TIỂU LUẬN: "ĐầU TIÊN Là CÔNG VIệC ĐốI VớI CON NGƯờI ": Vì DÂN - MộT TƯ TƯởNG LớN CủA CHủ TịCH Hồ CHí MINH
lượt xem 8
download
Tham khảo luận văn - đề án 'tiểu luận: "đầu tiên là công việc đối với con người ": vì dân - một tư tưởng lớn của chủ tịch hồ chí minh', luận văn - báo cáo phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: TIỂU LUẬN: "ĐầU TIÊN Là CÔNG VIệC ĐốI VớI CON NGƯờI ": Vì DÂN - MộT TƯ TƯởNG LớN CủA CHủ TịCH Hồ CHí MINH
- TIỂU LUẬN: "ĐầU TIÊN Là CÔNG VIệC ĐốI VớI CON NGƯờI ": Vì DÂN - MộT TƯ TƯởNG LớN CủA CHủ TịCH Hồ CHí MINH
- "Di chúc" của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một di sản, một giá trị vô giá với rất nhiều tư tưởng lớn, trong đó tư tưởng vì dân, vì con người là một tư tưởng mà từ khi khởi đầu sự nghiệp cách mạng cho đến tận những ngày cuối đời, Người đã luôn trung thành và ra sức thực hiện. Coi đây là công việc đầu tiên, vì nước cũng chính là vì dân, trong "Di chúc", Người yêu cầu chúng ta phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân, phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân và phải có "kế hoạch thật tốt" để không ngừng nâng cao đời sống cho mọi tầng lớp nhân dân. Người không chỉ yêu cầu phải chăm lo cho tất cả "những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình", mà còn lo cho cả những người đã hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc. Vì dân, Người còn căn dặn chúng ta phải hết sức coi trọng việc "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau", "phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ" phụ nữ nhằm thực hiện cho được "cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thực sự cho phụ nữ". Vì dân, Người còn yêu cầu chúng ta "sửa đổi chế độ giáo dục", "phát triển công tác vệ sinh, y tế". hư chúng ta đã biết, khi nhận thấy sức khoẻ của mình đã kém hơn vài năm trước, bắt đầu từ ngày 15 tháng 5 năm 1965, phòng khi “sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lo “để sẵn mấy lời” mong sao “đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột”. Điều mà Hồ Chí Minh gọi là “mấy lời” ấy, dù hết sức ngắn gọn, nhưng thật sự là rất súc tích. Đó là những gì vô cùng tâm huyết đã được suy nghĩ rất lâu, là sự đúc kết tất cả những gì Người đã nói, đã viết, đã chỉ đạo cán bộ, đảng viên thực hiện trong suốt mấy chục năm lãnh đạo đất nước và cũng là những gì Người từng trăn trở mong muốn toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta cùng con cháu mai sau tiếp tục thực hiện để xây dựng nên “một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân
- chủ và giàu mạnh”. Bởi vậy, Di chúc của Hồ Chí Minh là một di sản, một giá trị vô giá để lại cho đời sau với rất nhiều tư tưởng lớn, trong đó có tư tưởng vì dân, vì con người - “đầu tiên là công việc đối với con người”(1) một tư tưởng mà từ khi khởi đầu sự nghiệp cách mạng cho đến tận những ngày cuối đời, Người đã luôn trung thành và ra sức thực hiện.(1) Lòng yêu nước, thương dân đã nảy nở rất sớm ở người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Chính lòng yêu nước, thương dân đã hun đúc nên ý chí cách mạng, đã thôi thúc người thanh niên giàu nghị lực ấy ra đi tìm đường cứu nước với tâm nguyện phải tìm cho ra cách thức “đuổi thực dân, giải phóng đồng bào”. Bôn ba khắp năm châu, bốn biển suốt mấy chục năm trời; làm đủ mọi nghề để kiếm sống; chứng kiến cảnh khốn khổ đến cùng cực của những người nghèo dưới đáy xã hội ở các nước tư bản giàu có nhất, cảnh những người nô lệ giống như đồng bào mình bị phân biệt chủng tộc, bị đối xử tàn bạo, nhân phẩm bị chà đạp và bị giày xéo, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn ái Quốc đã sớm nhận ra sự khác biệt quá lớn giữa những giá trị nhân văn phương Tây được người ta hết lời ngợi ca và quyền con người trong thực tế ở chính nơi đã sản sinh ra những tư tưởng và giá trị nhân văn ấy. Từ chính quá trình bôn ba và từ những trải nghiệm thực tế đó, đồng thời, do tiếp thu lý tưởng nhân văn trong văn hoá phương Tây, ở Người đã hình thành niềm tin rằng, “tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” như được ghi trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 và “người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” như Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791, nhưng “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, mới đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi (*) Giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. (1) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.12. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.503.
- người, niềm vui, hoà bình, hạnh phúc...”(2). Đối với Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh, làm cách mạng trước hết là để giành lại độc lập cho đất nước. Đất nước có giành được độc lập, có được giải phóng khỏi ách đô hộ của thực dân thì dân tộc mới có thể có cuộc sống tự do và hạnh phúc. Trong những dịp và những hoàn cảnh khác nhau, Người đã từng nhiều lần khẳng định: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(3). Hoặc: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân”; “bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân”(4). Với Hồ Chí Minh, vì nước cũng chính là vì dân. Do vậy, nền độc lập của đất nước không được tách rời khỏi hạnh phúc của nhân dân. Chỉ nửa tháng sau ngày Quốc khánh, Người khẳng định: “Chính phủ là công bộc của dân vậy. Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”(5). Trong thư gửi Uỷ ban nhân dân các Kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng ngày 17- 10-1945, Người viết: “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Bởi vậy, Người căn dặn: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”(6). (2) Hồ Chí Minh. Sđd., t.1, tr.461. (3) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.161. (4) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.240. (5) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.22.
- Và, gần 3 tháng sau, ngày 10-01-1946, trong bài phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Uỷ ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, một lần nữa, Người nói: “Chúng ta đã hy sinh phấn đấu để giành độc lập. Chúng ta đã tranh được rồi... Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(7). Tư tưởng vì dân luôn thường trực ở Hồ Chí Minh. Bởi vậy, Người yêu cầu, trong khi suy nghĩ để xây dựng và ban hành chính sách, trong việc chỉ đạo thực hiện các chính sách đó thì cán bộ, chính quyền từ trên xuống dưới “phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân”, “phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”(8). Mọi việc, kể từ việc ban hành chính sách đến việc thực hiện các chính sách đó trong thực tiễn, đều phải vì quyền lợi của dân, cho nên để tránh những việc làm không có lợi cho dân, trái với ý nguyện của dân, để cho các chính sách thu được thành công thì cán bộ Đảng và Chính phủ “phải học dân chúng, phải hỏi dân chúng, phải hiểu dân chúng". ở Hồ Chí Minh, tư tưởng vì dân, vì con người không tách rời tư tưởng tất cả do con người, do nhân dân. Vì vậy, “mỗi một khẩu hiệu, mỗi một công tác, mỗi một chính sách của chúng ta, phải dựa vào ý kiến và kinh nghiệm của dân chúng, phải nghe theo nguyện vọng của dân chúng”(9). Những điều Hồ Chí Minh nói trên đây thật đơn giản nhưng vô cùng chí lý! Muốn nêu một khẩu hiệu đúng, muốn đề ra được một chính sách đúng thì phải hiểu dân, phải hỏi dân. Muốn thực sự vì dân thì trước hết phải từ dân và do dân, phải dân chủ với dân. Có hỏi dân một cách chân thành, nhiệt thành và thực sự khiêm tốn, thực sự cầu thị, chứ không phải hỏi một cách hình thức, qua loa và chiếu lệ, thì dân mới nói (6) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.56. (7) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.152. (8) Hồ Chí Minh. Sđd., t.7, tr.572. (9) Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr.293. (Tác giả nhấn mạnh).
- và mới nói thật; thì mới có thể hiểu được dân, mới rút ra được kinh nghiệm bổ ích từ dân, từ đó mới có chính sách phù hợp với nguyện vọng của dân, nghĩa là chính sách mới được dân ủng hộ và dân mới ra sức thực hiện, mới thu được kết quả, mới đảm bảo cho sự thành công. Nếu không nghe được ý kiến rộng rãi của dân thì việc định ra chính sách rất dễ sai lầm, do vậy mà mất lòng dân, phải sửa đi sửa lại nhiều lần, làm chậm bước phát triển, thậm chí thất bại. Xem ra, những chỉ dẫn ấy của Người, tuy cách đây đã hơn 60 năm nhưng lúc này, vẫn có ý nghĩa thời sự, vẫn giữ được giá trị, vẫn là những bài học vô cùng quý báu và thiết thực cho cán bộ và đảng viên, nhất là cho những ai có trách nhiệm hoạch định chính sách ở tất cả các cấp, các ngành. Với niềm tin sắt đá vào thắng lợi cuối cùng của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến nhiều việc hệ trọng khác mà toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cần phải làm sau khi chiến tranh kết thúc và nước nhà thống nhất. Hình như Người chưa yên tâm lắm trong một số việc, kể cả những việc trong nội bộ Đảng, cả những việc ở trong nước lẫn ở trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Với Người, “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”, trong Đảng phải “thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình”. Hồ Chí Minh đòi hỏi như vậy vì đã có lần Người nhận xét rằng, “nếu ai nói chúng ta không dân chủ, thì chúng ta khó chịu. Nhưng nếu chúng ta tự xét cho kỹ, thì thật có như thế”(10). Điều đáng chú ý ở đây là, cũng như trong những bài viết khác (11), Người dùng chữ thực hành dân chủ, kể cả trong Đảng lẫn trong xã hội, chứ không dùng mở rộng dân chủ. Cách dùng chữ của Hồ Chí Minh thật là chuẩn xác và trúng! Tuy nhiên, với Hồ Chí Minh, “công việc đối với con người” mới là công việc đầu tiên, cho nên “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”(12). Nhất quán với tư tưởng vì dân của mình trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, nên trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã dành một phần quan trọng với một dung
- lượng đáng kể để nêu ra những việc đối với con người mà Đảng và Chính phủ cùng với các tầng lớp nhân dân cần phải làm sau ngày đất nước toàn thắng. Người yêu cầu mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ phải ra sức “toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”. Mặc dù vào tháng 5-1968, Hồ Chí Minh nói “cần phải viết thêm mấy điểm không đi sâu vào chi tiết”, nhưng thực tế thì phần viết thêm này lại khá cụ thể và khá tỉ mỉ về từng loại công việc đối với từng đối tượng. Trong đoạn “đầu tiên là công việc đối với con người”(13), Hồ Chí Minh không chỉ yêu cầu phải chăm lo cho tất cả “những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...) nay còn sống bằng những việc làm thiết thực, như “tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh””, mà còn lo cho cả những người đã hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc. Người căn dặn, “đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta”. Hồ Chí Minh cũng yêu cầu Đảng, Chính phủ và toàn dân phải quan tâm đến những thân nhân của các thương binh và liệt sĩ. “Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”.(10) Sau ngày toàn thắng, Đảng, Nhà nước và toàn dân ta đã thực hiện khá tốt những điều trong đoạn Di chúc trên đây, như xây đài tưởng niệm, quy tập mộ các liệt sĩ trên tất cả các chiến trường vào các nghĩa trang, tiến hành giáo dục tinh thần yêu nước trong thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên, v.v. bằng nhiều hình thức thiết (10) Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr.243. (11) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.23; t.7, tr.217; t.12, tr.249, v.v. (12) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.503, 497, 498. (13) Tất cả các câu trích trong phần dưới đây đều từ: Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.12. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.503-504.
- thực và bổ ích. Đảng và Nhà nước đã trao giấy ghi công trạng của các liệt sĩ. Cả xã hội đã và đang chăm sóc, nuôi dưỡng các bà mẹ Việt Nam anh hùng. Tuy nhiên, cũng còn những việc chúng ta làm chưa thật chu đáo, chưa kịp thời, gây bức xúc trong dư luận, chưa thật yên lòng đối với những người đã khuất và chưa được như mong muốn của Hồ Chí Minh trong Di chúc. Có những người, những tập thể đã anh dũng hy sinh nhưng chậm được công nhận hoặc cho đến nay vẫn chưa được công nhận là liệt sĩ chỉ vì các thủ tục hành chính hoặc không có người chú tâm để giải quyết. Thậm chí có những trường hợp cấp trên đã quyết mà cấp dưới không chịu thi hành. Tuy đây chỉ là những hiện tượng rất cá biệt, nhưng giá như không có tình trạng này thì sẽ tốt hơn rất nhiều. Đối với những thương binh còn ít nhiều sức khoẻ thì việc “phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”” như Hồ Chí Minh yêu cầu, chúng ta làm cũng chưa thật tốt. Không ít người không được đào tạo nghề cho nên cuộc sống rất vất vả, họ chưa thể nào “tự lực cánh sinh” như Người mong muốn. Trong suy nghĩ của Hồ Chí Minh, để giúp đỡ những người cần giúp, dù là thương binh hay thân nhân thương binh, liệt sĩ, thì điều quan trọng có lẽ không phải là trợ cấp cho họ một ít tiền hay một ít vật dụng, mặc dù đôi khi đó cũng là những thứ rất cần thiết, nhưng cái chính là phải tạo việc làm, là đào tạo nghề cho họ để dần dần họ có thể “tự lực cánh sinh”. Đúng là Hồ Chí Minh đã nghĩ đến cách làm mang lại hiệu quả lâu dài và căn bản hơn, đó là “cho cần câu” hơn là “cho xâu cá” như dân gian vẫn thường hay nói. Hồ Chí Minh không chỉ lo cho những người đã dũng cảm hy sinh trong kháng chiến, đã xả thân vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc, mà còn lo cả cho những người đã từng có thời lầm lỡ và cả những nạn nhân của chế độ cũ. Bởi, trong tâm trí của Người, dù họ có lầm lỡ, thì họ cũng đều là “máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam”. Trong Di chúc, Người viết: “Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, v.v., thì Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo, giúp đỡ họ, giúp họ trở nên những người lao
- động lương thiện”. Đối với những người lầm lỡ này, các biện pháp được Người nêu ra đều mang tính nhân văn sâu sắc. Giáo dục kết hợp với luật pháp, nhưng giáo dục được Người đặt lên trước; giáo dục là để mở đường, để thức tỉnh lương tâm, để khơi dậy cái thiện trong mỗi con người như có lần Người đã nói: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi”(14). Lần lại lịch sử dân tộc ta, chúng ta thấy, cha ông ta đã từng dùng kế sách khoan thư sức dân sau mỗi lần phải đương đầu thành công với nạn xâm lăng, sau khi đã đánh đuổi hết quân xâm lược, khi đất nước đã trở lại thanh bình. Kế sách đó vừa tính cho hiện tại, vừa nuôi dưỡng cả cho tương lai. Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta cũng đã kế thừa kế sách đó của cha ông. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nông dân là những người đã “luôn luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính phủ ta, ra sức góp của góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ”; vì vậy, Hồ Chí Minh “có ý đề nghị miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”. Do những khó khăn của đất nước sau chiến tranh nên chúng ta đã thực hiện đề nghị này của Người hơi muộn, vì vậy mà sự “hỉ hả, mát dạ, mát lòng” có phần giảm bớt. Dù muộn, nhưng đề nghị của Người dành cho nông dân cũng đã được chúng ta thực hiện. Vì con người, vì tương lai của đất nước mà Hồ Chí Minh đặc biệt chăm lo việc bồi dưỡng và đào tạo cán bộ từ tầng lớp thanh niên và phụ nữ, nhất là từ những chiến sĩ trẻ tuổi đã kinh qua công tác và chiến đấu. Nếu như từ những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn ái Quốc muốn trở về nước để thức tỉnh thanh niên, mong muốn thanh niên phải được hồi sinh, thì tiếp đó, vào những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, trong tâm trí của Hồ Chí Minh, thanh niên phải trở thành người chủ tương lai của nước nhà. Đối với Người, “nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh (14) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.558.
- một phần lớn là do các thanh niên”(15); thanh niên phải trở thành những cán bộ vừa có chuyên môn tốt, vừa có đạo đức tốt, hay như Người nói là vừa “hồng” vừa “chuyên”, để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh coi “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “có cán bộ tốt, việc gì cũng xong. Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định”(16). Hoàn toàn nhất quán với quan niệm ấy, trong Di chúc, Hồ Chí Minh coi việc “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Bởi vậy, Người mong Đảng và Chính phủ chọn một số người ưu tú nhất trong số những chiến sĩ trẻ tuổi trong lực lượng vũ trang, trong thanh niên xung phong, cho họ “đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc”; đồng thời cũng “cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo”. Người cho rằng, khi có nhiều phụ nữ đảm trách các công việc xã hội, kể cả làm người lãnh đạo, là đã thực hiện được “cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”. Vì cuộc sống của con người, vì sự phát triển của đất nước, Hồ Chí Minh không chỉ nhắc đến kế hoạch xây dựng lại các thành phố, làng mạc đã bị chiến tranh tàn phá sao cho đàng hoàng hơn trước chiến tranh, mà còn phải khôi phục và phát triển các ngành kinh tế, “sửa đổi chế độ giáo dục”, “phát triển các trường nửa ngày học tập, nửa ngày lao động”, “phát triển công tác vệ sinh, y tế”. Người hiểu rằng, để làm được tất cả những việc này thì “cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”. Phải khách quan mà thừa nhận rằng, việc “sửa đổi chế độ giáo dục”, “phát triển các trường nửa ngày học tập, nửa ngày lao động”, “phát triển công tác vệ sinh, y tế” để phục vụ nhân dân theo di huấn của Hồ Chí Minh chúng ta làm chưa tốt; hiện đang có không ít những lộn xộn, những khiếm khuyết làm cho nhân dân lo lắng, bức xúc, mặc dù chúng ta cũng đã thu được một số thành tựu nhất định. Cũng là lo cho dân, vì dân, nhưng đoạn Hồ Chí Minh nói về việc riêng trong bản Di
- chúc thật sự làm mọi người xúc động: “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân.(16) Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, tức là “hoả táng”. Tôi mong rằng, cách “hoả táng” sau này sẽ được phổ biến. Vì như thế đối với người sống đã tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng. Khi ta có nhiều điện, thì “điện táng” càng tốt hơn. Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp sành. Một hộp cho miền Bắc. Một hộp cho miền Trung. Một hộp cho miền Nam. Đồng bào mỗi miền nên chọn 1 quả đồi mà chôn hộp tro đó. Trên mả, không nên có bia đá tượng đồng, mà nên xây một ngôi nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ, để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi. Nên có kế hoạch trồng cây trên và chung quanh đồi. Ai đến thăm thì trồng một vài cây làm kỷ niệm. Lâu ngày, cây nhiều thành rừng sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp. Việc săn sóc nên giao phó cho các cụ phụ lão”. Về đức tính tiết kiệm mọi mặt của Người thì có lẽ không cần phải nói thêm nữa. Nhưng việc Người mong muốn thi hài của mình được hoả táng, hoặc sau này là điện táng trở thành phổ biến, để tiết kiệm từng tấc đất; lo trồng cây để có bóng mát, lo chăm bón, trông nom cây trồng cho thành rừng, trồng cây nào phải đảm bảo tốt cây ấy nhằm làm “lợi cho nông nghiệp” thì thật là những việc lo chu toàn cho hậu thế. Hồ Chí Minh đã nêu một tấm gương sáng về tiết kiệm đất đai mà nếu nhìn nhận lại, chúng ta thấy thật có lỗi với Người. Đáng tiếc là chúng ta đã để xảy ra tình trạng phí phạm tài sản mà ông cha ta đã phải mất hàng bao thế kỷ mới gây dựng được. Rừng tự nhiên, rừng phòng hộ bị tàn phá nặng nề. Rừng trồng hiệu quả thấp. Khắp cả nước, đất ruộng phì nhiêu nuôi sống con người đã bị mất quá nhanh với tốc độ chóng mặt vì những mục đích khác nhau. Tuy nhiên, đáng trách nhất là dùng quá nhiều đất trồng lúa để làm sân golf. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển (15) Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr.185. ) (16 Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr. 269, 240.
- nông thôn, từ năm 2000 đến năm 2007, diện tích trồng lúa cả nước đã giảm tới 361.935 ha (bình quân giảm gần 52.000 ha/năm), trong đó vùng đồng bằng sông Hồng giảm trên 52.000 ha, vùng đồng bằng sông Cửu Long giảm 205.000 ha, tức là bằng 71,1% đất lúa của cả nước bị giảm(17). Hãy suy ngẫm những điều Người dặn trong Di chúc với những gì đang diễn ra trong thực tế hiện nay để chúng ta làm tốt hơn cho dân, cho nước. Có thể nói, từ khi ra đi tìm đường cứu nước, tìm cách giải phóng đồng bào cho đến tận những ngày cuối đời, trong bất cứ việc lớn nhỏ gì, Hồ Chí Minh vẫn đều một lòng vì nước, vì dân. Lo cho nước, cho dân được giải phóng khỏi ách đô hộ của thực dân. Lo cho dân được sống trong hoà bình. Lo để mọi người dân ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, ai cũng được chữa bệnh khi ốm đau. Người còn lo cho mọi người sống với nhau vừa có lý, vừa có tình. Tất cả tinh thần và nghị lực của Người đều đã dành cho việc thực hiện tư tưởng lớn - tư tưởng vì dân. Bởi vậy, trước các câu hỏi của một nhà báo nước ngoài, Người đã “đáp một cách thực thà: Tôi không nhà cửa, không vợ, không con, nước Việt Nam là đại gia đình của tôi. Phụ lão Việt Nam là thân thích của tôi. Phụ nữ Việt Nam là chị em của tôi. Tôi chỉ có một điều ham muốn là làm cho Tổ quốc tôi được độc lập, thống nhất, dân chủ. Bao giờ đạt được mục đích đó tôi sẽ trở về làm một người công dân du sơn ngoạn thuỷ, đọc sách làm vườn”(18). (17) Báo Tuổi trẻ, ngày 17-7-2009. (18) Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr.171-172.
- Triết học, số 9 (220), tháng 9-2009 nho giáo việt nam và văn hóa đông á một số đặc trưng cơ bản của Nho giáo Việt Nam Nguyễn Tài Thư (*) Trước hết, bài viết trình bày ba đặc trưng cơ bản của Nho giáo Việt Nam: thứ nhất là về vai trò của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam phong kiến, độc lập, tự chủ; thứ hai là về chiều hướng và động lực phát triển của Nho giáo Việt Nam; thứ ba là về bốn phong cách tư duy của Nho giáo Việt Nam. Tiếp đó, bài viết chỉ ra và phân tích ba nguyên nhân đã làm nên những đặc trưng đó, gồm: một là, sự truyền bá và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam đã diễn ra trong điều kiện không bình thường; hai là, chế độ phong kiến chuyên chế tông pháp ở Việt Nam chỉ cho phép Nho giáo phát triển theo một chiều hướng và trong phạm vi có lợi cho triều đình; và ba là, Nho giáo Việt Nam thiếu cơ sở vật chất cần thiết để phát triển. iện có nhiều ý kiến khác nhau về đặc trưng của Nho giáo ở Việt Nam, như vấn đề ứng dụng trong thực tế, sáng tạo trong hành động, giản đơn trong lập luận, rập khuôn, giáo điều trong tư duy, v.v.. Vậy, đặc trưng của Nho giáo Việt Nam trong lịch sử là gì và vì sao lại có đặc trưng đó? Đó là những vấn đề hiện vẫn mang tính cấp bách và cần được nghiên cứu sâu hơn. 1. Một số đặc trưng cơ bản Bản chất của một sự vật được bộc lộ ra phụ thuộc vào sự tiếp xúc của nó với môi trường xung quanh. Cũng như vậy, đặc trưng của Nho giáo ở Việt Nam được biểu
- hiện ra phụ thuộc vào các phương diện khảo sát khác nhau, mà từ mỗi một phương diện đó lại có thể đi tới những nhận thức khác nhau. ở đây, tôi lựa chọn một số phương diện dễ thấy để tìm hiểu, đó là vai trò của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam, là chiều hướng và động lực vận động của Nho giáo Việt Nam và phong cách tư duy do sự hoạt động đó đưa lại. Thứ nhất, vai trò của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam phong kiến, độc lập, tự chủ. Sau khi giành được độc lập dân tộc ở đầu thế kỷ X, Ngô Quyền đã xoá bỏ chế độ quận huyện của nhà Hán và xây dựng nên một chính thể độc lập, tự chủ. Nhưng, con người làm nên lịch sử Việt Nam lúc đó là dựa trên di sản của thời kỳ Bắc thuộc để lại, gồm cơ cấu xã hội, con người, học thuyết, tín ngưỡng, trong đó có Nho giáo.2 Dù các triều đình Việt Nam đã xem xét và lựa chọn, kế thừa và cải tạo lý luận của Nho giáo cho phù hợp với cuộc sống của mình và thải loại những gì không phù hợp với mình, nhưng những nguyên lý cơ bản của nó thể hiện nên nội dung tư tưởng của chế độ phong kiến phương Đông vẫn được bảo lưu và thực hiện. Các nguyên lý như “mệnh trời”, “chính danh”, “tam cương, ngũ thường”, “trung hiếu lễ nghĩa”, v.v. của Nho giáo Trung Quốc đã trở thành nền tảng tư tưởng cho các triều đình Việt Nam tổ chức nên hệ thống cai trị, quy định nên các sinh hoạt chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hoá, phong tục tập quán, v.v. mang sắc thái Việt Nam. Sau một thời gian kế thừa và vận dụng Nho giáo, các triều đình phong kiến Việt Nam đã cải biến mảnh đất này từ thân phận nô lệ và phụ thuộc vào đế quốc Hán trở thành một xã hội phong kiến độc lập, có nhiều phương diện ngang hàng với nước Hán. Sự kết hợp giữa giai cấp phong kiến thống trị của Việt Nam và Nho giáo không (*) Giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
- những đã cải biến chế độ chính trị - xã hội còn nhiều yếu tố đơn sơ, chất phác của thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc, không những đã xóa bỏ những tàn tích nô lệ và phụ thuộc của thời kỳ Bắc thuộc, biến Việt Nam thành một xã hội phong kiến độc lập, mà còn góp phần thúc đẩy xã hội đó nhanh chóng đi đến chỗ tập quyền và thống nhất. Song, loạn 12 sứ quân ở đầu thế kỷ X, hiện tượng nội bộ hai triều Đinh và Tiền Lê luôn diễn ra cảnh giết chóc lẫn nhau để chiếm đoạt ngôi vua đã khiến đất nước vừa mới độc lập lại có nguy cơ mất nước. Tình hình đó đòi hỏi phải có một chính thể quân chủ tập trung, thống nhất thì mới khắc phục được. Nhà Lý đã đáp ứng được yêu cầu này. Nho giáo với các lý thuyết như vua là do mệnh trời sắp đặt, người làm vua phải có đức, vua ra vua, bề tôi ra bề tôi, bề tôi phải trung với vua… đã giúp nhà Lý xác lập và củng cố chế độ phong kiến trung ương tập quyền, đã tạo cho họ sức mạnh để ổn định được bên trong và đề kháng được bên ngoài. Các triều đại Trần, Lê Sơ đã tiếp tục con đường thống nhất và tập quyền đó của triều Lý, tiếp tục khai thác và sử dụng các yếu tố tập quyền và thống nhất của Nho giáo để xây dựng triều đại. Như vậy, sự tác động của Nho giáo đã làm cho xu thế vận động của xã hội từ phân tán đến tập trung quyền lực vào một triều đình ở Việt Nam sớm trở thành hiện thực. Nho giáo không những đã có công trong việc dựng nước Việt Nam về mặt chế độ, mà còn cung cấp kiến thức cho các nhà Nho yêu nước đấu tranh cho độc lập dân tộc, cho quyền tự chủ của quốc gia, cho sự ngang hàng với Trung Quốc phong kiến. Đúng là Nho giáo không dạy người Việt Nam yêu nước như có người đã quan niệm, nhưng nhiều mệnh đề, nhiều khái niệm của Nho giáo dùng trong hệ thống thiết lập và củng cố chế độ phong kiến, khi được cấu trúc lại trên lập trường của dân tộc và nhân dân, lập trường yêu nước Việt Nam, lại tỏ ra có sức mạnh để chống trả kẻ thù dân tộc. “Thiên mệnh” (mệnh trời) của sách “Thượng thư”, “nhân” của Khổng Tử, “nhân nghĩa” của Mạnh Tử, “đại trượng phu” của Mạnh Tử, “thời” và “tuỳ thời”
- của “Kinh Dịch”, “hoà” của “Tả truyện”, v.v. đã đi vào tác phẩm của Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi,... và trở thành công cụ tinh thần đắc lực, chiến đấu cho độc lập, tự do. Xét về mặt này, Nho giáo cũng có tác dụng tích cực đối với các công cuộc cứu nước của dân tộc Việt Nam. Đi liền với tác dụng về mặt chính trị là tác dụng về mặt văn hoá của Nho giáo. Những yếu tố về văn hoá trong “Ngũ kinh” và “Tứ thư” đã là cơ sở tư tưởng và học vấn để các triều đình Việt Nam lựa chọn người tài qua các kỳ thi Nho giáo. Chúng được dùng làm tài liệu để giáo dục con người, nhằm không những làm cho họ trở thành người có học vấn, tức là Nho sĩ, mà còn bồi dưỡng nên những con người phi thường, đó là những đấng trượng phu, những người quân tử. Một khi những danh hiệu đó đạt được thì quả trở thành nhân, bởi chính họ tác động trở lại, làm cho xã hội đó được vững vàng hơn, bền chặt hơn. “Lễ”, một tư tưởng quan trọng của Nho giáo, có vai trò đặc biệt đối với xã hội. Khổng Tử nói: “Vi quốc dĩ lễ” (Làm việc nước thì dựa vào lễ - Luận ngữ). Tuân Tử nói: “Lễ giả, cường quốc chi bản dã” (Lễ là gốc làm cho nước mạnh - Tuân Tử). Nội dung của khái niệm lễ này rất rộng, nhưng xét về mặt văn hoá, nó đã có những ảnh hưởng không nhỏ tới phong tục tập quán Việt Nam. Vào những năm đầu công nguyên, tục lệ của Việt Nam còn khác nhiều so với tục lệ Hán. “Truyện Mã Viện” trong “Hậu Hán thư” ghi rằng, Mã Viện tâu với Hán đế: “Luật Việt khác với luật Hán, cần phải bác bỏ hơn 10 việc”(1) (luật đây có nghĩa là tục lệ, phong tục - N.T.T.). Nhưng, bởi tư tưởng của kẻ thống trị là tư tưởng thống trị xã hội, nên chẳng bao lâu sau, nhiều tập tục cổ của người Việt bị mất đi và thay thế vào đó là tục lệ của Hán có trong Nho giáo. Nhìn lại lịch sử, chúng ta thấy rõ rằng, nhiều phong tục tập quán của Việt Nam thời Trung đại, từ tế lễ, cưới xin, ma chay, đến hội hè, tuần tiết,… đều mang dấu ấn của
- những điều đã ghi trong sách “Lễ ký” của Nho giáo. Có thể nói, tục lệ Hán truyền vào đã làm phong phú thêm cho tục lệ Việt. Tất nhiên, những tục lệ gắn với lối sống của các tầng lớp cơ bản trong xã hội Việt, gắn với nghề trồng lúa nước bản địa thì không thay đổi. Tuy ra đời ở Trung Quốc, nhưng Nho giáo đã tồn tại phổ biến ở Việt Nam, vì chế độ xã hội Việt Nam thời Trung đại giống như chế độ xã hội Trung Quốc, đều là xã hội phong kiến. Vốn là công cụ thống trị của giai cấp phong kiến ngoài nước và trong nước đối với dân tộc Việt Nam, nhưng Nho giáo cũng có sự phục vụ nhất định cho sự tiến bộ của đất nước Việt Nam. Thể hiện ở chỗ, giai cấp phong kiến Việt Nam lúc còn sứ mệnh lịch sử đã biết vận dụng và cải tạo những yếu tố tích cực của Nho giáo, dùng chúng vào việc làm lợi cho đất nước mình, cho nhân dân mình. Quá trình đó diễn ra dần dần, từng bước một, đến một độ nhất định, đã đưa Việt Nam từ chỗ còn tương đối lạc hậu, trở thành một nước thi thư, một xã hội có văn hiến, ngang hàng với các nước phương Đông khác. Song, vai trò tích cực của Nho giáo ở Việt Nam là có giới hạn, chỉ kéo dài khoảng 5 thế kỷ. Nếu cho một đồ thị về sự phát triển của Nho giáo Việt Nam thì đó là một đường cong chúc xuống với điểm bắt đầu là triều Lý và đi tới đỉnh cao là thời Lê Thánh Tông của triều Lê, sau đó là thời kỳ Nho giáo rơi vào khủng hoảng cho đến tận cuối triều Nguyễn. Khi Lê Thánh Tông tự hào rằng, quan lại triều đình đều từ nhà Nho mà ra và rằng, triều đại nhà Lê sẽ được dài lâu như triều đại nhà Châu bên Trung Quốc: “Hưởng niềm vui thịnh trị 800 năm như nhà Châu” (Bát bách Cơ Châu lạc trị bình)(2), thì đó cũng là lúc báo hiệu sự đi xuống của triều Lê và của cả Nho giáo Việt Nam. Ông mất không bao lâu thì Mạc Đăng Dung cướp ngôi (1) Hậu Hán thư. quyển 24, Mã Viện truyện. Nguyên văn là: “Điều tấu Việt luật dữ Hán luật bác giả thập dư sự”. (2) Nhà Châu: 1046 TCN – 256 TCN (790 năm).
- nhà Lê, khiến cho tuổi thọ của triều Lê thuộc vào loại ngắn ở Việt Nam, thực chất chỉ có 100 năm (1428 - 1527). Nguyên tắc trung với vua của Nho giáo không còn hiệu lực. Hiện tượng đó không những với triều Lê, mà còn đối với các triều đại phong kiến Việt Nam sau đó. Suốt 3 thế kỷ - XVI, XVII, XVIII, nhiều nhà Nho có tâm huyết với đất nước đã cố tìm trong Nho giáo một ánh sáng của sự trị bình xã hội, nhưng đều bất lực. Đầu thế kỷ XIX, Nguyễn ánh diệt được nhà Tây Sơn, thống nhất đất nước, lên làm vua, lập ra triều Nguyễn. Gia Long (miếu hiệu của Nguyễn ánh) và các vị vua Nguyễn kế tiếp đều ra sức đề cao Nho giáo, phục hồi địa vị độc tôn của Nho giáo. Nhưng, Nho giáo chính thống triều Nguyễn do đi vào chỗ khắc nghiệt, giáo điều nên đã ngăn chặn sự nảy nở của các mầm mống tư tưởng thức thời và yêu nước, đã từ chối khuynh hướng cải cách xã hội, khiến đất nước đánh mất cơ hội mới để tiến kịp với thời đại. Tất nhiên, Nho giáo là một học thuyết, một tư tưởng và do đó, sự vận dụng nó phụ thuộc vào người sử dụng. Nhưng, khi người sử dụng quá tin vào hiệu lực của nó mà quên mất rằng hoàn cảnh đã thay đổi thì học thuyết cũng phải thay đổi theo, thì chính học thuyết đó tác động trở lại làm cho con người mê muội, làm theo những điều đã lỗi thời. Bởi vậy, có thể nói, cả triều Nguyễn và Nho giáo đều phải chịu trách nhiệm trước lịch sử dân tộc cuối thế kỷ XIX. Thứ hai, chiều hướng và động lực phát triển của Nho giáo Việt Nam. Nho giáo Việt Nam càng về sau càng có nội dung phong phú, càng có sự hoạt động nhiều mặt và càng đi vào nền nếp. Điều đó hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên, cũng không phải là kết quả của một giai đoạn, mà là kết quả của cả một quá trình và do các động lực bên trong và bên ngoài thúc đẩy.
- Yêu cầu của hoạt động thực tiễn chính trị - xã hội trong nước là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của Nho giáo Việt Nam. Yêu cầu này xuất phát từ xu thế đi lên tập quyền và thống nhất của chế độ phong kiến Việt Nam. Trong ba học thuyết của phương Đông là Nho, Phật, Lão, chỉ có Nho giáo với nội dung và tính chất của nó là có thể đáp ứng được xu thế này. Các công việc của triều đình, như quản lý thần dân, sắp xếp hệ thống quan lại, tổ chức thi cử để chọn người tài, ấn định nội dung để giáo dục con người, xem xét việc tế lễ, cầu đảo thần thánh, v.v. đều phải dựa vào Nho giáo. Dù Nho giáo gốc đã có sẵn những điều trên, nhưng đi vào sự vận dụng vẫn có điều cần phải thêm bớt, vẫn có sự phải bổ sung, vẫn có chỗ phải thuyết minh, nghĩa là vẫn còn có đất cho sự phát huy. Các triều đình phong kiến Việt Nam và các nhà tư tưởng của nó đã làm được điều đó. Như việc giữ nước và cứu nước, cho dù các triều đình phong kiến Việt Nam có sự ý thức rõ ràng về tính độc lập, tự chủ của mình, nhưng vẫn phải có sự kết hợp với Nho giáo. Nho giáo cho họ một số yếu tố nào đó để làm nền, cho họ một số phương pháp nào đó để làm phương hướng của tư duy, tạo thuận lợi cho tư tưởng yêu nước xuất hiện. Bằng các hoạt động như thế, tư tưởng Nho giáo Việt Nam từng bước trưởng thành lên. Hoạt động đối ngoại là cơ hội để người trong nước hiểu biết thêm về sự phát triển của Nho giáo Trung Quốc và từ đó, tạo nên cú hích bên ngoài, làm nên sự tăng trưởng của Nho giáo bên trong. Bang giao giữa Việt Nam và Trung Quốc là bang giao thần thuộc, Việt Nam là thuộc quốc, Trung Quốc là thiên triều. Cứ hàng năm hoặc vài năm, tuỳ theo tình hình mỗi lúc mà Việt Nam phải có đoàn tiến cống Trung Quốc. Và cũng với thời gian tương tự, Trung Quốc có sứ giả sang Việt Nam để thừa nhận và phong vương cho vua mới lên ngôi ở Việt Nam, hoặc yêu sách một số việc cần kíp khác. Sự đi lại trên cũng là dịp để hai bên trao đổi về văn hoá, tư tưởng, là dịp để Việt Nam hiểu thêm về Nho giáo Trung Quốc và vua Trung Quốc
- ban phát tài liệu kinh điển Nho giáo cho Việt Nam. Nho giáo Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh qua con đường chính thức đó mà có mặt ở Việt Nam, mà gây nên sự học tập không ngừng của Việt Nam đối với Nho giáo Trung Quốc. Kết quả là, Nho giáo Việt Nam đã có sự tăng trưởng nhất định về số lượng kiến thức, về những điều mới mẻ trong quá trình phát triển của Nho giáo Trung Quốc. Nhưng, đây mới chỉ là sự tăng trưởng về số lượng, chứ chưa gây được sự biến đổi về chất lượng của Nho giáo Việt Nam, do điều kiện và thời gian chưa đủ để thực hiện sự chuyển hoá. Sự tiếp xúc của nhân dân hai nước ở vùng biên giới Việt - Trung là điều kiện để người trong nước biết được thông tin cập nhật về hoạt động Nho giáo ở Trung Quốc. Điều đó đã có ảnh hưởng ít nhiều đến chiều hướng vận động của Nho giáo Việt Nam. Song, ảnh hưởng đó là hạn chế, vì sự chậm chạp của sự truyền đạt thông tin thời phong kiến, vì sự cấm đoán lan truyền tin tức khác với cái hiện có của triều đình. Tuy vậy, những thông tin cập nhật từ bên ngoài đã gây nên sự thích thú tìm hiểu của một số Nho sĩ Việt Nam. Bên cạnh đó, nó cũng tạo ra được tiền đề để tiếp nhận những thành tựu trong các bước phát triển của Nho giáo Trung Quốc vào Việt Nam khi có điều kiện, giúp cho sự tiếp nhận đó được dễ dàng. Dù vậy, tất cả các động lực và hoàn cảnh trên vẫn không đủ điều kiện để tạo nên những bước nhảy của Nho giáo Việt Nam. Việc vận dụng Nho giáo để giải quyết các công việc đối nội và đối ngoại của các triều đình Việt Nam chỉ là việc giải quyết các tình thế xã hội trên cơ sở của Nho giáo vốn có; việc chấp nhận các trào lưu Nho giáo mới của Trung Quốc đưa vào chỉ là sự truyền bá, chứ chưa phải là việc đổi mới của Nho giáo Việt Nam. Để đổi mới chất lượng Nho giáo Việt Nam thì phải cần đến sự vận động tự thân của Nho giáo Việt Nam, cần có sự phản tỉnh của Nho sĩ trong nước đối với Nho giáo của mình, xem cái gì còn thích hợp cần duy trì, cái gì đã lỗi
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận: Lịch sử ngành công nghệ sản xuất bánh kẹo
19 p | 724 | 66
-
Tiểu luận:ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CHẾ BIẾN SẢN XUẤT DẦU VỎ HẠT ĐIỀU TẠI ẤN ĐỘ
19 p | 192 | 22
-
Tiểu luận: Đặc điểm thành công của nhà lãnh đạo thế kỷ 21
18 p | 149 | 19
-
Đề tài triết học " ĐẦU TIÊN LÀ CÔNG VIỆC ĐỐI VỚI CON NGƯỜI ": VÌ DÂN - MỘT TƯ TƯỞNG LỚN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH "
13 p | 74 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Công nghệ thông tin: Nghiên cứu cải tiến các kỹ thuật rút gọn đặc trưng cho phân lớp dữ liệu
119 p | 69 | 10
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Công nghệ thực phẩm: Nghiên cứu các yếu tố công nghệ ảnh hưởng đến quá trình đông tụ protein và chất lượng đậu phụ mơ Hà Nội định hướng sản xuất quy mô công nghiệp
27 p | 21 | 8
-
Luận án Tiến sĩ Công nghệ sinh học: Nghiên cứu ứng dụng công nghệ CRISPR/Cas9 trong tạo đột biến gen GmGOLS03, GmGOLS19 trên cây đậu tương (Glycine max (L.) Merrill) nhằm giảm lượng đường họ Raffinose trong hạt
119 p | 39 | 8
-
Luận án Tiến sĩ Công nghệ Dệt, May: Nghiên cứu xử lý kháng khuẩn, kháng nấm cho da lợn thuộc sử dụng nano bạc tổng hợp bằng dịch chiết từ thực vật
176 p | 18 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Công nghệ thực phẩm: Nghiên cứu các yếu tố công nghệ ảnh hưởng đến quá trình đông tụ protein và chất lượng đậu phụ mơ Hà Nội định hướng sản xuất quy mô công nghiệp
214 p | 27 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Công nghệ thực phẩm: Nghiên cứu xây dựng quy trình công nghệ trích ly thu nhận dầu hạt chè (Camellia sinensis) nhằm ứng dụng trong công nghệ thực phẩm
203 p | 48 | 7
-
Luận án tiến sĩ Công nghệ thực phẩm: Sử dụng thịt đầu tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) để chế biến chế phẩm giàu protein
0 p | 80 | 7
-
Tóm tắt Luận văn tiến sĩ Công nghệ thực phẩm: Sử dụng thịt đầu tôm thẻ chân trắng để chế biến phẩm giàu protein
0 p | 75 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Công nghệ sinh học: Nghiên cứu thu nhận chế phẩm phytoestrogen từ phôi đậu tương
27 p | 11 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Công nghệ Dệt, May: Nghiên cứu xử lý kháng khuẩn, kháng nấm cho da lợn thuộc sử dụng nano bạc tổng hợp bằng dịch chiết từ thực vật
28 p | 8 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Công nghệ hóa dầu và lọc dầu: Nghiên cứu sản xuất dầu gốc sinh học từ phụ phẩm mỡ cá tra, sử dụng kỹ thuật cavitation
28 p | 16 | 3
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Công nghệ sinh học: Nghiên cứu chuyển gen theo hướng nâng cao năng suất hạt ở cây đậu tương (Glycine max (L.) Merr.)
27 p | 5 | 2
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Công nghệ thông tin: Nghiên cứu phát hiện luật kết hợp hiếm và ứng dụng
14 p | 36 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn