intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý kinh tế: Đổi mới quản lý tài chính các trường đại học công lập trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

19
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án "Đổi mới quản lý tài chính các trường đại học công lập trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam" được hoàn thành với mục tiêu nhằm đề xuất quan điểm và giải pháp đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở góc độ quản lý nhà nước, có xem xét đến các yếu tố vi mô thể hiện thuộc tính nội tại của các trường có khả năng ảnh hưởng đến đổi mới QLTC các trường ĐHCL; bên cạnh đó đề xuất một số giải pháp định hướng cho các trường trong việc vận dụng cơ chế QLTC mà Nhà nước để thiết kế cơ cấu nguồn tài chính và cơ cấu chi phù hợp, góp phần hướng mục tiêu việc đổi mới QLTC các trường ĐHCL đến mục tiêu đáp ứng yêu cầu tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH ở Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý kinh tế: Đổi mới quản lý tài chính các trường đại học công lập trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN HƯƠNG XUÂN ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP TRONG ĐIỀU KIỆN TỰ CHỦ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ HÀ NỘI - 2023
  2. CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS, TS. NGUYỄN NGỌC TOÀN 2. PGS, TS. ĐỖ ANH ĐỨC Phản biện 1: .................................................. .................................................. Phản biện 2: .................................................. .................................................. Phản biện 3: .................................................. .................................................. Luận án được bảo vệ trước Hội đồng Chấm luận án cấp Học viện họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Vào hồi ... giờ... ngày ... tháng ... năm 202.. Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
  3. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Tran Huong Xuan (2019), “Mobilizing financial resources for public higher education under the current autonomy mechanism in Vietnam”, International Finance and Accounting Research Conference “Finance and Accounting in the Fourth Industrial Revolution”, Financial Publishing House, ISBN: 978-604-79-2279-6. 2. Trần Hương Xuân (2021), “Tài trợ theo cơ chế cạnh tranh đối với giáo dục đại học thông qua mô hình Quỹ đổi mới”, Tạp chí Kinh tế và Quản lý, Số 38 (2021). 3. Tran Huong Xuan (2022), “Impacts of Financial Management on Innovation and Efficiency of Higher Education in Vietnam”. PalArch’s Journal of Archaeology of Egypt / Egyptology, 19(1), 1697-1718. Retrieved from https://archives.palarch.nl/index.php/jae/article/view/10949 4. Tran Huong Xuan (2022), “Factors Affecting Student’s Satisfaction with the Financial Management System of Public Universities in Vietnam”, International Journal of Multidisciplinary Research and Analysis (IJMRA), Volume 05 Issue 07 July 2022. DOI: 10.47191/ijmra/v5-i7-34. 5. Trần Hương Xuân (2022), “Mối quan hệ giữa đổi mới quản lý tài chính trong điều kiện tự chủ với chất lượng đào tạo ở trường đại học công lập Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học Nội vụ, Số 50 (9,10/2022).
  4. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Với vai trò cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế, giáo dục đại học (GDĐH) được xem như là một bộ phận của cơ sở hạ tầng xã hội, là nền tảng quan trọng và là điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, vấn đề nâng cao chất lượng GDĐH được coi là quốc sách hàng đầu. Ngày 15/01/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 69/QĐ-TTg phê duyệt đề án "Nâng cao chất lượng GDĐH giai đoạn 2019- 2025" với mục tiêu tổng thể là "tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, thực chất về chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của hệ thống GDĐH đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực; góp phần nâng cao chất lượng và năng suất lao động, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, tăng cường năng lực cạnh tranh của quốc gia trong khu vực và trên thế giới". Trước đây, các trường đại học ở Việt Nam đều là trường công lập, thuộc sở hữu nhà nước và được Chính phủ tài trợ toàn bộ để thực hiện cung cấp dịch vụ đào tạo đại học - một loại hàng hóa công có ngoại ứng tích cực quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Từ khi Nhà nước Việt Nam chấp nhận phát triển hệ thống trường đại học tư nhân (năm 1988) cho đến nay, số lượng và quy mô các trường đại học tư thục ngày càng phát triển. Việt Nam hiện có 242 trường đại học bao gồm 176 trường công lập, 66 trường tư thục và dân lập, 05 trường có 100% vốn nước ngoài. Mặc dù vẫn đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống GDĐH cả về quy mô và chất lượng đào tạo, các trường đại học công lập (ĐHCL) ở Việt Nam đang phải cố gắng nhiều hơn trong cuộc cạnh tranh với nhau và với các trường đại học tư nhân xuất phát từ tính chất đặc biệt của dịch vụ GDĐH, vừa mang lại lợi ích công cộng vừa đem đến lợi ích cá nhân của người học, và do đó chịu sự điều tiết của thị trường. Trước xu thế đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế, Việt Nam cũng đã có nhiều cải cách trong lĩnh vực GDĐH, đúng theo tinh thần của Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 của Chính phủ về Đề án “Đổi mới cơ bản và toàn diện GDĐH ở Việt Nam giai đoạn 2006-2020”. Trên tinh thần của Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo (GĐ&ĐT) đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, cùng với việc ban hành và thực hiện Nghị quyết 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ về việc thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục ĐHCL giai đoạn 2014-2017, Nhà nước đã xác định tự chủ đại học là xu hướng tất yếu và các trường ĐHCL buộc phải thích nghi với môi trường hoạt động mới: đào tạo gắn với nhu cầu của xã hội - nhu cầu của thị trường lao động. Như vậy, về cơ bản các trường ĐHCL được trao quyền tự chủ nhưng đồng thời, phải chịu nhiều áp lực cạnh tranh vốn có của kinh tế thị trường. Tự chủ đại học có 04 nội dung chủ yếu là: (1) Tự chủ về học thuật, (2) Tự chủ về tổ chức bộ máy, (3) Tự chủ về nhân sự, (4) Tự chủ về tài chính. Trong đó, tự chủ tài chính đóng vai trò nền tảng để thực hiện hiệu quả và bền vững các nội dung còn lại của tự chủ đại học. Trong bối cảnh này, việc đổi mới quản lý tài chính (QLTC) hướng tới hình thành một cơ chế QLTC phù hợp, là môi trường thuận lợi cho các trường ĐHCL huy động nguồn thu, nâng cao năng lực tự chủ tài chính, đảm bảo quá trình tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các trường được thực hiện đầy đủ, khách quan, công bằng và minh bạch, vừa giảm sự can thiệp của Nhà nước lại vừa phải đảm bảo chất lượng GDĐH, là vấn đề cấp thiết hiện nay. Trong quá trình đổi mới và thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL) ở Việt Nam qua các giai đoạn: từ Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu; đến Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các ĐVSNCL; tiếp đó được thay thế bởi Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy định cơ chế tự chủ của ĐVSNCL; và mới đây là Nghị định số 60/2021/NĐ-CP được ban hành nhằm khắc phục những hạn chế của Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, các trường ĐHCL ở Việt Nam vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức về huy động nguồn tài chính như: nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước (NSNN) bị hạn chế, nguồn thu sự nghiệp không đảm bảo, sự phân chia nguồn tài chính công giữa các trường chưa công bằng. Bên cạnh đó, cùng với quá trình đổi mới QLTC các
  5. 2 trường ĐHCL, việc huy động, phân phối và sử dụng nguồn tài chính của các trường đã thực sự góp phần nâng cao chất lượng GDĐH hay chưa, những đổi mới trong QLTC các trường đại học ĐHCL đã tác động đến mức tự chủ và chất lượng các trường như thế nào, vẫn là những vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu. Từ các lý do trên, tác giả lựa chọn nội dung “Đổi mới quản lý tài chính các trường đại học công lập trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận án của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Về lý luận: Xác định cơ sở lý luận về đổi mới QLTC các trường ĐHCL trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH, tác động của đổi mới QLTC đến mức tự chủ và chất lượng trường ĐHCL; tác động của các yếu tố vi mô thể hiện thuộc tính nội tại của các trường ĐHCL đến mức độ đổi mới QLTC các trường. Về thực tiễn: Đề xuất quan điểm và giải pháp đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở góc độ quản lý nhà nước, có xem xét đến các yếu tố vi mô thể hiện thuộc tính nội tại của các trường có khả năng ảnh hưởng đến đổi mới QLTC các trường ĐHCL; bên cạnh đó đề xuất một số giải pháp định hướng cho các trường trong việc vận dụng cơ chế QLTC mà Nhà nước để thiết kế cơ cấu nguồn tài chính và cơ cấu chi phù hợp, góp phần hướng việc đổi mới QLTC các trường ĐHCL đến mục tiêu đáp ứng yêu cầu tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH ở Việt Nam. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau: Một là, tổng thuật các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài nhằm xác định rõ nội dung đã được nghiên cứu và có thể kế thừa, những nội dung chưa được giải quyết và những khoảng trống nghiên cứu, từ đó xác định câu hỏi nghiên cứu và định hướng nghiên cứu của đề tài. Hai là, hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về đổi mới QLTC các trường ĐHCL trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH, làm cơ sở khoa học để phân tích thực trạng đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở Việt Nam. Ba là, trên cơ sở khung phân tích đã xây dựng, luận án phân tích và đánh giá thực trạng đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở Việt Nam trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH, đánh giá thực trạng mối quan hệ tác động của đổi mới QLTC đến mức tự chủ và chất lượng của các trường, xác định những kết quả đã đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế, làm cơ sở để xác định quan điểm và đề xuất giải pháp tiếp tục đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở Việt Nam. Bốn là, trên cơ sở xác định bối cảnh mới có liên quan và những quan điểm trong việc đổi mới QLTC các trường ĐHCL trong giai đoạn tới, căn cứ những bài học kinh nghiệm đã rút ra, những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong việc đổi mới QLTC các trường ĐHCL trong thời gian vừa qua, đề tài đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở Việt Nam trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề đổi mới QLTC các trường ĐHCL đáp ứng yêu cầu tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH ở Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về chủ thể quản lý: Vấn đề đổi mới QLTC các trường ĐHCL được nghiên cứu chủ yếu dưới góc độ quản lý nhà nước với chủ thể quản lý là Chính phủ. Việc đổi mới QLTC của lãnh đạo trường ĐHCL cũng được đề cập ở góc độ là căn cứ thực tế để Chính phủ đổi mới cơ chế chính sách tạo điều kiện cho đổi mới QLTC của các trường đạt mục tiêu tự chủ và nâng cao chất lượng. - Về nội dung: Đổi mới QLTC các trường ĐHCL được tiếp cận gồm các nội dung: (1) đổi mới huy động nguồn tài chính, (2) đổi mới sử dụng nguồn tài chính và (3) đổi mới phân phối kết quả tài chính của các trường đáp ứng yêu cầu của tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH, được xem xét chủ yếu ở việc chuyển đổi qua các mô hình khác nhau trong quá trình đổi mới về mặt cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với 03 nội dung này. - Về không gian: Luận án thu thập và phân tích dữ liệu về đổi mới QLTC tại 17 trường ĐHCL ở
  6. 3 Việt Nam đã thực hiện đánh giá theo tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường đại học ban hành kèm theo Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 01/11/2007 của Bộ trưởng Bộ GĐ&ĐT ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường đại học, được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 37/2012/TT-BGDĐT ngày 30/10/2012 của Bộ trưởng Bộ GĐ&ĐT; và Thông tư số 12/2017/TT- BGDĐT ngày 19/5/2017 của Bộ GĐ&ĐT ban hành Quy định về kiểm định chất lượng cơ sở GDĐH. - Về thời gian: + Luận án phân tích thực trạng đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở Việt Nam thông qua so sánh quy định về cơ chế, chính sách của Nhà nước trong các văn bản pháp lý liên quan được ban hành trước năm 2021, từ đó đánh giá sự phù hợp của quá trình đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở Việt Nam so với xu hướng chung về đổi mới QLTC các trường ĐHCL trên thế giới. Các mốc thời gian khi phân tích từng nội dung đổi mới QLTC có thể không trùng khớp với nhau. + Dữ liệu thu thập được của 17 trường ĐHCL là dữ liệu từ các Báo cáo tự đánh giá, báo cáo Ba công khai của các trường từ 2012 đến 2021. Dựa trên bộ dữ liệu này, luận án phân tích, đánh giá thực trạng kết quả của đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở Việt Nam qua một quá trình đổi mới theo hướng mở rộng quyền tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH. Quan điểm và giải pháp đổi mới QLTC các trường ĐHCL được đề xuất cho giai đoạn tới năm 2030, tầm nhìn 2035. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận của luận án Việc nghiên cứu đề tài luận án dựa trên cơ sở lý luận về QLTC các ĐVSNCL, với nền tảng là lý thuyết về QLTC công, được thực hiện trong bối cảnh Nhà nước không còn duy trì vai trò kiểm soát toàn bộ mà trao quyền tự chủ ngày càng mở rộng cho các ĐVSNCL (trong đó có các trường ĐHCL). Việc thay đổi về mặt thể chế này chính là việc chuyển từ mô hình quản lý công truyền thống sang mô hình quản lý công mới (New Public Management - NPM) với đặc trưng là: (i) khuyến khích “thị trường hóa” một số hoạt động của khu vực công; (ii) cơ chế quản lý chuyển dần sang dựa vào kết quả; (iii) trao quyền tự chủ trong quản lý cho người đứng đầu các tổ chức công; (iv) tách biệt chức năng quản lý, giám sát với chức năng cung ứng dịch vụ; và (v) lấy khách hàng/người dân làm trung tâm. Theo đó, sự thay đổi vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực GDĐH sẽ dẫn đến yêu cầu đổi mới QLTC đối với các trường ĐHCL để tạo môi trường thuận lợi cho các trường phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và nâng cao chất lượng hoạt động. Vấn đề QLTC và đổi mới QLTC các trường ĐHCL được xem xét ở các khía cạnh huy động, phân phối và sử dụng nguồn tài chính của đơn vị, nhưng không còn chỉ quan tâm đến góc độ cân đối thu - chi của QLTC công truyền thống, mà quan trọng hơn là hiệu quả hoạt động của các trường với chức năng cung ứng dịch vụ công về đào tạo, nghiên cứu khoa học (NCKH) và phục vụ cộng đồng (PVCĐ), thể hiện ở kết quả tài chính trong năm của các trường, đề cao tính năng động trong quản lý các trường ĐHCL hướng đến mô hình quản lý theo kiểu công ty (university cooperation), đảm bảo phát triển bền vững và nâng cao chất lượng. 4.2. Phương pháp nghiên cứu 4.2.1. Phương pháp luận nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu các vấn đề, bảo đảm tính toàn diện, tính hệ thống, tính logic và tính thực tiễn; đồng thời quán triệt các quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới tổ chức và quản lý hướng tới bảo đảm và nâng cao chất lượng các ĐVSNCL, trong đó có các trường ĐHCL. 4.2.2. Cách tiếp cận nghiên cứu - Tiếp cận hệ thống: Tiếp cận hệ thống được sử dụng trong đánh giá các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô và các nhân tố thuộc tính nội tại của các trường ĐHCL có khả năng ảnh hưởng đến mức độ đổi mới QLTC, mức tự chủ cũng như chất lượng các trường. Tiếp cận hệ thống cũng được sử dụng trong đánh giá tác động của các chỉ tiêu phản ánh đổi mới QLTC đến mức tự chủ và chất lượng các trường đại học ĐHCL. Điều này cho thấy, cách tiếp cận hệ thống có ý nghĩa quan trọng nhằm hình thành bức tranh tổng thể về mối quan hệ giữa đổi mới QLTC các trường ĐHCL với các nhân tố ảnh hưởng đến nó cũng như mối quan hệ tác động của nói đến mức tự chủ và chất lượng của các trường.
  7. 4 - Tiếp cận điển hình (nghiên cứu trường hợp): Số lượng các trường ĐHCL ở Việt Nam là tương đối lớn, do đó đề tài sẽ lựa chọn thu thập dữ liệu về QLTC của một số trường ĐHCL đã được kiểm định chất lượng theo quy định hiện hành. Các trường đại học được lựa chọn để thống kê dữ liệu báo cáo có địa điểm nằm ở các vùng kinh tế khác nhau trên cả nước, trực thuộc các cơ quan chủ quản khác nhau (trực thuộc Bộ GĐ&ĐT, các Bộ chủ quản, các Đại học vùng, Đại học Quốc gia, Uỷ ban nhân dân các tỉnh). - Tiếp cận định tính kết hợp với tiếp cận định lượng Tiếp cận định tính xem xét đổi mới QLTC các trường ĐHCL bằng cách thăm dò, mô tả, giải thích dựa trên khảo sát kinh nghiệm, nhận thức, động cơ thúc đẩy, dự định, hành vi, thái độ của các nhà quản lý với vai trò là chủ thể QLTC GDĐH. Tiếp cận định tính do đó có thể hướng chúng ta đến việc xây dựng giả thuyết và các lý giải, hỗ trợ cho việc xây dựng mô hình và phân tích các kết quả nghiên cứu định lượng. Tiếp cận định lượng xem xét đổi mới QLTC các trường ĐHCL theo cách có thể đo lường/đánh giá thông qua một số biến số cụ thể, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến mức tự chủ và chất lượng của các trường ĐHCL làm cho chúng thay đổi theo một xu hướng nhất định, thể hiện qua kết quả kiểm định các mô hình hồi quy đa biến. 4.2.3. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể a) Phương pháp thu thập dữ liệu: Luận án sử dụng phương pháp thống kê để thu thập và xử lý dữ liệu thứ cấp từ số liệu thống kê của Bộ GĐ&ĐT, các bộ chủ quản, "Báo cáo tự đánh giá cơ sở giáo dục" dùng để đăng ký kiểm định chất lượng giáo dục, công khai trên website của 17 trường ĐHCL đã được kiểm định chất lượng theo quy định, và thông tin “Ba công khai” trên website của các trường, với bộ dữ liệu thu thập được gồm 86 quan sát nằm trong khoảng thời gian từ năm 2012 đến năm 2021. Căn cứ khung lý thuyết về đổi mới QLTC các trường ĐHCL theo hướng tiếp cận của luận án, các chỉ tiêu (biến số) được tác giả thu thập, tính toán và chọn lọc đưa vào bộ dữ liệu gồm có: - Thứ nhất, các chỉ tiêu (biến số) phản ánh đổi mới QLTC các trường ĐHCL gồm: + Các chỉ tiêu phản ánh đổi mới quản lý huy động nguồn tài chính của các trường ĐHCL; trong đó có biến MTC (mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên) là biến số vừa đo lường đổi mới quản lý huy động nguồn tài chính, vừa là biến số đo lường khả năng tự chủ tài chính của các trường. + Các chỉ tiêu phản ánh đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính của các trường ĐHCL. - Thứ hai, các chỉ tiêu (biến số) phản ánh chất lượng các trường ĐHCL gồm: Chỉ tiêu phản ánh chất lượng đào tạo; Chỉ tiêu phản ánh chất lượng NCKH; Chỉ tiêu phản ánh chất lượng PVCĐ. - Thứ ba, các biến số phản ánh một số nhân tố vi mô thể hiện thuộc tính nội tại của trường ĐHCL có khả năng ảnh hưởng đến mức độ đổi mới QLTC, mức tự chủ cũng như chất lượng các trường (các biến kiểm soát). b) Phương pháp phân tích dữ liệu * Phương pháp phân tích định tính: - Phương pháp phân tích tổng hợp: được sử dụng trong xây dựng cơ sở lý thuyết của đề tài luận án. Phương pháp này cũng được sử dụng để phân tích thông tin, số liệu thu thập được về đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở hai phương diện: đổi mới trong cơ chế, chính sách của Nhà nước và kết quả thực hiện cơ chế, chính sách đó của các trường ĐHCL, từ đó tổng hợp để đưa ra kết luận về xu hướng đổi mới, những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế. - Phương pháp so sánh: được sử dụng để đánh giá sự đổi mới trong cơ chế, chính sách của Nhà nước về QLTC các trường ĐHCL thông qua việc so sánh các quy định về QLTC mà Nhà nước ban hành trong phạm vi thời gian nghiên cứu, trên các khía cạnh cụ thể: quản lý huy động nguồn tài chính, quản lý sử dụng nguồn tài chính, quản lý phân phối kết quả tài chính trong năm. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: được sử dụng khi tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến QLTC và đổi mới QLTC các trường ĐHCL của các quốc gia trên thế giới, từ đó tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn và rút ra những bài học thành công hay thất bại, có thể được xem xét để đưa ra những giải pháp phù hợp với bối cảnh của Việt Nam.
  8. 5 * Phương pháp phân tích định lượng - Phương pháp thống kê mô tả (Descriptive statistic): được sử dụng để mô tả một cách tổng quát đặc điểm của mẫu khảo sát. Bên cạnh đó, thống kê mô tả cũng được sử dụng để xem xét các mối quan hệ có thể có giữa các biến bằng cách sử dụng bảng kết hợp (custom tables). Thống kê mô tả gồm thống kê trung bình và thống kê tần số: + Thống kê trung bình: thường được sử dụng với các biến định lượng, dùng để thống kê các chỉ số phân tích như giá trị trung bình, giá trị lớn nhất, nhỏ nhất, độ lệch chuẩn... + Thống kê tần số: được áp dụng cho các biến định tính như vị trí địa lý, định hướng phát triển, sự hiện diện của đơn vị sản xuất - dịch vụ - chuyển giao công nghệ (ĐVSX-DV-CGCN) thuộc/trực thuộc trường..., dùng để cung cấp thông tin mức độ (tần số) các chỉ số xuất hiện trong tập mẫu và làm nổi bật các mối quan hệ có thể có giữa các biến. - Thống kê suy luận (Inferential statistics): được sử dụng để phân tích mối quan hệ giữa đổi mới QLTC với mức tự chủ và chất lượng các trường ĐHCL, từ đó đưa ra hàm ý chính sách cho Nhà nước về vấn đề đổi mới QLTC các trường ĐHCL, cũng như giải pháp cho các trường trong việc thực hiện cơ chế QLTC của Nhà nước, trong bối cảnh tự chủ đại học và yêu cầu nâng cao chất lượng GDĐH. + Phương pháp phân tích tương quan Pearson: Nhờ vào kết quả phân tích tương quan, tác giả có thể lựa chọn các biến độc lập có mối quan hệ tương quan chặt với các biến phụ thuộc để đưa vào mô hình hồi quy đa biến, nhằm đánh giá tác động mang tính nhân - quả của đổi mới QLTC đến mức tự chủ và đến chất lượng của trường ĐHCL, đồng thời giúp phát hiện sớm hiện tượng đa cộng tuyến khi các biến độc lập có tương quan chặt với nhau để loại bỏ những biến không phù hợp ra khỏi mô hình dự kiến. + Sử dụng kiểm định One - Way ANOVA để so sánh các nhóm trường theo các tiêu chí phân loại khác nhau: 1. Tuổi của trường, 2. Quy mô của trường, 3. Vị trí địa lý của trường, 4. Định hướng phát triển của trường, 5. Sự hiện diện của ĐVSX-DV-CGCN thuộc/trực thuộc; từ đó thấy được sự khác biệt về mức độ đổi mới QLTC, khả năng tự chủ tài chính và chất lượng của các nhóm trường. + Mô hình hồi quy bội được sử dụng để phân tích đánh giá tác động của đổi mới QLTC đến mức tự chủ và chất lượng các trường ĐHCL. Theo đó, đối với các mô hình chỉ có biến độc lập, trong tập hợp các biến được thu thập dữ liệu từ báo cáo tự đánh giá của các trường ĐHCL, tác giả dựa vào bảng phân tích tương quan Pearson, để lựa chọn các biến độc lập có tương quan tuyến tính với biến phụ thuộc tương ứng và không có hiện tượng đa cộng tuyến, cụ thể như sau: Để đo lường chất lượng các trường ĐHCL, nghiên cứu sinh lựa chọn sử dụng các biến phụ thuộc: Điểm trung bình tuyển sinh đầu vào (DTBDV); Số sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy (SVTN); Tỷ lệ sinh viên thừa nhận có đủ kiến thức, kĩ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp (KTKN_DU); Tỷ lệ SV thừa nhận chỉ học được một phần kiến thức, kĩ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp (KTKN_1PHAN); Tổng số GS, PGS, TS của trường (GSTS); Số lượng bài báo khoa học trong năm (BBKH); Tổng số công trình khoa học hoàn thành (đề tài, bài báo, sách) trong năm (TCTKH); Số đơn vị máu huy động hằng năm (HIENMAU). Để đo lường kết quả đổi mới QLTC của các trường ĐHCL, nghiên cứu sinh lựa chọn sử dụng các biến độc lập đưa vào các mô hình như: NSNN cấp (NSNN_CAP), Thu từ đào tạo (THU_DT), Thu khác (THU_KHAC), Tỷ trọng nguồn tài chính ngoài NSNN (NNS), Mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên (MTC); Chi cho con người (CCN), Chi hoạt động chuyên môn quản lý (CMQL), Chi cho sinh viên (CHI_SV), Chi cho PVCĐ (PVCĐ), Chi cho NCKH (NCKH), Chi bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực (NNL), Chi cho cơ sở vật chất (CSVC). Riêng biến Mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên (MTC=Tổng thu hoạt động sự nghiệp/Tổng chi hoạt động thường xuyên) vừa có thể coi là biến độc lập khi đánh giá các yếu tố tác động đến chất lượng trường ĐHCL, vừa có thể coi là biến phụ thuộc khi đánh giá tác động của đổi mới QLTC đến năng lực tự chủ các các trường.
  9. 6 Các mô hình cụ thể được lựa chọn như sau: Biến phụ thuộc Biến độc lập - QM I. Mô hình hồi quy đánh giá tác động - NSNN_CAP của đổi mới QLTC đến mức tự chủ MTC - THU_DT nguồn kinh phí chi thường xuyên - NNL - CHI_SV Biến phụ thuộc phản ánh chất Biến độc lập phản ánh STT lượng trường ĐHCL đổi mới QLTC - MTC - THU_KHAC Mô hình 1 DTBDV - CHI_SV - NNL - CSVC - THU_NNS SVTN - CCN Mô hình 2 (phản ánh cả chất - CMQL lượng PVCĐ) - CHI_SV - NNL - NSNN_CAP Phản ánh - THU_DT chất lượng Mô hình 3 KTKN_DU - THU_KHAC đào tạo - CMQL II. Mô hình - NNL hồi quy đánh - THU_DT giá tác động - CCN của đổi mới Mô hình 4 KTKN_1PHAN - NNL QLTC đến - CSVC chất lượng - MTC trường - CCN ĐHCL Mô hình 5 GSTS - CMQL - NCKH - NNL - NNS - CCN Mô hình 6 BBKH - CMQL - NCKH Phản ánh - NNL chất lượng - MTC NCKH - CCN Mô hình 7 TCTKH - CMQL - NCKH - NNL Phản ánh - MTC Mô hình 8 chất lượng HIENMAU - CCN PVCĐ - CHI_SV
  10. 7 Đối với mô hình có biến độc lập và có thêm cả các biến kiểm soát, ngoài việc sử dụng các biến độc lập như trên, nghiên cứu sinh dùng thêm các biến kiểm soát như: Tuổi của trường (TU), Quy mô trường (QM), Vị trí địa lý của trường (VTĐL), Định hướng phát triển của trường (DHPT); Sự hiện diện của ĐVSX-DV-CGCN thuộc/trực thuộc (DVSXDV); 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án 5.1. Đóng góp về mặt lý luận - Luận án góp phần vào việc xây dựng khung lý thuyết về đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở góc nhìn đổi mới cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thông qua xem xét những chuyển đổi trong vận dụng các mô hình khác nhau ở từng nội dung QLTC; đóng góp nhất định cho cơ sở lý luận về đổi mới QLTC tài chính các ĐVSNCL nói chung và đổi mới QLTC các trường ĐHCL nói riêng. - Luận án cũng xây dựng được các mô hình hồi quy và phân tích định lượng về mối quan hệ giữa đổi mới QLTC với mức tự chủ và chất lượng trường ĐHCL. 5.2 Đóng góp về mặt thực tiễn - Việc đánh giá tác động của các yếu tố vi mô thể hiện thuộc tính nội tại của các trường đến mức độ đổi mới QLTC, mức tự chủ cũng như chất lượng các trường là căn cứ thực tiễn để Chính phủ cải tiến môi trường chính sách, pháp luật về QLTC các trường ĐHCL, tạo sân chơi công bằng và cạnh tranh lành mạnh giữa các trường đại học, nhằm đạt được mục tiêu chiến lược trong phát triển nền kinh tế xã hội nói chung, hệ thống GDĐH nói riêng. - Việc đánh giá tác động của các chỉ tiêu phản ánh đổi mới quản lý tải chính đến mức tự chủ và chất lượng của các trường ĐHCL sẽ là căn cứ thực tiễn định hướng cho các trường ĐHCL vận dụng cơ chế, chính sách của Nhà nước để thiết kế cơ cấu nguồn thu, cơ cấu chi tiêu hợp lý nhằm đạt được mục tiêu chiến lược của trường trong từng giai đoạn phát triển, đáp ứng yêu cầu tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH. - Những giải pháp được đề xuất trong đề tài được áp dụng vào thực tiễn sẽ có tác dụng góp phần thúc đẩy việc thực hành đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở Việt Nam trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH. Kết quả nghiên cứu có thể là tài liệu tham khảo có giá trị cho một số đơn vị sự nghiệp và các trường ĐHCL ở Việt Nam. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương 12 tiết. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1.1. Các nghiên cứu về quản lý tài chính và đổi mới quản lý tài chính giáo dục đại học 1.1.2. Các nghiên cứu về quản lý huy động nguồn tài chính trường đại học công lập 1.1.3. Các nghiên cứu về tự chủ tài chính các trường đại học công lập 1.1.4. Các nghiên cứu về mối quan hệ của tự chủ tài chính và quản lý tài chính với chất lượng trường đại học công lập 1.2. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.2.1. Những kết quả đạt được của các công trình nghiên cứu Qua nghiên cứu tổng quan các công trình nêu trên cho thấy, các công trình với quan điểm nghiên cứu, bối cảnh nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận khác nhau đã tạo nên sự phong phú về tư liệu liên quan đến chủ đề nghiên cứu. Các công trình đã có những đóng góp lớn về cơ sở lý luận, thực trạng, giải pháp cho vấn đề đổi mới quản lý tài chính các trường đại học công lập trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam. 1.2.2. Những vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu mà các công trình chưa giải quyết được (1) Khoảng trống về đối tượng nghiên cứu: Việc coi vấn đề “đổi mới QLTC các trường ĐHCL” là đối tượng nghiên cứu, với một khung lý thuyết được tổng hợp và xây dựng dựa trên các giải pháp hoàn thiện QLTC giáo dục ĐHCL đã được đưa ra, thực hiện và mô hình hóa phù hợp với
  11. 8 từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế xã hội và của hệ thống GDĐH quốc gia, thì ít thấy công trình nghiên cứu đề xuất. (2) Khoảng trống về nội dung nghiên cứu: Chưa có công trình nào nghiên cứu tác động của đổi mới QLTC (thông qua các chỉ tiêu tài chính trên báo cáo của các trường) đến mức tự chủ và chất lượng các trường ĐHCL. Ngoài ra, trong các nghiên cứu ở Việt Nam, chưa có nghiên cứu nào đánh giá ảnh hưởng của những yếu tố vi mô thể hiện thuộc tính nội tại của các trường như tuổi, quy mô, định hướng phát triển, vị trí địa lý, sự hiện diện của ĐVSX-DV-CGCN thuộc và trực thuộc trường đến kết quả đổi mới QLTC, mức tự chủ và chất lượng của các trường ĐHCL trong quá trình các trường thực hiện cơ chế, chính sách của Nhà nước. (3) Khoảng trống về phương pháp nghiên cứu: Còn thiếu vắng những nghiên cứu định lượng đánh giá mức độ đổi mới QLTC dựa trên các chỉ tiêu tài chính cụ thể trong mối quan hệ với các chỉ tiêu phản ánh chất lượng của trường ĐHCL. 1.2.3. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu Thứ nhất, luận án làm rõ cơ sở khoa học về đổi mới QLTC các trường ĐHCL ở góc độ quản lý nhà nước trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH, từ đó đánh giá thực trạng đổi mới QLTC trường ĐHCL trên phương diện đổi mới cơ chế, chính sách, pháp luật liên quan đến các nội dung cụ thể của QLTC các trường ĐHCL như: đổi mới huy động nguồn tài chính, đổi mới sử dụng nguồn tài chính, đổi mới phân phối kết quả tài chính, có xem xét đến tác động của các yếu tố vi mô thể hiện thuộc tính nội tại của các trường có thể ảnh hưởng đến kết quả đổi mới QLTC trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH như: tuổi, quy mô, vị trí địa lý, định hướng phát triển, sự hiện diện của ĐVSX-DV-CGCN. Thứ hai, luận án đánh giá thực trạng mối quan hệ của đổi mới QLTC với mức tự chủ và chất lượng trường ĐHCL, trong đó thước đo đổi mới QLTC và thước đo chất lượng các trường được xây dựng dựa trên các chỉ tiêu đảm bảo chất lượng GDĐH theo quy định hiện hành. Từ đó xem xét bản chất của những thay đổi tích cực hoặc tiêu cực về chất lượng các trường liệu có bắt nguồn từ những đổi mới trong QLTC các trường ĐHCL hay không. Thứ ba, luận án nhận định những thành tựu, hạn chế, phân tích nguyên nhân của hạn chế xuất phát từ những nhân tố ảnh hưởng đến đổi mới QLTC các trường ĐHCL, đồng thời căn cứ mối quan hệ của các nội dung đổi mới QLTC với mức tự chủ và chất lượng trường ĐHCL, luận án đề xuất quan điểm, giải pháp tiếp tục đổi mới QLTC các trường ĐHCL trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH ở Việt Nam hiện nay. Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP TRONG ĐIỀU KIỆN TỰ CHỦ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC 2.1. KHÁI QUÁT VỀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC CÔNG LẬP VÀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP 2.1.1. Khái quát về giáo dục đại học công lập 2.1.1.1. Trường đại học công lập Trường ĐHCL là cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước thành lập, bảo đảm điều kiện hoạt động và là đại diện chủ sở hữu; hoạt động bằng nguồn NSNN và các nguồn tài chính ngoài NSNN tùy thuộc vào mức độ xã hội hóa GDĐH của mỗi quốc gia; thực hiện chức năng đào tạo các trình độ của GDĐH, hoạt động KH&CN, PVCĐ; có vai trò định hướng cho sự phát triển của hệ thống giáo giục đại học quốc gia và đảm bảo cơ hội bình đẳng tiếp cận GDĐH của người dân. 2.1.1.2. Đặc điểm của trường đại học công lập trong hệ thống giáo dục Một là, dịch vụ GDĐH của trường ĐHCL là một loại hàng hóa công không thuần túy. Hai là, các hoạt động của trường đại học luôn gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo, NCKH và các hoạt động dịch vụ khác. Ba là, việc đo lường chất lượng của trường đại học tương đối phức tạp trên cả ba phương diện: hoạt động đào tạo, hoạt động NCKH và hoạt động PVCĐ.
  12. 9 2.1.1.3. Chất lượng trường đại học công lập và các chỉ tiêu đánh giá Nếu đánh giá chất lượng trường ĐHCL bằng “đầu vào” hoặc “đầu ra” kết hợp với “giá trị học thuật”, có thể lựa chọn sử dụng một số chỉ tiêu thích hợp trong tập hợp các các chỉ tiêu sau để đánh giá: - Thứ nhất, đánh giá chất lượng đào tạo dựa trên các chỉ tiêu như: Điểm trung bình tuyển sinh đầu vào; Số lượng sinh viên nhập học hằng năm; Số sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy hằng năm; Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm đúng ngành đào tạo sau một năm tốt nghiệp; Tỷ lệ vinh viên có việc làm trái ngành đào tạo; Tỷ lệ tự tạo được việc làm; Tỷ lệ sinh viên thừa nhận có đủ kiến thức, kĩ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp; Tỷ lệ sinh viên chỉ học được một phần kiến thức, kĩ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp; Tỷ lệ sinh viên không học được kiến thức, kĩ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp; Số lượng giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ của trường… - Thứ hai, đánh giá chất lượng NCKH dựa trên các chỉ tiêu: Số lượng đề tài NCKH thực hiện trong năm; Số lượng các công bố khoa học trong năm; Tổng bài báo quốc tế trong năm; Tổng số công trình khoa học hoàn thành (đề tài, bài báo, sách) … - Thứ ba, đánh giá chất lượng PVCĐ dựa trên các chỉ tiêu: Mức huy động nguồn lực tài chính cho các chương trình thiện nguyện; Mức cung cấp nguồn nhân lực mới cho nền kinh tế (số sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy); Mức huy động nguồn nhân lực cho hoạt động tình nguyện từ sinh viên và NLĐ (số đơn vị máu thu được từ hoạt động hiến máu nhân đạo hằng năm, số lượt giảng viên và sinh viên tham gia các chương trình tình nguyện…). 2.1.2. Quản lý tài chính các trường đại học công lập 2.1.2.1. Khái niệm quản lý tài chính trường đại học công lập Quản lý tài chính các trường đại học công lập là việc thiết kế và duy trì một môi trường chính sách, pháp luật điều chỉnh sự tác động qua lại giữa nhà nước, trường đại học và các chủ thể khác trong xã hội (sinh viên, các tổ chức, doanh nghiệp…) trên cơ sở mối tương quan quyền và lợi ích giữa các bên theo phân cấp thẩm quyền và trách nhiệm trong hệ thống, nhằm tổ chức và điều khiển các hoạt động liên quan đến việc huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn tài chính, đáp ứng mục tiêu đã đề ra của các trường ĐHCL trong từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội cụ thể. 2.1.2.2. Nội dung quản lý tài chính trường đại học công lập a) Quản lý huy động nguồn tài chính Quản lý phân bổ nguồn tài chính từ NSNN Khi xem xét góc độ tài trợ trực tiếp NSNN cho trường ĐHCL, có các mô hình phân bổ NSNN cho các trường ĐHCL sau: Thứ nhất, mô hình thương lượng (Negotiated Funding): Việc đàm phán/thương lượng chủ yếu dựa trên các yếu tố lịch sử, chính trị hoặc số tiền phân bố tử các năm trước. Thứ hai, mô hình tài trợ theo công thức dựa trên yếu tố đầu vào (Input-based Formula Funding): Mô hình này được ưa chuộng hơn so với mô hình phân bổ ngân sách dựa trên thương lượng, nhưng không đủ khuyến khích tính hiệu quả. Thứ ba, mô hình tài trợ theo công thức dựa trên yếu tố đầu ra (Output-based Formula Funding): Mô hình này gắn việc cấp kinh phí với kết quả thực hiện, có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính công của các trường ĐHCL. Thứ tư, mô hình tài trợ dựa trên hiệu suất (Performance-based Funding Model): Mô hình này cho phép khả năng đối thoại giữa các trường đại học và nhà nước, tăng tính minh bạch trong việc phân bổ ngân sách, cũng như hỗ trợ trường đại học trong việc thiết kế chiến lược phát triển. Thứ năm, mô hình tài trợ cạnh tranh (Competitive Funding): Các trường có thể nộp hồ sơ đăng ký và cạnh tranh lẫn nhau để giành được ngân sách bổ sung cho hoạt động của mình. Thực tế phân bổ nguồn ngân sách của Chính phủ cho các trường ĐHCL thường là sự kết hợp của hai hoặc nhiều cách thức nêu trên. Quản lý huy động nguồn tài chính ngoài NSNN (1) Quản lý huy động nguồn đóng góp/ chi trả từ người học: Để xác định cấu trúc học phí GDĐH ở một quốc gia, cần xem xét những vấn đề sau:
  13. 10 - Chủ thể xây dựng mức học phí - Cơ sở để xây dựng mức học phí - Chủ thể nắm giữ và sử dụng học phí - Kiểu cơ cấu học phí: Có rất nhiều kiểu cơ cấu học phí khác nhau một cách đáng kể trên thế giới, với 04 loại điển hình, đó là: (i) Học phí truyền thống; (ii) Học phí do nhà nước cấp, (iii) Học phí song song, (iv) Cấu trúc học phí kiểu hai bậc. (2) Quản lý huy động nguồn thu khác (ngoài học phí): Theo quy định của Chính phủ trong từng giai đoạn, các trường ĐHCL thường có một, một số, hoặc tất cả các khoản thu khác (ngoài nguồn thu từ học phí) sau đây: Thu từ hoạt động bồi dưỡng; Thu từ KH&CN; Thu từ nhận đặt hàng đào tạo, nghiên cứu, hoạt động dịch vụ của trường hoặc của các ĐVSX-DV-CGCN thuộc và trực thuộc; Thu từ đầu tư của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài; Nguồn vốn vay của các tổ chức, cá nhân trong xã hội; Các nguồn tài trợ, viện trợ, quà biếu, tặng, cho của cựu sinh viên, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài; Thu từ hoạt động đầu tư tài chính và nguồn thu hợp pháp khác. b) Quản lý sử dụng nguồn tài chính Quản lý sử dụng nguồn tài chính từ NSNN Tùy theo thể chế chính trị, hình thái lịch sử, kinh tế, xã hội…, mà phương thức trao quyền tự chủ đại học ở mỗi quốc gia là không giống nhau, nhưng thường diễn ra theo một trong 04 phương thức/mô hình quản lý sử dụng nguồn tài chính từ NSNN tài trợ cho các trường ĐHCL sau: Phương thức 1 - nhà nước kiểm soát (state control model) Phương thức 2 - nhà nước giám sát (state-supervising model) Phương thức 3 - dựa vào thị trường (market-based model) Phương thức 4 - quản lý công mới (the new public management): chính là sự kết hợp của phương thức 1 và phương thức 3. Quản lý sử dụng nguồn tài chính ngoài NSNN Tương tự như đối với khoản chi sử dụng từ nguồn NSNN, thẩm quyền quyết định các khoản chi sử dụng từ nguồn tài chính ngoài NSNN của các trường ĐHCL cũng dựa trên cơ sở mức độ tự chủ tài chính mà nhà nước xác định. Tuy nhiên, dù quyền tự chủ được giao ở mức nào, thì nhìn chung xu hướng các nước thường giao quyền quyết định nhiều hơn đối với các khoản chi tiêu từ nguồn tài chính ngoài NSNN cho các trường ĐHCL. Quản lý sử dụng nguồn tài chính thông qua quy định các nội dung chi của trường ĐHCL Nội dung hoạt động của trường ĐHCL bao gồm hoạt động thường xuyên, hoạt động không thường xuyên và hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản. Do đó, nội dung chi của các trường bao gồm các khoản chi tương ứng với các hoạt động đó. c) Quản lý phân phối kết quả tài chính trong năm Sau khi xác định nghĩa vụ thuế và các khoản nộp NSNN khác theo quy định, phần chênh lệch thu lớn hơn chi còn lại, trường ĐHCL được sử dụng để trích lập các quỹ cơ quan theo quy định, gồm Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, Quỹ bổ sung thu nhập, Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi. Các trường được chủ động quyết định mức trích lập cho phù hợp với tình hình thực tế nhưng phải đảm bảo mức trích lập (tối thiểu hoặc tối đa) theo các quy định của Nhà nước tùy theo mức độ tự chủ các trường. Việc phân bổ, sử dụng các quỹ được tạo lập từ kết quả tài chính sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu chi của các trường ĐHCL. 2.2. ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP TRONG ĐIỀU KIỆN TỰ CHỦ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC 2.2.1. Khái niệm đổi mới quản lý tài chính các trường đại học công lập trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng giáo dục đại học Đổi mới QLTC các trường ĐHCL trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH là việc hoàn thiện và triển khai những thay đổi, cải tiến trong việc thiết kế và duy một môi trường
  14. 11 chính sách, pháp luật điều chỉnh sự tác động qua lại giữa nhà nước, trường đại học và các chủ thể khác trong xã hội trên cơ sở mối tương quan quyền và lợi ích giữa các bên theo phân cấp thẩm quyền và trách nhiệm trong hệ thống, nhằm tổ chức và điều khiển các hoạt động huy động nguồn tài chính, sử dụng nguồn tài chính và phân phối kết quả tài chính của các trường đáp ứng yêu cầu của tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH. 2.2.2. Nội dung đổi mới quản lý tài chính các trường đại học công lập trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng giáo dục đại học 2.2.2.1. Đổi mới quản lý huy động nguồn tài chính - Đổi mới về cơ chế phân bổ NSNN cho các trường: Trong xu thế đại chúng hóa GDĐH, sự dịch chuyển trong cách thức nhà nước cấp ngân sách cho các trường ĐHCL theo xu hướng từ (1) mô hình thương lượng (Negotiated Funding), sang (2) mô hình tài trợ theo công thức dựa trên các yếu tố đầu vào (Input-based Formula Funding), đến (3) mô hình tài trợ theo công thức dựa trên các yếu tố đầu ra (Output-based Formula Funding), (4) mô hình dựa trên hợp đồng hiệu suất (Performance-based Funding Model) và cuối cùng là (5) mô hình tài trợ cạnh tranh (Competitive Funding). Trong từng giai đoạn có thể sẽ cần có sự kết hợp giữa hai trong năm phương thức nói trên (hoặc nhiều hơn) để đáp ứng việc cấp nguồn NSNN cho các nhu cầu phức tạp của trường ĐHCL, cũng như tùy vào mức độ tự chủ thực tế của trường. Xu hướng đổi mới chung là hướng tới mở rộng quyền tự chủ của các trường cũng như đảm bảo công bằng, minh bạch trong phân bổ NSNN. Sự dịch chuyển này sẽ dần chuyển vai trò chủ động trong mối quan hệ tương tác này từ phía nhà nước (chủ thể phân bổ nguồn NSNN cấp cho các trường) sang phía các trường ĐHCL (chủ thể thu hút, huy động nguồn tài trợ từ NSNN) theo cơ chế cạnh tranh. - Đổi mới về cơ chế huy động nguồn tài chính ngoài NSNN của các trường Việc mở rộng các nguồn tài chính khác ngoài NSNN cho trường ĐHCL là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Thứ nhất, nguồn tài chính chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng nguồn tài chính ngoài NSNN của các trường ĐHCL là nguồn thu từ học phí. Theo xu hướng gia tăng quyền tự chủ cho các trường ĐHCL ở hầu hết các quốc gia hiện nay, sẽ có sự dịch chuyển về cơ cấu học phí theo hướng từ “Học phí do nhà nước cấp” sang “Học phí kiểu song song”, rồi đến “Học phí kiểu hai bậc” và cuối cùng là “Học phí truyền thống”. Thứ hai, việc đổi mới quản lý nguồn tài chính các trường ĐHCL còn thể hiện ở việc Nhà nước đưa ra các cơ chế, chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý cho các trường có thể chủ động đa dạng hóa nguồn thu ngoài NSNN. Ngoài các nguồn tài chính mang tính chất doanh thu và thu nhập từ dịch vụ sự nghiệp công, hoạt động sản xuất kinh doanh khác, còn xuất hiện các nguồn tài chính mang tính chất nguồn vốn đầu tư mà các trường huy động được như: vay vốn, huy động vốn trên thị trường tài chính. 2.2.2.2. Đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính - Đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính từ NSNN Xu hướng đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính từ NSNN thường thay đổi từ Phương thức 1 (nhà nước kiểm soát) sang Phương thức 2 (nhà nước giám sát) rồi sang Phương thức 4 (quản lý công mới) - là sự kết hợp của Phương thức 1 (nhà nước kiểm soát) và Phương thức 3 (dựa vào thị trường) với mức độ trao quyền tự chủ cho các trường ngày càng tăng. - Đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính ngoài NSNN Chính phủ đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính ngoài NSNN bằng cách tăng quyền tự quyết trong việc xác định mức chi và cơ cấu chi tiêu cho các nội dung khác nhau nhằm đáp ứng mục tiêu của trường trong từng giai đoạn, và định hướng chi tiêu của các trường đến việc cải thiện các yếu tố được xem là có tác dụng tích cực cho việc nâng cao chất lượng.
  15. 12 2.2.2.3. Đổi mới quản lý phân phối kết quả tài chính trong năm Chính phủ đổi mới quy định về mức phân phối kết quả tài chính để trích lập các quỹ theo xu hướng ưu tiên việc phân phối cho mục đích phát triển hoạt động sự nghiệp, và khống chế phân phối cho mục đích chi tiêu tăng thu nhập, phúc lợi cho NLĐ. Khi các trường ĐHCL tự chủ hoàn toàn, nhà nước sẽ không khống chế mức phân phối kết quả tài chính cho mục đích bổ sung thu nhập cho NLĐ. 2.2.3. Chỉ tiêu đánh giá đổi mới quản lý tài chính các trường đại học công lập trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng giáo dục đại học Để đánh giá thực trạng và kết quả đổi mới QLTC các trường ĐHCL trong điều kiện tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH, luận án tiếp cận bằng cách đánh giá xem hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật mà Nhà nước đã tạo lập, duy trì và đổi mới trong thời gian vừa qua đã đem đến (1) công bằng, minh bạch, tạo động lực và giúp cho các trường (2) cải thiện năng lực tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH hay chưa. Các chỉ tiêu được sử dụng trong thống kê mô tả và thống kê suy luận không chỉ được xem xét ở góc độ cơ cấu (tỷ trọng) mà còn ở quy mô của tổng nguồn tài chính, của từng nguồn tài chính, của từng nội dung chi, gồm có: - Các chỉ tiêu đánh giá đổi mới quản lý huy động nguồn tài chính: Tỷ trọng nguồn tài chính ngoài NSNN, Mức tự chủ tài chính, Tỷ lệ nguồn NSNN cấp trên quy mô nhân sự, và các chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh quy mô của từng nguồn tài chính mà các trường ĐHCL huy động được như: Tổng nguồn thu, NSNN cấp, Thu ngoài NSNN, Thu từ đào tạo, Thu từ nghiên cứu, Thu khác. - Chỉ tiêu đánh giá đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính gồm các chỉ tiêu phản ánh quy mô và cơ cấu chi của trường ĐHCL: Chi cho con người, Chi hoạt động chuyên môn quản lý, Chi phát triển nguồn nhân lực, Chi cho hoạt động NCKH, Chi PVCĐ, Chi cho CSVC, Chi cho người học. - Chỉ tiêu đánh giá đổi mới quản lý phân phối kết quả tài chính: để đánh giá kết quả quản lý phân phối kết quả tài chính cũng cần đánh giá cơ cấu chi của các trường thông qua việc sử dụng một số chỉ tiêu được trình bày ở phần trên. Như vậy, có thể thấy các chỉ tiêu định lượng được lựa chọn sử dụng để đánh giá đổi mới QLTC các trường ĐHCL trong nghiên cứu này mang tính chất trung gian hơn là trực tiếp đánh giá đổi mới cơ chế, chính sách của nhà nước về QLTC các trường ĐHCL, vì mục tiêu cuối cùng của đổi mới QLTC các trường ĐHCL chính là việc đáp ứng yêu cầu tự chủ và nâng cao chất lượng GDĐH. 2.2.4. Nhân tố ảnh hưởng đến đổi mới quản lý tài chính trường đại học công lập 2.2.3.1. Nhân tố vĩ mô ảnh hưởng đến đổi mới quản lý tài chính các trường đại học công lập Thứ nhất, thể chế kinh tế - xã hội Thứ hai, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia Thứ ba, xu thế hội nhập quốc tế trong lĩnh vực GDĐH 2.2.3.2. Nhân tố vi mô thể hiện thuộc tính nội tại của các trường có thể ảnh hưởng đến kết quả đổi mới quản lý tài chính các trường đại học công lập - Tuổi của trường - Quy mô của trường - Vị trí địa lý của trường - Định hướng phát triển của trường: - Sự hiện diện của ĐVSX-DV-CGCN thuộc và trực thuộc 2.3. KINH NGHIỆM ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP TRÊN THẾ GIỚI 2.3.1. Giảm tài trợ từ ngân sách nhà nước và tăng học phí 2.3.2. Thị trường hóa, tư nhân hóa và cổ phần hóa giáo dục đại học 2.3.3. Tài trợ dựa trên hiệu suất 2.3.4. Đổi mới quan hệ tài chính giữa chính phủ và chủ thể nhận tài trợ 2.3.5. Tài trợ cho quốc tế hóa
  16. 13 Chương 3 THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP TRONG ĐIỀU KIỆN TỰ CHỦ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM 3.1. KHÁI QUÁT VỀ CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP Ở VIỆT NAM VÀ VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THEO HƯỚNG TỰ CHỦ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP 3.1.1. Khái quát về hệ thống trường đại học công lập ở Việt Nam Trong những năm gần đây hệ thống trường ĐHCL ở Việt Nam phát triển nhanh chóng về số lượng trường; số lượng sinh viên; số lượng giảng viên; số lượng giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ trong đội ngũ giảng viên. 3.1.2. Đổi mới giáo dục đại học theo hướng tự chủ và nâng cao chất lượng các trường đại học công lập Việc đổi mới GDĐH theo hướng tự chủ và nâng cao chất lượng các trường ĐHCL ở Việt Nam được thực hiện theo tinh thần của Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 với giải pháp: “đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển GĐ&ĐT” nhằm “đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng”; Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 04/06/2019 của Chính phủ về tăng cường huy động các nguồn lực của xã hội đầu tư cho phát triển GĐ&ĐT giai đoạn 2019- 2025; Quyết định số 69/QĐ-TTg phê duyệt đề án nâng cao chất lượng GDĐH giai đoạn 2019-2025, với mục tiêu chung là“Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, thực chất về chất lượng đào tạo, NCKH và chuyển giao công nghệ của hệ thống GDĐH đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực; góp phần nâng cao chất lượng và năng suất lao động, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, tăng cường năng lực cạnh tranh của quốc gia trong khu vực và trên thế giới” 3.2. THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP TRONG ĐIỀU KIỆN TỰ CHỦ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM 3.2.1. Thực trạng đổi mới quản lý huy động nguồn tài chính 3.2.1.1. Đổi mới quản lý phân bổ nguồn ngân sách nhà nước cho các trường ĐHCL a) Quy trình phân bổ NSNN cho giáo dục đại học công lập Có nhiều bên liên quan (đặc biệt là các bộ) tham gia vào quá trình phân bổ Ngân sách cho các trường đại học, làm quá trình phân bổ ngân sách trở nên quá phức tạp, đồng thời làm cho QLTC của GDĐH trở nên phân tán, thiếu tập trung. b) Đổi mới mô hình phân bổ NSNN cho giáo dục đại học công lập - Quá trình đổi mới quản lý phân bổ nguồn NSNN cho giáo dục ĐHCL ở Việt Nam kể từ khi thực hiện cơ chế tự chủ đối với ĐVSNCL chuyển từ Giai đoạn II (2003-2015) sang Giai đoạn III (2016-2021) là phù hợp với xu hướng chung thường thấy ở các quốc gia trên thế giới, cụ thể: + Giai đoạn II (2003-2015) áp dụng kết hợp Mô hình thương lượng (Negotiated Funding) và Mô hình tài trợ theo công thức dựa trên yếu tố đầu ra (Output-based Formula Funding). + Giai đoạn III (2016-2021) áp dụng kết hợp Mô hình thương lượng (Negotiated Funding) và Mô hình tài trợ theo công thức dựa trên yếu tố đầu ra (Output-based Formula Funding), có thêm Mô hình tài trợ dựa trên hiệu suất (Performance-based Funding Model). - Tuy nhiên, trước đó: Giai đoạn I (1996 - 2002) đã từng áp dụng mô hình tài trợ theo công thức dựa trên yếu tố đầu vào (Input-based Formula Funding), được xem như mô hình có tác dụng tích cực hơn đến việc thúc đẩy hiệu suất của các trường so với mô hình thương lượng, nhưng sau đó không được sử dụng nữa mà lại thay thế bằng mô hình thương lượng theo kiểu tài trợ gia tăng dựa trên dữ liệu lịch sử là chủ yếu, trong giai đoạn từ năm 2003 đến nay. Việc “đổi mới” này có vẻ đi ngược xu hướng chung của các quốc gia trong quá trình đổi mới QLTC GDĐH công lập, do sự phát triển quá
  17. 14 nhanh của hệ thống GDĐH công lập, gây áp lực lên chi tiêu công cho GDĐH, khiến cho mô hình tài trợ NSNN theo công thức dựa trên yếu tố đầu vào không còn khả thi nữa. - Chi NSNN cho GDĐH lại đang ở mức thấp hơn nhiều so với các nước với mức khoảng 0,33% GDP (năm 2016), và có xu hướng giảm đi, chỉ còn khoảng 0,23% GDP (năm 2019), chiểm 4,9% tổng chi NSNN cho giáo dục. Mức đầu tư này thấp hơn khá nhiều so với các nước trong khu vực (0,6 - 1%), và thấp hơn cả mức bình quân chung của thế giới, dẫn tới những vấn đề tồn tại khác trong việc quản lý phân bổ nguồn tài chính từ NSNN cho các trường ĐHCL hiện nay: - Một là, cơ chế phân bổ NSNN phức tạp, manh mún; - Hai là, vấn đề bất bình đẳng trong phân bổ NSNN: Bất bình đẳng theo tuổi, quy mô, vị trí địa lý của trường; Bất bình đẳng theo định hướng phát triển của trường; - Ba là, việc phân bổ NSNN mang tính bình quân cào bằng; 3.2.1.2. Đổi mới quản lý huy động nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước cho các trường ĐHCL a) Đổi mới quan niệm về hoạt động sự nghiệp và mở rộng nguồn thu ngoài NSNN Trong giai đoạn 2003 - 2021, Chính phủ đã có 2 lần đổi mới cơ chế QLTC đối với các ĐVSNCL, từ Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 đến Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/04/2006 và Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015, dần mở rộng các nguồn tài chính ngoài NSNN cho các trường ĐHCL theo hướng nâng cao quyền tự chủ tài chính của các trường. Cụ thể: - Giai đoạn 2007 - 2015: Nghị định 43 ra đời thay thế cho Nghị định 10, đã quy định thêm một số nguồn tài chính mà trường ĐHCL tự chủ có thể huy động bao gồm: Nguồn vốn vay, Nguồn vốn huy động; Nguồn vốn liên doanh, liên kết của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật. Theo đó, khoản lãi được chia từ các hoạt động liên doanh, liên kết, lãi tiền gửi ngân hàng được quy định như một nguồn thu sự nghiệp của đơn vị. Khi Nghị định 16 được ban hành năm 2015, các nguồn tài chính này được quy định rõ hơn về bản chất khi được xếp loại là các nguồn huy động từ các giao dịch tài chính của ĐVSNCL. - Trong thời kỳ 2003 - 2015 (Nghị định 10 và Nghị định 43), nguồn kinh phí thực hiện các nhiệm vụ do CQNN có thẩm quyền đặt hàng mang tính chất chỉ huy - chấp hành, chưa được coi là một nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp của đơn vị. Nghị định 16 ra đời đã chính thức hóa khái niệm “DVSNC” và “Giá DVSNC”, coi hoạt động sự nghiệp công của các trường ĐHCL nói riêng là một loại “dịch vụ”, và khách hàng sử dụng dịch vụ bao gồm cả người dân và Chính phủ. - Theo quy định của Nghị định 10 và Nghị định 43, chỉ có quy định về “mức thu” mà chưa có khái niệm “giá DVSNC”. Trong giai đoạn 2016 - 2021, Nghị định 16 đã quy định giá đối với DVSNC có sử dụng kinh phí NSNN và không sử dụng kinh phí NSNN. Theo đó, giá DVSNC không sử dụng kinh phí NSNN được xác định theo cơ chế thị trường, tuy nhiên giá của dịch vụ đào tạo lại chưa hoàn toàn được xác định theo cơ chế thị trường, mà được xác định theo quy định pháp luật về giá - cụ thể là quy định về học phí. b) Đổi mới chính sách học phí nhằm thay đổi cơ cấu nguồn tài chính của GDĐH công lập - Trong khoảng thời gian hơn 30 năm, chính sách học phí GDĐH ở Việt Nam đổi mới các kiểu cơ cấu học phí từ Học phí do nhà nước cấp (trước năm 1987) sang Học phí song song (một số sinh viên nằm trong chỉ tiêu của một số ngành được Nhà nước thay mặt đóng học phí, những sinh viên còn lại trả một mức học phí tương đối thấp do được nhà nước bao cấp một phần) (từ năm 1987 đến năm 2009), sau đó chuyển sang Học phí kiểu hai bậc (đa số sinh viên trả học phí theo mức được nhà nước bao cấp một phần, một số sinh viên trả học phí theo giá thị trường) (giai đoạn 2010-2021). Việc đổi mới chính sách học phí của Việt Nam về cơ bản đang tuân theo xu hướng đổi mới chung về cơ cấu học phí của các nước trên thế giới. - Theo dữ liệu thu thập được trong giai đoạn từ 2012 - 2021, có sự gia tăng về nguồn thu từ đào tạo của các trường, cụ thể giai đoạn 2017-2021 (trung bình 99,39 tỷ đồng/trường/năm) cao hơn so với giai đoạn 2012-2016 (trung bình 81,52 tỷ đồng/trường/năm), nhưng tỷ trọng nguồn thu từ đào tạo trên tổng nguồn thu của các trường lại có xu hướng giảm nhẹ từ 50,76% (giai đoạn 2012-2016) xuống 48,94% (giai đoạn 2017-2021).
  18. 15 - Chính sách học phí của Việt Nam hiện nay vẫn đang quy định mức trần học phí đối với GDĐH công lập, mặc dù mức trần học phí có sự điều chỉnh tăng dần qua các năm nhưng nhìn chung còn thấp (khoảng 13% - 25% giai đoạn 2010 - 2015 theo Nghị định 49; và chỉ còn khoảng 10% giai đoạn 2015 - 2021 theo Nghị định 86), chưa tương xứng với chi phí đào tạo thực tế. Điều này dẫn đến mâu thuẫn: Nhà nước khuyến khích các trường ĐHCL nâng cao năng lực tự chủ tài chính nhưng vẫn trói buộc các trường bằng quy định trần học phí. Điều này dẫn đến một thực tế là chính sách học phí thấp của Việt Nam đang “trợ cấp” ngược cho người giàu. c) Thực trạng đổi mới quản lý huy động nguồn tài chính ngoài NSNN của các trường ĐHCL - Theo dữ liệu thống kê, trong giai đoạn 2012 - 2021, các trường ĐHCL ở Việt Nam thực hiện tự chủ tài chính theo Nghị định 43 và Nghị định 16, với việc đổi mới cơ chế tự chủ theo hướng mở rộng dần nguồn thu ngoài NSNN, xu hướng chung của đa số trường ĐHCL là gia tăng nguồn tài chính ngoài NSNN qua các năm. Sử dụng kiểm định One-Way ANOVA để phân tích khác biệt trung bình của tỷ trọng nguồn tài chính ngoài NSNN (NNS) và mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên (MTC) giữa các nhóm trường cho thấy: (1) các trường ĐHCL ở các vùng có vị trí địa lý thuận lợi hơn ít phải nỗ lực hơn trong việc gia tăng tỷ trọng nguồn tài chính ngoài NSNN, (2) các trường có định hướng nghiên cứu có ưu thế hơn trong khả năng mở rộng nguồn tài chính ngoài NSNN để nâng cao năng lực tự chủ, (3) sự hiện diện của các ĐVSX-DV-CGCN thuộc và trực thuộc tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia tăng nguồn thu ngoài NSNN và mức tự chủ của các trường. 3.2.2. Thực trạng đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính - Thứ nhất, đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính từ NSNN: Việc quản lý sử dụng nguồn tài chính từ NSNN đối với các trường ĐHCL ở Việt Nam có sự chuyển đổi từ mô hình kết hợp giữa Nhà nước kiểm soát và Nhà nước giám sát (giai đoạn 2003 - 2015) sang theo đuổi mô hình “Quản lý công mới” (là sự kết hợp của mô hình Nhà nước kiểm soát với mô hình Dựa vào thị trường) (giai đoạn 2016 - 2021). - Thứ hai, đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính ngoài NSNN: Cùng với việc đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính từ NSNN vào các mục đích chi khác nhau, trong đó có chi thường xuyên, thì các trường ĐHCL nếu xác định phương án tự chủ càng cao thì càng có quyền tự chủ cao trong việc quyết định mức chi tiền lương, các khoản chi hoạt động chuyên môn, chi quản lý. 3.2.3. Thực trạng đổi mới quản lý phân phối kết quả tài chính - Trước hết là đổi mới về thứ tự ưu tiên trích lập các quỹ: Có sự đổi mới từ Nghị định 10 ưu tiên việc chi trả thu nhập cho NLĐ (Quỹ tiền lương, tiền công; Quỹ Dự phòng ổn định thu nhập, Quỹ Khen thưởng và Phúc lợi); sang Nghị định 43 và Nghị định 16 đã ưu tiên trích lập Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp đầu tiên (bắt đầu khống chế mức trích lập tối thiểu), sau đó mới chi trả Thu nhập tăng thêm, trích lập Quỹ Khen thưởng, Phúc lợi (có khống chế mức tối đa) và Quỹ dự phòng ổn định thu nhập. - Thứ hai là đổi mới về biên độ khống chế mức trích lập các quỹ: Nghị định 43 đã quy định thêm mức trích lập tối thiểu với Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, tối đa với các quỹ tiền lương thực tế, Quỹ Khen thưởng và Phúc lợi. Đến Nghị định 16, các mức khống chế này đã được quy định cụ thể cho từng mức độ tự chủ khác nhau của các ĐVSNCL, trong đó có trường ĐHCL. Từ những đổi mới quản lý sử dụng nguồn tài chính và quản lý phân phối kết quả tài chính, chính phủ đã tạo ra môi trường cơ chế chính sách thuận lợi để các ĐVSNCL nói chung và các trường ĐHCL nói riêng trong việc quyết định cơ cấu chi của mình. Phân tích số liệu thống kê thu thập được từ báo cáo của các trường ĐHCL ở Việt Nam giai đoạn 2012-2021 bằng kỹ thuật phân tích khác biệt giá trị trung bình, từ đó thấy được thực trạng về: a) Khác biệt về cơ cấu chi của 2 nhóm trường phân loại theo VTĐL, b) Khác biệt về cơ cấu chi của 2 nhóm trường phân loại theo ĐHPT, c) Khác biệt về cơ cấu chi của 2 nhóm trường có hoặc không có sự hiện diện của ĐV SX- DV-CGCN thuộc và trực thuộc
  19. 16 3.2.4. Đánh giá tác động của đổi mới quản lý tài chính đến mức tự chủ và chất lượng các trường đại học công lập ở Việt Nam 3.2.4.1. Tác động của đổi mới quản lý tài chính đến mức tự chủ trường đại học công lập Kết quả nghiên cứu thực nghiệm mô hình hồi quy đánh giá tác động của các chỉ tiêu đổi mới QLTC đến Mức tự chủ chi thường xuyên (MTC) của các trường ĐHCL ở Việt Nam cho thấy, với độ tin cậy 95%: - Biến Nguồn NSNN cấp (NSNN_CAP) tác động mạnh nhất và ngược chiều tới biến Mức tự chủ chi thường xuyên (MTC) (hệ số hồi quy chuẩn hóa β = - 0,508). Như vậy, nếu các điều kiện khác không thay đổi, khi quy mô nguồn tài trợ từ NSNN cho các trường càng giảm đi, mức tự chủ của các trường sẽ càng tăng lên. Điều này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết. Tuy nhiên trong một số trường hợp, nếu các nguồn thu ngoài NSNN của trường không có xu hướng tăng, thì việc cắt giảm nguồn NSNN cấp cho các trường có thể làm cho các trường ĐHCL sẽ có mức tự chủ tăng lên một cách “bất đắc dĩ” vì tỷ trọng nguồn tài chính ngoài NSNN tăng lên trong khi quy mô tổng nguồn thu của trường giảm. - Biến Thu từ đào tạo (THU_DT) tác động mạnh thứ hai và thuận chiều tới Mức tự chủ chi thường xuyên (MTC) (β = 0,278). Nếu các điều kiện khác không thay đổi thì nguồn thu từ hoạt động đào tạo của trường (thu từ học phí) là yếu tố quan trọng quyết định đến khả năng gia tăng mức tự chủ của trường đại học. Hay nói cách khác, để gia tăng mức tự chủ nguồn kinh phí chi thường xuyên, trước hết các trường cần quan tâm đến việc gia tăng nguồn thu từ học phí. - Biến Chi cho phát triển nguồn nhân lực (NNL) tác động mạnh thứ ba và thuận chiều tới Mức tự chủ chi thường xuyên (MTC) (β = 0,242). Điều này cho thấy, việc sử dụng nguồn tài chính vào việc bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn của NLĐ có tác động tích cực đến mức tự chủ của trường. Điều này là phù hợp, khi mà nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ giúp trường đại học có thể khai thác được nhiều nguồn thu ngoài NSNN từ cung cấp dịch vụ sự nghiệp phù hợp với chuyên môn, cũng như thu hút nguồn tài chính từ NCKH và chuyển giao công nghệ, và thu hút sinh viên làm cơ sở gia tăng nguồn thu từ học phí. * So sánh MTC giữa các nhóm trường ĐHCL: Quan sát bảng thống kê mô tả khác biệt giá trị trung bình mức tự chủ chi thường xuyên của các nhóm trường phân loại theo các tiêu chí, ta thấy: - Trung bình MTC của các trường ở hai vùng đồng bằng (có VTDL thuận lợi hơn) (74,3%) lại thấp hơn các trường ở vùng kinh tế khác (88,3%), cho thấy MTC cao của các trường hiện nay không quyết định bởi sự thuận lợi của VTDL mà đang quyết định bởi mức độ ưu tiên tài trợ từ NSNN của Chính phủ. - Trung bình MTC của các trường có định hướng Nghiên cứu - ứng dụng (103,6%) cao hơn các trường chỉ theo định hướng Ứng dụng (70,9%), cho thấy tầm quan trọng của hoạt động NCKH và nền tảng mà nó xác lập cho sự gia tăng nguồn thu sự nghiệp, mức tự chủ và sự phát triển bền vững. - Trung bình MTC của các trường có sự hiện diện của ĐVSX-DV-CGCN (94,8%) cao hơn các trường không có các đơn vị này (63,9%), cho thấy việc thành lập các ĐVSX-DV-CGCN thuộc và trực thuộc trường sẽ tạo tiền đề cho việc gia tăng năng lực tự chủ của trường ĐHCL. 3.2.4.2. Tác động của đổi mới QLTC đến chất lượng trường đại học công lập a) Tác động của đổi mới QLTC đến chất lượng đào tạo * Mô hình 1: Đánh giá tác động của đổi mới QLTC đến chỉ tiêu Điểm trung bình tuyển sinh đầu vào (DTBDV): - Biến Thu khác (THU_KHAC) tác động mạnh nhất và thuận chiều tới Điểm trung bình tuyển sinh đầu vào (DTBDV) (β = 0,388). Nguồn thu từ dịch vụ sự nghiệp khác (ngoài đào tạo và NCKH) của trường có thể làm gia tăng uy tín và khả năng thu hút người học ứng tuyển khiến điểm tuyển sinh đầu vào tăng lên. Ngoài ra nguồn thu sự nghiệp và nguồn tài trợ khác như viện trợ, hiến tặng dồi dào có thể hạn chế việc nhà trường cố gắng tăng nguồn thu bằng cách mở rộng quy mô đào tạo quá nhanh, điều này giúp duy trì và gia tăng chất lượng đầu vào của sinh viên.
  20. 17 - Biến Chi cho người học (CHI_SV) tác động mạnh thứ hai và ngược chiều tới Điểm trung bình tuyển sinh đầu vào (DTBDV) (β = - 0,315). Về lý thuyết, các khoản chi cho người học như: hỗ trợ miễn giảm học phí cho sinh viên có hoàn cảnh khó khăn hoặc gia đình chính sách, học bổng khuyến khích học tập, khen thưởng… sẽ khuyến khích người học tiếp cận với GDĐH, làm tăng số lượng người học ứng tuyển, làm tăng điểm tuyển sinh đầu vào. Tuy nhiên, nghiên cứu thực nghiệm này lại cho thấy CHI_SV lại có tác động ngược chiều đến DTBĐV, điều này có thể thấy nỗ lực của Chính phủ trong quá trình đại chúng hóa GDĐH, tạo sự bình đẳng về cơ hội tiếp cận GDĐH của người nghèo, có hoàn cảnh khó khăn, dường như lại không có tác dụng tích cực đến chất lượng đầu vào của sinh viên các trường ĐHCL. - Biến Chi cho CSVC (CSVC) tác động mạnh thứ ba và ngược chiều tới Điểm trung bình tuyển sinh đầu vào (DTBDV) (β = - 0,302). Điều này cho thấy việc đầu tư CSVC trong ngắn hạn chưa có tác động tích cực đến chất lượng đào tạo, ngược lại, việc các trường mở rộng khuôn viên sẽ có xu hướng mở rộng quy mô tuyển sinh đầu vào, vì vậy có khả năng phải hạ thấp điểm tuyển sinh đầu vào. Tuy nhiên về dài hạn, khi nguồn thu từ phát triển quy mô trường đạt mức độ nhất định (lượng đổi) sẽ có tác dụng cải thiện chất lượng đầu vào (chất đổi). - Biến Chi cho phát triển nguồn nhân lực (NNL) tác động mạnh thứ tư và thuận chiều tới Điểm trung bình tuyển sinh đầu vào (DTBDV) (β = 0,249). Việc tăng chi cho phát triển nguồn nhân lực có tác động làm tăng chất lượng đầu vào của sinh viên. Điều này có thể được giải thích bằng mô hình phụ thuộc nguồn lực của tổ chức do Aldrich và Pfeffer khởi xướng, theo đó các trường cạnh tranh thành công để huy động nguồn tài chính dành cho phát triển nguồn nhân lực sẽ có xu hướng cạnh tranh thành công để thu hút sinh viên cả về số lượng và chất lượng. * Mô hình 2: Đánh giá tác động của đổi mới QLTC đến chỉ tiêu Số sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy (SVTN): Biến Thu ngoài NSNN (THU_NNS) tác động mạnh nhất và thuận chiều tới Số sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy (SVTN) (β = 0,573). Biến Chi cho chuyên môn quản lý (CMQL) tác động mạnh thứ hai và thuận chiều tới Số sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy (SVTN) (β = 0,251). Như vậy số sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy có quan hệ tỷ lệ thuận với nguồn tài chính ngoài NSNN mà các trường huy động được và quy mô chi cho hoạt động chuyên môn quản lý của trường. Điều này là phù hợp bởi nguồn thu ngoài NSNN thể hiện khả năng tự chủ tài chính của trường, và chi tiêu cho hoạt động chuyên môn quản lý gia tăng trên đà gia tăng quy mô đào tạo của trường đại học. * Mô hình 3 và Mô hình 4: Đánh giá tác động của đổi mới QLTC đến chỉ tiêu Tỷ lệ sinh viên thừa nhận có đủ kiến thức, kĩ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp (KTKN_DU) và Tỷ lệ sinh viên chỉ học được một phần kiến thức, kĩ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp (KTKN_1PHAN): - Mô hình 3 cho thấy: Biến Nguồn NSNN cấp (NSNN_CAP) tác động mạnh nhất (β = - 0,515) và biến Thu khác (THU_KHAC) tác động mạnh thứ hai (β = - 0,513), và cả hai biến đều tác động ngược chiều tới Tỷ lệ sinh viên thừa nhận có đủ kiến thức, kĩ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp (KTKN_DU). - Trong khi đó Mô hình 4 lại chỉ ra rằng: Biến Thu từ đào tạo (THU_DT) tác động thuận chiều tới Tỷ lệ sinh viên chỉ học được một phần kiến thức, kĩ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp (KTKN_1PHAN) (β = 0,379). - Ngoài ra, phân tích tương quan cũng cho thấy: quy mô trường đại học (QM) có quan hệ ngược chiều với Tỷ lệ sinh viên thừa nhận có đủ kiến thức, kĩ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp (KTKN_DU) với hệ số tương quan = -0,324 và độ tin cậy 99% (p.value = 0,007). Như vậy, những nỗ lực của trường nhằm tăng quy mô nguồn thu từ NSNN, từ đào tạo, và thu khác từ các hoạt động sự nghiệp của trường lại làm giảm tỷ lệ sinh viên thừa nhận có đủ kiến thức, kỹ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp; tăng tỷ lệ sinh viên thừa nhận chỉ học được một phần kiến thức, kĩ năng cần thiết cho công việc theo ngành tốt nghiệp. Điều này cho thấy, với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, yêu cầu của xã hội về kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp ngày càng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2