tham gia vào việc thu thập tài liệu chứng cứ, tham gia ý kiến pháp lý, hỏi và  
  9. 9 tranh luận trong quá trình xét xử. Tòa án sẽ  căn cứ  vào các chứng cứ  thu thập  được và lập luận của các bên để có cách giải quyết đúng đắn. 2.2. Thực trạng hoạt động tham gia tố tụng của Luật sư  ở Việt Nam hiện   nay Khái quát chung, có thể  nhận thấy đồng thời với quá trình hoàn thiện có  thể  chế  về  luật sư   ở  Việt Nam, hoạt  động tham gia tranh tụng đã có những  bước chuyển biến quan trọng, nâng cao vị  thế  của luật sư­ từng bước đáp ứng   được yêu cầu dân chủ  hóa các mặt trong đời sống chính trị­ xã hội. Hoạt động   nghề  nghiệp của luật sư đã góp phần bảo vệ  công lý, phát triển kinh tế  và xây   dựng xã hội công bằng, dân chủ. Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được,   hoạt động tranh tụng cũng bộc lộ những hạn chế. Cụ thể như sau: 2.2.1.Ưu điểm a, Môi trường pháp lý Điều kiện cho luật sư hành nghề tranh tụng đã có được thuận lợi cơ bản   sau khi ban hành Pháp lệnh luật sư năm 2001 và nay là Luật Luật sư (có hiệu lực   từ  ngày 01/01/2007) và các qui định pháp luật tố  tụng khác thực sự  là bước đột  phá về việc xác định vai trò, vị trí và sự tham gia của luật sư trên tinh thần quán  triệt   Nghị   quyết   số   08/NQ­TW   ngày   02/01/2002   và   Nghị   quyết   số   49   ngày  02/06/2005 của Bộ  Chính trị  Ban Chấp hành Trung  ương Đảng cộng sản Việt   Nam. Theo đó việc tranh tụng trở thành trọng tâm của một phiên tòa và nói một   cách khác, nó đã trở  thành tiêu chuẩn tố  tụng hàng đầu, quan trọng nhất để  tòa   án dựa vào đó đưa ra những phán quyết đúng với sự  thật khách quan của vụ  án  và đúng pháp luật. b, Chất lượng tranh tụng của luật sư Kỹ năng tham gia tố tụng được phát triển tương đối đồng đều, vai trò của  luật sư tại phiên tòa đã thực sự góp phần giúp cho tòa án xét xử công minh, đúng  người, đúng tội, đúng pháp luật. Không ít phiên tòa, thông qua phần xét hỏi hoặc   tranh luận của luật sư làm sáng tỏ  nhiều tình tiết có thể  làm thay đổi nội dung  vụ án hoặc phổ biến hơn, những tình tiết mà luật sư tham gia làm rõ ấy, có thể  bảo vệ  quyền lợi hợp pháp của khách hàng trước pháp luật mà nếu không có  luật sư thì họ có thể sẽ bị thiệt thòi, không được tòa án xem xét. Chất   lượng   tranh   tụng   của   giới   luật   sư   trong   thời   gian   qua   cho   th ấy   chuyên nghiệp và có hiệu quả  hơn, hầu hết các luật sư  đã tự  khẳng định mình  với năng lực chuyên môn cao trong hoạt động bào chữa, thể  hiện được quyền   bình đẳng với kiểm sát viên (công tố) trong tranh tụng. Có khá nhiều phiên tòa   hoặc trong khi nghiên cứu hồ  sơ  chuẩn bị  xét xử, nhiều luật sư  cũng đã phát   hiện những tình tiết chưa rõ ràng, chưa đáp  ứng được yêu cầu làm rõ sự  thật  
  10. 10 khách quan của vụ  án dẫn đến hoãn xử  để  điều tra bổ  sung. Nhiều luật sư  đã  thẳng thắn chỉ  rõ những sai phạm, thậm chí là vi phạm pháp luật trong hoạt   động tố tụng của người và cơ quan tiến hành tố tụng. Ở một số phiên tòa, bản lĩnh nghề nghiệp của luật sư còn thể hiện ở chỗ  nêu lên được nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm (thường là các loại tội  phạm tham nhũng, tội phạm vi phạm trật tự quản lý kinh tế, vi phạm trật tự an   toàn xã hội...) để làm tiền đề, là cơ sở  hoạt động bào chữa cho khách hàng của  mình và đồng thời còn yêu cầu tòa án nêu trong bản án kiến nghị  cơ  quan, tổ  chức đó phải khắc phục sửa chữa yếu kém trong quản lý để  phòng tránh, ngăn  ngừa tội phạm tương tự. Nhiều ý kiến băn khoăn, vướng mắc của luật sư trong quá trình thực tiễn  nghiên cứu hồ sơ, hoạt động bào chữa đã góp phần quan trọng thúc đầy việc sửa   đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện các quy định tố tụng hình sự và các văn bản pháp  quy khác có liên quan. Điển hình là các qui định về xét hỏi, tranh luận, đối đáp...  Tòa án nhân dân tối cao cũng đã ra nghị  quyết về  những mẫu bản án sơ  thẩm,   phúc thẩm buộc các hội đồng xét xử phải phân tích chấp nhận hoặc không chấp   nhận ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa. 2.2.2.Hạn chế a, Những khó khăn khách quan Đối với hoạt động tranh tụng trong vụ án hình sự, việc tham gia của luật sư với   tư cách là người bào chữa cho bị can, bị cáo còn nhiều hạn chế như: ­ Trong giai đoạn điều tra: Từ  thực tiễn trong quá trình hoạt động nghề  nghiệp luật sư, hầu hết các  luật sư đều nhìn nhận rằng trong suốt quá trình tố tụng điều tra, truy tố, xét xử  thì những khó khăn của luật sư tham gia trong giai đoạn điều tra được phản ánh  nhiều nhất. Đặc biệt, nổi cộm lên vấn đề luật sư thường hay bị cơ quan điều tra   gây khó khăn trong việc cấp Giấy chứng nhận người bào chữa, tham gia hỏi   cung bị  can, gây  ảnh hưởng đến quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra. Mặc   dù cản ngại này có xu hướng ngày càng giảm, nhưng vẫn là điều các luật sư ái   ngại nhất. Trong thực tế  ở nhiều địa phương, để  được cấp Giấy chứng nhận người  bào chữa, luật sư phải xuất trình đơn yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, thẻ  luật sư  và chứng chỉ  hành nghề  luật sư. Trường hợp người bị  tạm giữ, bị  can   đang bị tạm giam thì việc có được đơn yêu cầu nhờ luật sư của họ là không thể;   còn đơn yêu cầu luật sư  của thân nhân người bị  tạm giữ, bị  can đang bị  tạm   giam thì phải chờ cơ quan điều tra xác minh quan hệ, rồi hỏi ý kiến của người bị  tạm giữ, bị can mới tiến hành cấp Giấy chứng nhận.
  11. 11 Thực tiễn cho thấy việc cấp Giấy chứng nhận người bào chữa trong thời  hạn 03 ngày như  pháp luật quy định là rất hiếm; chỉ  những trường hợp trong  những vụ án chỉ định theo đề nghị của cơ quan điều tra thì việc cấp Giấy chứng   nhận người bào chữa mới được thuận lợi. Thậm chí, có nơi cán bộ điều tra còn   dùng biện pháp nghiệp vụ để  bị  can đang bị  tạm giam từ chối luật sư. Vấn đề  này được xem như  bài toán nan giải, đã được các luật sư  và giới truyền thông  nêu lên rất nhiều lần, nhiều nơi từ  trước đến nay nhưng sự  chuyển biến theo   hướng tích cực còn chậm. Sau khi có được Giấy chứng nhận người bào chữa, luật sư  xin được gặp   bị can đang bị tạm giam cũng còn gặp nhiều khó khăn. Việc gặp bị can trong giai  đoạn điều tra bắt buộc phải có Điều tra viên, nên khi luật sư đề  nghị  được gặp  bị  can thì thông thường là lần đầu không được đáp  ứng, các lần hẹn sau cũng   không chắc chắn gặp được vì Điều tra viên lấy lý do bận công việc đột xuất… Khi tham gia hỏi cung bị can thì luật sư chỉ được hỏi khi Điều tra viên đồng ý và  có trường hợp phải đưa câu hỏi cho Điều tra viên xem xong mới được hỏi câu   hỏi đó. Chính vì vậy, luật sư  tham gia trong giai đoạn điều tra thường chỉ  mang   tính hình thức, không giúp ích gì nhiều được cho khách hàng. Do đó, pháp luật về  tố tụng và pháp luật về luật sư cần phải có quy định tháo gỡ những vướng mắc   này. ­ Trong giai đoạn xét xử Vấn đề  cấp Giấy chứng nhận người bào chữa, tiếp xúc với bị  cáo trong   giai đoạn chuẩn bị xét xử  có thuận lợi hơn so với giai đoạn điều tra, nhưng tại  một số  Tòa án vẫn không có được sự  thận lợi như  vậy. Những vụ  án khi đến  giai đoạn xét xử, bị  cáo mới nhờ  luật sư  thì việc xin cấp Giấy chứng nhận  người bào chữa của luật sư lại gặp phải khó khăn giống như  tại cơ  quan điều   tra. Thực tế cho thấy luật sư chỉ được cấp Giấy chứng nhận người bào chữa khi  có giấy yêu cầu nhờ luật sư bào chữa do chính bị can, bị cáo ký. Nhưng khi vào  Trại tạm giam để gặp bị can, bị cáo viết giấy yêu cầu luật sư bào chữa thì Trại  tạm giam yêu cầu phải có Giấy chứng nhận người bào chữa của Tòa án.  Trong quá trình xét xử, việc đại diện Viện kiểm sát không chịu đối đáp  tranh luận; hiện tượng Chủ tọa phiên tòa và thậm chí cả Hội thẩm nhân dân cắt  ngang lời luật sư  khi luật sư  đang trình bày đúng trọng tâm vụ  án vẫn thường  xảy ra; nội dung tranh tụng của luật sư không được ghi nhận trong bản án (thực  tế  cho thấy rất ít bản án có ghi ý kiến tranh  luận của luật sư). Việt Nam theo  mô hình xét xử  xét hỏi thẩm vấn, bản chất của nó là việc xét xử  chủ  yếu dựa   vào kết quả điều tra, nên Thẩm phán trước khi xét xử đã bị kết quả điều tra chi  phối, nếu bị cáo khai đúng sự  thật nhưng khác với lời khai trong giai đoạn điều   tra thì bị coi là phản cung, khai báo không đúng sự thật.
  12. 12 ­ Sau khi xét xử sơ thẩm Theo quy định của pháp luật, sau khi vụ  án được xét xử  sơ  thẩm, bị  cáo   được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể  từ  ngày tuyên án. Tuy nhiên,   trong thời gian 15 ngày này, các Trại tạm giam không cho phép luật sư được tiếp   xúc bị cáo với lý lẽ cho rằng luật sư chỉ được cấp Giấy chứng nhận người bào  chữa trong gian đoạn xét xử sơ thẩm. Lúc này, Tòa án đã xét xử sơ thẩm rồi thì  Giấy chứng nhận người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm không còn giá   trị pháp lý nữa nên luật sư không có quyền gặp bị cáo. Nếu luật sư muốn gặp bị  cáo thì phải chờ đợi đến giai đoạn xét xử phúc thẩm. Như vậy, có thể thấy cán   bộ  Trại tạm giam đã cố  tình gây khó khăn cho luật sư trong quá trình thực hiện   quyền bào chữa cho bị cáo. Thời hạn kháng cáo 15 ngày có ý nghĩa vô cùng quan  trọng đối với bị  cáo,  ảnh hưởng đến sinh mệnh chính trị  của bị  cáo. Tuy nhiên  trong thực tế, có những lỗ  hổng pháp lý đã bị  lợi dụng, gây khó khăn cho hoạt   động nghề  nghiệp luật sư,  ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền được bào chữa  của bị cáo. Trong mảng tố tụng dân sự, hành chính, luật sư trong quá trình hoạt động  nghề  nghiệp ít gặp phải vướng mắc hơn so với mảng tố tụng hình sự. Những   khó khăn mà  các luật sư gặp phải chủ yếu trong việc thu thập chứng cứ, nhất là  khi chứng cứ  nằm tại cơ quan nhà nước, tổ  chức mà các cơ  quan, tổ  chức này   không hợp tác với luật sư… Riêng đối với các vụ  án hành chính, cần nhìn nhận một thực tế  rằng các  luật sư ít muốn tham gia bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người khởi kiện là các  cá nhân, tổ chức có quyền lợi hợp pháp bị vi phạm. Bởi lẽ, đa số trong các vụ án   hành chính, bên khởi kiện bị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện, mà trong số đó nhiều  vụ  cái sai thuộc về  bên bị  kiện. Tư  tưởng coi lợi ích nhà nước lớn hơn lợi ích   của cá nhân, tổ chức và muốn bảo vệ uy tín của lãnh đạo, cán bộ  công chức đã   và đang ảnh hưởng đến kết quả giải quyết các vụ án hành chính hiện nay. Một số  ít luật sư  còn yếu về  nghiệp vụ  và kỹ  năng nghề  nghiệp, chưa  cập nhật được các văn bản pháp luật cần thiết cho hoạt động bào chữa. Chưa  phát huy hết trách nhiệm của luật sư trong khi pháp luật tố tụng đã qui định đầy  đủ, cụ  thể  là chưa phân biệt được “quyền luật sư” qui định tại khoản 2 và  “nghĩa vụ  của luật sư” theo khoản 3 Điều 58 của Bộ  luật Tố  tụng Hình sự.  Quyền kháng cáo, khiếu nại của luật sư trong một số trường h ợp cần thiết v ẫn   không được luật sư  vận dụng. Sự nhầm lẫn, thiếu sót này không chỉ  làm thiệt  hại quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng mà còn làm tổn thất uy tín của  giới luật sư nói chung. Nhiều luật sư còn lúng túng trong hoạt động của mình tại phiên tòa khi lợi  ích của khách hàng đối nghịch, mâu thuẫn nhau. Có luật sư bào chữa cho bị  cáo 
  13. 13 này còn thời cũng có luật sư  và khách hàng của mình lại mâu thuẫn nhau trong  phần bào chữa hay không hiểu ý nhau trong phần xét hỏi. Có trường hợp bị  cáo   khẳng định không phạm tội thì luật sư  bào chữa lại hùng biện với KSV chứng   minh thân chủ mình phạm tội nhẹ hơn. Có trường hợp luật sư  vắng mặt gởi bản bào chữa xin giảm nhẹ  hình  phạt cho bị cáo về tội mà VKS truy tố nhưng diễn biến phiên tòa cho thấy KSV   đã rút phần truy tố đó tại phiên tòa. Hoặc cũng có nhiều trường hợp luật sư khi   thất KSV đề nghị mức án thấp hoặc cho hưởng án treo thì lên tiếng nhất trí, cảm  ơn VKS và đề nghị HĐXX chấp nhận đề  nghị của VKS, trong khi đó, thực tiễn  đã có phiên tòa HĐXX đã xử tội danh nhẹ  hơn với mức án cũng nhẹ  hơn VKS,  luật sư đề nghị. Quá trình tham gia phiên tòa, một số luật sư đã nêu ý kiến và đòi hỏi diễn   biến phiên tòa phải theo mô hình tố tụng tranh tụng­ vấn đề này còn thuộc phạm   vi nghiên cứu lý luận­ học thuật. Còn thực tiễn, chúng ta đều phải chấp hành các   qui định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
  14. 14 CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP 3.1.Hoàn thiện các quy định của pháp luật về  hoạt động tham gia tố  tụng  của luật sư Để  bảo đảm cho luật sư  tham gia tố  tụng được thuận lợi, thực hiện tốt  quyền và nghĩa vụ  của người bào chữa, người bảo vệ  quyền lợi hợp pháp của   đương sự, qua đó bảo đảm quyền được bào chữa của người bị tạm giữ, của bị  can, bị  cáo và các đương sự, cần hoàn thiện các quy định của pháp luật theo  hướng như sau: Thứ  nhất, Điều 27 của Luật Luật sư  quy định về  hoạt động tham gia tố  tụng của luật sư cần quy định chi tiết hơn trên tinh thần tháo gỡ  được các khó  khăn, vướng mắc của luật sư trong hoạt động tham gia tố tụng. Quy tại Khoản   1: “Hoạt động tham gia tố  tụng của luật sư  phải tuân theo quy định của pháp  luật về tố tụng và Luật này”, là quá chung chung, chỉ là quy định về mặt nguyên   tắc, đến khi áp dụng chúng ta cần có quy định cụ thể hơn. Thứ  hai, Theo tinh thần của Hiến pháp và chiến lược cải cách tư  pháp,  thiết nghĩ cần bỏ  quy định cấp giấy chứng nhận luật sư  tham gia tố  tụng tại   Khoản 2 Điều 27 Luật Luật sư để tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia  tố tụng, đảm bảo tính tranh tụng trong tố tụng, đảm bảo quyền bào chữa của bị  cáo, bị can, người bị tạm giữ và quyền được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của  đương sự. Việc xin cấp giấy chứng nhận người bào chữa, người bảo vệ quyền   lợi hợp pháp của đương sự là biểu hiện của cơ chế “xin­cho”, gây khó khăn cho  việc thực hiện quyền bào chữa của người bị  tạm   giữ, bị  can, bị  cáo và các   đương sự. Thay vì quy định thủ tục cấp Giấy chứng nhận tham gia tố tụng của   luật sư như hiện nay, có thể thay bằng thủ tục “thông báo tham gia tố tụng của   luật sư”. Theo đó, khi luật sư  có yêu cầu của khách hàng để  tham gia tố  tụng   bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp hoặc bào chữa cho chính khách hàng đó hoặc  
  15. 15 cho người khác thì luật sư chỉ cần thông báo đến cơ  quan tiến hành tố  tụng về  việc luật sư tham gia tố tụng. Hồ sơ thông báo bao gồm văn bản thông báo của   luật sư (do chính luật sư đó lập, ký tên, không cần phải thông qua tổ chức hành  nghề hay Đoàn Luật sư) và yêu cầu luật sư bằng văn bản của khách hàng. Nếu  luật sư  trực tiếp thông báo tại cơ  quan tiến hành tố  tụng thì luật sư  cần xuất   trình Thẻ  luật sư  để  chứng minh tư  cách của mình, trường hợp gửi hồ  sơ  qua   đường bưu điện thì mới phải cung cấp bản sao có chứng thực Thẻ Luật sư. Kể  từ thời điểm cơ quan tiến hành tố  tụng nhận được hồ  sơ  thông báo tham gia tố  tụng của luật sư  thì luật sư  được chính thức tham gia tố  tụng, được thực hiện   quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp   theo quy định của pháp luật. Cơ  quan tiến hành tố  tụng không được từ  chối  quyền tham gia tố  tụng của luật sư, trừ  trường hợp khách hàng của luật sư  (người có yêu cầu luật sư) hoặc người được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,   người được bào chữa (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) có thông báo không tiếp  tục yêu cầu luật sư. Trường hợp vẫn giữ nguyên cơ chế  này thì cần quy định cụ thể người có quyền  yêu cầu luật sư  bào chữa, bảo vệ  quyền lợi hợp pháp không chỉ  có bản thân  người bị  tạm giữ, bị  can, bị  cáo, mà những người thân thích của họ  cũng được  quyền này (người thân thích được hiểu theo quy định của Bộ  luật dân sự  hoặc  liệt kê cụ thể diện những người này). Thứ ba, trong tố tụng hình sự, cần phải có quy định bắt buộc Điều tra viên   phải thông báo rõ nội dung, địa điểm, thời gian tiến hành hỏi cung bị can để luật  sư  có thể  tham gia hỏi cung bị  can, tránh việc điều tra viên lạm quyền, mớm   cung, hoặc ép cung bị  can, để  luật sư  có điều kiện bảo vệ  quyền lợi hợp pháp  cho khách hàng. Thứ tư, cần hủy bỏ quy định hạn chế thời gian tiếp xúc bị can, bị cáo của  luật sư trong vòng 01 tiếng trong giai đoạn điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử như  quy định hiện nay. Thời gian như vậy khá eo hẹp, khiến cho luật sư không thể  tiếp cận bị  can, bị  cáo để  làm rõ các tình tiết, giúp cho Hội đồng xét xử  hiểu   đúng bản chất pháp lý của vụ án. Thứ  năm, để  tìm ra chân lý, luật sư  cũng như  như  cơ  quan tiến hành tố  tụng phải tiến hành việc xác minh, thu thập chứng cứ. Vì không có các quy định  pháp luật rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của luật sư đối với việc yêu cầu các cơ  quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, nên luật sư sẽ gặp rất nhiều khó khăn  trong việc làm rõ sự thật của vụ án. Vì vậy, cần phải mở  rộng quyền thu thập   chứng cứ của luật sư như yêu cầu các cơ quan có trách nhiệm đáp ứng các yêu  cầu về thu thập và xác minh chứng cứ của luật sư.  3.2. Nâng cao năng lực của luật sư
  16. 16 Trong hoạt động tố  tụng, tranh tụng của luật sư  tại phiên tòa là vấn đề  quan trọng và cốt lõi. Tuy nhiên để đạt được hiệu quả  như mong muốn, thuyết   phục được những người tiến hành tố tụng tại phiên tòa, bảo vệ  tốt nhất lợi ích  cho khách hàng, luật sư luôn phải không ngừng học tập kiến thức chuyên môn,  cũng như rèn luyện các kĩ năng nghề nghiệp. Thứ  nhất, cần nghiên cứu kỹ  lưỡng hồ  sơ  vụ  án; nghiên cứu bản cáo   trạng; nghiên cứu kết luận điều tra của cơ  quan điều tra; nghiên cứu văn bản   pháp luật liên quan tới vụ án; nghiên cứu văn bản tố tụng; nghiên cứu về tài liệu   liên quan tới vụ  án; nghiên cứu vấn đề  giám định; các loại văn bản giấy tờ  chứng cứ của bị can, bị cáo; nghiên cứu các tài liệu; nghiên cứu các lĩnh vực khoa  học có tính chất gần, liên quan, thu thập tất cả  các tài liệu, chứng cứ  có giá trị  chứng minh. Luật sư  là người nắm rõ và tổng hợp được tất cả  những vấn đề  của vụ án, có sự  đánh giá, phân tích khách quan đến từng chi tiết chứng cứ, tìm   ra những mâu thuẫn trong lời khai, minh chứng là cơ sở để lập luận bảo vệ cho   thân chủ của mình tại phiên tòa. Thứ hai, cần gặp gỡ trao đổi với khách hàng, đặt ra các câu hỏi để  khách  hàng có định hướng đúng về  vụ  việc của mình; bên cạnh đó cũng cần phải có   kiến thức, kinh nghiệm trong việc hỏi, lấy lời khai khi tham gia tiếp xúc gặp gỡ  bị  can, bị  cáo; có kinh nghiệm sử  dụng các thiết bị  để  lưu trữ  các thông tin do  khách hàng cung cấp như máy ghi âm, ghi hình.  Thứ ba, cần thu thập được các tài liệu chứng cứ liên quan tới vụ việc, đặc  biệt cần nắm bắt được những chứng cứ quan trọng nhằm gỡ tội hoặc giảm nhẹ  tội cho thân chủ, hoặc tài liệu chứng cứ quyết định đến quyền và nghĩa vụ  của  khách hàng trong vụ án dân sự, kinh doanh thương mại, hành chính trên tinh thần  tuân thủ pháp luật, không đi ngược lại với đạo đức nghề nghiệp của luật sư;  Đây là quá trình chuẩn bị tiền tố tụng, có vai trò khá quan trọng: chuẩn bị  những luận cứ quan trọng để bảo vệ cho thân chủ; chuẩn bị được câu hỏi, chiến  thuật hỏi để tham gia quá trình tranh tụng; chuẩn bị các tài liệu liên quan tới vụ  án; luật sư  cũng cần phải có phẩm chất đạo đức nghề  nghiệp tốt và kỹ  năng   hùng biện tranh tụng lôi cuốn, thuyết phục sự chú ý của người tiến hành tố tụng  bằng các lập luật vững chắc, chứng cứ xác đáng nhằm làm có lợi cho thân chủ  mà luật sư tham gia bảo vệ. Thứ tư, trong quá trình tham dự phiên tòa luật sư phải có chiến thuật trong   việc nêu câu hỏi và đặt câu hỏi hướng vào các tình tiết khách quan, chứng cứ có  lợi cho thân chủ được bảo vệ. Hình dung được kịch bản cho việc hỏi, đối thoại   với bị can, bị cáo, bên có quyền và nghĩa vụ đối lập và những người tham gia tố  tụng khác. Luật sư  phải thực sự  linh hoạt,  ứng biến trong các tình huống diễn   biến tại phiên tòa; luật sư  có chiến thuật vận dụng nhuần nhuyễn kiến thức   pháp lý vận dụng theo hướng có lợi nhất để bảo vệ cho thân chủ; có chiến thuật  trong việc đưa ra các câu hỏi cho người làm chứng để họ cung cấp các thông tin 
  17. 17 một cách chính xác, khách quan, chất vấn những tình tiết trong vụ án có tính chất   mâu thuẫn bất hợp lý vận dụng để bảo vệ cho thân chủ. Thứ  năm, luật sư  cần phải được đào tạo kỹ  càng chuyên sâu về  chuyên  môn, nghiệp vụ, kỹ năng tranh tụng. Nhà nước có chính sách hợp lý, đãi ngộ chú  trọng công tác đào tạo luật sư giỏi, để làm thay đổi nhận thức hiện nay đối với  giới luật sư. Kiến tạo được cán cân công bằng giữa luật sư  phải thực sự bình   đẳng với cơ  quan tiến hành tố  tụng khác, có như  vậy mới khách quan, công   bằng, tránh được những vụ án oan sai như báo chí đưa ra trong thời gian gần đây. Để vai trò của luật sự thực sự phát huy được hiệu quả trong hoạt động xét  xử, các cơ quan có thẩm quyền cũng cần phải sớm xây dựng và ban hành các văn   bản hướng dẫn chi tiết Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về thủ tục tranh tụng   của luật sư tại phiên tòa, trong đó cần quy định điều kiện thuận lợi để  cho luật  sư được thực hiện đầy đủ các quyền của mình đã được pháp luật quy định. KẾT LUẬN Vai trò quan trọng của luật sư trong xã hội là không thể  phủ  nhận. Hoạt   động hành nghề  luật sư  có mối quan hệ  hữu cơ  đối với việc xây dựng thành  công nhà nước ph p quyền xã hội chủ nghĩa. Cùng với qu trình phát triển của đất   nước và hệ thống ph p luật, nghề luật sư đã có những bước thăng trầm lịch sử.   Pháp luật về luật sư và pháp luật tố tụng tuy đã có đóng góp tích cực cho sự phát   triển của nghề luật sư, tiến gần hơn với các mô hình tố  tụng tiên tiến trên thế  giới, nhưng vẫn còn nhiều bất cập gây khó khăn cho hoạt động hành nghề  luật  sư  và các cá nhân, tổ chức có liên quan. Do đó tôi chọn đề  tài: Phân tích và bình  luận quy định: “Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo pháp luật  tố  tụng và Luật luật sư” theo quy định tại khoản 1, điều 27, Luật luật sư  năm   2012. Tiểu luận đã cố  gắng làm rõ những vấn đề  lý luận về  luật sư  và hoạt  động tham gia tố tụng của luật sư giúp người viết và người đọc có được những  hiểu biết cơ bản nhất, nền tảng nhất về nghề luật sư, địa vị pháp lý của luật sư  trong từng hình thức tố tụng. Dựa trên nền tảng đó, tiểu luận tập trung phân tích  một cách có hệ thống các quy định của pháp luật về hành nghề luật sư nói chung  và hoạt động tham gia tố tụng của luật sư nói riêng, thấy được những ưu điểm,   hạn chế  của môi trường pháp lý và năng lực của luật sư  hiện nay. Đồng thời,   trên cơ sở thực tế nghề nghiệp của bản thân người viết cũng đưa vào tiểu luận  một số vấn đề về thực trạng tham gia tố tụng hình sự,dân sự, hành chính ở Việt   Nam hiện nay để có được cái nhìn toàn diện về  nghề  luật sư trong xã hội hiện 
  18. 18 nay. Từ đó, kiến nghị một số vấn đề cần thiết để hoàn thiện hệ thống pháp luật   và nâng cao năng lực của bản thân các luật sư. Sự phát triển của nghề luật sư không chỉ phụ thuộc vào nhận thức và hành  động của mỗi luật sư mà nó là một quá trình lịch sử trong tổng hoà sự  tác động   của tất cả  cả  yếu tố  trong xã hội. Do đó để  nghề  luật sư  khẳng định được vị  thế của mình trong xã hội cần sự đóng góp toàn xã hội, cùng chung tay góp sức   để xây dựng một đất nước Việt Nam hùng cường, vững mạnh./. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Luật sư và Nghề luật sư. 2008.  Học viện tư pháp 2. Nguyễn Thành Vĩnh. 2014.  “Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự” 3. LS Phan Trung Hoài. 2014. “Chuyện về chiếc thẻ luật sư” 4. TS. Nguyễn Đức Mạnh. 2015. “Đặc điểm mô hình tố  tụng tranh tụng và  phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự ở Việt Nam” 5. Ths. Hoàng Thị  Huyền Trang. 2015. “Những điểm mới của Bộ  luật tố  tụng hình sự  năm 2015 trong việc góp phần nâng cao chất lượng tranh   tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp” 6. Hoàng Thị Anh Thư. 2014. “Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam”.  Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. 7. TS. Mai Bộ. 2014. “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự’’ 8. Phạm Thị Hường. 2013. “Vai trò của luật sư trong tố tụng dân sự’’.Luận   văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. 9.  http://luanvanaz.com/thuc­trang­tham­gia­tung­cua­luat­su.html 
  19. 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2