Tiểu luận: Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết
lượt xem 47
download
Tiểu luận: Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết nhằm trình bày về những tranh chấp, bất đồng trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất nhập khấu hàng hóa. Giải quyết những tranh chấp, bất đồng trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất nhập khấu hàng hóa.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết
- Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết Phần 1: NHỮNG TRANH CHẤP, BẤT ĐỒNG TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẤU HÀNG HÓA Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu có thể xảy ra những tranh chấp, bất đồng sau: 1.1 Các tranh chấp phát sinh liên quan đến việc thực hiện hợp đồng của người bán: Người bán không cung cấp hàng hóa hoặc cung cấp hàng hóa không phù hợp với quy định của hợp đồng mua bán mà đôi bên đã ký kết hoặc cung cấp hàng hóa không đúng với sự mong đợi của người mua. 1.1.1 Tranh chấp về nghĩa vụ giao hàng: Người bán giao hàng không đúng thời hạn, địa điểm, thiếu số lượng,không đúng chất lượng không đúng tên gọi, quy cách, chủng loại ,hoặc không giao hàng…) Về số lượng: Người bán phải giao hàng phù hợp với hợp đồng về mặt số lượng. Như vậy, người bán bị coi là vi phạm hợp đồng khi chỉ giao một số lượng hàng hóa thực tế ít hơn số lượng quy định. Người mua có quyền từ chối phần dư ra khi người bán giao vượt quá số lượng. - Trường hợp đối tượng của hợp đồng là những hàng hóa cá biệt, hàng đặc định hoặc các mặt hàng số lượng nhỏ với đơn vị đo là cái, chiếc…như máy móc thiết bị, ô tô, xe gắn máy,…-> người bán buộc phải tuân thủ đúng số lượng trong hợp đồng. - Đối tượng của hợp đồng là các mặt hàng đồng loại mà số lượng được xác định bằng các đơn vị đo trọng lượng, khối lượng, dung tích như tấn, tạ, mét khối như ngũ cốc, nguyên vật liệu,…và hợp đồng thường quy định một số lượng phỏng chừng -> người bán có quyền giao với số lượng chênh lệch trong tỷ lệ dung sai quy định. 1
- Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết Ví dụ 1: TRANH CHẤP VỀ GIAO HÀNG THIẾU TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN QUẦN ÁO TRẺ EM Các bên: Nguyên đơn: Người mua – Cuba Bị đơn: Người bán – Trung Quốc Tóm tắt vụ việc: 25/12/2006: Ký hợp đồng mua bán với các điều kiện sau: - Hàng hóa: 19.500 bộ quần áo trẻ em sợi hỗn hợp với số lượng và giá cả khác nhau - Điều kiện giao hàng: FOB (cảng Trung Quốc) - Tổng trị giá hợp đồng: 404.415 USD - Phương thức đóng gói: hộp giấy - Giao hàng vào tháng 6/2007 - Số lượng giao: 900 hộp giấy bốc lên tàu của Cuba Điều 13: Các điều kiện chung về giao hàng trong hợp đồng: quy định rõ quyền của các bên được khiếu nại về việc thiếu hàng hóa. Các tình tiết: Tại cảng đến Havana, người mua xác nhận có 1 số thùng có trọng lượng không đủ. Tuy nhiên, người mua vẫn vận chuyển số hàng trên vào kho và nhờ Cơ quan giám định tại Cuba . Sau khi kiểm định, cơ quan này đã xác nhận như sau: Thiếu 606 quần/áo trong 19 thùng hàng được giám định ( trong tổng số 300 thùng) theo vận đơn B/L 52, hóa đơn SUL 30047. 2
- Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết Thiếu 1.845 quần/áo trong 61 thùng hàng theo B/L 53, hóa đơn SUL 30048 Người bán đã không chấp nhận thỏa thuận đàm phán khi người mua yêu cầu. Cho nên, người mua đã khởi kiện người bán phải chịu trách nhiệm cho số hàng thiếu & yêu cầu được bồi thường. Lập luận của bị đơn: Điều 14: Các điều kiện chung về giao hàng trong hợp đồng: Số lượng và khối lượng của hàng hóa được xác định theo vận đơn đường biển. Điều 15: Các điều kiện chung về giao hàng trong hợp đồng: Đơn vị khối lượng và đơn vị đo của bản giám định và xác nhận hàng hóa cung cấp phụ thuộc vào các tài liệu của bên bán. Bị đơn dựa theo các quy định tại điều 14 ở trên nói rằng: sau khi hàng được bốc lên tàu, đã nhận được vận đơn sạch do thuyền trưởng phát hành xác nhận là hàng hóa hợp lệ và phù hợp với số lượng ghi trong hóa đơn và bản chứng nhận số thùng hàng với các chi tiết ghi trên vận đơn. Bị đơn cho rằng: nếu xảy ra tình trạng thiếu hàng trầm trọng như Nguyên đơn biện luận thì lúc đó chắc chắn có nhiều thùng hàng rỗng đã bị mở, và như thế thì thuyền trưởng đã không ký vận đơn sạch. Bị đơn cũng biện luận rằng : Nguyên đơn cũng đã xác nhận các thùng hàng vẫn hợp lệ khi được chuyển đến. Bên cạnh đó, Nguyên đơn đã không trình được chứng nhận giám định hàng hóa để chứng minh hàng bị thiếu về khối lượng và trong thùng có nhiều thứ khác không phải là hàng hóa. Thêm nữa, bị đơn cho rằng: hàng hóa được ký theo điều kiện FOB thì theo quy định của Incoterms 2000, một khi hàng được chuyển qua lan can tàu tại cảng bốc hàng, mọi rủi ro về mất mát hoặc tổn thất đối với hàng hóa thì người mua phải chịu. 3
- Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết Bị đơn cũng dựa vào điều 15 ở trên lập luận: bên bán đã cung cấp tài liệu để chứng minh số hàng được giao phù hợp với các quy định của hợp đồng và cần phải dựa vào bản xác nhận này để xác định số hàng đã giao. Phán quyết của trọng tài: Cũng chiếu theo điều 14: các điều kiện chung về giao hàng ở trên, nhưng trọng tài lập luận rằng: mặc dù trên vận đơn đường biển có ghi tổng trọng lượng của hàng hóa nhưng không ghi rõ số hàng trong từng thùng hoặc khối lượng của mỗi thùng hàng. Bị đơn đã trình chứng nhận về hàng hoá được đóng vào thùng khi số hàng này còn ở trong nhà máy, nhưng hàng đã không được bốc trực tiếp lên tàu sau khi rời nhà máy mà được vận chuyển bằng nhiều phương tiện, rồi cuối cùng mới được bốc lên tàu. Do đó, không loại trừ khả năng việc thiếu hàng xảy ra trước khi số hàng này được bốc lên tàu. Ủy ban trọng tài cũng chiếu theo điều 13: Các điều kiện chung về giao hàng trong hợp đồng đã ký kết có qui định rõ quyền của các bên được khiếu nại về việc thiếu hàng hoá và do đó Bị đơn phải chịu trách nhiệm về việc thiếu hàng này. Về tiền phạt: - Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn 4.425,01 USD - khoản tiền đã trả cho số hàng thiếu - 180 USD phí giám định. - Bị đơn chịu phí trọng tài. Về chất lượng : Tranh chấp giữa người mua với người nhập khẩu, người bán hàng hoặc giữa các thương nhân với nhau do sản phẩm, hàng hoá không phù hợp với tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng hoặc thỏa thuận về chất lượng trong hợp đồng. 4
- Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết Tranh chấp giữa tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh với người tiêu dùng và các bên có liên quan do sản phẩm, hàng hoá không bảo đảm chất lượng gây thiệt hại cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường. Người bán phải có nghĩa vụ giao hàng phù hợp với phẩm chất quy định trong hợp đồng. Nếu là hàng đặc định thì phải giao hàng có phẩm chất hoàn toàn phù hợp với quy định của hợp đồng -> sự khác biệt về phẩm chất đều bị coi là vi phạm hợp đồng. Trường hợp người bán giao hàng có khuyết tật -> người mua có quyền đòi bồi thường bằng hiện vật bằng cách thay thế hàng hóa mới hoặc sữa chữa khuyết tật. Nếu là hàng đồng loại thì tùy thuộc các chỉ tiêu chất lượng trong hợp đồng để xét xem người bán có giao hàng đúng chất lượng hay không. Tranh chấp có thể phát sinh trong các trường hợp sau: Khi người bán cung cấp hàng có sự sai biệt về mặt phẩm chất so với quy định trong hợp đồng mà sự sai biệt đó làm cho người mua không thể sử dụng hàng hóa theo mục đích đã định. Ngược lại, sự sai biệt đó vẫn cho phép người mua sử dụng được hàng hóa theo mục đích đã định nhưng hiệu quả không cao hoặc không làm thay đổi tính chất cơ bản của hàng hóa vẫn có thể coi như phù hợp với hợp đồng nhưng đồng thời người mua sẽ đòi hỏi người bán phải giảm giá cả lại lô hàng đã giao cho phù hợp với phẩm chất thực tế của hàng hóa -> từ đó nảy sinh tranh chấp giữa người mua và người bán. Trong nghĩa vụ giao hàng của người bán, còn phải kể đến việc kiểm tra về sự phù hợp về phẩm chất và số lượng của hàng hóa thực tế đã giao với các quy định của hợp đồng. Kết quả kiểm tra thường được thể hiện qua “ Giấy chứng nhận phẩm chất và số lượng” được coi là có giá trị pháp lý khi nó phản ánh rõ ràng, trung thực 5
- Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết hàng giao thực tế, được xác định bởi tổ chức kiểm tra giám định có thẩm quyền và việc kiểm tra được tiến hành đúng thời gian, địa điểm, nội dung và phương pháp do hợp đồng quy định. Giấy chứng nhận sự phù hợp thường có 2 loại: - Giấy chứng nhận sự phù hợp không có tính chất quyết định (không có giá trị pháp lý cuối cùng). Trong hợp đồng giữa người bán và người mua đã ký kết chỉ quy định việc kiểm tra phẩm chất ở nơi đi do cơ quan X tiến hành -> trường hợp này người bán chưa hết trách nhiệm về sự phù hợp của hàng hóa ở nơi đến -> người mua có quyền bác bỏ giấy chứng nhận đó. - Giấy chứng nhận về sự phù hợp có tính chất quyết định ( có giá trị pháp lý cuối cùng). Điều này phải được thể hiện trong hợp đồng và khi đó giấy chứng nhận này ràng buộc trách nhiệm của cả hai bên. Người xuất khẩu thì muốn việc kiểm tra ở nơi đi có tính quyết định. Khi đó, người xuất khẩu có thể hết trách nhiệm về sự phù hợp của hàng hoá ở nơi đến. Cách quy định này đương nhiên có lợi cho người bán, vì hàng hoá trong mua bán quốc tế thường phải vận chuyển dài ngày, qua nhiều vùng khí hậu khác nhau nên rất dễ bị tổn thất. Tuy vậy, sự miễn trách của người bán về sự phù hợp này cũng có tính chất tương đối. Người nhập khẩu vẫn có quyền chứng minh ngược lại khi thấy có sự man trá hay thông đồng với cơ quan giám định của người bán, quá trình kiểm tra có khuyết điểm, nội dung giấy chứng nhận không rõ ràng. Người nhập khẩu, ngược lại, muốn việc kiểm tra sự phù hợp ở nơi đến có tính quyết định. Bởi vì khi đó, ở mức độ nhất định người bán phải có trách nhiệm về sự phù hợp của hàng hoá ở nơi đến. Người nhập khẩu yên tâm hơn về quá trình vận chuyển và độ chính xác của việc kiểm tra ở nước mình. Ý chí của hai bên về vấn đề này không giống nhau nên cũng có thể sẽ có tranh chấp, bất đồng xảy ra, nhất là khi trong hợp đồng không quy định rõ ràng về giá trị của giấy chứng nhận phẩm chất. 6
- Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết Ví dụ 2: TRANH CHẤP VỀ CHẤT LƯỢNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN CHÈ Các bên: Nguyên đơn : Người mua - Ba Lan Bị đơn : Người bán - Việt Nam Tóm tắt vụ việc: Hợp đồng mua bán với các điều kiện sau : Hàng hóa : 11 MT chè đen loại D và 10.5 MT chè đen loại PS Tiêu chuẩn hàng : Thủy phần: tối đa 9,0%, Tro: tối đa 6,5%, Tạp chất: tối đa: 0,3% Điều kiện giao hàng : C.I.F (F.O.B cảng Hải Phòng) Tổng trị giá hợp đồng : 21,695 USD Điều 175 Luật Thương mại Việt Nam quy định: “ Hàng được giám định theo thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoá, trong trường hợp Hợp đồng không có quy định thì các bên có quyền lựa chọn tổ chức giám định.” Tình tiết vụ án: Căn cứ theo điều 13 của hợp đồng, bị đơn đã mời Vinacontrol giám định từ ngày 24/3 -> 01/4/2008 và cấp chứng thư vào ngày 01/4/2008 01/04/2008 : Hàng được gửi từ Hải Phòng đi Gdynia. Tại cảng đến Gdynia, Nguyên đơn đã nhờ SGS tại Ba Lan giám định. Tuy nhiên, việc giám định được thực hiện sau khi hàng đã được dỡ khỏi tàu 6 tháng.Theo chứng thư giám định của SGS tại Ba Lan cấp ngày 12/10/2008, thì kết quả giám định là: - 10,5 MT chè đen loại PS đạt yêu cầu quy định của hợp đồng - 11 MT chè đen loại D thì: Thủy phần: 8%, Ferromagnetic ( tạp chất chứa sắt từ tính) : 6,05%/kg, Tro không tan trong nước: 11,14%. 7
- Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết - Do hàm lượng Ferromagnetic và tro không tan trong nước quá cao nên đã không được phép nhập vào Ba Lan do không thể dùng vào mục đích thực phẩm 27/07/2008: Nguyên đơn gửi đơn khiếu nại bị đơn yêu cầu hoàn trả lại toàn bộ số tiền của 11 MT chè đen loại D cùng các chi phí liên quan nhưng Bị đơn từ chối mọi trách nhiệm liên quan. Lập luận của bị đơn - Theo điều 17 hợp đồng đã ký kết, bị đơn đã không chấp nhận kết quả đã giám định của trạm vệ sinh dịch tễ tỉnh Gdynia – một tổ chức không phải cơ quan giám định độc lập. - Chè đen là hàng nông sản có tính hấp thụ cao và dễ bị hư hỏng nếu để lâu, trong khi đó kết quả giám định của SGS lại dựa trên mẫu lấy ở lô hàng để quá lâu (hơn 6 tháng) - Hàng đã được kiểm tra và cấp chứng nhận phù hợp với hợp đồng bởi Vinacontrol – một tổ chức giám định độc lập, được chỉ định theo điều 13 của Hợp đồng. - Chè có hàm lượng Ferromagnetic và tro không tan trong nước quá cao: là hai tiêu chí không được các bên thoả thuận, cam kết trong hợp đồng. Trên cơ sở đó bị đơn đã bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn Phán quyết của trọng tài: 1. Về hiệu lực của các văn bản xác định chất lượng giao hàng - Căn cứ Theo điều 175 Luật thương mại VN, Nguyên đơn đã làm đúng nghĩa vụ của người mua theo thông lệ quốc tế và phù hợp với Hợp đồng đã được ký kết vì hợp đồng không quy định cụ thể về việc giám định hàng tại cảng bốc hàng là cảng cuối cùng -> Bị đơn không thể không thừa nhận giá trị pháp lý cũng như hiệu lực của biên bản của SGS cấp. - Bị đơn cũng không thể viện vào lý do chè đen là mặt hàng nông sản có tính hấp thụ cao và dễ bị hư hỏng nếu để lâu, bởi vì cho dù có để lâu hơn nữa ( thậm chí là hơn 6 tháng) thì nguyên nhân mà lô hàng chè đen loại D mà 8
- Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết Hải quan Ba Lan không cho phép nhập là do trong chè có hàm lượng tạp chất sắt từ tính và tro không tan trong nước quá cao, không thể đưa vào sử dụng làm thực phẩm (đồ uống ) cho con người được. - Giấy chứng nhận Vinacontrol đưa ra chỉ nêu chung chung là hàng phù hợp với hợp đồng, không phân tích về chỉ tiêu phẩm chất hàng như hợp đồng hay theo tiêu chuẩn Việt Nam đã quy định theo Quyết định 1343/TM-PC của Bộ trưởng bộ Thương mại Việt Nam. - Vinacontrol đã gửi cho Hội đồng Trọng tài văn bản giải trình về phẩm chất lô chè liên quan đến chứng thư giám định do cơ quan này cấp, trong đó, khẳng định rõ rằng chính Vinacontrol cũng đã lưu ý với bị đơn về hàm lượng sắt của lô chè loại D cao hơn mức bình thưòng và Bị đơn đã trả lời sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc này nếu bị khiếu kiện. 2. Về yêu cầu bồi thường của nguyên đơn - Nguyên đơn thiếu sự kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện hợp đồng: chưa kiểm tra được chất lượng, và tính chuẩn mực của giấy chứng nhận chất lượng, số lượng của Vinacontrol mà đã mở L/C -> nguyên đơn cũng phải chia sẻ phần thiệt hại. - Trong các khoản mục yêu cầu bồi thường, có 1 số khoản nguyên đơn không tính được chi phí bằng con số cụ thể -> hội đồng trọng tài không chấp nhận. Trọng tài quyết định: - Bị đơn phải chịu trách nhiệm về việc giao hàng không phù hợp với tiêu chuẩn xuất khẩu của Việt Nam đối với chè đen loại D. - Bị đơn phải hoàn trả cho Nguyên đơn số tiền là 8.778 USD tiền hàng - 1.850 USD tiền cước phí từ Hải Phòng đến Gdynia. - Phí trọng tài bị đơn phải chịu. 9
- Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết 1.1.2 Tranh chấp về nghĩa vụ cung cấp chứng từ hàng hóa Chứng từ hàng hoá có tác dụng nói rõ đặc điểm về giá trị chất lượng và số lượng của hàng hoá. Những chứng từ này do người bán xuất trình và người mua sẽ trả tiền khi nhận được chúng. Những chứng từ chủ yếu mà người bán phải có nghĩa vụ giao cho người mua thường là hoá đơn thương mại, phiếu đóng gói, giấy chứng nhận số lượng, giấy chứng nhận chất lượng, vận đơn, các chứng từ khác như hợp đồng bảo hiểm, giấy chứng nhận kiểm dịch, …. Trong số các chứng từ nói trên, thì vận đơn là một chứng từ rất quan trọng, chứng từ này do người chuyên chở cấp cho người gửi hàng (thường là người bán) và người này phải gửi nó cho người mua để nhận hàng. Thông thường sau khi gửi hàng, người bán bắt buộc phải gửi vận đơn gốc cho người mua để người mua có thể kịp thời đi nhận hàng. Việc gửi, giao chứng từ hàng hoá chậm, đặc biệt là vận đơn, hay gửi thiếu chứng từ sẽ gây trở ngại cho người mua trong việc nhận hàng và phân phối hàng hoá, gây thiệt hại cho người mua -> trong trường hợp này sẽ dẫn đến tranh chấp giữa hai bên người bán và người mua. 1.1.3 Tranh chấp về điều khoản giá: Điều khoản giá là một trong những điều khoản quan trọng trong hợp đồng. Trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà đối tượng hợp đồng là những mặt hàng có giá cả biến động mạnh với xu hướng khó nắm bắt, hoặc những hợp đồng có thời hạn thực hiện dài, giao hàng nhiều lần hoặc những hợp đồng mà thời điểm giao hàng chưa được xác định cụ thể. Cho nên, việc “thả nổi” giá hàng hóa theo sự tăng, giảm của giá thị trường là rất phổ biến. Ví dụ như: xăng, dầu, sắt, thép, vật liệu xây dựng, xi măng, cà phê, cao su, hồ tiêu, gas, gạo, thủy sản, ngũ cốc, lúa mì, các mặt hàng nông sản khác,… là những mặt hàng có giá cả luôn biến động với giá thị trường thế giới. 10
- Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết Những hợp đồng XNK cho các mặt hàng này thường được ký kết với điều khoản giá mở, đáp ứng yêu cầu về giá linh hoạt theo diễn biến thị trường. Về mặt pháp lý, sự linh hoạt này giúp đảm bảo sự cân bằng cho hợp đồng, hạn chế thiệt thòi quá mức cho một bên khi thị trường biến động, hạn chế tranh chấp phát sinh. Các doanh nghiệp thường có thói quen xác định một mức giá cố định ngay khi ký kết hợp đồng. Đây là quan điểm về mặt pháp lý, chưa phù hợp với pháp luật hợp đồng hiện đại và về mặt thực tiễn, chưa phù hợp với diễn biến “nóng” của giá hàng hóa trên thị trường hiện nay. Công ước Vienna và pháp luật hợp đồng của các nước đều chấp nhận hiệu lực của các hợp đồng có giá mở, trong đó, điều khoản giá được dẫn chiếu đến giá thị trường. Vì vậy, trong mua bán quốc tế các hàng hóa mà giá cả biến động mạnh, các bên nên đưa vào hợp đồng điều khoản về điều chỉnh giá cả để tránh thiệt hại cho người bán và người mua cũng như các tranh tranh chấp có thể xảy ra. Cần chú ý, trong một số tình huống cụ thể phải quy định điều khoản giá hợp lý và linh hoạt. Nên đưa ra mức giá chính xác ban đầu để có thể tính toán lợi nhuận, nhưng không quên có sự điều chỉnh giá theo sự biến động của thị trường. Dù trong hợp đồng không có điều khoản về điều chỉnh giá thì khi giá của hàng hóa biến động quá lớn, các bên nên có thiện chí đàm phán lại giá nhằm xác định lại một mức giá hợp lý, cho phép đảm bảo lợi ích của cả hai bên, giữ được mối quan hệ làm ăn lâu dài. nếu không, khi giá thay đổi sẽ rất dễ dẫn đến tranh chấp. Ví dụ 3: TRANH CHẤP VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH GIÁ CỦA HÀNG HOÁ Các bên: Nguyên đơn: Người mua Pháp (NM) 11
- Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết Bị đơn: Người bán Đức (NB) Tóm tắt vụ việc: - Người mua gửi một đơn chào mua các linh kiện điện tử đến người bán với quy định giá mua do người mua đưa ra có thể được xem xét theo sự suy giảm của giá thị trường vào thời điểm giao hàng. - Nhận được đơn chào mua, người bán trả lời là giá cần được xem xét theo cả sự tăng lên và sự suy giảm của giá thị trường vào thời điểm giao hàng. Người mua đã đồng ý về việc này. - Hàng hóa được người bán gửi cho người mua theo đúng đơn chào mua, nhưng người mua lại đơn phương hủy đơn chào mua của mình và không nhận hàng. - Người mua cho rằng điều khoản giá quy định như vậy là chưa đủ rõ ràng để hình thành hợp đồng giữa hai bên. Phán quyết của toà án: - Vì Pháp và Đức là hai quốc gia thành viên của CISG nên tòa án áp dụng CISG để giải quyết tranh chấp. - Tòa Phúc thẩm Paris trích dẫn điều 14 khoản 1 CISG, theo đó “Một đề nghị ký kết hợp đồng gửi cho một hay nhiều người xác định được coi là một chào hàng nếu nó đủ chính xác và chỉ rõ ý chí của người chào hàng muốn tự ràng buộc mình trong trường hợp có sự chấp nhận chào hàng đó. Một đề nghị là đủ chính xác khi nó nêu rõ hàng hóa và ấn định số lượng và giá cả một cách rõ ràng hoặc ngầm định hoặc quy định các yếu tố để xác định số lượng và giá cả”. - Đơn chào hàng của người mua đã ghi rõ: giá của hàng hóa được xác định theo sự suy giảm của giá thị trường. Người mua đã đưa ra căn cứ để xác định giá, đó là tham chiếu đến giá thị trường vào một thời điểm cụ thể là thời điểm giao hàng. Như vậy, theo điều 14 khoản 1 CISG, điều khoản giá 12
- Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết với giá được xác định theo sự tăng giảm của giá thị trường là đã đủ chính xác, rõ ràng. Với những lập luận đó, tòa án cho rằng hợp đồng đã thành lập giữa hai bên, người mua không thể hủy chào hàng. Người mua phải nhận hàng và thanh toán tiền hàng. Ví dụ 4: TRANH CHẤP VỀ VIỆC TĂNG GIÁ HÀNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN THÉP Các bên: Nguyên đơn: Người mua Ai Cập (NM) Bị đơn: Người bán Nam Tư (NB) Tóm tắt vụ việc: Ngày 20/8/1987, ký kết hợp đồng mua bán - Hàng hoá: thép thanh - Số lượng: 80.000 tấn - Giá trung bình: 190 USD/tấn -Thời hạn giao hàng: trong vòng ngày 15/12/1987 đến ngày 15/12/1988 “Quyền mua đặc biệt” cho phép NM tăng số lượng hàng mua lên đến 160.000 tấn với cùng giá cả và điều kiện như trên và phải tuyên bố thực hiện quyền đó chậm nhất là vào ngày 15/12 năm 1987 - Mở L/C cho chuyến hàng đầu tiên chậm nhất vào ngày 31/12/1987 - Ngày 26/11/1987, NM đã thông báo cho NB rằng họ sẽ thực hiện “Quyền mua đặc biệt” này và sẽ mở L/C trong khoản từ 15 đến 31/12/1987. 13
- Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết Do giá thép thế giới tăng, theo đề nghị của NB, cuộc họp thảo luận về mức giá bổ sung, nhưng NM không chấp nhận và cương quyết giữ mức giá đã thoả thuận. Trong văn thư đề ngày 31/12/1987, NM nhấn mạnh rằng NB đã vi phạm hợp đồng và nếu cho đến ngày 6/1/1988 NB vẫn không chấp thuận, thì NM sẽ buộc NB phải chịu trách nhiệm cho toàn bộ các thiệt hại bất kỳ do việc vi phạm hợp đồng gây ra. Thời hạn này sau đó đã được NM kéo dài tới ngày 25/1/1988 Ngày 26/1/1988, NM đã mua 80.000 tấn thép thanh cùng loại của một công ty Rumani với giá 216 USD/tấn. NM đã khởi kiện theo điều khoản trọng tài trong hợp đồng, đưa ra trọng tài Phòng Thương mại Quốc tế (tại Paris - Pháp) đòi NB bồi thường thiệt hại do chênh lệch giá. Phán quyết của trọng tài: 1. Luật áp dụng: Công ước Viên của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế (ký ngày 11 tháng 4 năm 1980) không thể được áp dụng. Công ước này có hiệu lực ở Ai Cập, Nam Tư, cũng như tại Pháp, nhưng theo điều 100(2) của Công ước này chỉ áp dụng cho những hợp đồng mua bán được ký kết sau ngày Công ước có hiệu lực (ngày1 tháng 1 năm 1988) trong khi đó hợp đồng mua bán đang xét lại được ký vào ngày 20 tháng 8 năm 1987 Theo luật tư pháp quốc tế của Ai Cập, nếu các bên trong hợp đồng mua bán có trụ sở ở nhiều nước khác nhau thì luật được áp dụng là luật của nước nơi ký kết hợp đồng, trừ khi các bên có thoả thuận khác (Điều 19 của Luật dân sự 1949). Theo Luật tư pháp quốc tế của Nam Tư, luật áp dụng là luật của nước nơi mà bên bán có trụ sở chính tại thời điểm mà họ (hoặc bên khác) nhận được đề nghị chào hàng, nếu các bên không có thoả thuận về luật áp dụng. Pháp là một trong các thành viên của Công ước Hague về luật áp dụng trong 14
- Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết mua bán hàng hoá quốc tế (ngày 15 tháng 6 năm 1955). Điều 3(2) của Công ước này qui định nếu các bên không thoả thuận khác, hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi luật của quốc gia nơi bên bán có địa chỉ thường trú tại thời điểm mà họ nhận được đơn đặt hàng. Vì trụ sở chính và địa chỉ thường trú của Người bán tại thời điểm tranh chấp là Nam Tư và vì hợp đồng mua bán được ký ở Nam Tư theo toàn bộ qui tắc áp dụng về tư pháp quốc tế, thì luật Nam Tư sẽ là luật áp dụng 2. Trở ngại của Hợp đồng: Giá thép trên thị trường thế giới tăng từ 190 USD lên 215 USD (tức là khoảng 13,6%). Theo đánh giá của uỷ ban trọng tài, việc bán thép theo giá thoả thuận (giá bán theo “quyền mua đặc biệt”) thay vì giá hiện tại trên thị trường với mức "thiệt" 13,6% hoàn toàn nằm trong phạm vi rủi ro về giá cả theo tập quán. Hơn nữa, việc tăng giá cũng có thể dự đoán được. Một người bán hàng bình thường cần phải dự liệu được rằng giá thép có thể tăng hơn so với tình hình thực tế, thậm chí mức tăng còn có thể cao hơn nhiều so với mức tăng trong vụ việc đang xét. Và NB đã không viện dẫn điều 133 Luật nghĩa vụ nếu giá cả tiếp tục tăng mạnh. Theo 2 của Điều 133 luật Nam Tư năm 1978, NB không thể từ chối "quyền mua đặc biệt" với lý do tăng giá thép 3. Mua hàng thay thế - NB ý kiến rằng việc mua 80.000 tấn thép từ một công ty Rumania của NM không thể coi là việc mua hàng thay thế vì NB không được thông báo trước về ý định mua hàng cụ thể của NM Điều 262 cho phép các bên của hợp đồng quyền đòi bồi thường những thiệt hại xảy đến với họ phát sinh từ việc không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc 15
- Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết chậm trễ các nghĩa vụ của bên kia. Điều 525, đề cập đến việc mua hàng thay thế, coi việc mua hàng thay thế là giải pháp giảm thiệt hại cho một bên tham gia hợp đồng nếu bên đó đưa ra được các chứng cứ về thiệt hại mà họ phải gánh chịu. - NB cho rằng giá thép trên thị trường thị trường thế giới (cùng loại) đã tăng ít nhất tới 215 USD/tấn, NM lẽ ra phải mua thép của NB, việc NM trên thực tế đã mua thép từ Rumani với giá cao hơn giá NB chào bán là hết sức vô lý NM khẳng định rằng họ đã thực sự mua được giá rẻ hơn, họ đã trả 216,50 USD/ tấn nhưng tiết kiệm được 2 - 2,5 USD/ tấn cước phí vận chuyển. Thiệt hại của họ vì vậy thấp hơn so với sự chênh lệch giá trên thị trường thế giới. Số lượng thiệt hại chỉ là sự chênh lệch giữa 190 USD và 214 USD/ tấn là 24 USD/tấn - NB cho rằng NM phải trả khoản thuế nhập khẩu hàng của Rumani cao hơn hàng của Nam Tư NM không hề đòi bồi thường bất kỳ khoản thiệt hại bổ sung nào phát sinh từ việc mua hàng thay thế. - NB cho rằng thép mua của công ty Rumani có chất lượng thấp hơn so với loại thép mà NB cung cấp Đối với NM thì chất lượng thép là tương đương. Từ các lập luận nêu trên, trong tài đi đến kết luận rằng trong trường hợp này NM hoàn toàn có quyền yêu cầu NB bồi thường khoản chênh lệch giá do phải mua thép của một bên thứ ba thay thế cho số thép đáng lẽ đã mua của NB theo “Quyền mua đặc biệt”. Tuy nhiên, NM chỉ có thể đòi bồi thường khoản thiệt hại thực tế mà họ phải chịu, được tính là mức chênh lệch giữa giá mua đặc biệt (190 USD/tấn) và giá mua thực tế mà NM đã phải trả cho công ty Nam Tư (216,5 USD/tấn) sau khi đã trừ đi khoản tiền mà NM tiết kiệm được từ việc vận chuyển (khoảng 2,5 USD/tấn). Như vậy NB sẽ phải bồi thường cho NM một khoản tiền là 80.000 x 24 USD = 1.920.000 USD 16
- Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết 1.1.4 Tranh chấp phát sinh do người bán không thực hiện nghĩa vụ sau bán hàng: Sau khi giao hàng cho người mua, người bán vẫn có thể phải thực hiện một số nghĩa vụ như bảo hành, hướng dẫn sử dụng hàng hoá, vận hành máy móc thiết bị,…. Điều khoản bảo hành có vai trò rất quan trọng trong các hợp đồng mua bán máy móc thiết bị toàn bộ, hàng điện tử, ô tô... Trong các điều khoản này thường quy định người bán có nghĩa vụ đảm bảo khả năng làm việc bình thường của hàng hoá trong một khoảng thời gian nhất định phù hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật đã thoả thuận trong hợp đồng. Như vậy, đối với những hợp đồng mua bán có quy định vấn đề bảo hành, hướng dẫn sử dụng sau bán hàng,… mà người bán lại không thực hiện tốt các nghĩa vụ này thì người mua có quyền phản đối, yêu cầu người bán phải làm tròn nghĩa vụ để bảo đảm quyền lợi cho mình, khi đó sẽ tránh khỏi tranh chấp giữa các bên. Ngoài các tranh chấp nói trên trong quá trình thực hiện nghĩa vụ của người bán còn có thể phát sinh các tranh chấp liên quan đến việc chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá, việc cung cấp bao bì và ký mã hiệu hàng hoá,….. 1.2 Các tranh chấp phát sinh liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ của người mua: - Việc thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu không chỉ là nghĩa vụ của người bán mà còn là nghĩa vụ của người mua. Nghĩa là người mua cũng phải thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng: - Nghĩa vụ của người mua trong một hợp đồng xuất nhập khẩu bao gồm nghĩa vụ thanh toán tiền hàng và nghĩa vụ nhận hàng. - Những tranh chấp, bất đồng có thể nảy sinh khi người mua không thực hiện các nghĩa vụ như đã cam kết với người bán trong hợp đồng sau đây: Người mua từ chối nhận hàng, từ chối thanh toán mặc dù hàng hóa được người bán cung cấp hoàn toàn phù hợp với những quy định trong hợp đồng mua bán. 17
- Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết Người mua không thanh toán hoặc thanh toán không đúng với những thỏa thuận của đôi bên trong hợp đồng mua bán: Người mua nhận hàng nhưng không thanh toán tiền hàng (trong các phương thức thanh toán clean collection, D/A, chuyển tiền trả chậm,….. Người mua nhận hàng nhưng chậm trễ, dây dưa trong khâu thanh toán, mở L/C chậm, chuyển tiền chậm so với quy định của hợp đồng. Thanh toán không đúng loại tiền, số tiền theo quy định,…. 1.2.1 Nghĩa vụ thanh toán tiền hàng: a. Trường hợp quy định thanh toán bằng L/C Việc người mua mở L/C là điều kiện tiên quyết để người bán thi hành nghĩa vụ giao hàng. Khi người bán thông báo cho người mua biết là hàng đã sẵn sàng để giao thì người mua phải mở L/C trong thời hạn đã quy định trong hợp đồng. Việc người mua không mở L/C, mở không kịp thời hoặc số tiền ghi trên L/C không đúng số tiền quy định trong hợp đồng, hoặc không mở L/C quy định tại ngân hàng đã thoả thuận đều là những hành vi vi phạm nghĩa vụ mà hợp đồng đã quy định và dẫn đến khiếu nại của người bán. Việc không mở L/C sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho người bán trong trường hợp đối tượng của hợp đồng là những hàng hoá tươi sống, hàng chóng bị hư hỏng như rau quả tươi, thịt gia súc... Người bán sẽ phải bỏ thêm các chi phí khác như thuê kho lạnh để bảo quản, tái chế hàng hoá,…. -> những trường hợp như vậy chắc chắn sẽ gây ra tranh chấp. Ví dụ 5: TRANH CHẤP DO KHÔNG MỞ THƯ TÍN DỤNG THANH TOÁN TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN THÉP Các bên: Nguyên đơn : Người bán – Quốc tịch Áo 18
- Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết Bị đơn : Người mua – Quốc tịch Việt Nam Tóm tắt vụ việc: 26/06/1999 ký Hợp đồng mua bán với các điều kiện sau : Hàng hóa : 1500 MT thép tấm cán nóng Điều kiện giao hàng : C.I.F (F.O.B cảng Hải Phòng) Tổng trị giá hợp đồng : 370.880 USD Giao hàng vào tháng 7 năm 1999 Thanh toán bằng L/C không hủy ngang có xác nhận (ngày mở chậm nhất là ngày 30/06/1999) Điều 7 Hợp đồng quy định rằng trong trường hợp chậm trễ giao hàng hoặc nhận được L/C chậm hơn 15 ngày so với ngày hợp đồng quy định thì bên bán/bên mua có quyền hủy hợp đồng, bên vi phạm phải trả một khoản tiền phạt là 5% tổng trị giá hợp đồng cho bên kia. 30/06/1999 (ngày cuối cùng để mở L/C) : Bên mua đã gửi văn thư cho bên bán trình bày khó khăn khách quan và đề nghị xin hủy Hợp đồng (Khó khăn khách quan là bên mua chưa trả hết tiền nợ cho ngân hàng nên ngân hàng không mở L/C theo đề nghị của bên mua). 03/07/1999 (3 ngày sau khi hết thời hạn mở L/C) : Bên bán đã telex cho bên mua đồng ý gia hạn ngày mở L/C đến ngày 7 tháng 6 năm 1999 (until June 7th 1999). Bên mua đã nhận được bản Telex này. 20 phút sau khi Telex bên bán phát hiện có sự sai sót về ngày tháng, nên đã sửa tháng 6 (June) thành tháng 7 (July) và telex lại ngay cho bên mua. Nhưng sau này bên mua nói là không nhận được bản Telex sửa đổi này của bên bán. 09/08/1999 bên bán vẫn không nhận được L/C cũng như không nhận được tiền phạt từ phía bên mua. Do vậy, bên bán đã kiện bên mua ra trọng tài yêu cầu bên mua nộp phạt. Phán quyết của trọng tài: 19
- Các tranh chấp bất đồng trong hoạt động xuất nhập khẩu và cách giải quyết 1.Về việc không mở L/C của bên bán: Đến ngày 09/08/1999 bên mua vẫn chưa mở L/C và theo quy định của Điều 7 Hợp đồng bên mua bị coi là không mở L/C, tức là bên mua đã vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Lý do khách quan mà bên mua nêu không được Uỷ ban trọng tài công nhận là chính đáng, không phải là căn cứ miễn trách cho việc không mở L/C, bởi vì Điều 8 của Hợp đồng cũng như Luật Thương mại Việt Nam, luật hợp đồng của các nước đều không qui định việc gặp khó khăn về tài chính là một căn cứ miễn trách cho việc không thực hiện hợp đồng. Ngày 30/06/1999 bên mua gửi văn thư đề nghị xin hủy hợp đồng vì khó khăn về tài chính, nhưng bên bán không có trả lời gì về vấn đề này. Sự im lặng của bên bán không phải là đồng ý huỷ hợp đồng, do vậy các bên phải tiếp tục thực hiện hợp đồng. Vi phạm hợp đồng nhưng không có căn cứ miễn trách nhiệm thì bên mua phải chịu trách nhiệm trước bên bán. 2.Về sai sót ngày tháng trong Telex gia hạn mở L/C của bên bán: Khi nhận được Telex thông báo gia hạn ngày mở L/C đến trước ngày 07/06/1999, tức gia hạn lùi về quá khứ, nhưng bên mua không hề có phản ứng gì, không điện hỏi bên bán tại sao lại như vậy, cũng không đề xuất thời gian cụ thể cho việc gia hạn mở L/C. Như vậy chứng tỏ bên mua không quan tâm đến việc gia hạn mở L/C của bên bán. Mặt khác sự sai sót về ngày tháng trong Telex gia hạn mở L/C hoặc việc gia hạn lùi về quá khứ của bên bán không phải là nguyên nhân của việc không mở L/C, mà nguyên nhân đích thực của việc không mở L/C là do bên mua gặp khó khăn về tài chính, như đã đề cập ở mục 1 nêu trên. Vì vậy bên mua không được miễn trách nhiệm do không mở L/C. 3. Về tiền phạt: Theo Điều 7 Hợp đồng bên mua có trách nhiệm nộp phạt 5% trị giá hợp đồng cho bên bán, cụ thể là: 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận quản lý nhà nước ngạch chuyên viên: Tranh chấp bất động sản thừa kế là quyền sử dụng đất đối với trường hợp đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
22 p | 2625 | 619
-
TIỂU LUẬN: Một tình huống thực tế về giải quyết tranh chấp nhà, đất trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
20 p | 2217 | 352
-
Đề tài: " Vụ tranh chấp đất đai trong gia đình bà nguyễn thu phương ở thôn 7a yên quang y yên tâm định "
14 p | 455 | 120
-
Tiểu luận: Trọng tài thương mại
47 p | 1072 | 106
-
Bài tiểu luận: Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại
21 p | 1285 | 83
-
Tiểu luận: Quan điểm và chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về giải quyết các tranh chấp quốc tế
15 p | 439 | 68
-
Tiểu luận: LUẬT ĐẦU TƯ QUỐC TẾ
20 p | 331 | 51
-
Tiểu luận: Chiến tranh Việt Nam và ảnh hưởng đến môi trường
7 p | 357 | 34
-
Tiểu luận: Kỹ năng của luật sư trong việc hổ trợ khách hàng khởi kiện tranh chấp đất đai ra tòa án
11 p | 200 | 26
-
Tiểu luận: Cơ chế giải quyết tranh chấp theo Công ước Luật biển 1982
27 p | 247 | 24
-
Tóm tắt luận văn Thạc sỹ Luật học: Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án nhân dân theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004
26 p | 121 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại tòa án - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
61 p | 75 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại của TAND theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004
86 p | 45 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tranh chấp và giải quyết tranh chấp hợp đồng nhượng quyền thương mại theo pháp luật Việt Nam
98 p | 53 | 6
-
Tiểu luận về chiến tranh " TÌNH HÌNH QUÂN ĐỨC Ở PHÁP "
6 p | 74 | 5
-
Tiểu luận về chiến tranh " DU KÍCH PHỔ "
8 p | 80 | 5
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai trong kinh doanh bất động sản qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Ngãi
30 p | 13 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn