intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Đổi mới chế định Chủ tịch nước ở nước ta trong cơ chế hiện nay

Chia sẻ: Trần Nam | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:26

129
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung chính của bài tiểu luận gồm có 5 phần: Sự hình thành chế định nguyên thủ quốc gia, chế định Chủ tịch nước; Vị trí pháp lý Chủ tịch nước; Thẩm quyền của Chủ tịch nước; Vị trí của Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước; Chế định Chủ tịch nước trong thời kỳ đổi mới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Đổi mới chế định Chủ tịch nước ở nước ta trong cơ chế hiện nay

  1. TIỂU LUẬN MÔN: TỔ CHỨC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC Đề tài: “Đổi mới chế định Chủ tịch nước ở nước   ta trong cơ chế hiện nay”. 1
  2. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 3 NỘI DUNG CHÍNH 5 I. SỰ  HÌNH THÀNH CHẾ  ĐỊNH NGUYÊN THỦ  QUỐC GIA, CHẾ   ĐỊNH  5 CHỦ TỊCH NƯỚC 1. Chế định nguyên thủ quốc gia 5 2. Chế định chủ tịch nước 8 II. VỊ TRÍ PHÁP LÝ CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC 8 III. THẨM QUYỀN CỦA CHỦ TICH NƯỚC 11 1. Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt  11 nước về đối nội và đối ngoại. 2. Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế  13 có liên quan đến việc phối hợp trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp. IV. VỊ TRÍ CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC 15 1. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội và Ủy ban thường vụ  Quốc  16 hội 2. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Chính phủ 17 3. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Tòa án nhân dân tối cao 17 4. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Viện kiểm sát nhân dân tối cao 18 V. CHẾ ĐỊNH CHỦ TỊCH NƯỚC TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 19 1. Thực trạng 19 2. Yêu cầu của chế định chủ tịch nước trong thời kỳ đổi mới 21 KẾT LUẬN 23 TÀI LIỆU THAM KHẢO 24 LỜI MỞ ĐẦU 2
  3. Từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân ta giành được chính quyền,  nước ta đã có Chủ tịch nước. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm  1946 đã quy định những nhiệm vụ, quyền hạn rất rộng rãi và mềm dẻo của Chủ  tịch nước, phù hợp với yêu cầu, đặc điểm tình hình nước ta, với vị  trí rất đặc   biệt của Bác Hồ. Đối với Hồ Chủ tịch, nguyên thủ quốc gia tồn tại dưới hình thức Chủ tịch   nước là một chế định tất yếu trong chính thể cộng hòa Dân chủ nhân dân ở Việt  Nam. Chế định Chủ tịch nước theo chính thể cộng hòa Dân chủ nhân dân là sản  phẩm của sự  phát triển của Cách mạng Việt Nam gắn liền với vai trò của Hồ  Chí Minh, người sáng lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hiến pháp 1959 và hiến pháp 1980 cũng có sự  kế  thừa và phát triển từ  Hiến pháp 1946. Nhưng đến Hiến pháp 1992, chế định Chủ tịch nước có nhiều  đổi mới quan trọng, thể  hiện  ở  các quy định về  vị  trí Chủ  tịch nước trong bộ  máy nhà nước, thẩm quyền của Chủ tịch nước, mối quan hệ giữa Chủ tịch nước   và các cơ quan nhà nước khác ở Trung ương và địa phương… Chế  định Chủ  tịch nước theo pháp luật hiện hành đang đóng góp một   phần rất quan trọng vào Chính trị, xã hội, Kinh tế, ngoại giao, cuộc sống nhân  dân… Theo như lời của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã nói: “Tôi sẽ cùng   vui với cái vui của mọi người, đồng thời cũng chia sẻ  những nỗi buồn, những   nỗi đau của người dân. Tôi sẽ làm hết sức mình để vơi đi nỗi đau đó”.  Chế định Chủ tịch nước trong thời gian qua cũng đặt ra nhiều vấn đề cần   nghiên cứu và sửa đổi. Đó là một yêu cầu đổi mới trong cơ chế hiện nay. Vì vậy, em đã chọn đề tài “Đổi mới chế định Chủ tịch nước ở nước ta   trong cơ chế hiện nay” cho bài tiểu luận này. 3
  4. Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của bài tiểu luận gồm có  5 phần: I. Sự hình thành chế định nguyên thủ quốc gia, chế định chủ tịch nước. II. Vị trí pháp lý Chủ tịch nước. III. Thẩm quyền của Chủ tịch nước. IV. Vị trí của Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước. V. Chế định Chủ tịch nước trong thời kỳ đổi mới. Bài tiểu luận của em còn nhiều chỗ  sai sót, do thời gian và kinh nghiệm  làm bài. Em rất mong sự đóng góp của thầy cô. 4
  5. NỘI DUNG CHÍNH I.  SỰ  HÌNH THÀNH CHẾ  ĐỊNH NGUYÊN THỦ  QUỐC GIA, CHẾ  ĐỊNH CHỦ TỊCH NƯỚC 1. Chế định Nguyên thủ quốc gia Nguyên thủ  quốc gia vốn là một chế  định có được từ  nhà nước tư  sản.  Nhiệm vụ  của cuộc Cách mạng tư  sản là lật đổ  nền cai trị  của giai cấp phong   kiến, thiết lập nền chuyên chính tư sản. Nhà tư  tưởng cách mạng tư  sản đưa lý thuyết phân quyền không phải  muốn lật đổ  hoàn toàn sự  cai trị  của nhà vua mà chỉ  là hạn chế  quyền lực nhà  vua. Nó dựa trên thuyết tam quyền phân lập do L.Môngtexkiơ xây dựng vào thế  kỉ XVIII ở Pháp, với phương châm: dùng quyền lực nhà nước để hạn chế quyền  lực nhà nước. Theo nguyên tắc phân chia quyền lực, thì quyền lực Nhà nước tư  sản được chia thành ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư  pháp (không nh ư chế  độ  phong kiến, nhà vua nắm mọi quyền hành, nắm trong tay cả  ba quyền). Ba   cơ  quan thực hiện ba quyền đó là Nghị  viện, Chính phủ, Tòa án độc lập với  nhau, kiềm chế nhau để không một cơ quan nào nắm mọi quyền hành. Cho nên, khi Cách mạng tư sản thành công, chế  độ  đại nghị  đã được xác  lập, thì về nguyên tắc, Nghị viện đứng đầu nhà nước, nhưng giai cấp tư sản đã   bảo lưu thiết chế  nhà vua hoặc lập ra những thiết chế  tương tự  để  thực hiện  5
  6. mục đích chính trị của mình. Điều đó dẫn đến việc hình thành chế  định nguyên  thủ quốc gia trong Hiến pháp tư sản. Trong nhà nước tư  sản, Nguyên thủ  quốc gia là một chế  định đặc biệt.  Nguyên thủ  quốc gia, phụ  thuộc vào chính thể, có tên gọi hết sức khác nhau:  Vua, hoàng đế, Nữ hoàng ở những nước chính thể quân chủ; Các vị tổng thống   của nhà nước theo chính thể cộng hòa.  Hình thức chính thể  quân chủ  lập hiến, quyền lực của nguyên thủ  quốc   gia (quốc vương, vua…) được truyền lại cho người kế vị. Giai cấp tư sản tiến   hành Cách mạng tuy mạnh nhưng chưa thể đè bẹp hoàn toàn thế lực phong kiến   tuy đã lỗi thời nhưng vẫn còn tồn tại trên cơ sở kính tế ­ xã hội chưa thể xóa bỏ.  Hơn nữa, sự thống trị của ngai vàng phong kiến trong suốt đêm trường trung cổ  đã ăn sâu vào tiềm thức nhân dân. Họ  đành phải thỏa hiệp và sau đó thì quay ra  sử dụng một số thể chế phong kiến để phục vụ lợi ích cho mình. Hình thứ thứ hai là hình thứ chính thể cộng hòa. Lê Nin chỉ rõ: “Quyền lực   vô hạn” của “sự  giàu có” trong chế  độ  cộng hòa dân chủ  sở  dĩ đã trở  thành   chắc chắn hơn là vì nó không lệ  thuộc vào một số  thiếu sót của cơ  cấu chính   trị,vào cái vỏ  chính trị xấu xa của chủ nghĩa tư  bản. Chế độ  cộng hòa dân chủ   là hình thức chính trị tốt nhất có thể có được của chủ nghĩa tư bản cho nên khi   nắm được hình thức tốt nhất ấy thì giai cấp tư sản nâng nó để xây dựng quyền   lực của mình. (V.I.Lênin, Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ) Chính thể cộng hòa có hai biến dạng là cộng hòa tổng thống và cộng hòa  đại nghị:  Trong chính thể  cộng hòa tổng thống, vai trò của nguyên thủ  quốc gia   rất quan trọng. Tổng thống được nhân dân bầu ra. Tổng thống vừa là nguyên thủ  quốc gia, vừa đứng đầu Chính phủ. Tổng thống gắn liền với bộ máy hành pháp,  đứng đầu bộ máy hành pháp. Vì vậy, vị trí của Nguyên thủ quốc gia được nhiều   tác giả ví là mắt xích liên hệ giữa lập pháp và hành pháp, là người trọng tài của   6
  7. Nhà nước. Việc tăng cường quyền hạn của nguyên thủ quốc gia không thể bằng   cách nào khác hơn nếu không phải là một sự  xâm phạm đến thẩm quyền của  lập pháp hoặc của hành pháp.  Nghiêng về  lập pháp đến mức độ  cực đỉnh là thay đổi cả  lập pháp, đó là  các vị Vua đích thực của chế độ phong kiến, được quyền ban hành các đạo luật  là các đạo dụ. Nghiêng về  hành pháp đến mức độ  cực đỉnh là thay cả  hành pháp, đó là  các vị Tổng thống trong chế độ  cộng hòa Tổng thống, ở đó trong thiết chế Nhà  nước không tồn tại Chính phủ và Thủ tướng, người đứng đầu Chính phủ.  Trong chính thể  cộng hòa đại nghị, thì về  nguyên tắc, nghị  viện là cơ  quan nắm quyền lực nhà nước cũng đồng thời là người “thay mặt nhà nước”,  “đứng đầu nhà nước”, tức “nguyên thủ quốc gia”. Vai trò của Tổng thống bị hạn  chế  do chính Nghị  viện bầu ra. Nguyên thủ  quốc gia chỉ  thực hiện  động tác  chính thức hóa các quyết định đã rồi hoặc theo yêu cầu của các cơ quan lập pháp  và nhất là hành pháp. Nguyên thủ quốc gia trở thành nhân vật tượng trưng cho sự  vĩnh hằng và hiện thân của dân tộc. Vị  trí này được minh họa bằng câu ngạn  ngữ: “Nhà vua trị vì nhưng không cai trị.” Vị  trí tượng trưng này  ở  nhiều nước còn quy định thành văn trong hiến   pháp: “Hoàng đế là biểu tượng hiện thân của Quốc gia, là biểu tượng thống nhát  của toàn thể nhân dân Nhật Bản, đại diện cho ý chí của đoàn thể  nhân dân giữ  quyền tự quyết của đất nước.” (Điều 1 của Hiến pháp Nhật Bản). Nhưng nguyên thủ quốc gia của các nước này rất cần thiết, để  duy trì sự  ổn định chính trị  cho xã hội tư  bản, làm chỗ  dựa về  mặt tinh thần cho bộ  máy   nhà nước cả lập pháp, lẫn hành pháp. Vì vậy, nguyên thủ quốc gia nổi lên như là  một nhân vật trọng tàI giữa hoạt động lập pháp, hành pháp và tư  pháp. Trong  thời kỳ  bất  ổn định chính trị, nguyên thủ  quốc gia có thể  đứng ra dùng những  biện pháp đặc biệt có thể là bạo lực, với quân đội trong tay để duy trì lại sự ổn  7
  8. định chính trị  cho đất nước.  Ở  thời bình, mọi hoạt động của Nguyên thủ  quốc  gia đều theo đề nghị lập pháp, hành pháp, có tính chất hình thức hóa về mặt Nhà  nước các hoạt động của các cơ quan Nhà nước khác theo chế định “phó thự”. “Nhưng không phân biệt chính thể, mọi Nhà nước đều quy định trong   Hiến pháp của mình: nguyên thủ quốc gia là người đứng đầu bộ máy nhà nước,   thay mặt nhà nước về đối nội, đối ngoại.” Nhìn chung sự hiện diện của nguyên thủ quốc gia  ở các nước tư  bản với  nhiều vẻ  khác nhau song cũng đóng một vai trò nhất định trong việc tổ  chức   quyền lực nhà nước. Đặc biệt là vai trò biểu tượng cho dân tộc, liên kết phối  hợp các nhánh quyền lực thể hiện quan điÓm thỏa hiệp giai cấp  ở các nước tư  bản. 2. Chế định Chủ tịch nước Đến nhà nước xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước được tổ chức theo chế  độ tập quyền, mọi quyền lực nhà nước thống nhất vào cơ quan đại diện quyền   lực nhà nước cao nhất của nhân dân (Xô Viết tối cao, Quốc hội) thì về  nguyên  tắc thiết chế nguyên thủ quốc gia riêng là không cần thiết, nếu không muốn nói  là không dung hợp. Chức năng nguyên thủ quốc gia lúc này thống nhất với chức   năng của Quốc hội, Xô Viết tối cao, đều do cơ  quan này thực hiện (nh ư thành  lập chính phủ, quyết định các chính sách đối nội, đối ngoại…). Tuy nhiên, do  truyền thống lịch sử  lâu đời, do thông lệ  quốc tế  trong việc thực hiện một số  hoạt động Nhà nước mang tính long trọng trong xu hướng phối hợp thống nhất  quyền lực nhà nước,  các nhà nước  Xã hội chủ  nghĩa vẫn rất cần chế   định   nguyên thủ quốc gia. Nguyên thủ quốc gia trong nhà nước Xã hội chủ nghĩa cũng  rất đa dạng về hình thức: Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao, Hội đồng nhà nước (Ba  Lan, Bungari, Cuba, Rumani), Hội đồng chủ tich nước (Hungari), Đoàn Chủ tịch   Quốc hội Anbani… II. VỊ TRÍ PHÁP LÝ CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC: 8
  9. Trong bộ  máy nhà nước, chế  định Chủ  tịch nước giữ  một vai trò quan  trọng. Chế  định Chủ tịch nước qua các bản Hiến pháp nước ta có sự  khác nhau.  Chế  định này đã có ngay từ  những Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 và Hiến  pháp 1992 với tư  cách là một cá nhân. Nhưng đến Hiến pháp 1980, với quan   điÓm làm chủ tập thể, đã nhập hai chức năng: nguyên thủ quốc gia ­ người đứng  đầu bộ  máy nhà nước, với cơ  quan thường thực của Quốc hội thay mặt Quốc   hội thực hiện các nhiệm vụ  của Quốc hội giữa hai kỳ  họp, vào một cơ  quan,  được gọi là Hội đồng Nhà nước. Trong từng hiến pháp có sự  kế  thừa và phát triển những nguyên tắc căn  bản của tổ  chức bộ  máy nhà nước xã hội chủ  nghĩa nói chung và chế  định  nguyên thủ quốc gia nói riêng. Hiến pháp 1946, không quy định định nghĩa về  chế  định Chủ  tịch nước.   Song từ các quy định về cách thức thành lập và thẩm quyền thì Chủ tịch nước là   người vừa đứng đầu Nhà nước, vừa đứng đầu Chính phủ. Điều đó được thể  hiện ở chỗ: Chủ tịch nước thay mặt cho Nhà nước; giữ quyền tổng chỉ huy quân   đội toàn quốc; chỉ định hoặc cách chức các tướng soái trong lục quân, hải quân,  khôgn quân; ban bố  các đạo luật đã được Nghị  viện quyết nghị; thưởng huy  chương và các bằng cấp danh dự; đặc xá; ký hiệp  ước với các nước; phái đại  biểu Việt Nam đến nước ngoài và tiếp nhận đại biểu ngoại giao của các nước;   tuyên chiến hay đình chiến; chọn Thủ  tướng trong Nghị  viện để  đưa ra Nghị  viện biểu quyết; bổ nhiệm Thủ tướng, nhân viên Nội các và nhân viên cao cấp  thuộc các cơ  quan Chính phủ; có quyền (trong thời hạn 10 ngày) yêu cầu Nghị  viện thảo luận lại những luật đã được biểu quyết thông qua. Chủ  tịch nước không phải chịu một trách nhiệm nào trừ  tội phản quốc   (Chương VI và điều 3 chương III). Chủ  tịch nước do Nghị  viện nhân dân bầu   chọn trong Nghị viện với thời hạn là năm năm. Với cương vị là người đứng đầu  9
  10. cơ  quan hành pháp  ­ cơ  quan trực tiếp thực hiện pháp luật thì việc Hiến pháp  quy định quyền này cho Chủ tịch nước thực sự là một tư tưởng mềm dẻo về sự  phân công quyền lực. Tuy nhiên việc quy định này chỉ  phù hợp trong điều kiện   lúc đó.  Hiến pháp 1959, Chủ  tịch nước được xác định là người đứng đầu Nhà  nước và không đồng thời là người đứng đầu Chính phủ. Chủ tịch nước được tổ  chức riêng thành một chế định độc lập (trong chương V gồm 10 điều). Chủ tịch   nước thay mặt đất nước thực hiện các chức năng về  đối nội, đối ngoại; tham   gia vào các hoạt động của Nhà nước về các mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp.  Chủ tịch nước do Quốc hội bầu (chọn trong công dân) với nhiệm kỳ theo nhiệm   kù của Quốc hội (4 năm) và khác với  ở  Hiến pháp 1946, Chủ  tịch nước chịu   trách nhiệm trước Quốc hội. Chủ tịch nước là khâu phối hợp giữa Quốc hội và  Hội đồng Chính phủ. Nhưng vẫn nghiêng về phía chính phủ như: bổ nhiệm, bãi   miễn Thủ  tướng, Phó thủ  tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính  phủ; khi cần thiết có quyền tham dự  và chủ  tọa cá phiên họp của Hội đồng  Chính phủ. Đây là những điểm kế  thừa vị  trí của Chủ  tịch nước đối với Chính   phủ ở Hiến pháp trước. Với việc quy định và ghi nhận chế  định Chủ  tịch nước, Hiến pháp 1959  thực sự  là bản hiến pháp được xây dựng theo mô hình hiến pháp xã hội chủ  nghĩa, thể hiện được bản chất nhà nước ta là nhà nước của nhân dân lao động,  do dân lao động và vì nhân dân, quyền lực thuộc về nhân dân. Hiến pháp 1980, chế định Chủ tịch nước được thay thế bằng chế độ Chủ  tịch tập thể theo nh mô hình thịnh hành ở các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và   Đông Âu ­ đó là Hội đồng Nhà nước. Với quan điểm tập thể làm chủ, Hiến pháp   1980 đã nhập hai chức năng: Nguyên thủ  quốc gia và cơ  quan thường trực của  Quốc hội làm một. Cách thức tổ  chức tập thể  này bên cạnh một số  tiện lợi là  các vấn đề  thuộc quyền hạn nguyên thủ  quốc gia được thảo luận tập thể  và  10
  11. quyết định theo đa số  thường là chắc chắn và tránh được những thiếu sót chủ  quan, bộ máy nhà nước gọn nhẹ… nhưng lại bộc lộ nhiều hạn chế: mọi vấn đề  phải bàn bạc tập thể và quyết định theo đa số; không phân định rõ hoạt động tập   thể của cơ quan thường trực của Quốc hội và chức trách cá nhân trong việc thực  hiện các hoạt động đại diện Nhà nước… Tình hình đó đặt ra yêu cầu phải tổ  chức lại chế định này và đã được sửa đổi tại Hiến pháp 1992. Hiến pháp 1992 và hiện nay là Hiến pháp 2013, chế  định Chủ  tịch nước  tiếp thu những ưu điểm của mô hình Chủ tịch nước của hiến pháp 1946 và 1959,  vừa giữ được sự gắn bó giữa Quốc hội, ủy ban thường vụ quốc hội và Chủ tịch  nước trong việc thực hiện các chức năng nguyên thủ quốc gia trong thể chế hội   đồng nhà nước. Hiến pháp 2013 đã có sự phân biệt giữa Ủy ban thường vụ Quốc   hội với chế  định nguyên thủ  quốc gia từ  đó tách chế  định Hội đồng nhà nước  của Hiến pháp 1980 thành hai chế định độc lập: Ủy ban thường vụ Quốc hội và   Chủ  tịch nước. Chủ  tịch nước với vai trò to lớn vừa là nhân vật chính trị, vừa  mang nhiều thuộc tính của cơ quan quản lý nhà nước.  Nguyên thủ  quốc gia của Nhà nước ta theo quy định của Hiến pháp 2013  được gọi là Chủ  tịch nước. Vị  trí pháp lý của Chủ  tịch nước được Hiến pháp  khái quát như sau:  “Chủ  tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt Nhà nước Cộng   hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại”. Với tư cách là một trong những thiết chế cao nhất trong toàn bộ máy Nhà  nước, vị  trí của Chủ  tịch nước phải được quy định trong văn bản có hiệu lực   pháp lý cao nhất ­ là Hiến pháp. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số đại biểu Quốc hội. Nhiệm kỳ  của Chủ  tịch nước theo nhiệm kì của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kì,  Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu Chủ  tịch nước mới. 11
  12. Nói chung, theo quy định của Hiến pháp  2013, Chủ  tịch nước có vị  trí,  chức năng tượng trưng cho Nhà nước, như của các nước theo chế  độ  đại nghị  của nhà nước tư bản. III. THẨM QUYỀN CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC Thẩm quyền của Chủ  tịch nước là một trong những yếu tố  cơ  bản nhất   thể hiện vị trí pháp lý của Chủ tịch nước trong hệ thống các cơ quan nhà nước.  Hiến pháp 2013 đã chú ý vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ  trên cơ  sở  tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm mấy chục năm thực hiện thể  chế  nguyên   thủ  quốc gia của Việt nam và kinh nghiệm của thế  giới. Chế  định Nguyên thủ  quốc gia của Nhà nước ta, về nguyên tắc, cũng giống như thiết chế người đứng  đầu nhà nước của nhiều nước. Với tư cách là nguyên thủ quốc gia, theo thông lệ  của pháp luật nhiều nước, Chủ tịch nước có quyền quyết định những công việc   thay mặt đất nước về đối nội, đối ngoại. Và Chủ tịch nước có nhiệm vụ quyền  hạn liên quan đến lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vì vậy, có thể chia các nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước thành hai  nhóm sau: 1. Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện,  thay mặt nước về đối nội và đối ngoại. Chủ  tịch nước  ở  nước ta cũng như hầu hết các nguyên thủ  quốc gia đều  được quy định quyền này. Đó là:  Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; tiếp nhận đại  sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài.  Tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh nước Cộng hòa  xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác.  Trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế đã trực tiếp ký. 12
  13.  Quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế, trừ trường hợp   cần trình Quốc hội quyết định. ậ đây tùy mức độ quan trọng của điều ước hoặc  theo quy  định và  điều  ước mà quyết  định Chủ  tịch nước  hay Quốc hội phê   chuẩn.  Quyết định cho nhập, thôi hoặc tước quốc tịch Việt Nam.  Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch hội   đồng quốc phòng và an ninh.  Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc  Ủy ban thường vụ Quốc hội   công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, ra lệnh tổng động biên hoặc   động viên cục bộ, công bố  tình trạng khẩn cấp trong cả  nước hoặc tứng  địa  phương; trường hợp ủy ban thường vụ quốc hội không họp được thì ban bố tình   trạng khẩn cấp.  Quyết định phong hàm cấp sĩ quan cao cấp trong các lực lượng vũ trang  nhân dân, hàm cấp ngoại giao và những hàm cấp Nhà nước khác.  Quyết định tặng thưởng huân, huy chương và các danh hiệu vinh dự Nhà  nước khác.  Công bố quyết định đại xá và ra quyết định đặc xá. Đại xá như đã nói ở  trên (Chương Quốc hội) là việc tha miễn truy tố  đối với một số  loại tội nhân  một dịp long trọng nào đó. Đại xá do Quốc hội quyết định, Chủ tịch nước công  bố. Còn đặc xá là việc Chủ tịch nước tha tù hoặc miễn hình phạt tù còn lại đối   với những phạm nhân có hoàn cảnh đặc biệt như: ốm đau nặng, già cả, có công  lao hoặc có hoàn cảnh gia đình quá khó khăn v.v… Việc đặc xá này thường được  thực hiện nhân dịp lễ tết và hay kết hợp với việc tha từ trước thời hạn và giảm  án nên cần phải phân biệt rõ các định chế này. 13
  14. 2. Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các  thiết chế có liên quan đến việc phối hợp trong các lĩnh vực lập pháp, hành  pháp, tư pháp. Trong lĩnh vực lập pháp:   Trình dự  án luật ra trước Quốc hội, kiến nghị  về  luật thông qua việc  kiến nghị ban hành luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung luật hiện hành.  Công bố hiến pháp, luật và pháp lệnh. Việc công bố văn bản này là một  phần của quá trình lập pháp. Đối với Hiến pháp, luật do Quốc hội thông qua thì   Chủ tịch nước công bố để thực hiện. Thời hạn công bố chậm nhất là 15 ngày kể  từ ngày thông qua. Văn bản có hiệu lực kể từ khi công bố hoặc theo quy định tại  văn bản. Đối với pháp lệnh do  Ủy ban thường vụ  Quốc héi thông qua thì Chủ  tịch nước có quyền đề  nghị   Ủy ban thường vụ  Quốc hội biểu quyết tán thành  mà Chủ  tịch nước có quyền đề  nghị   Ủy ban thường vụ  Quốc hội xem x ét lại  pháp lệnh trong thời hạn 10 ngày. Nếu pháp lệnh đó vẫn được  ủy ban thường  vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ  tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kì họp gần nhất. Trong trường hợp này  thời hạn công bố  chậm nhất là mười ngày kể  từ  ngày được Ủy ban thường vụ  Quốc hội xem xét lại thông qua hoặc từ khi Quốc hội quyết định.   Việc quyết định cho Chủ  tịch nước quyền đề  nghị   Ủy ban thường vụ  Quốc hội xem xét lại pháp lệnh đã được thông qua được nhiều người coi giống  như quyền phủ quyết của nguyên thủ quốc gia một số nước. Giữa Quốc hội, Ủy  ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước là thống nhất không có sự  đối trọng  nên không có vấn đề phủ quyết lẫn nhau.  Chủ  tịch nước công bố  nghị  quyết của Quốc hội tương tự như đối với   Luật; công bố hoặc đề nghị xem xét lại nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc   14
  15. hội tương tự như đối với pháp lệnh. Điều này được quy định tại Luật ban hành  văn bản quy phạm pháp luật. Trong lĩnh vực hành pháp:  Chủ tịch nước tham gia thành lập Chính phủ (theo trình tự đã nói ở trên).  Chủ tịch nước giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,  các bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ.  Miễn nhiệm, cách chức Phó thủ tướng, bộ trưởng và các thành viên khác   của Chính phủ (căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội).  Ban bố  tình trạng khẩn cấp khi  Ủy ban thường vụ Quốc hội không thể  họp được.  Trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định tạm đình chỉ  công tác  của Phó Thủ  tướng, Bộ  trưởng, Thủ  trưởng cơ  quan ngang bé theo đề  nghị  (trình) của Thủ tướng Chính phủ. Trong lĩnh vực tư pháp và giám sát:   Chủ  tịch nước giới  thiệu  để  Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi  nhiệm   Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.  Bổ nhiệm Phó chánh án và thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án,   Phó Chánh án, thẩm phán Toà án quân sự  trung  ương, Phó viện trưởng và kiểm  sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.  Chủ tịch nước xem xét và quyết định việc ân xá (giảm án tử hình).   Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân   dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian   Quốc hội không họp thì phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban   thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. 15
  16. Nhìn chung, thẩm quyền của Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1992 có phần  hẹp hơn thẩm quyền của Chủ  tịch nước trong các Hiến pháp năm 1946. Điều  này được giải thích bằng quy định: Chủ  tịch nước của Hiến pháp năm 1946  không những chỉ đơn thuần là nguyên thủ quốc gia mà con là người đứng đầu bộ  máy hành pháp, có quyền phủ  quyết các văn bản luật của Nghị  viện nhân dân  (điều 31, Hiến pháp 1946). So với Hiến pháp năm 1959 thì quyền hạn và trách   nhiệm của Chủ tịch nước của Hiến pháp năm 2013 cũng có nhiều điểm rất khác.  Nếu như ở Hiến pháp 2013, Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của   Chính phủ  khi cần thiết, thì  ở  Hiến pháp 1959 quy định rõ Chủ  tịch nước có  quyền chủ  tọa các phiên họp của Hội đồng Nhà nước. Và Hiến pháp  2013 cụ  thể  hơn và rộng hơn nhiệm vụ  quyền hạn của Chủ  tịch Hội đồng Nhà nước  trong hiến pháp 1980. Ngoài những thẩm quyền được ghi nhận trong Hiến pháp  1959, 1980 như cho nhập thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức  Chủ   tịch   Hội   đồng  quốc   phòng…  Chủ   tịch   nước   có   quyền   bổ   nhiệm  miễn  nhiệm và cách chức Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án  nhân dân tối cao, Phó viện trưởng và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối   cao. Hơn nữa, Chủ  tịch nước còn có thẩm quyền ban bố  các lệnh, các văn bản  pháp luật do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành. IV. VỊ TRÍ CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC Về  việc tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp 1992 với những quan  điểm cơ  bản sau: “…toàn bộ  quyền lực Nhà nước tập trung thống nhất vào  Quốc hội, không phân chia các quyền lập pháp, hành pháp, tư  pháp theo thuyết   “tam quyền phân lập”, chỉ  có sự  phân công phân nhiệm giữa Quốc hội, Chính   phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao để mỗi cơ quan thi  hành có hiệu lực chức năng, quyền hạn của mình với sự phối hợp và hiệp đồng   chặt chẽ, tạo nên sức mạnh tổng hợp của quyền lực Nhà nước dưới sự lãnh đạo  16
  17. của Đảng” (trích Tờ  trình  ủy ban sửa đổi Hiến pháp về  bản dự  thảo sửa đổi  Hiến pháp lần thứ IV trước Quốc hội ngày 24­3­1992). Hiến pháp 2013 quy định “Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ  quan   khác của Nhà nước đều tổ  chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân  chủ”; “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực   nhà nước cao nhất của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Và cùng với quy định “Chủ  tịch nước là người đứng đầu nhà nước”, các  mối quan hệ  giữa Chủ  tịch nước với Quốc hội,  Ủy ban th ường v ụ  qu ốc hôi,  Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã thể hiện  rõ các quan điểm trên. 1. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội và Ủy ban thường   vụ Quốc hội. Về mối quan hệ với Quốc hội, Hiến pháp năm 1992 đã có những quy định   cơ bản sau đây:   Chủ  tịch nước do Quốc hội bầu (trong số   đại biểu Quốc hội) miễn   nhiệm và bãi nhiệm.  Quốc hội quy định tổ chức và hoạt động của Chủ tịch nước.  Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo các công tác trước Quốc hội.  Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước trái Hiến pháp,  Luật, Nghị quyết của Quốc hội.  Chủ tịch nước có quyền yêu cầu  Ủy ban thường vụ Quốc hội triệu tập  kì họp bất thường của Quốc hội.   Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ  tịch nước, Chủ  tịch nước   phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp; trong trường hợp cần điều tra thì Quốc   hội có thể quyết định cho trả lời trước  Ủy ban trường vụ Quốc hội hoặc tại k ỳ  họp sau của Quốc hội hoặc cho trả lời bằng văn bản. 17
  18.  Trong mối quan hệ với Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hiến pháp quy định   Chủ  tịch nước có quyền tham dự  phiên họp của  Ủy ban thường vụ  Quốc hội.   Quy định này nhằm mục đích tạo điều kiện để  Chủ  tịch nước theo được sát ý  kiến của tập thể Ủy ban thường vụ quốc hội khi thảo luận và quyết định những  vấn đề quan trọng của đất nước, đồng thời cũng để Chủ tịch nước có thể đóng   góp ý kiến của mình.  Pháp lệnh, Nghị quyết của  Ủy ban thường vụ Quốc hội phải được công  bố chậm nhất là 15 ngày từ ngày được thông qua.  Tuy nhiên, Chủ tịch nước có quyền đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội   xem xét lại Pháp lệnh, Nghị quyết của  Ủy ban thường vụ Quốc hội về các vấn  đề quy định tại điểm 8 và điểm 9, Điều 91 trong thời hạn mười ngày kể từ ngày  pháp lệnh hoặc nghị  quyết được thông qua; nếu Pháp lệnh, Nghị  quyết đó vẫn  được  Ủy ban thường vụ  Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ  tịch nước vẫn   không nhất trí, thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kì họp gần nhất.  Nếu Pháp lệnh, Nghị  quyết đó vẫn được  Ủy ban thường vụ  Quốc hội   biểu quyết tán thành mà Chủ  tịch nước vẫn không nhất trí, thì Chủ  tịch nước   trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất. Đây là một quyền hạn mới được bổ sung mà Hội đồng nhà nướckhông có.  Quyền này khác quyền phủ quyết (vai trò tổng thống ở một số nước). 2. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước và Chính phủ. Mối quan hệ  này đã được Hiến pháp 2013 và Luật tổ  chức Chính phủ  2015 quy định:   Chủ   tịch  nước   đề   nghị   Quốc   hội   bầu,  miễn   nhiệm,  bãi   nhiệm  Thủ  tướng. 18
  19.  Chủ tịch nước căn cứ Nghị quyết của Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ  Quốc hội bổ  nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ  tướng, Bộ  trưởng và các  thành viên khác của Chính phủ.  Chính phủ  mời Chủ  tịch nước tham dự  phiên họp của Chính phủ, trình  Chủ tịch nước quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền Chủ tịch nước.   Thủ  tướng Chính phủ  đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện những quyết   định của Chủ  tịch nước.  Các báo cáo công tác của Chính phủ  trước Chủ  tịch  nước phảI được Chính phủ thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số. 3. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước và Tòa án nhân dân tối cao.   Chế  độ  bầu cử  thẩm phán đã được thay bằng chế  độ  Thẩm phán bổ  nhiệm, chỉ  trừ  đối với chức vụ  Chánh án toàn án nhân dân tối cao do Chủ  tịch   nước đề  nghị  Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãI nhiệm. Các chức vụ  khác từ  Phó  Chánh án Toà án nhân dân tối cao đến Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện, từ  Chánh án Tòa án quân sự Trung  ương đến Thẩm phán Tòa án quân sự  khu vực  đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm.  Trong thời gian Quốc hội không họp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao   chịu trách nhiệm và bao cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ  tịch nước.  Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình Chủ  tịch nước ý kiến của mình  về những trường hợp người bị kết án từ hình xin ân giảm. 4. Mối quan hệ  giữa Chủ tịch nước với Viện kiểm sát nhân dân tối  cao. Hiến pháp  2013  và Luật  Tổ  chức Viện kiểm sát nhân dân năm  2014  có  những quy định sau:   Chủ  tịch nước đề  nghị  Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Viện  trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. 19
  20.  Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó viện trưởng, kiểm   sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.  Trong thời gian Quốc hội không họp, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân  dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước  Ủy ban thường vụ  quốc   hội và Chủ tịch nước.  Báo cáo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải được Ủy ban kiểm sát  Viện kiểm sát nhân dân tối cao thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. Nếu  viện trưởng không nhất trí với ý kiến đa số thành viên Ủy ban kiểm sát thì phải  thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo Ủy ban thường vụ  Quốc hội hoặc Chủ tích nước.  Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước ý kiến  của mình về những trường hợp người bị kết án tử hình xin ân giảm. Qua mối quan hệ  của Chủ  tịch nước với các cơ  quan nhà nước, ta thấy   được vị trí, tính chất của Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước như sau: Trong tổ  chức các bộ  máy nhà nưcớ  theo thuyết “tam quyền phân lập”,  thường Tổng thống đứng đầu hệ thống cơ quan hành pháp và có vị trí nang Quốc   hội và nhiều khi cao hơn cả Quốc hội. Nhưng ở nước ta, bộ máy nhà nước được tổ chức theo chệ độ tập quyền,   quyền lực nhà nước luôn tập trung thống nhất vào Quốc hội, có phân công phân  nhiệm theo 4 chức năng lập pháp, hành pháp, xét xử, kiểm sát. Quốc hội trực   tiếp thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp được giao cho Chính phủ, chức   năng xét xử cho Tòa án nhân dân tối cao, và chức năng kiểm sát cho Viện kiểm  sát nhân dân tối cao. Quốc hội có quyền giám sát tối cao hoạt động của cơ quan  nhà nước. Nh vậy về nguyên tắc là không có sự phân quyền. Chủ  tịch nước là người đứng đầu Nhà nước do Quốc hội bầu ra, miễn  nhiệm, bãi nhiệm, chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội, Quốc hội xét báo  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
12=>0