intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: GÓP PHẦN NHẬN DIỆN CƠ CẤU XÃ HỘI Ở NƯỚC TA QUA 20 NĂM ĐỔI MỚI

Chia sẻ: Pham Vu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:97

127
lượt xem
24
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Qua 20 năm đổi mới, cơ cấu xã hội nước ta đã có những thay đổi đáng kể theo chiều hướng tiến bộ, cả từ giác độ nhận thức lẫn giác độ thực tế. Tuy nhiên, cho đến nay, cơ cấu ấy vẫn chưa đáp ứng được những chuẩn mực của một cơ cấu xã hội hiện đại. Trong quá trình hình thành và phát triển, cơ cấu ấy còn ít nhiều chịu ảnh hưởng của những yếu tố mang tính cố hữu của nền kinh tế tiểu nông, tâm lý của người sản xuất nhỏ, sự phân tầng...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: GÓP PHẦN NHẬN DIỆN CƠ CẤU XÃ HỘI Ở NƯỚC TA QUA 20 NĂM ĐỔI MỚI

  1. TIỂU LUẬN: GÓP PHẦN NHẬN DIỆN CƠ CẤU XÃ HỘI Ở NƯỚC TA QUA 20 NĂM ĐỔI MỚI
  2. Qua 20 năm đổi mới, cơ cấu xã hội nước ta đã có những thay đổi đáng kể theo chiều hướng tiến bộ, cả từ giác độ nhận thức lẫn giác độ thực tế. Tuy nhiên, cho đến nay, cơ cấu ấy vẫn chưa đáp ứng được những chuẩn mực của một cơ cấu xã hội hiện đại. Trong quá trình hình thành và phát triển, cơ cấu ấy còn ít nhiều chịu ảnh hưởng của những yếu tố mang tính cố hữu của nền kinh tế tiểu nông, tâm lý của người sản xuất nhỏ, sự phân tầng xã hội không hợp thức, sự phân bố dân cư và cơ cấu lao động xã hội chưa hợp lý, nguồn lực con người chưa hội tụ đủ các tố chất cần thiết cho sự phát triển và hội nhập. Trong thời kỳ trước đổi mới, ở nước ta tồn tại nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể với hai thành phần kinh tế chủ yếu: kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Kinh tế cá thể rất không đáng kể và được coi là đối tượng cần cải tạo xã hội chủ nghĩa. Trên nền tảng kinh tế đó, hình thành cơ cấu xã hội giản đơn - "hai giai, một tầng” ("hai giai": chỉ có giai cấp công nhân và giai cấp nông dân; "một tầng": tầng lớp trí thức). Bước vào thời kỳ đổi mới, chúng ta đã và đang chuyển dần nền kinh tế đó sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế này ở nước ta được dựa trên 3 chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), từ đó, xuất hiện 3 hình thức sở hữu tương ứng là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Các hình thức sở hữu đó được vận hành trong một nền kinh tế có 6 thành phần: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Sự biến đổi của cơ cấu kinh tế tất yếu dẫn tới sự biến đồi của cơ cấu xã hội, cơ cấu xã hội - giai cấp. Qua 20 năm đổi mới, cơ cấu xã hội nước ta đã có những thay đổi đáng kể theo chiều hướng tiến bộ - cả từ giác độ nhận thức lẫn giác độ thực tế. Về nhận thức, cùng với quan niệm truyền thống thường chỉ quy giản cơ cấu xã hội vào cơ cấu xã hội - giai cấp, dần dần đã hình thành quan niệm mới, theo đó, xã hội được hiểu và thừa nhận là một hệ thống đa cơ cấu. Cơ cấu xã hội - giai cấp tuy vẫn được coi là giữ vị trí then chốt, song các phân hệ cơ cấu xã hội khác cũng đã được chú trọng. Trên thực tế, cơ cấu xã hội mới đang hình thành và bắt đầu phát huy tác dụng, kích thích tính tích cực xã hội của người lao động, góp phần tạo ra sự liên kết và thống nhất trong hoạt
  3. động kinh tế - xã hội, thúc đẩy việc nghiên cứu và áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, đổi mới cơ chế quản lý và vận hành kinh tế. Không khí dân chủ, phấn khởi, đoàn kết nhất trí trong các bộ phận cấu thành cơ cấu xã hội ngày càng được nâng cao. Lòng tin của các bộ phận cấu thành đó đối với Đảng, đối với chế độ ngày càng vững chắc hơn. Tác động của các chính sách kinh tế và chính sách xã hội theo đường lối đổi mới đã làm cho các phân hệ cơ cấu xã hội cơ bản của nước ta có những chuyển biến rõ rệt theo chiều hướng tiến bộ, từ cơ cấu tổ chức xã hội - giai cấp đến cơ cấu xã hội - nghề nghiệp, cơ cấu xã hội - dân số, cơ cấu xã hội - dân tộc và cơ cấu xã hội - lãnh thổ. Dưới đây, chúng tôi chỉ đề cập một số nhân tố trong hệ thống các cơ cấu đó Giai cấp công nhân có những biến đổi cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2001, đội ngũ công nhân, viên chức và lao động nước ta là trên 10,8 triệu người. Trong đó, công nhân trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế là trên 4,53 triệu (nam: 57%; nữ 43%), chiếm 5,68% tổng dân số và 11,86% lao động cả nước, bao gồm: trong doanh nghiệp nhà nước là 1,85 triệu; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 0,6 triệu; doanh nghiệp ngoài nhà nước là 1,4 triệu; các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể là 0,68 triệu. Đây là lực lượng nòng cốt của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Cùng với quá trình đổi mới cơ chế và cơ cấu kinh tế, giai cấp công nhân có sự chuyển đồi cơ cấu khá rõ nét, theo hướng tăng số lượng công nhân trong sản xuất công nghiệp, với con số tuyệt đối là 2,56 triệu (57%); trong thương nghiệp, dịch vụ là 0,89 triệu (20%); trong xây dựng, giao thông vận tải, bưu điện là 0,79 triệu (17%); trong các ngành nông, lâm, thuỷ sản là 0,28 triệu (6%). Cơ cấu bên trong của giai cấp công nhân trong 20 năm qua cũng có những biến đổi theo cơ cấu thành phần kinh tế. Công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, số lượng các doanh nghiệp và công nhân ở khu vực này đã giảm đáng kể. Khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới, số lượng doanh nghiệp khoảng 14.000 xí nghiệp, công ty với trên 3 triệu công nhân, năm 2002 chỉ còn 5.231 doanh nghiệp với 1,85 triệu công nhân. Đến năm 2002, có 900 doanh nghiệp nhà nước hoặc
  4. bộ phận doanh nghiệp nhà nước tiến hành cồ phần hoá và tính đến cuối tháng 6 năm 2005 đã có 2.384 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá. Công nhân ngoài khu vực kinh tế nhà nước. Trước năm 1986 và những năm đầu đổi mới, khu vực này gần như rơi vào trạng thái ngưng trệ, nhưng những năm gần đây đã phát triển khá nhanh. Năm 1995 có 17.143 doanh nghiệp với gần 500.000 công nhân, năm 2002 có xấp xỉ 50.000 doanh nghiệp ngoài nhà nước (gồm 3.853 hợp tác xã, 18.733 công ty trách nhiệm hữu hạn, 1.989 công ty cổ phần, 24.903 doanh nghiệp tư nhân) với 1,4 triệu công nhân(1). Tuy nhiên, các doanh nghiệp ngoài nhà nước chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ, chỉ có một số rất ít có quy mô sử dụng lao động từ 500 đến 1000 công nhân. Công nhân khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực này thu hút khoảng 600.000 lao động trong hơn 2.000 doanh nghiệp (có 466.000 công nhân làm việc trong 1.337 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài). Đa số công nhân trong khu vực này làm việc ở các ngành sản xuất tiên tiến so với trình độ chung về công nghệ ở nước ta hiện nay (hơn 545.000 công nhân). Năm 2001, công nhân khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã sản xuất ra giá trị tổng sản phẩm là 63.524 tỉ VND; năm 2002 là 69.638 tỉ VND (13% tổng giá trị sản phẩm trong nước). Riêng ngành công nghiệp, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp 40 - 50% giá trị sản xuất, nắm giữ 42 - 47% vốn sản xuất và tài sản cố định toàn ngành ở nước ta. Công nhân Việt Nam lao động ở nước ngoài. Số công nhân Việt Nam lao động ở nước ngoài có xu hướng tăng dần: năm 1999: 21.800 người; năm 2000: 31.500 người; năm 2001: 37.000 người; năm 2002: 46.000 và năm 2003 là khoảng 70.000 người(2); số liệu thống kê mới nhất của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho biết, tính đến giữa năm 2005, tổng số lao động và chuyên gia Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài là khoảng 400.000 người. Trong số này, những người làm việc ở các dây chuyền công nghệ hiện đại có điều kiện để nâng cao trình độ tay nghề và được rèn luyện tác phong lao động công nghiệp; những người làm dịch vụ cá nhân trong các gia đình thì thuần tuý chỉ là lao động chân tay, giản đơn. Số người này khó có thể nói đến việc rèn luyện phẩm chất giai cấp công nhân. Công nhân dư dôi (trong đó có một tỷ lệ đáng kể bị thất nghiệp). Năm 1998 là
  5. 52.000 người; 1999 là 60.000 người; 2001 là 100.000 người; năm 2003 là 150.000 người. Quá trình tiếp tục cổ phần hoá và sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước từ năm 2004 đến giữa năm 2005 cũng đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc đối với số công nhân dư dôi. Giai cấp nông dân cũng có sự thay đổi khá rõ. Nông dân tập thể theo kiểu hình thức, về cơ bản, không còn; số lao động thuần nông ngày càng giảm. Cơ cấu tổng thể của giai cấp nông dân hiện nay gồm: chủ trang trại, nông dân sản xuất cá thể (theo kinh tế hộ gia đình), nông dân làm thuê, xã viên kiểu mới của các hợp tác xã kiểu mới. Số lượng và cơ cấu nội bộ của giai cấp nông dân trong thời kỳ đổi mới vừa qua biến động khá mạnh cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần và trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Một số lượng không nhiều nông dân trở thành công nhân công nghiệp, công nhân nông nghiệp,... Giai cấp nông dân là giai cấp có sự phân hoá mạnh nhất trong 20 năm qua. Một bộ phận khá lớn làm thuê theo mùa vụ; một số khác thành thợ tiểu thủ công ở những địa bàn có những làng nghề truyền thống được phục hồi và phát triển; một tỷ lệ nhỏ (so với tổng số nông dân hiện có) vươn lên thành chủ trang trại, trong đó có những người đã trở thành tỷ phú nhờ biết cách ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và thích ứng với cơ chế thị trường. Bên cạnh đó, một số nông dân bị mất hết ruộng đất, trở thành người chuyên làm thuê với cuộc sống rất khó khăn do thu nhập quá thấp và việc làm không ổn định; một số khác rơi vào tình trạng bần cùng do không có năng lực tổ chức sản xuất hoặc rơi vào tệ nạn cờ bạc, rượu chè… Điều đáng lưu ý là, cho đến nay, hầu hết nông dân nước ta chưa có đủ kiến thức, kinh nghiệm, tiền vốn và các điều kiện cần thiết khác để làm chủ các thành tựu khoa học - kỹ thuật và thích ứng linh hoạt với sự biến động thường xuyên của thị trường. Sự biến động về cơ cấu dân cư ở khu vực nông thôn trong những năm qua chủ yếu diễn ra theo hai xu hướng chính: một là, dồn về các đô thị và khu công nghiệp để tìm kiếm việc làm; hai là, dân cư từ các tỉnh phía Bắc di cư tự do vào các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, nơi có thể khai thác các nguồn lợi từ đất. Ngoài ra, một số lượng nhỏ người lao động được xuất khẩu sang các nước. Tầng lớp trí thức có sự tăng trưởng cả về số lượng và chất lượng. Những người có trình độ từ đại học trở lên, số lượng sinh viên và số người đi học trong dân cư tăng rõ
  6. rệt. Tính đến giữa năm 2005, tầng lớp trí thức nước ta có khoảng gần 2 triệu người có trình độ cao đẳng, đại học trở lên; trong đó có gần 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, 531 giáo sư, 2.544 phó giáo sư và khoảng 16 nghìn cán bộ khoa học có trình độ thạc sĩ. Trong các thành tựu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước 20 năm qua có sự đóng góp quan trọng của đội ngũ trí thức. Việc cung cấp các luận cứ khoa học phục vụ trực tiếp cho quá trình hoạch định đường lối, chính sách đổi mới và việc chuyển giao các công nghệ mới, nhất là việc hình thành các cơ cấu và phương pháp sản xuất, kinh doanh mới đều trực tiếp gắn liền với những đóng góp của đội ngũ trí thức. Ngoài việc cung cấp các luận cứ khoa học để Đảng và Nhà nước xây dựng chủ trương, đường lối và chính sách đổi mới, đội ngũ trí thức còn đóng vai trò phản biện cho các chương trình, dự án, kế hoạch và trực tiếp tham gia tổ chức, đưa các chủ trương, chính sách đó vào cuộc sống. Tuy vậy, về năng lực, đội ngũ trí thức nước ta còn chưa ngang tầm với nhiệm vụ phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Mặt khác, cũng phải thấy rằng, nhiều cơ chế, chính sách còn chưa thông thoáng để giúp cho trí thức có thể tận tâm với công việc và sống bằng chính chuyên môn của mình. Tầng lớp doanh nhân là “con đẻ" của đường lối đổi mới, được thúc đẩy mạnh mẽ bởi chủ trương thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trực tiếp là chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tầng lớp doanh nhân là sản phẩm tất yếu, là bộ phận hữu cơ và có vai trò ngày càng quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đồng thời sẽ là một trong những lực lượng chính yếu trong quá trình hội nhập rộng và sâu hơn của nền kinh tế nước ta vào thị trường khu vực và toàn cầu. Không có doanh nhân thì không có hoạt động sản xuất, kinh doanh - và như thế, cũng không có kinh tế thị trường. Cùng với quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tầng lớp doanh nhân đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tham gia tích cực vào việc thực hiện các chủ trương xã hội hoá y
  7. tế, văn hoá, giáo dục... Xét riêng trong hoạt động đầu tư ở nước ta từ năm 2001 đến cuối năm 2004 và đầu 2005, có thể thấy rõ hơn vai trò của tầng lớp doanh nhân: đầu tư của khu vực dân doanh tăng lên nhanh chóng về tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, từ 22,6% năm 2001 lên đến 28,7% năm 2004 (trong khi đó, tỷ trọng đầu tư từ ngân sách của Nhà nước giảm nhẹ trong 3 năm liền, trừ năm 2004 tăng chút ít; tỷ trọng tín dụng đầu tư có xu hướng giảm, năm 2001: 18,3%, đến năm 2004 còn l0,3%; đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2001 chiếm tỷ lệ 18,5%, năm 2004 chỉ còn 14%; các nguồn vốn khác thì không ổn định và phụ thuộc nhiều vào các nhà tài trợ...). Kể từ khi Luật Doanh nghiệp bắt đầu có hiệu lực (đầu năm 2000) cho đến cuối tháng 6 năm 2005, các doanh nghiệp dân doanh đã huy động được nguồn vốn lớn, lên tới 15 tỷ USD (tính theo số vốn đăng ký). Như vậy, từ sự so sánh về cơ cấu các chỉ số kinh tế vĩ mô đã nêu, có thể khẳng định rằng, đội ngũ doanh nhân làm ăn theo đúng pháp luật đang có những đóng góp tích cực nhất trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư phát triển. Tuy vậy, tầng lớp doanh nhân nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, yếu kém: vốn ít, quy mô đầu tư nhìn chung còn nhỏ, do mới được cọ sát với cơ chế thị trường chưa lâu nên trình độ làm chủ các công nghệ mới và trình độ quản lý còn rất hạn chế, số người đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất còn ít; một số chưa thực hiện tốt những quy định của pháp luật đối với người lao động, hoặc trốn lậu thuế, gian lận thương mại, kinh doanh trái phép… Tầng lớp tiểu chủ và những người kỉnh doanh nhỏ từ năm 1988 đến nay phát triển rất nhanh, cả ở thành thị và nông thôn, do được Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ những điều kiện cần thiết. Xét về nguồn gốc, tầng lớp này đa phần vốn là công nhân, viên chức dư dôi trong quá trình tinh giản biên chế, một số khác vốn là nông dân, nhờ có cơ chế đa dạng hoá ngành nghề của Nhà nước mà chuyển sang làm các nghề thủ công hoặc buôn bán, dịch vụ… Hoạt động sản xuất kinh doanh của tầng lớp này tuy còn nhiều hạn chế, nhất là quy mô đầu tư nhỏ, phân tán, manh mún; nhưng trong chừng mực nhất định, đã và đang góp phần giải quyết nhu cầu tiêu dùng của xã hội theo những hình thức khá đa dạng và linh hoạt. Nhìn về xu hướng, từ các loại hình hoạt động sản xuất, kinh doanh của tầng lớp tiểu chủ, cá thể và những người buôn bán nhỏ, dần dần sẽ hình thành các hình thức tổ chức
  8. hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp và sẽ có một bộ phận trở thành doanh nhân có khả năng mở rộng quy mô đầu tư theo các ngành nghề khác nhau. Những người có công là một bộ phận mang tính đặc thù trong cơ cấu xã hội nước ta. Trước đổi mới, tuy điều kiện kinh tế của đất nước còn rất khó khăn, bộ phận này đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta quan tâm chăm sóc. Trong 20 năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta càng quan tâm nhiều hơn đến việc thực hiện chính sách ưu đãi xã hội, vận động nhân dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với các lão thành cách mạng, những người có công với nước, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, thương binh và cha mẹ, vợ con liệt sĩ, người được hưởng chính sách xã hội. Tính đến tháng 6 năm 2005, cả nước có hơn 8 triệu người có công đã và đang hưởng chế độ ưu đãi, trong đó có 1,5 triệu người đang hưởng trợ cấp ưu đãi hằng tháng, gồm các bà mẹ Việt Nam Anh hùng, thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ... Hằng năm, Nhà nước dành hàng nghìn tỷ đồng (năm 2004 là 4000 tỷ đồng, năm 2005 là 5.832 tỷ đồng) chăm lo đời sống đối tượng chính sách, kết hợp phong trào tình nghĩa ở các cộng đồng xã hội, bảo đảm cuộc sống của người có công bằng hoặc khá hơn mức sống của nhân dân địa phương nơi cư trú. Một số người làm giàu phi pháp là một thực thể biểu hiện cho sự phân tầng không hợp thức của cơ cấu xã hội nước ta trong khoảng gần 20 năm trở lại đây. Mặc dù cho đến nay, chưa có một cuộc điều tra chính thức nào, nhưng dư luận xã hội và các thông tin đại chúng về các vụ án kinh tế nổi cộm cho thấy một thực tế rất nhức nhối bởi sự tác hại, lũng đoạn của nhóm người làm giàu phi pháp. Đây là hiện tượng kinh tế ngầm đang làm đảo lộn quan hệ phân phối, tập trung thu nhập bất hợp pháp rất cao vào một nhóm ít người, lại không được kiểm soát hoặc nếu có thì quá sơ hở, lỏng lẻo, làm cho bức tranh phân tầng xã hội về thu nhập và mức sống bị sai lệch nghiêm trọng và lợi ích của nhóm người này đối kháng với lợi ích của toàn xã hội. Nhóm làm giàu phi pháp đã và đang tồn tại dưới hai dạng chính: Một là, những kẻ buôn gian, bán lận, đầu cơ, lừa đảo... coi thường pháp luật hoặc lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trục lợi và giàu lên rất nhanh. Hai là, những kẻ dựa vào vị thế hay quyền lực để đục khoét tài sản của Nhà nước và nhân dân (bọn tham nhũng), nhất là trong lĩnh vực nhà đất, xây dựng cơ bản, xuất nhập khẩu, tài chính doanh nghiệp nhà nước, tài chính công, dự án viện trợ quốc tế...
  9. Như vậy, mặc dù còn không ít vấn đề phức tạp, nhưng với tác động của đường lối đổi mới và mở cửa, cơ cấu xã hội nước ta đã có sự tiến bộ rõ nét. Sự cơ động xã hội diễn ra mạnh mẽ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, trong mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội và thậm chí trong từng con người. Các bộ phận bên trong cơ cấu xã hội nước ta đang vận động, phát triển theo hướng tiến tới những chuẩn mực hiện đại cùng với quá trình phát triển của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng hơn của nước ta. Tuy nhiên, cho đến nay, cơ cấu xã hội nước ta chưa đáp ứng được những chuẩn mực của một cơ cấu xã hội hiện đại; những đặc tính của một xã hội nông nghiệp cổ truyền, những căn tính tiểu nông còn khá phổ biến. Ở đây, cần phải thẳng thắn chỉ ra những mặt trái vẫn hiện hữu bên trong xã hội nước ta và đang cản trở quá trình phát triển của xã hội ta hội nhập với thế giới. Thứ nhất, ảnh hưởng của những yếu tố mang tính cố hữu của nền nông nghiệp lúa nước phân tán, manh mún và của văn hoá làng xã (mà nhìn sâu hơn, theo cách phân tích của C.Mác - đó là những đặc tính của “phương thức sản xuất châu Á"). Có nhà nghiên cứu cho rằng: “Do những đặc trưng lịch sử, văn hoá, địa lý, Việt Nam không có mặt trong cuộc cách mạng xanh của nhân loại, mặc dù là nước nông nghiệp, đứng ngoài cuộc cách mạng công nghiệp mà các quốc gia tiên tiến đã thực hiện ở thế kỷ trước. Có thể khẳng định, nền văn minh làng xã mang nặng ý nghĩa và giá trị bao nhiêu trong việc xây dựng một bản sắc văn hoá Việt Nam, trong sự cố kết bền vững chống ngoại xâm và chinh phục thiên nhiên thì lại trở thành một lực cản cho sự tiếp nhận những cái mới, cái mạnh bạo, cái năng động và tiến bộ bấy nhiêu”(3). Thứ hai, những khuyết tật nhìn từ góc độ tâm lý xã hội. Những khuyết tật này vừa là “di chứng" của xã hội tiểu nông, vừa là hậu quả mới nảy sinh từ những mặt trái của cơ chế thị trường đang hình thành ở nước ta, và nhất là do những bất cập về cách thức tổ chức, quản lý kinh tế và xã hội đang ở trạng thái chuyển đổi. Đây cũng là những lực cản đáng kể đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá(4). Nhìn cụ thể hơn, phải thừa nhận rằng, những năm gần đây, thói hám danh lợi theo kiểu thực dụng thái quá đang có xu hướng trỗi dậy một cách tự phát trong một số người và thậm chí bùng nổ khá mạnh ở những nhóm xã hội nhất định. Mặt khác, tâm lý thích làm thầy, làm quan, kỳ thị buôn bán, ngại lao động chân tay vốn dĩ đã hình thành lâu
  10. đời ở Việt Nam, nay vẫn bám chặt vào một bộ phận không nhỏ lớp người trẻ tuổi. Nhược điểm này một phần do nền giáo dục của ta vẫn nặng nề theo lối khoa cử và bằng cấp hình thức, ít coi trọng thực lực; hơn nữa, lại làm sai lệch nghiêm trọng động cơ của người học khi hầu như chỉ hướng họ tới việc chuẩn bị để làm việc trong các cơ quan được Nhà nước cấp ngân sách và ở khu vực đô thị. Những lệch lạc này của hệ thống giáo dục hiện có của nước ta, vô hình trung đã khuyến khích tâm lý ngại những công việc đồng áng và làm nghề, đang tạo ra những cản trở to lớn cho một nước còn nghèo mà buộc phải phát triển nhanh trước áp lực khách quan của toàn cầu hoá và kinh tế tri thức(5). Ngoài ra, còn phải lưu ý đến và tìm cách khắc phục càng sớm càng tốt nhiều vấn đề bất ổn khác(6): bệnh đạo đức giả đang có chiều hướng lây lan rộng, và điều nguy hiểm là cái thật, cái giả không những lẫn lộn trong lĩnh vực tinh thần, mà còn len lỏi cả trong cơ chế quản lý hành chính nhà nước; đó còn là lối sống thực dụng thô thiển và sự suy giảm giá trị đạo đức do chủ nghĩa cá nhân, làm giàu bằng mọi giá, pháp luật không nghiêm, kỷ cương xã hội bị buông lỏng; tình trạng bảo thủ, trì trệ, chậm đổi mới còn ở không ít người trong xã hội; tâm lý tự ti, mặc cảm; tư duy manh mún; tính cục bộ; tính thụ động, cầu may, ăn xổi; tác phong tuỳ tiện, ý thức kỷ luật kém còn khá phổ biến trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và công chức... Thứ ba, sự phân tầng xã hội không hợp thức đang diễn ra với mức độ ngày càng phức tạp, trong khi các biện pháp ngăn ngừa và khắc phục xu hướng này đã và đang áp dụng lại chỉ đạt kết quả rất hạn chế. Đây là sự phân tầng xã hội không dựa trên sự khác biệt tự nhiên giữa các cá nhân, cũng không chủ yếu được tạo ra do sự khác nhau về tài đức và sự cống hiến một cách thực tế của mỗi người cho xã hội. Trên thực tế, ở nước ta trong gần 20 năm qua, đó là sự phân tầng dựa vào những hành vi trái pháp luật, tham nhũng, lừa gạt, trộm cắp, buôn bán phi pháp để trở nên giàu có, luồn lọt, xu nịnh để có vị trí cao trong xã hội hoặc rơi vào nghèo khổ, hèn kém do lười biếng, ỷ lại(7). Thứ tư, sự phân bố dân cư, cơ cấu lao động xã hội còn lệ thuộc đáng kể vào một nền nông nghiệp nhỏ với trên 70% dân số hiện vẫn đang sống ở nông thôn và khoảng 65% lực lượng lao động làm nông nghiệp; mặt khác, tính chất tự cung tự cấp còn khá phổ biến ở các vùng nông thôn, nhất là ở những nơi hẻo lánh; tình trạng di dân diễn
  11. ra tự phát, trong khi việc quy hoạch, xây dựng các đô thị vốn có và mới, các khu công nghiệp tập trung chưa được tính toán hợp lý với sự phân bố dân cư và chuyển dịch cơ cấu lao động Thứ năm, những tố chất cần thiết cho sự phát triển và hội nhập vững vàng tính theo các chỉ số cơ bản của con người Việt Nam hiện nay cũng đang ở tình trạng tụt hậu khá xa so với nhiều nước châu Á và nhất là so với các nước phát triển: chỉ số phát triển người (HDI) năm 2004 chỉ đạt 0,691 - xếp 112/177 nước được thống kê. Chỉ số đánh giá về trí tuệ, trình độ ngoại ngữ, khả năng thích ứng với điều kiện tiếp nhận khoa học và công nghệ của thanh niên nước ta ở thời điểm đầu năm 2005 còn rất thấp (trí tuệ: 2,3/10; ngoại ngữ: 2,5/10; khả năng thích ứng với điều kiện tiếp cận khoa học công nghệ: 2/10). Chỉ số chất lượng nguồn nhân lực cũng chỉ đạt 3.79/10 - đứng thứ 11/12 nước được xếp hạng tại châu Á(8)… Với thực trạng đó, có thể khẳng định rằng, chỉ trên cơ sở tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách kinh tế - xã hội, cơ chế quản lý kinh tế - xã hội... theo hướng thúc đẩy sự ra đời một cơ cấu xã hội thích ứng tốt hơn với đòi hỏi “đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với từng bước phát triển kinh tế tri thức”, phát triền nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”, như Dự thảo Báo cáo Chính trị tại Đại hội X của Đảng đã chỉ ra, để không chỉ góp phần phát huy tốt hơn các bộ phận cấu thành cơ cấu đó, mà còn góp phần lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, thì “văn minh" trong mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” mới được hiện thực hoá. r (*) Bài này có sử dụng kết quả nghiên cứu của đề tài: “Đổi mới và phát triển ở Việt Nam – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” do Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng làm Chủ nhiệm, Giáo sư, tiến sĩ Phạm Ngọc Quang làm Thư ký. (**) Giáo sư, tiến sĩ, Hội đồng Lý luận Trung ương. (***) Tiến sĩ. (1) Tổng cục Thống kê. Kết quả sơ bộ điều tra các cơ sở kinh tế, hành chính sự nghiệp năm 2002. Nxb Thống kê, Hà Nội, 2002. (2) Niên giám thống kê. Nxb Thống kê, Hà Nội, 2004.
  12. (3) PGS.TS. Trần Cao Sơn. Môi trường xã hội nền kinh tế tri thức – những nguyên lý cơ bản (Sách chuyên khảo – chuyên ngành Xã hội học tri thức). Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004, tr.109 – 110. (4) Xem: Phạm Minh Hạc (chủ biên). Tâm lý người Việt Nam đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá - những điều cần khắc phục. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.57, 161. (5) Xem: P.Michael Todaro. Kinh tế học cho thế giới thứ ba. (Chương 13: “Thất nghiệp: những khía cạnh của một vấn đề toàn cầu”, Chương 18: “Giáo dục và phát triển: các vấn đề và sự lựa chọn”). Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1988. (6) Xem: Phạm Minh Hạc (chủ biên). Sđd., tr.83, 131. (7) PGS.TS.Nguyễn Đình Tấn. Cơ cấu x&at QUAN NIỆM DUY VẬT VỀ LỊCH SỬ VỚI TƯ CÁCH MỘT HỆ THỐNG LÝ LUẬN KHOA HỌC TRONG HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC PHẠM VĂN CHUNG (*) Khẳng định quan niệm duy vật về lịch sử mà C.Mác và Ph.Ăngghen đưa ra trong “Hệ tư tưởng Đức” là một hệ thống lý luận khoa học, tác giả bài viết đã phân tích quá trình hình thành phương pháp tư duy hệ thống ở các ông, làm rõ tiến trình xây dựng và phát triển quan niệm này của các ông với tư cách một triết học khoa học về lịch sử và mang ý nghĩa khoa học phổ biến. Đồng thời, đưa ra và luận giải quan
  13. niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về xã hội, về lịch sử nhân loại với tư cách một hệ thống, một chỉnh thể không ngừng vận động và phát triển; chứng minh tính hệ thống mà các ông đã xây dựng trong quan niệm duy vật về lịch sử. Phong cách tư duy hệ thống hiện vẫn đang chiếm địa vị và ý nghĩa quan trọng trong nhận thức khoa học nói chung. Xã hội, lịch sử không ngừng vận động và phát triển với tư cách những hệ thống liên kết chặt chẽ, do vậy, để nhận thức và cải biến một cách thực tiễn quá trình ấy, không thể không có tư duy lý luận về nó một cách có hệ thống. Tuy nhiên, giai đoạn lịch sử hiện nay với những đổi thay lớn lao và sâu sắc của nó luôn đòi hỏi phải đổi mới, phát triển hơn những mô thức nhận thức, tư duy hệ thống trước đây. Do đó, việc tìm về những cội nguồn lịch sử của chúng là hết sức cần thiết. Quá trình hình thành triết học Mác vào những năm 40 của thế kỷ XIX được đánh dấu bằng sự kiện nổi bật là sự ra đời quan niệm duy vật về lịch sử, được C.Mác và Ph.Ăngghen đưa ra trong Hệ tư tưởng Đức. Sau 160 năm nhìn lại, chúng ta có cơ hội lớn để nhận thức sâu sắc hơn sự kiện lịch sử đặc biệt này. Cho đến nay, những kết quả nghiên cứu về Hệ tư tưởng Đức, nói chung, đều thừa nhận nội dung triết học cơ bản trong tác phẩm đồ sộ này là quan niệm duy vật về lịch sử và nghiễm nhiên coi nó là một hệ thống lý luận khoa học. Song, vấn đề là ở chỗ cần phải hiểu và lý giải hệ thống này như thế nào. Trong Hệ tư tưởng Đức, quan niệm duy vật về lịch sử được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày tập trung ở Chương 1 - "L.Phoiơbắc. Sự đối lập giữa quan điểm duy vật và quan điểm duy tâm". Nếu chỉ đọc lướt qua tác phẩm này (Chương 1) và chỉ chú ý đến kết cấu, các đề mục trong đó, chúng ta khó có thể thấy được tính hệ thống của quan niệm duy vật về lịch sử. Dường như ở đây chỉ có những hiểu biết chung về lịch sử được trình bày một cách tuỳ hứng. Vậy, hệ thống lý luận khoa học của nhận thức duy vật về lịch sử trong Hệ tư tưởng Đức thể hiện như thế nào? Đâu là quan điểm có ý nghĩa nền tảng cho toàn bộ hệ thống, đâu là quan điểm xuất phát và mối liên hệ giữa các quan niệm, phạm trù, khái niệm, quy luật... của chủ nghĩa duy vật về lịch sử được thể hiện ở đây ra sao? Rõ ràng, việc trả lời những câu hỏi đó không thể chỉ căn cứ vào hình thức thể hiện, kết cấu của tác phẩm và cũng không thể chỉ dừng lại ở nội
  14. dung tác phẩm này. Không thể nói là C.Mác và Ph.Ăngghen đã không tư duy lý luận một cách lôgíc, một cách hệ thống khi xây dựng, cũng như khi trình bày triết học về lịch sử của mình. Điều quan trọng là phải vạch ra được lôgíc ấy của tư duy. I Để giải đáp vấn đề trên, phải có quan điểm xem xét rõ ràng; phải căn cứ vào những yêu cầu của thực tiễn và nhận thức hiện thời đang đặt ra đối với việc nghiên cứu quan niệm duy vật về lịch sử và lịch sử của nó; phải đặt Hệ tư tưởng Đức trong mối liên hệ chặt chẽ với những yêu cầu thực tiễn và nhận thức đương thời của nó, với toàn bộ lịch sử hình thành, phát triển triết học Mác nói chung và quan niệm duy vật về lịch sử nói riêng, nhất là với những thời kỳ trước khi nó là một hệ thống. Cụ thể là, cần phải hiểu sâu sắc, chính xác lịch sử của quan niệm duy vật về lịch sử; phải nắm được nội dung và đặc điểm truyền thống tư duy lý luận; phải dựa vào những chỉ dẫn và nhận định của chính các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về quan niệm duy vật về lịch sử và về hoạt động lý luận của các ông; phải dựa vào những tác phẩm đã trưởng thành của các ông và vào sự tổng kết nội dung quan niệm duy vật về lịch sử bởi chúng ta; phải dựa vào lý thuyết chung về hệ thống của khoa học hiện đại. Dưới đây là những điểm chung nhất về nội dung của những quan điểm xem xét này. 1. Mục đích của Hệ tư tưởng Đức là nhằm phê phán “hệ tư tưởng Đức” đã bị chủ nghĩa duy tâm chi phối một cách tuyệt đối, đặc biệt là trong nhận thức về lịch sử. Khi phê phán tính chất duy tâm, phản động của “hệ tư tưởng Đức”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đụng chạm đến không phải tính chất sai lầm của một hệ tư tưởng cá biệt nào đó, mà là những biểu hiện điển hình, tận cùng của lối tư duy, nhận thức sai lầm của cả một thời đại. Bởi lẽ, khi đó, chủ nghĩa nghĩa duy tâm vẫn tiếp tục thống trị trong nhận thức về xã hội, về lịch sử, nên việc phê phán “hệ tư tưởng Đức” trở thành tâm điểm của sự phê phán quan niệm duy tâm về lịch sử nói chung và yêu cầu đặt ra là phải tập trung làm sáng tỏ những vấn đề chung của lịch sử xã hội. Điều quan trọng nữa là, với việc phát hiện ra địa vị lịch sử của giai cấp vô sản thì yêu cầu cấp bách đặt ra cho C.Mác và Ph.Ăngghen là phải luận chứng khoa học cho nó. Do đó, nhất thiết phải xây dựng một quan niệm khoa học về lịch sử nhân loại nói chung để có được cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc nghiên cứu chế độ tư bản chủ nghĩa. Chính nhờ nhận thức được những yêu cầu đó của lịch sử, C.Mác và
  15. Ph.Ăngghen đã đặt ra nhiệm vụ là phải xây dựng, trình bày quan niệm duy vật về lịch sử của mình một cách có hệ thống và khoa học nhằm đối lập với “hệ tư tưởng Đức” nói riêng, với quan niệm duy tâm về lịch sử nói chung. Do vậy, quan niệm duy vật về lịch sử đã xuất hiện với tư cách một triết học khoa học về lịch sử và mang ý nghĩa khoa học phổ biến. 2. Tư duy hệ thống và yêu cầu nhận thức đối tượng như hệ thống đã được đặt ra một cách cấp thiết trong thời đại công nghiệp, khi đời sống xã hội trở thành hệ thống có cấu trúc chặt chẽ, lịch sử trở thành lịch sử toàn thế giới và giai đoạn nhận thức phân tích (thế giới, lịch sử nói chung trong chỉnh thể) đã hoàn thành vai trò lịch sử của nó. Đứng ở đỉnh cao của nhận thức truyền thống, nghiên cứu một cách sâu sắc và cơ bản phép biện chứng Đức nổi tiếng với các đại biểu xuất sắc là Cantơ và Hêghen, C.Mác và Ph.Ăngghen hiểu hơn ai hết nội dung và ý nghĩa của lối tư duy hệ thống. Yêu cầu cơ bản đặt ra đối với tư duy hệ thống là phải nắm được những yếu tố và những mối liên hệ cơ bản để từ đó, tiến lên nắm đối tượng trong chỉnh thể. Trong việc nhận thức các hệ thống, một yêu cầu quan trọng khác cũng đã được đặt ra là phải tìmđiểm xuất phát cho quá trình nhận thức. Điều này đã thể hiện rõ, có thể nói, là lần đầu tiên trong hệ thống của Cantơ, sau đó, rõ hơn là trong hệ thống của Hêghen. Trong kết cấu của đối tượng, điểm xuất phát có ý nghĩa như một tế bào mà từ đó, toàn bộ hệ thống được sản sinh ra, vì thế nắm được điểm xuất phát sẽ cho khả năng tìm ra được những yếu tố và các mối liên hệ cơ bản của đối tượng. Mặc dù cả Cantơ và Hêghen đã không đưa ra được lời giải đáp khoa học đối với yêu cầu này, nhưng những nỗ lực của các ông đã khẳng định tính tất yếu của nó trong tư duy hệ thống và là tiền đề rất quan trọng cho triết học Mác. Về sau, chính C.Mác đã thể hiện rất thành công lối tư duy hệ thống ấy một cách khoa học trong Tư bản và như V.I.Lênin đã chỉ rõ, "không thể hoàn toàn hiểu được "Tư bản", đặc biệt là chương I của nó, nếu chưa nghiên cứu kỹ và chưa hiểu toàn bộ Lôgíc của Hêghen"(1). Vấn đề nhận thức xã hội, lịch sử như những hệ thống, như một chỉnh thể toàn vẹn, không ngừng vận động, phát triển cũng đã được nêu ra và được giải đáp bởi các học giả trước Mác. Có thể thấy rõ điều đó trong các học thuyết của Vicô (1668 - 1774), Hécđơ (1744 - 1803), Cantơ (1724 - 1804), Hêghen (1770 - 1831), Xanh Ximông (1760 - 1825)... Chẳng hạn, Hécđơ viết: "Sắp tới mọi khoa học, triết học sẽ giải thích
  16. mọi cái có trên trái đất; tại sao lại không phải là khoa học, triết học giải thích cái mà trước hết liên quan đến chúng ta - lịch sử loài người, toàn bộ lịch sử loài người trong chỉnh thể"(2). Trong hệ thống triết học pháp quyền của mình, Hêghen cũng đã quan niệm xã hội như một hệ thống được tạo thành bởi những yếu tố và những mối liên hệ cơ bản là nhà nước, pháp quyền, xã hội công dân và gia đình. Hệ thống đó được ông giải thích một cách duy tâm, nhưng nó lại chứng tỏ một điều là, nhu cầu nhận thức xã hội, lịch sử như những hệ thống, như một chỉnh thể đã trở nên cấp bách, chín muồi. Đồng thời, khi quan tâm đến tính chỉnh thể của đời sống xã hội, các nhà tư tưởng trước Mác cũng đã đặt vấn đề phải coi con người là điểm xuất phát của nhận thức. Vonte (1694 - 1788) nói: "Đối tượng chân chính của triết học lịch sử là trí tuệ con người", nói khác đi, là "con người trí tuệ"(3). Còn Hêghen đã không tránh được phải gắn "ý niệm về tự do" với con người để xuất phát từ đó mà giải thích lịch sử. Tư tưởng triết học trước Mác về lịch sử, khi xuất phát từ con người, đã quá thiên về con người tinh thần, con người trí tuệ, nhưng nó đã chứng tỏ rằng, muốn nhận thức xã hội, lịch sử như một hệ thống thì cần phải chọn điểm xuất phát để giải thích và điểm xuất phát ấy phải là con người. 3. Công việc nghiên cứu của chúng ta cần phải dựa trên những kết quả nghiên cứu về quan niệm duy vật về lịch sử đã được thể hiện trong các tài liệu, các sách giáo khoa về chủ nghĩa duy vật lịch sử. Có thể những kết quả nghiên cứu này chưa thoả mãn chúng ta về nhiều điểm, nhưng sự tổng kết về nội dung quan niệm duy vật về lịch sử với các quy luật, phạm trù, khái niệm, quan điểm của nó là rất có ý nghĩa đối với nghiên cứu lịch sử quan niệm này, nhất là trong việc soi sáng nội dung, kết cấu của những tác phẩm đầu tay của C.Mác và Ph.Ăngghen. Mặt khác, những đoạn tự nhận xét của C.Mác và Ph.Ăngghen về nội dung và ý nghĩa của quan niệm duy vật về lịch sử trong “Lời tựa” của Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị, sự vận dụng nó trong Tư bản của C.Mác và những nhận xét của V.I.Lênin trong Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao? là những chỉ dẫn cơ bản và rất quan trọng cho việc nhận thức kết cấu của quan niệm duy vật về lịch sử trong Hệ tư tưởng Đức. Các tài liệu kể trên đã thể hiện rõ kết cấu, mối liên hệ giữa những khái niệm, phạm trù, quy luật cơ bản của quan niệm duy vật về lịch sử. Việc dựa vào những kết quả này để nghiên cứu lịch sử quan niệm duy vật về lịch
  17. sử chính là dựa vào những hình thức cơ thể lý luận đã trưởng thành của nó nhằm tìm ra ở đây "cái chìa khoá" cho việc "giải phẫu" Hệ tư tưởng Đức. Rõ ràng là, cơ thể lý luận đã trưởng thành nhất định phải được xây dựng, phát triển lên từ cơ thể chưa trưởng thành, từ những phác thảo của nó. Vì vậy, để nhận ra nội dung, ý nghĩa của những phác thảo ấy phải dựa vào những hình thức phát triển hơn của chúng. 4. Lịch sử hình thành quan niệm duy vật về lịch sử trước khi nó được thể hiện trong Hệ tư tưởng Đức là quá trình tạo dựng dần dần hệ thống quan niệm đó. C.Mác hiểu rõ hơn ai hết một nguyên nhân chủ yếu đưa đến sai lầm cơ bản của mọi triết học về lịch sử trước đây và làm cho chúng không thể trở thành một khoa học chính là do chúng đã dựa trên quan niệm duy tâm về lịch sử. Do đó, trước khi bắt tay nghiên cứu một cách khoa học đời sống xã hội, C.Mác đã phải giải đáp vấn đề cơ bản của nhận thức lịch sử, tức là xác lập quan điểm cơ bản cho nhận thức khoa học về lịch sử - quan điểm khẳng định tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Tác phẩm đầu tiên thể hiện rõ quan điểm đó là Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, đặc biệt là "Lời nói đầu" của tác phẩm này. Việc xác lập quan điểm cơ bản ấy là một quá trình và từ đó, các ông đã tiến hành xây dựng hệ thống quan niệm duy vật về lịch sử của mình. Quá trình này được chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn đầu - đề xuất những tư tưởng triết học khoa học về lịch sử; giai đoạn hai - xây dựng hệ thống lý luận triết học khoa học về lịch sử. Những tác phẩm chính và tiến trình phát triển nội tại của tư duy lý luận ở C.Mác đã cho thấy, trước hết, ông hướng đến nhận thức cho rằng lịch sử là lịch sử của con người và vì thế, đã coi con người làm điểm xuất phát của nhận thức lịch sử. Quán triệt quan điểm lịch sử cơ bản trong quan niệm về điểm xuất phát, C.Mác đã chọn con người xã hội hiện thực, trước hết là người lao động sản xuất, làm điểm xuất phát. Những tác phẩm, như "Lời nói đầu" của Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, Luận cương về Phoiơbắc đã cho thấy những luận giải sâu sắc của C.Mác về con người xã hội hiện thực. Những kết quả nghiên cứu kinh tế chính trị học đã giúp C.Mác nhận thức rõ rằng, phải xem xét một cách sâu sắc, toàn diện đời sống kinh tế của xã hội, tức "xã hội công dân", thì mới tìm ra được cái "chìa khoá" để giải thích toàn bộ lịch sử.
  18. Trong Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844, ông đã nghiên cứu kết cấu của lao động sản xuất và tìm ra bản chất của "lao động bị tha hoá, tự tha hoá". Với nhận thức sâu sắc về bản chất và vai trò của lao động, C.Mác đã có được cơ sở chắc chắn cho những tư tưởng mà ông rút ra trước đây. Đó là những tư tưởng cho rằng, "xã hội công dân" và gia đình là cơ sở của nhà nước và pháp quyền, quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản của "xã hội công dân". Đặc biệt, quan niệm về lao động ấy còn là cơ sở vững chắc cho quan niệm về sự phát triển lịch sử nói chung. Từ những tư tưởng này, một hệ thống lý luận khoa học về lịch sử đã được vạch ra trong Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844 dưới hình thức mầm mống, "bào thai" của nó. Từ “bào thai” lý luận ấy, những quan niệm về xã hội và lịch sử, về sự phát triển lịch sử và động lực của nó, nhất là các quan niệm về lợi ích, về bản chất con người, đã được C.Mác tiếp tục nêu ra và hoàn chỉnh hơn trong Gia đình thần thánh, Luận cương về Phoiơbắc. Ph.Ăngghen đã coi Luận cương về Phoiơbắc là văn kiện chứa đựng "những mầm mống thiên tài của một thế giới quan mới"(4). Sự thật là, trong Luận cương về Phoiơbắc đã chứa đựng những tư tưởng rất cơ bản của toàn bộ chủ nghĩa Mác. Trong quan niệm duy vật về lịch sử, chúng ta không chỉ thấy rõ tư tưởng của C.Mác về đối tượng của quan niệm này, mà còn thấy rõ tư tưởng của ông về xã hội, về bản chất và kết cấu của xã hội, về bản chất con người, về chức năng của triết học. Do vậy, có thể nói, thời kỳ chuẩn bị những tư tưởng cho việc xây dựng một hệ thống lý luận khoa học về lịch sử trong Hệ tư tưởng Đức đã được chuẩn bị xong. C.Mác không chỉ sử dụng tư duy lý luận một cách có hệ thống trong việc xác lập quan niệm duy vật về lịch sử, tuân thủ những yêu cầu cơ bản của phương pháp tư duy này, mà còn trung thành và đặc biệt, có sự sáng tạo to lớn đối với lối tư duy hệ thống ấy của thời đại, khi đặt nó trên cơ sở duy vật khoa học để nhận thức lịch sử xã hội và coi xã hội, lịch sử là những hệ thống của con người, do con người và vì con người. Do vậy, có thể nói, quan niệm duy vật về lịch sử được trình bày trong Hệ tư tưởng Đức với tư cách là kết quả của toàn bộ quá trình trên phải là một hệ thống lý luận khoa học. II 1. Trong quá trình xây dựng hệ thống quan niệm duy vật về lịch sử, nhiệm vụ đầu tiên đặt ra đối với C.Mác và Ph.Ăngghen là xác lập quan điểm cơ bản làm nền tảng
  19. cho toàn bộ hệ thống. Trong Hệ tư tưởng Đức, quan điểm này được thể hiện rõ ràng, tập trung ở hai luận điểm: "Ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là tồn tại được ý thức và tồn tại của con người là quá trình hiện thực của con người" và "không phải ý thức quyết định đời sống mà chính đời sống quyết định ý thức"(5). Trong những luận điểm này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra hai khái niệm cơ bản là tồn tại xã hội và ý thức xã hội, đồng thời chỉ rõ mối liên hệ giữa chúng. Nội dung chủ yếu của quan điểm lịch sử cơ bản này là kết quả của sự vận dụng việc giải quyết theo lập trường duy vật khoa học vấn đề cơ bản của triết học vào nhận thức lịch sử xã hội nói chung. Mặc dù quan điểm này chỉ mang tính khái quát, không nhằm xem xét một cách chi tiết toàn bộ đời sống xã hội và lịch sử, nhưng nó lại có ý nghĩa đặt cơ sở cho toàn bộ nhận thức khoa học về lịch sử. Trên cơ sở quan điểm này, các ông đã xây dựng về cơ bản toàn bộ những khái niệm, quan niệm khoa học khác về lịch sử trong Hệ tư tưởng Đức. 2. Thấy được "lịch sử bắt đầu từ đâu thì tư duy phải bắt đầu từ đó", C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định điểm xuất phát của các ông là con người: "Những tiền đề xuất phát của chúng tôi" "là những tiền đề hiện thực". "Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra. Như vậy, những tiền đề ấy là có thể kiểm nghiệm được bằng con đường kinh nghiệm thuần tuý"(6). Con người xuất phát ở đây không phải là con người trừu tượng, con người tinh thần, mà là con người xã hội hiện thực, trước hết là những con người sản xuất ra đời sống vật chất, trực tiếp là người công nhân trong nền sản xuất xã hội tư sản lúc đó. Tuy nhiên, trong Hệ tư tưởng Đức, sự bàn luận của C.Mác và Ph.Ăngghen về con người với tư cách là điểm xuất phát, phạm trù xuất phát của nhận thức triết học khoa học về lịch sử, có thể nói, chưa thật chi tiết. Đọc lại những tác phẩm trước của các ông, nhất là Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 và Luận cương về Phoiơbắc, chúng ta sẽ thấy rõ hơn điều này. Vả lại, vấn đề chính đặt ra trong Hệ tư tưởng Đứclà thể hiện sự đối lập về nguyên tắc giữa quan điểm duy vật và quan điểm duy tâm về lịch sử, do vậy đây có thể là một lý do khiến các ông không trình bày chi tiết nội dung quan niệm nói trên về con người. Song, chỉ cần những khẳng định trên, cũng có thể hiểu rằng, trong Hệ tư tưởng Đức, quan niệm về con
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1