Tiểu luận: Giao tiếp kinh doanh với người Nhật Bản
lượt xem 45
download
Đi sâu vào tìm hiểu về Nhật Bản, với các măt về kinh tế, văn hóa, xã hội và quan hệ đối ngoại hi vọng chúng ta có thể thu được nhiều kinh nghiệm. Bên cạnh đó, hiểu rõ về cách giao tiếp kinh doanh của người Nhật sẽ giúp chúng ta dễ dàng nắm bắt và tiếp cận với nền kinh tế Nhật Bản.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Giao tiếp kinh doanh với người Nhật Bản
- Nhật Bản_ Giao tiếp _ Kinh doanh với người Nhật. ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA THƯƠNG MẠI_DU LỊCH_MARKETING MAR 12 _ K33 Đề tài: GVHD: Nhóm sinh viên Mar 02: Trần Phi Khương Nguyễn Du Thy Lam Nguyễn Thị Hoàng Nga Hoàn Thị Thu Loan Thân Huỳnh Vĩnh Long -1-
- Nhật Bản_ Giao tiếp _ Kinh doanh với người Nhật. NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN ĐIỂM: ............................ ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. ............................................................................................................................. -2-
- Nhật Bản_ Giao tiếp _ Kinh doanh với người Nhật. LỜI MỞ ĐẦU Nhật Bản là một quốc gia không được ưu đãi về tài nguyên thiên nhiên, diện tích nhỏ hẹp lại luôn phải chịu hậu quả của thiên tai, đặc biệt hậu quả từ sau Thế Chiến thứ 2, tuy nhiên Nhật Bản ngày nay đã trở thành một cường quốc trên Thế giới không chỉ là đất nước đi đầu về khoa học công nghệ mà còn là một quốc gia có tầm ảnh hưởng kinh tế lớn đối với tất cả các quốc gia khác. Vậy đâu là yếu tố làm nên sự thành công của Nhật Bản ngày nay? Đi sâu vào tìm hiểu về Nhật Bản, với các mặt về kinh tế, văn hóa, xã hội và quan hệ đối ngoại hy vọng chúng ta có thể thu được nhiều những kinh nghiệm cho sự phát triển kinh tế ở Việt Nam giai đoạn hiện tại. Bên cạnh đó, hiểu rõ về cách giao tiếp kinh doanh của người Nhật sẽ giúp cho chúng ta dễ dàng nắm bắt và tiếp cận với nền kinh tế Nhật Bản. -3-
- Nhật Bản_ Giao tiếp _ Kinh doanh với người Nhật. MỤC LỤC A. TỔNG QUAN VỀ NHẬT BẢN ............................................................... 5 I. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ NHẬT BẢN: .......................................................... 5 1. Vị trí địa lí – địa hình ............................................................................ 5 2. Khí hậu ................................................................................................ 5 3. Mạng lưới giao thông ............................................................................ 6 II. KHÁI QUÁT VỀ VĂN HOÁ NHẬT: ....................................................... 7 1. Sơ lược về văn hoá Nhật ............................................................................. 7 2. Các yếu tố cấu thành văn hóa truyền thống Nhật Bản ................................. 8 3. Những nét đặc trưng trong văn hoá Nhật................................................... 12 B. VĂN HÓA GIAO TIẾP TRONG KINH DOANH ............................... 78 1 Những nét đặc thù của văn hóa doanh nhân Nhật Bản .......................... 78 2 Giao tiếp và đàm phán .............................................................................. 84 3. Phong cách đàm phán của người Nhật ................................................... 86 4. Tặng quà .................................................................................................. 88 -4-
- Nhật Bản_ Giao tiếp _ Kinh doanh với người Nhật. A. TỔNG QUAN VỀ NHẬT BẢN I/ ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ NHẬT BẢN 1. Vị trí địa lí – địa hình Quần đảo Nhật Bản nằm cách bờ phía đông lục địa Châu Á, trải ra theo một vòng cung dài, hẹp dài 3.800km. Tổng diện tích của Nhật Bản khoảng 377815 km2 - bằng 1/25 của Mĩ, gấp 1.14 lần diện tích Việt Nam và chỉ chiếm chưa tới 0,3 % diện tích toàn thế giới. Quần đảo này gồm 4 đảo chính Honshu, Hokkaido, Kyu Shu và Shikoku - nhiều dãy đảo và khoảng 3900 đảo nhỏ. Riêng đảo Honshu chiếm 60 % diện tích Nhật Bản. Trong số các hòn đảo nhỏ, đảo Okinawa (沖縄) là lớn nhất và quan trọng nhất, nằm giữa đường kéo dài từ mỏm phía cực tây của đảo Honshu tới đảo Đài Loan. Hòn đảo Okinawa này tuy thuộc về Nhật Bản nhưng trước kia do ở khá xa phần đất chính nên đã phát triển được một thứ văn hóa riêng và một số điểm khác biệt với nếp sống của bốn hòn đảo lớn. Sóng thần, động đất, núi lửa, bão nhiệt đới khá phổ biến ở Nhật Bản. Đặc biệt, do thuộc vành đai lửa Thái Bình Dương, Nhật Bản là một trong những vùng có nhiều động đất nhất thế giới. Mỗi năm có hàng trăm dư chấn, có những trận động đất gây tổn thất nặng nề. Nhật Bản là một xứ sở có phong cảnh được coi là một trong những nơi đẹp nhất thế giới với bốn mùa thay đổi rõ rệt: mùa xuân với hoa anh đào nở dần từ nam lên bắc, mùa hè cây cối xanh mướt, mùa thu lá phong (momiji) đỏ thắm từ bắc xuống nam, mùa đông tuyết trắng tinh khôi. Ngọn Núi Phú Sĩ(Fujisan) cao nhất Nhật Bản, nằm giữa đồng bằng, lại có tuyết bao phủ nơi phần đỉnh núi, là nguồn cảm hứng của rất nhiều văn sĩ và thi sĩ xứ Phù Tang cũng như của các văn nghệ sĩ, trong đó có các nhiếp ảnh gia và họa sĩ khắp bốn phương. 2. Khí hậu Quần đảo Nhật Bản nằm ở vùng khí hậu ôn hòa và ở cực đông bắc của khu vực gió mùa chạy từ Nhật Bản qua bán đảo Triều Tiên, Trung Quốc, Đông Nam Á tới tận Ấn Đô. Khí hậu nói chung ôn hòa mặc dù khác nhau giữa các miền chủ yếu do các dòng khí lưu lục địa thổi từ phía Tây Bắc chi phối khí hậu mùa đông và các dòng khí lưu đại dương thổi từ phía Đông nam tới chi phối khí hậu của tháng mùa hè. -5-
- Nhật Bản_ Giao tiếp _ Kinh doanh với người Nhật. Hầu hết các miền ở Nhật Bản có 4 mùa rõ rệt, mùa hè nóng ẩm bắt đầu vào giữa tháng 7, trước đó là mùa mưa kéo dài một tháng trừ Hokkaido- đảo lớn ở phía bắc hầu như không có mưa. Mùa đông nhiệt độ xuống thấp, tuyết rơi nhiều đặc biệt ở khu vực phía đông bắc. Mùa đông và mùa thu là những mùa tốt nhất trong năm, khí hậu êm dịu và rực rỡ ánh mặt trời trên khắp đất nước. Tuy nhiên, vào khoảng tháng 9 Nhật Bản thường có bão có thể làm lở đất bằng những trận gió mạnh và mưa như trút nước. Lượng mưa ở Nhật là rất lớn, từ 1000 tới 2500mm/ năm. Nhiệt độ nóng nhất đo được ở Nhật Bản là 40.9 độ C - đo được vào 16 tháng 8, 2007. Nhật Bản là quê hương của chín loại sinh thái rừng, phản ánh khí hậu và địa lý của các hòn đảo. Nó trải dài từ những rừng mưa nhiệt đới trên quần đảo Ryukyu và Bonin tới các rừng hỗn hợp và rừng ôn đới lá rụng trên các vùng khí hậu ôn hòa của các đảo chính, tới rừng ôn đới lá kim (temperate coniferous forests) vào mùa đông lạnh trên các phần phía Bắc các đảo. 3. Mạng lưới giao thông: Giao thông ở Nhật Bản rất phát triển, vào năm 2004 ở Nhật Bản có khoảng 1.177.278 km (731.683 miles) đường bộ, 173 sân bay, 23.577 km (14.653 miles) đường sắt. Phương tiện đường không được hoạt động chủ yếu bởi All Nippon Airways (ANA) và Japan Airlines (JAL). Đường sắt được điều khiển bởi Japan Railways. Có rất nhiều các chuyến bay quốc tế lớn từ nhiều thành phố và đất nước trên thế giới đến và rời Nhật Bản. Tại các thành phố lớn như Tokyo, Kyoto, Osaka hệ thống giao thông công cộng rất phát triển nhất là hệ thống tàu điện ngầm rất quy mô và hiện đại. -6-
- Nhật Bản_ Giao tiếp _ Kinh doanh với người Nhật. II/ KHÁI QUÁT VỀ VĂN HOÁ NHẬT 1/ Sơ lược về văn hoá Nhật Văn hoá Nhật Bản ngày nay là kết tinh thành quả lao động hàng ngàn năm của những cư dân trên quần đảo Nhật Bản, là sự kết hợp sáng tạo những giá trị văn hoá bản địa và các giá trị văn hoá nước ngoài, cũng do vậy, là nơi hội tụ của văn hoá phương Đông và phương Tây. Trước khi có tiếp xúc văn hoá đầu tiên với Trung Quốc trên quần đảo này đã tồn tại những cộng đồng người với những đặc trưng sinh hoạt văn hoá riêng. Những giá trị tinh thần thể hiện nhân sinh quan và thế giới quan độc đáo của những cư dân cổ xưa trên quần đảo này còn lưu lại khá rõ nét trong các vật phẩm chế tác, các truyền thuyết, nhất là trong những tín ngưỡng đa thần mà sau này được gọi chung là Thần đạo. Sự ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc, đặc biệt là chữ Hán, Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo bắt đầu vào thế kỷ thứ IV sau công nguyên đã làm thay đổi to lớn diện mạo văn hoá Nhật Bản từ lối sống trong triều đình Thiên hoàng đến sinh hoạt ngoài dân chúng. Cùng với thời gian các giá trị văn hoá này đã dần dần biến đổi, kết hợp với các giá trị văn hoá bản địa, nhất là với Thần đạo để tồn tại, phát triển và tạo nên những nét đặc trưng riêng của văn hoá Nhật Bản. Khoảng giữa thế kỷ XVI đã xuất hiện những người phương Tây đầu tiên đến Nhật Bản đem theo sự ảnh hưởng của những tri thức khoa học phương Tây và Kitô giáo. Tuy nhiên phải đến cuộc cải cách Minh Trị (1868) thì tiếp xúc của Nhật Bản với văn hoá phương Tây mới trở nên đậm nét. Với đường lối mở cửa đất nước để học hỏi phương Tây, chỉ trong vài thập kỷ sau đó Nhật Bản đã trở thành một quốc gia hùng mạnh với cơ sở kinh tế, thể chế chính trị và mô hình xã hội, văn hoá hiện đại- điều mà phương Tây đã phải mất hàng thế kỷ mới có được. Sau kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ II, mặc dù là một nước bại trận với nền kinh tế kiệt quệ song nhờ tinh thần quyết tâm cao độ Nhật Bản đã tạo nên một kỳ tích trong phục hồi kinh tế. Đến giữa những năm 1960 Nhật Bản đã có đủ sức mạnh để cạnh tranh trên trường quốc tế. Theo đó, nền văn hoá hiện đại cũng nhanh chóng phát triển ngày một đa dạng trên cơ sở phát huy những giá trị truyền thống và tiếp thu những thành quả tiến bộ của văn hoá nước ngoài. Tuy là là một nền văn hoá phát triển mang tính hỗn dung, song việc tiếp thu các thành quả văn hoá nước ngoài của Nhật Bản không phải là việc vay mượn, sao chép cứng nhắc, mà -7-
- Nhật Bản_ Giao tiếp _ Kinh doanh với người Nhật. luôn luôn là quá trình tiếp thu có cải biến. Tư tưởng, tín ngưỡng, lối sống nước ngoài một khi được du nhập vào Nhật Bản đều buộc phải biến đổi để phù hợp với hệ giá trị văn hoá bản địa và tồn tại như là cái có tính độc đáo Nhật Bản. Chính nhờ vậy mà ngày nay Nhật Bản không chỉ là một cường quốc hàng đầu thế giới về kinh tế mà còn là đất nước có nền văn hoá phát triển đa dạng và giàu bản sắc 2/ Các yếu tố cấu thành văn hóa truyền thống Nhật Bản : Dân tộc : Nhật Bản là quốc gia có tính đồng nhất về sắc dân và văn hóa. Người dân không có nguồn gốc Nhật chỉ chiếm hơn 1% tổng dân số vào năm 1993. Sắc dân nước ngoài đông nhất là Triều Tiên nhưng nhiều người Triều Tiên sinh trưởng tại Nhật Bản đã nói tiếng Nhật không khác gì người Nhật Bản cả. Sắc dân này trước kia bị kỳ thị tại nơi làm việc và tại một số phương diện trong đời sống hàng ngày. Sắc dân ngoại quốc thứ hai là người Trung Hoa rồi về sau còn có một số dân lao động gồm người Phi Luật Tân và người Thái. Người Nhật Bản có nguồn gốc Mông Cổ, giống như người Triều Tiên và Trung Hoa. Có lẽ vào khoảng 10.000 năm về trước, sắc tộc gốc Mông Cổ này đã di cư tới Nhật Bản là nơi có sẵn tộc người Ainu, một loại thổ dân gốc Caucase. Ngày nay thổ dân Ainu chỉ còn vào khoảng 14,000 người, sinh sống trong các khu vực riêng biệt thuộc Hokkaido. Người Ainu đang chịu các số phận thiệt thòi giống như thổ dân da đỏ tại Bắc Mỹ. Gia đình và xã hội : Do sống biệt lập với các quốc gia khác tại châu Á trong nhiều thế kỷ cho tới thời kỳ mở cửa vào năm 1868, Nhật Bản đã có các nét riêng về phong tục, tập quán, chính trị, kinh tế và văn hóa... trong đó gia đình đã giữ một vai trò trọng yếu. Trước Thế Chiến thứ Hai, phần lớn người Nhật sống trong loại gia đình gồm ba thế hệ. Sự liên lạc gia đình đã theo một hệ thống đẳng cấp khắt khe theo đó người cha được kính trọng và có uy quyền. Người phụ nữ khi về nhà chồng phải tuân phục chồng và cha mẹ chồng nhưng sau khi Luật Dân Sự năm 1947 được ban hành, người phụ nữ đã có nhiều quyền hạn ngang hàng với nam giới về mọi mặt của đời sống và đặc tính phụ quyền của gia đình đã bị bãi bỏ. Phụ nữ Nhật đã tham gia vào xã hội và chiếm 40,6% tổng số lực lượng lao động của năm 1990. Các phát triển nhanh chóng về kinh tế, kỹ thuật và đô thị cũng làm gia tăng loại gia đình hạt nhân chỉ gồm cha mẹ và các con, khiến cho loại đại gia đình giảm từ 44% vào năm 1955 xuống còn 13,7% vào năm 1991. Số người con trong gia đình cũng giảm từ 4,7 vào -8-
- Nhật Bản_ Giao tiếp _ Kinh doanh với người Nhật. năm 1947 xuống còn 1,5 vào năm 1991 vì việc làm nơi thành phố và do cuộc sống trong các căn nhà chung cư chỉ thích hợp với loại gia đình trung bình là 2,9 người. Cùng với sự thay đổi về số người trong gia đình, nếp sống hiện nay của người Nhật Bản khác ngày trước do việc dùng các máy móc gia dụng, do sự phổ biến các loại thực phẩm ăn liền và đông lạnh, các loại quần áo may sẵn và các phương tiện hàng ngày khác. Những tiện nghi này đã giải phóng người phụ nữ khỏi các ràng buộc về gia chánh, cho phép mọi người có dư thời giờ tham gia vào các hoạt động giải trí, giáo dục và văn hóa. Các tiến bộ về công bằng xã hội cũng làm mất đi tính kỳ thị về giai cấp, về quá trình gia đình, và đại đa số người Nhật Bản thuộc giai cấp trung lưu, căn cứ vào lợi tức của họ. Ngày nay mặc dù Nhật Bản đã là một quốc gia tân tiến nhưng trong xã hội Nhật, vai trò và các liên hệ nam nữ đã được ấn định rõ ràng.Thời xưa, Nhật Bản theo chế độ mẫu hệ, người phụ nữ có vai trò lớn hơn nam giới. Từ khi thời kỳ samurai phát triển, người đàn ông lại chiếm vai trò độc tôn. Dù rằng tinh thần giải phóng phụ nữ đã được du nhập vào Nhật Bản từ cuối thế kỷ 19 nhưng hiện nay trong đời sống công cộng, người phụ nữ vẫn ở vị thế thấp hơn nam giới và bên ngoài xã hội, người nam vẫn giữ vai trò lớn hơn một chút. Theo căn bản, người nữ vẫn là người của "bên trong" (uchi no) và người nam vẫn là người của "bên ngoài" (soto no). Phạm vi của người phụ nữ là gia đình và các công việc liên hệ, trong khi người chồng là người đi kiếm sống và đưa hết tiền lương về cho người vợ. Thời xưa, người phụ nữ trên 25 tuổi mà chưa có chồng thường bị nam giới coi như "có khuyết điểm nào đó". Nhưng nay Nhật Bản lại là nước có phụ nữ lấy chồng rất muộn, thậm chí là sống độc thân mà không có chồng (Nhật Bản hiện nay là nước có phụ nữ lấy chồng rất ít và tỉ lệ sinh thấp nhất Châu Á). Tại các công ty, nhà máy, cửa hàng... người phụ nữ thường được thuê mướn để chào đón các khách mới đến. Ngày nay, vị thế của người phụ nữ đã được nâng lên nhiều trong xã hội, nhất là tư duy của lớp thanh niên trẻ - những người thường không có quan niêm phân biệt và suy nghĩ bảo thủ, cổ hủ. Xã hội Nhật Bản có các nét đặc biệt về giao thiệp. Người Nhật thường cúi chào bằng cách gập người xuống và độ hạ thấp tùy thuộc địa vị xã hội của cả hai người. Đây là một dấu hiệu quan trọng để tỏ lộ sự kính trọng. Một nét phong tục khác là việc trao đổi danh thiếp. Mỗi lần giới thiệu hay gặp mặt đều cần tới tấm danh thiếp và việc nhận tấm danh thiếp bằng hai tay là một cử chỉ lễ độ. Tấm danh thiếp được in rõ ràng và không được viết tay trên đó. Trong việc giao thiệp, người Nhật thường không thích sự trực tiếp và việc trung gian đóng một vai trò quan trọng trong cách giải quyết mọi hoàn cảnh khó khăn. Cũng như đối với -9-
- Nhật Bản_ Giao tiếp _ Kinh doanh với người Nhật. nhiều người châu Á khác, người ngoại quốc tới Nhật Bản cần phải bình tĩnh trước mọi điều không vừa ý, không nên nổi giận và luôn luôn nên nở nụ cười. Tôn giáo và tư tưởng Thần đạo (Shintò) là một tôn giáo đa thần, có nguồn gốc từ những tín ngưỡng thời cổ xưa ở Nhật Bản. Người ta thờ cúng các sự vật, hiện tượng được coi là có năng lực linh thiêng trong tự nhiên và xã hội, như đỉnh núi, con sông, biển, mặt trời, mưa, dông bão, các vị anh hùng và tổ tiên để mong được sự phù hộ, chở che trong cuộc sống hiện tại. Những truyền thuyết về nguồn gốc thần linh của Hoàng tộc đã trở thành một phần quan trong của giáo lý Thần đạo. Từ Thần đạo (Shintò) chỉ những nghi lễ tế thần và đền thờ được thấy xuất hiện rất sớm, nhưng phải đến tận cuối thế kỷ thứ XII thuật ngữ này mới mang ý nghĩa chỉ một loại giáo lý tôn giáo nhất định. Thần đạo có một quá trình kết hợp lâu dài với Phật giáo dưới dạng tín ngưỡng Thần Phật tập hợp. Đầu thế kỷ XIX một phong trào Thần đạo phục cổ đã nổi lên và dần chiếm ưu thế, Phật giáo bị tách ra khỏi Thần đạo vì bị coi là một tôn giáo ngoại lai. Sau cải cách Minh Trị và đặc biệt trong Chiến tranh Thế giới thứ II, Thần đạo được các nhà chức trách đưa lên thành quốc giáo. Kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ II quân Đồng Minh đã chiếm đóng Nhật Bản, giải thể Thần đạo Nhà nước - một tổ chức Thần đạo được coi là có liên quan đến việc cổ súy tư tưởng dân tộc cực đoan và chủ nghĩa quân phiệt. Theo Hiến pháp Nhật Bản sau chiến tranh, Thần đạo không còn được hưởng bất kỳ một đặc quyền nào và tồn tại bình đẳng như các tôn giáo khác. Ngày nay trong ý thức dân chúng Thần đạo tồn tại song song và đôi khi hoà trộn với Phật giáo. Nhiều người Nhật kết hôn theo nghi thức Thần đạo và được mai táng theo nghi thức Phật giáo. Phật giáo được truyền vào Nhật Bản khoảng năm 552 sau công nguyên từ vương quốc Bách Tế (nay thuộc Triều Tiên). Lúc bấy giờ quốc vương Bách Tế đã cử một sứ đoàn mang đến biếu Thiên hoàng Nhật Bản một pho tượng Phật quý và một số sách kinh điển nhà Phật. Tuy lúc đầu có gặp một số khó khăn, song nhờ được sự bảo trợ của Nữ hoàng Suiko (593-628), đặc biệt là của Thái tử Shotoku (574- 622), Phật giáo được truyền bá rộng khắp đất nước. Đầu thế kỷ thứ IX Phật giáo Nhật Bản chủ yếu phục vụ cho giới quý tộc cung đình. Đến thời Hei-an (794- 1185) đã xuất hiện và phát triển hai tông phái lớn là Chân Ngôn tông và Thiên Thai tông. Bước vào thời Kamakura (1185-1333) Phật giáo trên quần đảo này phát - 10 -
- Nhật Bản_ Giao tiếp _ Kinh doanh với người Nhật. triển rực rỡ với sự truyền bá của hàng loạt các tông phái mới khác từ Trung Quốc như Thiền tông (Zen), Tào Động tông, Tịnh Thổ tông... đem lại hy vọng được giải thoát cho đông đảo các tầng lớp dân chúng. Dưới thời Tokugawa (1603-1867), do sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của Kitô giáo, Phật giáo và sinh hoạt của hệ thống chùa chiền trên khắp Nhật Bản cũng gặp nhiều trở ngại. Trong thời Minh Trị, chính sách quốc giáo hoá Thần đạo đã làm cho Phật giáo phải trải qua một giai đoạn đầy khó khăn, không ít chùa chiền, tượng Phật bị huỷ hoại. Sau Thế chiến thứ II, xuất hiện hàng loạt tổ chức tôn giáo mới với tư cách những phong trào Phật giáo mà một số tổ chức lớn trong đó là Soka Gakkai, Risshò Kòseikai, Reiyùkai...Trong suốt lịch sử phát triển lâu dài ở Nhật Bản, Phật giáo không chỉ đơn thuần là một tôn giáo mà còn góp phần đáng kể vào việc làm giàu nền nghệ thuật và vốn tri thức của Nhật Bản. Kitô giáo đươc truyền vào Nhật Bản từ nửa cuối thế kỷ XVI và được phát triển đến đầu thế kỷ XVII. Những tín đồ đầu tiên là những người đang cần một biểu tượng tinh thần mới trong một xã hội có nhiều biến động rối ren, những người hy vọng làm giàu trong buôn bán hay muốn có kỹ nghệ mới, nhất là kỹ nghệ sản xuất vũ khí của phương Tây. Tuy nhiên, chính quyền Tokugawa (1603-1867) cho rằng Kitô giáo là nguy cơ đe doạ sự ổn định của trật tự vừa được thiết lập nên đã cấm nó hoạt động. Kitô giáo bị cấm cho đến tận giữa thế kỷ XIX- khi Nhật Bản lại mở cửa ra thế giới bên ngoài. Trong số tín đồ Kitô giáo ở Nhật Bản hiện nay tín đồ Tin lành nhiều hơn tín đồ Thiên chúa. Ngôn ngữ Ngôn ngữ của người Nhật đã đóng một vai trò quan trọng trong văn hoá Nhật. Ngôn ngữ chính được nói ở Nhật cũng như các cộng đồng di cư người Nhật trên toàn thế giới là một loại ngôn ngữ chấp dính. Kho ngữ âm của Nhật khá nhỏ nhưng lại có một hệ thống ngữ điệu theo từ vựng vô cùng rõ rệt. Lúc đầu, tiếng Nhật cổ đại được biết rộng rãi trên nền trạng thái của thế kỉ thứ 8, khi mà 3 tác phẩm chính của tiếng Nhật cổ được hoàn thành. Chứng nhận đầu tiên về sự tồn tại của tiếng Nhật là một văn bản của người Trung Hoa từ năm 252 sau công nguyên. Nó được xem là một loại loại ngôn ngữ cực kì khó học với người phương Tây, đặc biệt là người lớn. Tiếng Nhật được viết với sự kết hợp của ba nguyên bản: hiragana có nguồn gốc từ nguyên bản tiếng Trung thảo ra; katakana có nguồn gốc từ phương pháp tốc ký các kí tự tiếng trung; và kanji được bắt nguồn từ tiếng Trung. Chữ Latin, Romaji, cũng thường được sử dụng bởi - 11 -
- Nhật Bản_ Giao tiếp _ Kinh doanh với người Nhật. người Nhật đương thời, đặc biệt là tên và logo hoặc quảng cáo của các công ty và khi nhận thiếng Nhật vào máy tính. Chữ số Hindu-Ả Rập là loại chữ số được sử dụng rộng rãi, nhưng chữ số Sino-Nhật cổ cũng có một vị trí đáng ghi nhận. Ý thức về cái đẹp của người Nhật : “Wabi- Sabi” là những từ luôn xuất hiện khi bàn về ý thức đối với cái đẹp của người Nhật. “Wabi” là từ chỉ sự “mộc mạc”, còn “Sabi” lại mang ý nghĩa thể hiện sự tĩnh lặng, thanh tịnh. Nói chung, người Nhật không quen với những thứ lòe loẹt, nhiều màu sắc, hay những việc ầm ĩ gây xôn xao, và họ cũng không thấy như thế là đẹp. Bên cạnh đó, những dạng thức mang tính hình học cũng không phù hợp với sở thích của người Nhật. Đối với người Nhật, vẻ đẹp mà họ cảm nhận được là vẻ đẹp ẩn chứa trong hình ảnh thiên nhiên tồn tại một cách ôn hòa trong thế giới không có quy luật. Mặt khác, có một điều mà khi tìm hiểu văn hóa Nhật Bản ít ai có thể hiểu được, đó là, đối với người Nhật “Gian” và “Vô” cũng là hai yếu tố hết sức quan trọng. Cảm giác về nhịp điệu trong cơ thể của người Nhật có những yếu tố thể hiện phản ứng chống lại sự lặp đi lặp lại những âm thanh cách quãng đều nhau, người Nhật thích sự cách quãng không đều một cách mơ hồ, một sự phá vỡ quy luật nhẹ nhàng êm ái. Ngoài ra, người Nhật cũng tìm thấy vẻ đẹp khi trái tim họ phản ứng trước sự tồn tại vừa phải, phù hợp của cái “vô”, tức là một khoảng không gian không có bất cứ một thực thể nào, thay vì một không gian bị lấp đầy kín. Những khu vườn của Nhật chính là một ví dụ minh họa sinh động, nếu so sánh vườn của Nhật với những khu vườn của Pháp, sẽ thấy ngay sự khác biệt này. 3) Những nét đặc trưng trong văn hoá Nhật : Samurai : Các nhà sử học tin rằng hình ảnh samurai nguyên bản bắt nguồn từ các kỵ binh, bộ binh và cung binh ở Nhật vào thế kỷ thứ 6. Sau những thất bại quân sự trước liên minh Đại Đường và Tân La, Nhật Bản phải thực thi hàng loạt các cuộc cải cách có tính chất và quy mô rộng rãi. Một trong các cuộc cải cách quan trọng là cuộc cải cách Taika (Đại Hóa cải cách) của Nhật hoàng Tenji vào năm 646. Cuộc cải cách này đã đưa văn hóa tập tục của người Trung Quốc vào tầng lớp quý tộc Nhật và áp dụng chế độ chính quyền của Trung Quốc vào bộ máy quan liêu của Nhật. Một điều khoản trong bộ luật Yōrō và sau đó là bộ luật Taihō vào năm 702 yêu cầu dân chúng phải đều đặn đi tường trình nhằm phục vụ cho việc điều tra - 12 -
- Nhật Bản_ Giao tiếp _ Kinh doanh với người Nhật. dân số. Đây là điềm báo trước sẽ diễn ra một cuộc cưỡng bách tòng quân trên khắp đất nước. Thiên hoàng Mommu (Văn Vũ) đã ban hành một điều luật mà theo đó, cứ 3-4 đàn ông trưởng thành thì có 1 người bị sung vào quân đội quốc gia. Quân đội yêu cầu mỗi người lính tự chế tạo hay mua lấy vũ khí cho riêng họ, nhưng bù lại họ sẽ được miễn thuế và trách nhiệm công dân. Mũ và giáp sắt với binh phù thời đại Kofun, thế kỷ 5. Bảo tàng viện Quốc Gia Tokyo Nguồn gốc các Samurai: Đầu thời Heian (Bình An thời đại) - cuối thế kỷ thứ 8 và đầu thế kỷ thứ 9, với tham vọng bành trướng lãnh thổ về phía Bắc Honshū để củng cố quyền lực, Thiên hoàng Kammu (Hoàn Vũ Thiên hoàng) đã cho quân đến đàn áp phiến quân Emishi nhưng đội quân của ông thất thủ do thiếu kỷ luật và ý chí chiến đấu. Vì vậy, Thiên hoàng Kammu bắt đầu dựa dẫm vào các thế lực địa phương và chiêu dụ họ, phong cho chức Seiitaishogun (Chinh di Đại tướng quân) hay gọi tắt là shogun (tướng quân). Với đội quân tinh thông về cưỡi ngựa và bắn cung (kyudo - Cung đạo), các thế lực này trở thành công cụ đắc lực để đàn áp quân nổi loạn cho Thiên hoàng. Dù các võ sĩ này ít nhiều đều được học hành nhưng lúc bấy giờ (thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 9) trong mắt triều đình Thiên hoàng họ chỉ là những võ phu thô lỗ thất học không hơn không kém. Cứ như vậy, cuối cùng, Thiên hoàng Kammu đã giải tán quân đội triều đình, từ đó thế lực của Thiên hoàng từng bước một suy sụp. Trong khi Thiên hoàng vẫn còn cai trị, các thị tộc ở Kyoto (Kinh Đô) đã nắm trong tay một số chức vụ quan trọng như bộ trưởng, còn những người thân của họ dùng tiền mua lấy các chức quan trong tòa án. Để vơ vét của cải làm giàu và trả nợ cho mình, các quan tòa này thường xuyên đánh thuế nặng nề, khiến cho nhiều nhà nông mất hết ruộng đất. Trước sự đe dọa của nạn trộm cướp ngày càng tăng, các thị tộc bắt đầu tuyển mộ những người tha hương trên vùng đồng bằng Kanto, huấn luyện họ kỹ càng về võ thuật và đào tạo họ trở thành đội ngũ lính canh rất thiện chiến. Một số người có nhiệm vụ hộ tống các quan thu thuế, và chỉ sự hiện diện của họ thôi cũng đủ cho vị quan thu thuế này an toàn trước bọn trộm cướp. Họ được gọi là những "samurai", hay những thị vệ có vũ trang, - 13 -
- Nhật Bản_ Giao tiếp _ Kinh doanh với người Nhật. nhưng lực lượng đầy tớ này nhanh chóng trở thành một thế lực vũ trang độc quyền. Thông qua những hợp đồng bảo vệ và các cuộc hôn nhân vì mục đích chính trị, họ dần dần giành được thế lực trong giới chính trị, và cuối cùng còn qua mặt cả giai cấp quý tộc truyền thống. Một số thị tộc ban đầu chỉ là những nông dân. Họ đã cầm vũ khí vùng lên để bảo vệ chính mình và chống lại các quan do chính quyền phong kiến cử đến cai quản nơi họ sống và thực hiện chế độ thu thuế nặng nề. Những thị tộc này đã liên minh để có thể bảo vệ nhau trước các thị tộc khác có thế lực hơn. Giữa thời Heian, họ răm rắp tổ chức và vũ trang giống như quân đội Nhật Bản và ban hành luật lệ riêng cho họ, gọi là Bushido(vũ sĩ đạo). Sau thế kỷ 11, người ta kính trọng các samurai là người có học thức, giáo dục và "văn võ song toàn" (bun bu ryo do), hay "bút và kiếm là một". Tên gọi ban đầu của các chiến binh, "Uruwashii", là một chữ kanji bao gồm ý nghĩa "văn chương" (bun) và "nghệ thuật quân sự" (bu), được nhắc đến trong Heike Monogatari (cuối thế kỷ 12). Heike Monogatari kể về cái chết của Taira no Tadanori, vị kiếm khách và nhà thơ kiệt xuất trong truyền thuyết như thế này: "Dù là bạn hay kẻ thù, ai cũng phải nhỏ lệ nơi tay áo tiếc thương cho ông mà thốt lên rằng, 'Tiếc thay! Tadanori là một vị tướng vĩ đại, tinh thông cả kiếm thuật và văn thơ, có thể nói là văn võ song toàn'." Theo William Scott Wilson trong quyển Lý tưởng của Samurai: "Mỗi người lính trong tác phẩm Heike Monogatari đều là chân dung tiêu biểu của các chiến binh có học thức của thế hệ sau nay, và hình tượng lý tưởng của họ không phải là quá xa để vươn tới”. Vì vậy, đây là cái đích mà các chiến binh cấp cao trong xã hội luôn đeo đuổi và được xem là hình ảnh đặc trưng của tầng lớp quân nhân Nhật Bản. Với Heike Monogatari, hình ảnh người chiến binh Nhật Bản trong văn học đã được phát triển đến mức hoàn thiện. Mạc phủ Kamakura và khởi đầu của giới samurai Ban đầu các chiến binh này chỉ là tay sai của các lãnh chúa và các dòng họ quý tộc (kuge), nhưng dần dần, họ từng bước giành lấy quyền lực để lật đổ tầng lớp thống trị và lập ra chính quyền thống trị samurai đầu tiên trong lịch sử. Khi các quý tộc địa phương đã chuẩn bị đầy đủ về lực lượng, lương thực, khí giới, họ liên minh với nhau với một tổ chức có phân cấp bậc, địa vị rõ ràng, đứng đầu là toryo, hay thủ lĩnh. Người thủ lĩnh này đặc biệt phải là họ hàng xa của Thiên hoàng, hay ít nhất cũng thuộc - 14 -
- Nhật Bản_ Giao tiếp _ Kinh doanh với người Nhật. một trong ba dòng họ quý tộc (Fujiwara, Minamoto và Taira). Ban đầu các toryo được triều đình phong làm quan phủ ở các tỉnh lỵ trong thời hạn 4 năm, nhưng sau khi mãn nhiệm kỳ các toryo chẳng những không quay về kinh đô mà còn đem chức quan đó ra làm một thứ tài sản thừa kế cho thế hệ sau (theo kiểu cha truyền con nối) để tiếp tục lãnh đạo quý tộc địa phương đàn áp các cuộc nổi loạn trên khắp nước Nhật vào khoảng giữa và cuối thời Heian. Võ sĩ đánh nhau trong trận Dan-no-Ura năm 1185 Nhờ binh lực hùng mạnh và tài lực vững chắc, đội quân của các quý tộc sau cùng đã trở thành một thế lực quân đội mới của triều đình. Quyền lực của họ đã được củng cố vững chắc sau cuộc nổi loạn Hōgen vào cuối thời Heian; và cũng từ đó mà dẫn đến hậu quả là sự đối đầu của hai gia tộc thù địch nhau Minamoto và Taira, trong cuộc nổi dậy Heiji vào năm 1160. Sau nhiều chiến thắng vang dội, tướng Taira no Kiyomori trở thành chiến binh đầu tiên vươn tới chức Thiên hoàng quân sư, thậm chí nắm trong tay chính quyền trung ương, lập ra chính quyền thống trị samurai đầu tiên và biến Thiên hoàng thành một đấng quân vương bù nhìn. Dù vậy, dòng họ Taira vẫn tỏ ra khoan hòa, thận trọng trong quan hệ với dòng họ Minamoto; thay vì mở rộng và củng cố quân đội của mình, dòng họ Taira đã áp dụng chiêu "mỹ nhân kế", đưa những phụ nữ trong gia tộc tiến cung và lợi dụng họ giành lấy quyền hành từ tay Thiên hoàng. Hai dòng họ Taira-Minamoto lại tiếp tục đối đầu nhau vào năm 1180 với chiến tranh Genpei và kéo dài đến năm 1185. Chiến thắng của Minamoto no Yoritomo đã cho thấy sự thất bại của quý tộc trước các chiến binh samurai. Năm 1190 Yoritomo đến Kyoto; năm 1192 trở thành Seii Taishogun (chính dị đại tướng quân), thành lập chế độ Mạc phủ Kamakura Mạc phủ Kamakura hay Kamakura Bokufu, dời đô từ Kyoto về Kamakura, gần căn cứ quân đội của ông. Bakufu có nghĩa là "chính quyền lều trại", bởi hiện thời chính quyền mang tính chất là chính quyền quân sự và quân đội đều sống trong các khu lều trại. - 15 -
- Nhật Bản_ Giao tiếp _ Kinh doanh với người Nhật. Thời gian qua đi, dòng dõi samurai trở thành các chiến binh quý tộc (buke), trên danh nghĩa chỉ thuộc quyền cai quản của quý tộc triều đình. Khi các samurai bắt đầu học các thú tiêu khiển theo kiểu quý tộc như thư đạo, thi ca... thì các nhà quý tộc, ngược lại, bắt đầu sống theo kiểu samurai. Trải qua hàng loạt mưu đồ và những thời đại trị vì ngắn ngủi của các vị hoàng đế khác nhau, quyền lực thật sự giờ đây nằm trong tay các shogun và các samurai. Mạc phủ Ashikaga và thời phong kiến Các dòng tộc samurai lao vào các cuộc tranh giành quyền lực diễn ra suốt thời Mạc phủ Kamakura và Mạc phủ Ashikaga. Phật giáo Thiền tông được truyền bá rộng rãi trong giới samurai vào thế kỷ 13, giúp các võ sĩ gò mình vào khuôn mẫu đạo đức và vượt qua nỗi sợ hãi về giết chóc, nhưng tôn giáo phổ biến trong quần chúng nhân dân lại là Tịnh Độ Tông. Samurai Suenaga phản kháng khi Mông Cổ tấn công Nhật. Moko Shurai Ekotoba, khoảng năm 1293 Năm 1274, nhà Nguyên đưa quân xâm lược Nhật Bản với 40.000 quân và 900 thuyền chiến tấn công từ phía bắc Kyushu. Nước Nhật chỉ đưa vỏn vẹn 10.000 võ sĩ samurai để đối phó. Mặt khác, quân xâm lược cũng bị choáng váng ít nhiều sau những trận dông bão trước khi bị các samurai giáng cho một đòn nặng nề. Quân Nguyên rút lui; cuộc xâm lược chấm dứt. Chiến thắng này được ghi nhớ bởi quân xâm lược Mông Cổ cũng sử dụng loại bom nhỏ mà sau này được cải tiến thành bom và thuốc súng của quân Nhật. Quân Nhật nhận thấy sẽ lại có một cuộc xâm lăng mới, và bắt đầu xây dựng một phòng tuyến bằng đá sừng sững quanh vịnh Hakata vào năm 1276. Hoàn thành năm 1277, phòng tuyến này trải dài 20 km dọc theo bờ biển, sau này trở thành căn cứ phòng vệ trọng yếu trước sự xâm lược của quân Mông. Người Mông Cổ cố gắng dàn xếp vấn đề bằng đường lối ngoại giao suốt những năm 1275-1279, nhưng mỗi vị sứ giả được cử đưa đến Nhật đều bị xử tử. - 16 -
- Nhật Bản_ Giao tiếp _ Kinh doanh với người Nhật. Trong trận đánh tạo Hakata-ku, Fukuoka. Moko Shurai Ekotoba, khoảng 1293 Năm 1281, nhà Nguyên tiếp tục xâm lược Nhật Bản với đội quân 140.000 người và 4.400 thuyền chiến. Miền Bắc Kyushu được canh phòng với đội quân phòng vệ 40.000 người. Quân Mông chưa kịp hành quân vào đất liền thì gặp ngay một cơn bão to khi đổ bộ vào một hòn đảo ở Kyushy, tổn hất nặng nề. Một lần nữa quân Mông phải rút chạy sau những đợt phản kháng của quân Nhật ở phòng tuyến vịnh Hakara. Những cơn dông năm 1274 và trận bão to năm 1281 đã giúp cho các samurai đẩy lùi quân xâm lược Mông Cổ dù chênh lệch về lực lượng rất lớn. Những trận gió này được biết đến với cái tên kami-no-kaze, tức "thần phong", và càng khắc sâu niềm tin của người Nhật rằng đất nước của họ thuộc về thần thánh và được bảo vệ bởi các thế lực siêu nhiên. Thế kỷ 14, một thợ rèn tên là Masamune đã cải tiến kết cấu hai lớp của thép mềm và thép cứng dùng trong việc rèn kiếm, giúp nâng cao lực cắt và tính bền. Kỹ thuật mới này đã giúp cho thanh kiếm Nhật Katana trở thành một trong những khí giới lợi hại nhất của thời kì tiền công nghiệp ở Đông Á. Nhiều thanh kiếm được xuất khẩu xuyên Đông Hải, một số được đưa đến tận Ấn Độ xa xôi. Việc anh em trong nhà hãm hại lẫn nhau, giành địa vị con trưởng để thừa kế tài sản thường xuyên xảy ra ở thời kì này, trái hẳn với các điều luật trước thế kỷ 14, quy định tài sản thừa kế được chia theo công trạng của mỗi nguời. Các cuộc xâm lấn địa phận và xung đột, tranh cãi giữa các samurai xảy ra liên miên, trở thành một vấn đề đáng lo ngại suốt thời Mạc phủ Kamakura và Mạc phủ Ashikaga. Thời kì Chiến quốc (Sengoku jidai) đánh dấu sự nới lỏng về đạo đức trong văn hóa samurai. Các tầng lớp xã hội khác thi nhau gắn lên mình cái mác võ sĩ và ung dung được mọi người kính trọng dưới tư cách một samurai. Vì vậy, tinh thần Võ sĩ đạo (bushido)trở thành một nhân tố quan trọng trong việc cải quản và ổn định xã hội trong thời kì hỗn loạn này. Các chiến lược và trình độ kỹ thuật của Nhật phát triển rất nhanh vào thế kỉ 15 và thế kỉ 16. Quân đội chủ yếu là bộ binh có tên gọi là ashigaru ("túc khinh", do chiến bào của họ rất nhẹ), gồm những võ sĩ có địa vị thấp kém và dân thường, được trang bị bằng giáo dài (nagayari) - 17 -
- Nhật Bản_ Giao tiếp _ Kinh doanh với người Nhật. hay Naginata, phối hợp với kỵ binh tinh nhuệ. Số quân được huy động cho chiến sự dao động từ hàng ngàn đến hàng chục vạn người. Áo giáp samurai của người Nanban ở phía Tây Nhật Bản, thế kỉ 16 Súng hỏa mai, một dạng của súng trường, ban đầu được người Tây Ban Nha mang đến trên một chiếc thuyền hải tặc của Trung Quốc vào năm 1543, và người Nhật Bản đã chế tạo được nó thành công trong vòng chưa đến 1 thập kỉ. Kể từ đó, các nhóm sản xuất súng hỏa mai đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong quân đội. Cuối thời phong kiến, nước Nhật sở hữu hàng trăm ngàn khẩu súng ngắn và quân số khổng lồ lên đến hơn 100.000 người. Thậm chí quân đội Tây Ban Nha hùng mạnh nhất châu Âu thời bấy giờ cũng chỉ sở hữu vài ngàn khẩu súng ngăn và khoảng 30.000 quân. Các ninja cũng đóng một vai trò tích cực trong lĩnh vực tình báo. Năm 1592, rồi lại năm 1598, Toyotomi Hideyoshi xua quân xâm lược Trung Quốc và đưa đoàn quân 160.000 samurai tiến đánh Triều Tiên nhanh chóng chiếm ưu thế nhờ vũ khí lợi hại và quân đội tổ chức cao. Các tướng samurai nổi tiếng nhất trong cuộc chiến này là Kato Kiyomasa và Shimazu Yoshihiro. Khi chế độ cũ bị lật đổ, cái tài xoay sở tháo vát của các samurai càng được thể hiện nổi trội trong mọi nỗ lực để duy trì thế lực quân sự và các tổ chức nhà nước trong phạm vi cai quản của mình. Đến thế kỉ 19, hầu hết các gia tộc samurai có nguồn gốc tổ tiên từ thời kì này đều tự nhận là dòng dõi của 4 dòng họ quý tộc thời xưa, Minamoto, Taira, Fujiwara và Tachibana. Và tất nhiên, thật khó để chứng minh điều đó. - 18 -
- Nhật Bản_ Giao tiếp _ Kinh doanh với người Nhật. Oda, Toyotomi và Tokugawa Oda Nobunaga là lãnh chúa vùng Nagoya (trước đây là Tỉnh Owari) và là một samurai kiệt xuất của Thời kỳ Chiến quốc. Ông đã thống nhất các lãnh chúa trên toàn lãnh thổ Nhật Bản và lập nên một nước Nhật Bản thống nhất. Oda Nobunaga đã làm một cuộc cải cách trong chiến lược và tổ chức quân đội, cho sản xuất súng trường hạng nặng, chú trọng đổi mới thương và công nghiệp. Những chiến thắng nối tiếp nhau trở thành bàn đạp cho quân đội của ông đạt đến mục tiêu lật đổ Mạc phủ Ashikaga và tước bỏ quyền lực quân sự của các sư nhà chùa, châm ngòi cho các cuộc xung đột phù phiếm trong dân chúng suốt hàng thế kỉ. Tấn công vào cả nơi tôn nghiêm của các chùa miếu, họ trở thành vấn đề đau đầu của Thiên hoàng và bất cứ vị lãnh chứa nào muốn kiểm soát tầm ảnh hưởng của họ. Oda Nobunaga mất năm 1582 khi tướng dưới quyền Akechi Mitsuhide cùng các thế lực phản nghịch nổi dậy chống lại ông. Samurai Hasekura Tsunenaga, Roma, 1615, Coll. Borghese, Roma Quan trọng hơn, Toyotomi Hideyosi và Tokugawa Ieyasu, các thủ hạ trung thành của Nobunaga, lại chính là người lập ra triều đại Mạc phủ Tokugawa. Hideyoshi là tướng giỏi được Nobunaga trọng dụng; còn Ieyasu là bạn cùng lớn lên với Nobunaga từ thời thơ ấu. Hideyoshi đã đánh bại kẻ phản bội Mitsuhide chỉ trong vòng một tháng và trở thành người kế tục sự nghiệp của chủ soái Nobunaga. Cả hai người đều có phần trong các chiến công của Nobunaga trước đó và đã tiếp nối sự nghiệp thống nhất Nhật Bản của Nobunaga. Người xưa có câu: "Thống nhất Nhật Bản là một cái bánh gạo. Oda làm bánh, Hashiba nặn bánh. Cuối cùng chỉ Ieyashu được ăn bánh" (Toyotomi Hideyoshi theo họ Hashiba khi còn là thuộc hạ của Nobunaga). Huyền thoại và sự thật Phần lớn samurai (trong thời kỳ Edo) gắn liền với quy tắc danh dự gọi là võ sĩ đạo, và luôn là những người làm gương cho cấp dưới. Một phần đáng chú ý của quy tắc võ sĩ đạo là luật tự mổ bụng hay còn gọi là harakiri, cho phép một samurai bị hạ nhục phục hồi danh dự cho - 19 -
- Nhật Bản_ Giao tiếp _ Kinh doanh với người Nhật. mình bằng cái chết, nơi samurai vẫn còn chịu ơn nguyên tắc Võ sĩ đạo. Tuy nhiên, quy tắc Võ sĩ đạo được viết ra trong thời bình và đã không phản ánh trung thực tính chất chiến binh của một samurai. Trong khi vẫn tồn tại những cách hành xử của samurai mang tính chất huyền thoại, những nghiên cứu về Võ gậy Nhật Bản và Võ đạo Nhật Bản đã cho thấy trên chiến trường, samurai cũng là những chiến binh như bao chiến binh khác. Mặc dù được gắn với quy tắc Võ sĩ đạo, trên thực tế, samurai vẫn có những người không trung thành và phản bội (như Akechi Mitsuhide), hèn nhát, dũng cảm, hoặc quá trung thành (như Kusunoki Masashige). Samurai thường trung thành đối với cấp trên trực tiếp của họ, những người sẽ gắn liền lòng trung thành với những lãnh chúa cao hơn. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp samurai sẽ bất trung với lãnh chúa hoặc đại lãnh chúa, khi lòng trung thành đối với Thiên Hoàng cao cả hơn. Một khả năng huyền thoại của samurai là Song đấu Tâm lý (Duel of Wills), một kỹ thuật tâm lý để kiểm tra sức mạnh tinh thần của kẻ địch mà không phải đánh nhau. Hai người tham chiến (phải cùng là samurai, hoặc ở đẳng cấp ngang nhau) nhìn chằm vào nhau, không chớp mắt trong yên lặng, không cử động cơ thể, cho đến khi một trong hai phải thất bại. Trà đạo(Sado) Là một nghi thức pha trà tiếp khách có tính hệ thống rất chặt chẽ. Trà đạo bao gồm từ việc chuẩn bị đón khách và mời uống trà cũng như việc nghiên cứu và khai thác vẻ đẹp của kiến trúc, tạo vườn, đồ gốm cùng với những tri thức về lịch sử và tôn giáo. Tại đây có sự tổng hợp của tính sáng tạo nghệ thuật, tính cảm thụ tự nhiên, tư tưởng tôn giáo và sự xã giao. Phong tục uống trà xuất hiện ở Nhật Bản khoảng đầu thế kỷ thứ VIII cùng với sự ảnh hưởng của Phật giáo. Khoảng từ thế kỷ XII, khi các thiền sư Nhật Bản từ Trung Quốc trở về mang theo lối uống trà mới kiểu Tống với một loại trà xanh được tán mịn gọi là mạt trà (matcha) thì tục uống trà trở thành phổ biến. Suốt thời Trung thế, việc uống trà đã lan rộng từ các thiền viện tới nơi dân chúng với những phong cách mang tính thẩm mỹ khác nhau. Các hội uống trà và thi hương vị trà đã thu hút chú ý của cả Thiên hoàng và các tướng quân, các nhà buôn giàu có. Mặc dù việc uống trà không phải dành riêng cho các thiền viện, nhưng trà lễ (Sarei) với tư cách là các quy tắc và nghi thức tỉ mỉ cho việc pha và uống trà là do các thiền sư tạo ra. Sarei mang nhiều đặc tính của Thiền, trong đó sự thanh tịnh, tính giản dị và mộc mạc đã trở thành những đặc trưng thẩm mỹ và uống trà, do đó, dần dần trở thành một - 20 -
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận: Giao tiếp và vai trò của giao tiếp trong quản trị kinh doanh. Ứng dụng trong thực tế
19 p | 3476 | 1018
-
Tiểu luận giao tiếp trong kinh doanh: Nghiên cứu môi trường văn hóa Trung Quốc
30 p | 1185 | 226
-
TIỂU LUẬN: KĨ NĂNG GIAO TIẾP TRONG KINH DOANH
15 p | 1805 | 141
-
Thuyết trình: Văn hóa trong giao tiếp ba miền
31 p | 1515 | 127
-
Tiểu luận: Kỹ năng thuyết phục khách hàng. Bí quyết để thành công? Cho ví dụ minh họa cụ thể
18 p | 581 | 88
-
Tiểu luận: Văn hóa Giao tiếp Kinh Doanh ở Việt Nam
19 p | 1305 | 79
-
Tiểu luận: Văn hoá giao tiếp kinh doanh của Hoa Kỳ và những vấn đề doanh nhân Việt Nam cần lưu ý khi giao tiếp, đàm phán với đối tác Hoa Kỳ
10 p | 484 | 65
-
Tiểu luận: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện hoạt động giao tiếp của văn phòng tập đoàn FPT
29 p | 463 | 63
-
Tiểu luận: Chính sách Marketing của Big C trong quá trình điều tra khách hàng
27 p | 443 | 61
-
Tiểu luận: QUẢN TRỊ KINH DOANH DỊCH VỤ TẠI KHÁCH SẠN SÀI GÒN
30 p | 482 | 55
-
Tiểu luận: Năng lực giao tiếp kinh doanh của sinh viên ngành Kế toán QTKD trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội
11 p | 273 | 47
-
Tiểu luận: Văn hoá trong giao tiếp kinh doanh của các nước Phương Tây
19 p | 636 | 40
-
Tiểu luận: GIAO TIẾP NỘI BỘ CÔNG TY
17 p | 269 | 37
-
Tiểu luận Quản trị học: Truyền thông giao tiếp trong quản trị
46 p | 211 | 33
-
Tiểu luận: Đặc trưng doanh nhân Mỹ
30 p | 159 | 15
-
Tiểu luận: “ Niềm vui nhân lên, nỗi buồn chia đi” trong giao tiếp kinh doanh của doanh nghiệp
18 p | 131 | 14
-
Khóa luận tốt nghiệp ngành Thương mại Quốc tế: Thực trạng hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa xuất khẩu bằng đường biển của Công ty Cổ phần Giao nhận và Tiếp vận Quốc tế Interlogistics chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh
105 p | 6 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn