intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Hoa Kỳ học: Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỉ 20

Chia sẻ: Nguyen Sinh Hoang | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:23

337
lượt xem
50
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung Tiểu luận Hoa Kỳ học: Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỉ 20 trình bày khái quát về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ và các chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Tham khảo nội dung đề tài để nắm bắt nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Hoa Kỳ học: Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỉ 20

  1. HỌC VIỆN NGOẠI GIAO KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO BỘ MÔN HOA KỲ HỌC TIỂU LUẬN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA HOA KỲ CUỐI THẾ KỶ 19 ĐẦU THẾ KỶ 20 Sinh viên thực hiện : Nguyễn Sinh Hoàng Lớp : CT38H – 0104 Hà Nội, tháng 05 năm 2014
  2. MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU.....................................................................................................1 NỘI DUNG TÌM HIỂU......................................................................................2 I. Khái quát về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ.....................................2 II. Các chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ  XX......................................................................................................................4 1. Học thuyết Monroe (1823).............................................................................................4 1.1 Hoàn cảnh ra đời......................................................................................................4 1.2 Nội dung học thuyết Monroe...................................................................................5 1.3 Ý nghĩa .....................................................................................................................6 2. Chính sách mở cửa.........................................................................................................8 2.1 Hoàn cảnh ra đời......................................................................................................8 2.2 Nội dung...................................................................................................................9 2.3 Ý nghĩa ...................................................................................................................10 3. Chính sách cây gậy lớn................................................................................................12 3.1 Hoàn cảnh ra đời....................................................................................................12 3.2 Nội dung.................................................................................................................12 3.3 Ý nghĩa....................................................................................................................13 4. Chính sách ngoại giao đô la.........................................................................................14 4.1 Hoàn cảnh ra đời....................................................................................................14 4.2 Nội dung.................................................................................................................15 4.3 Ý nghĩa....................................................................................................................15 LỜI KẾT............................................................................................................17 TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................19
  3. LỜI NÓI ĐẦU Ngày nay, nhắc tới Mỹ là nhắc tới một cường quốc số 1 thế giới  ở hầu   hết các lĩnh vực: chính trị, quân sự, kinh tế, giáo dục... Nhưng khoảng hơn   200 năm trước đây, khi mới giành được độc lập, Mỹ  chỉ  là một quốc gia   nhược tiểu với nền kinh tế và quốc phòng non trẻ, dễ  bị xâm chiếm lại bởi  các quốc gia Châu Âu hùng mạnh. Vậy tại sao hơn 200 năm sau, đất nước này  lại vươn lên một cách thần kỳ, trở thành một quốc gia hùng mạnh như vậy?  Tìm hiểu về các chính sách đối ngoại của Mỹ chính là một cách tiếp cận  hay để  tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự  lớn mạnh về  mặt kinh tế, sự   ảnh   hưởng về  mặt chính trị  của Mỹ   ở  nhiều quốc gia trên thế  giới hiện nay.  Trong phạm vi đề  tài của em, em chỉ  giới hạn tìm hiểu các chính sách đối  ngoại của Hoa Kỳ trong nửa cuối thế kỷ XIX và sang đầu thế kỷ XX. Do kiến thức của em còn hạn hẹp, trong bài tiểu luận này khó tránh khỏi   những sai sót, kính mong sự  đóng góp của thầy cô để  bài tiểu luận của em  được hoàn thiện hơn. Bài tiểu luận của em được tìm hiểu theo 2 nội dung lớn như sau: I. Khái quát về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ II. Các chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ  cuối thế  kỷ  XIX, đầu  thế kỷ XX 1
  4. NỘI DUNG TÌM HIỂU I. Khái quát về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ Chính sách đối ngoại của một quốc gia nói chung là những hoạt động   được đưa ra bởi chính phủ  quốc gia đó nhằm thực hiện các mục tiêu trong   quan hệ với các quốc gia và chủ thể khác trong cộng đồng quốc tế. Nói cách   khác, chính sách đối ngoại của một quốc gia là tất yếu khách quan trong quan   hệ giữa một quốc gia và các nước khác trên thế giới, là công cụ để đảm bảo  lợi ích của các quốc gia, góp phần lớn vào sự  phát triển của đất nước đó. Ở  mỗi giai đoạn lịch sử  khác nhau và trong mỗi khu vực khác nhau, chính sách  đối ngoại của các quốc gia đều có sự khác biệt.  Với Hoa Kỳ (còn được gọi là Mỹ), chính sách đối ngoại đóng một vai trò  rất quan trọng trong tiến trình phát triển của đất nước này, góp phần lớn đưa  Hoa Kỳ  từ  một quốc gia nhược tiểu những năm đầu lập quốc thành một   cường quốc số  một trên thế  giới như  hiện nay. Xuyên suốt quá trình phát   triển của nước Mỹ, các chính sách đối ngoại của nước này chủ  yếu được  quyết định và có nguồn gốc từ các tổng thống. Tuy nhiên, các yếu tố bối cảnh   trong nước, quốc tế và hệ  tư tưởng và một số yếu tố khác cũng đóng vai trò  quan trọng trong việc hoạch định chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Nói về  cơ  sở  hoạch định chính sách đối ngoại của Hoa kỳ, trước hết  phải đề cập tới cơ sở về kinh tế. Có thể nói nền ngoại giao Mỹ có được sức   mạnh đáng kể  từ  sức mạnh kinh tế. Với lợi thế  vị trí địa lý thuận lợi, điều  kiện tự nhiên phong phú, đất đai rộng, giàu tài nguyên thiên nhiên cùng với sự  ảnh   hưởng,   áp   dụng   tích   cực   những   thành   tựu   từ   cuộc   cách   mạng   công  nghiệp Anh và tinh thần sáng tạo của người Mỹ, nước Mỹ  đã nhanh chóng   phát triển kinh tế  cả  về  công nghiệp và nông nghiệp. Kinh tế  phát triển đã   thúc đẩy nhu cầu tìm kiếm thị trường bên ngoài của Mỹ, do đó hình thành nên   2
  5. chính sách bành trướng của Mỹ. Ban đầu là sự  xâm chiếm lãnh thổ  bằng  nhiều cách như  chiếm, sát nhập, mua lại… đất của người da đỏ, vùng lãnh  thổ  của các đế  quốc Châu Âu gần Mỹ, sau này là sự  can thiệp, thâm nhập,  tạo  ảnh hưởng tới thị  trưởng các quốc gia khác (từ  khi mà sự  phân chia thị  trường theo kiểu thực dân cơ bản đã chia xong). Bên cạnh đó, ta còn phải kể  đến yếu tố  hệ  tư  tưởng trong quá trình  hoạch định chính sách ngoại giao của Mỹ. Có thể nói, người Mỹ luôn có đức  tin vào Chúa. Họ tin rằng Chúa luôn che chở, bảo vệ và đồng thời cũng ưu ái  đối với người Mỹ, cho người Mỹ những quyền “hiển nhiên” mà các quốc gia   khác không có  được. Do đó, những lập luận, chủ  thuyết theo kiểu “bành  trướng do định mệnh” hay “định mệnh hiển nhiên” (manifest destiny) luôn  được Mỹ sử dụng từ những ngày đầu lập quốc, đặc biệt vào đầu thế kỷ XIX   để  biện minh cho việc bành trướng lãnh thổ  trước đây cũng như  quyền mở  rộng  ảnh hưởng, “khai hóa” và “bảo vệ” cho các nước  ở  Tây bán cầu cũng  như  các nước  trên toàn thế  giới. Lý thuyết Darwin xã hội mà đưa ra giả  thuyết về thế giới sinh học, nói về sự cạnh tranh tàn bạo mà trong đó sinh vật  nào mạnh nhất, có khả năng thích nghi tốt nhất sẽ tồn tại cũng ăn sâu vào tư  tưởng người Mỹ và được áp dụng để làm tiền đề  cho việc hoạch định chính  sách đối ngoại quốc gia. Những người theo chủ nghĩa Darwin xã hội lập luận   rằng: “trong thế giới tàn bạo của các quan hệ quốc tế, chỉ có những quốc gia  thích nghi được mình với điều kiện mới và được chuẩn bị  để  tranh đấu thì  mới tồn tại được”1 Bằng việc đưa ra những luận thuyết, lập lu ận, người Mỹ  đã khẳng định quyền bành trướng hiển nhiên của họ, khẳng định chính sách   đối ngoại của nước này.  1  Dương Quang Hiệp – Nền tảng của việc bành trướng ra thế giới của Mỹ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu  thế kỷ XX – số 7/2010 – trang 61 3
  6. Ngoài ra, còn nhiều yếu tố khác tác động lên việc hình thành chính sách   đối ngoại của Hoa Kỳ, nhưng yếu tố kinh tế và tư  tưởng có thể  được coi là   hai yếu tố  quan trọng nhất, đặc biệt là trong giai đoạn cuối thế  kỷ  XIX và   những năm đầu thế  kỷ  XX. Giai đoạn này là một mốc quan trọng trong tiến   trình phát triển vượt bậc của nước Mỹ, đánh dấu sự  phát triển từ một nước   nhược tiểu, trở thành một nước có vị thế to lớn như ngày hôm nay. Qua việc  tìm hiểu những chính sách đối ngoại cụ thể được chính phủ Mỹ đưa ra trong  giai đoạn này, ta sẽ hiểu rõ hơn về sự phát triển và sức mạnh của nước Mỹ.  II. Các chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ  XX 1. Học thuyết Monroe (1823) 1.1 Hoàn cảnh ra đời Sau các phát kiến địa lý, trong khi phần lớn Bắc Mỹ  nằm dưới sự  cai   quản của Anh thì hầu hết các nước Mỹ Latinh đều là thuộc địa của Tây Ban   Nha và Bồ Đào Nha. Sự kiện 13 thuộc địa của Anh hợp lại giành độc lập và   lập nên nhà nước Hoa Kỳ đã tác động mạnh đến các quốc gia Mỹ Latinh, thôi   thúc các nước này đứng lên giành độc lập, tự  do cho riêng mình. Vào những   thập niên đầu tiên của thế  kỷ  XIX, miền Trung và Nam Mỹ  đều hướng về  cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Thêm vào đó, cuộc chiến tranh Napoleon  mà cụ thể là cuộc chinh phục Tây Ban Nha của Napoleon năm 1808 đã tạo cơ  hội thuận lợi cho người Mỹ  latinh vùng lên khởi nghĩa. Cho tới năm 1822,   dưới sự  lãnh đạo của Simon Boliviar, Francisco Miranda, José de San Martin   và Miguel Hidalgo, tất cả các khu vực nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha   ở  Châu Mỹ  từ  Argentina và Chile  ở  miền Nam tới Mexico  ở  miền Bắc đều  giành được độc lập. 4
  7. Tuy nhiên, chính lúc đó, Nga, Áo, Phổ    đã thiết lập Liên minh Thần   thánh để  bảo vệ  họ  trước các cuộc cách mạng. Bằng việc can thiệp vào   những nơi phong trào quần chúng đang đe dọa chế độ quân chủ, liên minh này  – có sự tham gia của Pháp thời hậu Napoleon – đã hy vọng có thể ngăn chặn  cách mạng lan rộng. Chính sách này đã đi ngược với quyền tự quyết của Mỹ  và khiến người Mỹ lo âu. Mỹ lo lắng về ý định muốn phục hồi những thuộc   địa cũ của Tây Ban Nha sẽ   ảnh hưởng tới lợi ích thương mại của Mỹ  cũng  như  là an ninh lãnh thổ  nước Mỹ. Và bởi vì Mỹ  latinh cũng có ý nghĩa quan   trọng đối với lợi ích thương mại của Anh nên Anh cũng muốn ngăn chặn  hành động này.  Do đó, Anh hối thúc mở rộng các đảm bảo của Anh – Mỹ đối   với Châu Mỹ latinh. Về  tình hình nước Mỹ, sau cuộc chiến tranh với Anh năm 1812, Mỹ  chính thức chấm dứt sự phụ thuộc kinh tế vào các quốc gia Châu Âu. Kinh tế  công nông nghiệp dần phát triển, đặc biệt là công nghiệp do động lực lấp   khoảng trống trong thương mại với Châu Âu do chiến tranh. Cùng với đó là  tư  tưởng bành trướng cố  hữu lại xuất hiện nhằm tìm kiếm thị  trường, phát   triển và củng cố  thêm nền kinh tế. Ngoài tập trung phát triển kinh tế  đất   nước, người dân Mỹ còn dõi theo cuộc cách mạng ở Mỹ latinh. Các cuộc cách   mạng này đã củng cố niềm tin của người Mỹ về quyền tự trị của họ. Do đó,   năm 1822, trước áp lực ngày càng lớn của dư  luận, tổng thống Mỹ  lúc bấy  giờ  là James Monroe đã công nhận nền độc lập thực sự, hoàn toàn tách khỏi   những mỗi ràng buộc với các đế  quốc Châu Âu của các quốc gia Trung và  Nam Mỹ, đồng thời trao đổi công sứ với các quốc gia này. Hơn thế nữa, tổng   thống Monroe còn đưa ra Học thuyết Monroe với ý nghĩa bề  nổi là tôn trọng   và bảo vệ  quyền tự  do của người Châu Mỹ, khẳng định “Châu Mỹ  là của  người Châu Mỹ”. 1.2 Nội dung học thuyết Monroe 5
  8. Vào tháng 12 năm 1823, nhân dịp gửi thông điệp hàng năm tới Quốc hội,  tổng thống James Monroe đã đưa ra Học thuyết Monroe với 3 nội dung chính   sau đây: Các lục địa Châu Mỹ… từ nay trở đi không thể  được coi là đối tượng   của thực dân hóa trong tương lai do bất cứ một cường quốc Châu Âu nào tiến   hành. Chúng ta phải coi bất kỳ toan tính nào về  phần họ  nhằm mở  rộng hệ  thống (chính trị) của họ tới bất cứ một bộ phận nào của bán cầu này đều là   nguy hiểm đối với hòa bình và an ninh của chúng ta. Chúng ta đã không can thiệp và sẽ không can thiệp vào những thuộc địa   hay các xứ  phụ  thuộc nào của bất kỳ  cường quốc Châu Âu nào. Nhưng với  những chính phủ  đã tuyên bố  nền độc lập của mình và bảo vệ  nền độc lập  ấy và được chúng ta thừa nhận thì chúng ta phải coi bất kỳ một sự can thiệp   nào nhằm mục đích áp chế  họ  hay kiểm soát số  phận của họ  bằng bất kỳ  phương pháp nào do bất cứ cường quốc Châu Âu nào thực hiện đều thể hiện   khuynh hướng thù địch với nước Mỹ2. Trước hết phải khẳng định rằng, vào thời điểm học thuyết Monroe ra  đời, nước Mỹ tuy đã thoát khỏi sự phục thuộc vào kinh tế các nước Châu Âu  và dần phát triển kinh tế nhưng Mỹ vẫn chưa thực sự đủ mạnh để thực hiện  những gì học thuyết Monroe đề ra nếu như không có sự ủng hộ của Anh. Tuy  nhiên, ta phải công nhận rằng, sự ra đời của học thuyết này mang một ý nghĩa  to lớn, không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn mở rộng ra phạm vi quốc tế,  tác động tới quan hệ quốc tế. 1.3 Ý nghĩa   Khái quát về lịch sử nước Mỹ ­ Ấn phẩm của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ ­ 2005 2 6
  9. Nhìn chung, vào thời điểm học thuyết Monroe mới được công bố, học  thuyết này đã nhận được nhiều sự   ủng hộ  phần lớn từ  các quốc gia Mỹ  Latinh ­ các quốc gia mà đều hướng tới mục tiêu chung là giành được độc   lập, tự  do cho dân tộc, thoát khỏi sự   ảnh hưởng của các cường quốc Châu   Âu. Học thuyết này được xem như  đã thể  hiện được tinh thần đoàn kết của   các quốc gia Châu Mỹ qua sự khẳng định “Châu Mỹ là của người Châu Mỹ”. Không chỉ vậy, học thuyết Monroe còn là một lời cảnh báo tới các quốc  gia Châu Âu hãy tránh xa lục địa Châu Mỹ  nói chung và Mỹ  latinh nói riêng.  Thực chất, đây là một học thuyết nhằm phân chia khu vực ảnh hưởng, với nỗ  lực kiềm chế  sự  khôi phục và việc giành thêm thuộc địa mới, ngăn chặn  những ảnh hưởng sâu rộng của hệ thống chính trị của các quốc gia Châu Âu  ở  lục địa này và cuối cùng là loại trừ   ảnh hưởng của Châu Âu ra khỏi Châu  Mỹ. Sự ra đời của học thuyết này được coi là một mốc đánh dấu sự  chuyển   hướng trong chính sách đối ngoại của Mỹ, chuyển từ  chủ  nghĩa trung lập   sang chủ nghĩa bành trướng mà mục tiêu bành trướng  ở đây trước hết là Mỹ  Latinh. Mỹ  muốn biến Mỹ  Latinh thành “sân sau” của mình, tăng cường sự  ảnh hưởng cả về kinh tế, chính trị… của Mỹ ở vùng này. và có thể nói ẩn sau  việc tuyên bố học thuyết Monroe là một nỗ lực bành trướng trên toàn bộ lục   địa này nhưng bằng phương pháp hòa bình, mang tính chất nhân đạo, bảo vệ  công lý và quyền tự do của con người. Theo dõi xuyên suốt chiều dài lịch sử  đối ngoại của Mỹ, ta còn thấy   được Học thuyết Monroe là nền tảng cho việc hoạch định chính sách đối  ngoại của Mỹ sau này, chỉ đạo một xu hướng trong chính sách đối ngoại Mỹ  trong suốt thế kỷ  XIX và đầu thế  kỷ  XX, tiêu biểu là sự  ra đời của hệ  luận  Rossevelt, chính sách ngoại giao đô la, chính sách mở cửa… Ngoài ra, theo một số quan điểm, học thuyết Monroe chính là một động  lực thực sự  để  thiết lập một chính sách an ninh quốc gia nhằm bảo vệ  Mỹ.   7
  10. Theo như  lời cựu Cựu thẩm phán tòa án tối cao và  ứng cử  viên tổng thống  Woodrow   Wilson   vào   năm   1916,   Charles   Evans   Hughes   thì   “Học   thuyết  Monroe là một chính sách phòng thủ  quốc gia… một sự  xác nhận nguyên lý   của an ninh quốc gia”3.   Việc Mỹ  công nhận nền độc lập của những “hàng  xóm” lận cận của mình, đưa ra học thuyết tránh cho những nước này chịu   ảnh hưởng của quốc gia Châu Âu cũng chính là bảo vệ  an ninh và lãnh thổ  Mỹ.  2. Chính sách mở cửa 2.1 Hoàn cảnh ra đời Như đã phân tích ở trên, sự ra đời của học thuyết Monroe với xu hướng   trong chính sách đối ngoại của Mỹ  là bành trướng, cho tới cuối thế kỷ XIX,  nước Mỹ đã thành công trong việc bành trướng về phía Tây cũng như là xâm  chiếm các quốc gia Mỹ Latinh như Cuba, Puerto Rico… vốn là thuộc địa của   Tây Ban Nha. Sự  thành công này đã làm thăng thêm tham vọng và kích thích   những ý nghĩ của người Mỹ rằng vận mệnh của họ là “khai hóa” cho toàn lục  địa. Từ đó, Mỹ lại càng muốn tiếp tục bành trướng, mở rộng lợi ích của mình  hơn. Khu vực Châu Á được coi là một đích đến của nước Mỹ  và việc mở  rộng lợi ích của Mỹ   ở  khu vực này được coi như  là một “sứ  mệnh hiển   nhiên”.  Thêm vào đó, Tới cuối thế  kỷ  XIX, Anh đã suy yếu dần, còn Mỹ  ngày  càng mạnh thêm với lực lượng hải quân hùng hậu. Nắm được quyền lực   biển là tiền đề quan trọng để Mỹ thực hiện chủ nghĩa bành trướng của mình,   giành giật quyền lực thương mại với các cường quốc khác.  Mục tiêu cụ  thể  của Mỹ   ở  Châu Á là Trung Quốc, bởi đây là một thị  trường đầy tiềm năng, Mục tiêu tiếp theo của Mỹ  ở Đông Á là Trung Quốc.  3  http://www.sg.inter.edu/raep/2004M02/Index_files/042ToH%C3%A91i.HTM 8
  11. Đây được coi là một thị trường khổng lồ, một bàn tiệc mà bất cứ một cường   quốc nào cũng thèm muốn. Tuy nhiên, vào thời điểm Mỹ  hướng tới Trung  Quốc thì quốc gia này thì Trung Quốc đã bị nhiều cường quốc như Anh, Pháp,   Nga, Nhật xâu xé, phân chia phạm vi ảnh hưởng. Mỹ lo sợ rằng những phạm   vi ảnh hưởng của các cường quốc này ở Trung Quốc sẽ dần trở thành thuộc   địa của những nước này. Điều này đồng nghĩa với việc Mỹ sẽ gặp khó khăn  trong việc đầu tư, trong quan hệ buôn bán cũng như trong việc áp đặt sự ảnh   hưởng của Mỹ   ở quốc gia tiềm năng này. (Thời gian này chỉ  1% giá trị  hàng   hóa của Mỹ xuất khẩu sang Trung Quốc, (khoảng 10 nghìn đô la trên tổng số  1 triệu 231 nghìn đô la năm 1898), trong khi đó Anh kiểm soát khoảng 70%   thương mại Trung Quốc)4. Do đó, để  ngăn chặn nguy cơ  nói trên, năm 1899  Mỹ  đã đưa ra chính sách “Mở  cửa” với Trung Quốc và kêu gọi các quốc gia  khác cùng thực hiện. 2.2 Nội dung Tháng 9 năm 1899, ngoại trưởng Mỹ  John Hay dưới chính quyền tổng  thống McKinley đã gửi công hàm ngoại giao tới các nước có phạm vi  ảnh  hưởng  ở  Trung Quốc, kêu gọi các nước này cùng thực hiện chính sách “Mở  cửa”5 do Mỹ đề ra với nội dung chính như sau: Thứ  nhất, các nước thừa nhận chủ  quyền và toàn vẹn lãnh thổ  của  Trung Quốc. Thứ hai, hàng hóa của các nước phải theo chế độ thuế quan của Trung   Quốc và do chính phủ Trung Quốc thu thuế. Thứ  ba, không can thiệp vào lợi ích của các nước theo những  điều   khoản đã ký. 4  Lester H Brune và Richard Dean Burn ­ Chronological history of US foreign relations – Volume 1: 1607 ­ 1932 5  Dương Quang Hiệp – Từ chính sách “Mở cửa” Trung Quốc hiểu thêm về tính thực dụng trong chính sách  đối ngoại của Mỹ những năm cuối thế kỷ XIX – Tạp chí khoa học, ĐH Huế ­ 2008 9
  12. Thứ  tư, tàu thuyền các nước đi lại trong thương cảng thuộc phạm vi  các nước khác không được đánh thuế  nhập khẩu cao hơn thuế suất quy định  cho tàu thuyền của nước mình. Luận điểm này cũng được áp dụng trên lĩnh  vực vận tải bằng xe lửa. 2.3 Ý nghĩa  Như  vậy, ta có thể  thấy được, chính sách “Mở  cửa” đối với Trung  Quốc mà Mỹ  ban bố  đã nhấn mạnh vào sự  bình đẳng trong thương mại của  tất cả  các quốc gia trên lãnh thổ  Trung Quốc, đó là Nga, Anh, Pháp, Ý. Tuy   nhiên, trên thực tế, với việc ban bố chính sách “Mở cửa” đối với Trung Quốc,  Mỹ  muốn đoạt được những lợi thế  từ tay người Trung Quốc, muốn xác lập  vị  thế  hợp pháp và bình đẳng của mình  ở  thị  trường Trung Quốc so với các  cường quốc khác, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty Mỹ tiếp  cận và cạnh tranh với các công ty nước ngoài ở thị trường to lớn này. Thực ra,  vào thời điểm cuối thế kỷ XIX, Mỹ dù đã mạnh lên rất nhiều so với hồi đầu  lập quốc nhưng vẫn chưa đủ  sức để  can thiệp một cách trực tiếp vào Trung  Quốc vì đây là một thị trường rộng lớn, một quốc gia đông dân có bề dày lịch  sử. Hơn nữa, trên lãnh thổ Trung Quốc nước này đã có sự hiện diện của các  cường quốc Châu Âu với những phạm vi  ảnh hưởng riêng. Do đó, không có   chính sách nào phù hợp hơn để  xâu xé quyền lợi  ở  thị  trường này cũng như  tăng cường sự   ảnh hưởng của Mỹ  mà không bị  Trung Quốc hay các cường  quốc kia phản đối. Đồng thời, với chính sách này, Mỹ  muốn ngăn chặn các  nước đế  quốc tiếp tục xâm chiếm Trung Quốc, biến những khu vực  ảnh  hưởng của những nước này thành thuộc địa của riêng họ, làm ảnh hưởng đến  thương mại cũng như những lợi ích của Mỹ ở nước này. Ngoài ra, với chính  sách “Mở cửa” Mỹ không những bảo vệ được những lợi ích của mình mà còn  không làm mất chỗ  đứng chính trị  hay xâm hại đến quyền tự  do của người   10
  13. dân, dân tộc mà Mỹ vẫn nêu cao cũng như không tạo gánh nặng cho quân đội  Mỹ. Việc thực hiện chính sách “Mở cửa đối với Trung Quốc được dư luận  Mỹ  đánh giá rất cao. Đối với người Mỹ, đây là một trong những chính sách  đáng được ghi nhớ nhất trong lịch sử nước này. Mark Sullivan trong cuốn sách  “Thời đại của chúng ta: sự  chuyển đổi thế  kỷ” (tên tiếng anh là Our Time:  The turn of the century) đã viết: “Chính sách “mở cửa” của Trung Quốc là một   ý tưởng của người Mỹ. Nó được hình thành nhằm tương phản với chính sách  “phạm vi  ảnh hưởng” được thực thi bởi các cường quốc khác. Chính sách   “mở  cửa” là một trong những chương/đoạn đáng được khen ngợi nhất trong  lịch sử  Hoa Kỳ, là một minh chứng của năng lực, kỹ  năng khôn ngoan, sắc  sảo đi kèm là sự  thúc đẩy thiện chí trong quá trình đàm phán. Không một  chính khách và quốc gia nào không thể  không đồng ý với mong muốn mà   chính sách của John Hay đưa ra, John Hay đã nhìn nhận thông suốt vấn đề  một cách hoàn hảo”. Tóm lại, mục tiêu rõ ràng nhất của chính sách “Mở  cửa” đối với nước  Mỹ  đó là một công cụ  ngoại giao khôn ngoan để  bành trướng, xâm lược   Trung Quốc và dần là bành trướng khu vực Châu Á – Thái Bình Dương với  phương thức “thương mại đi trước, cờ Mỹ theo sau”. Những năm sau đó, sự  việc Mỹ đưa quân viễn chinh cùng với liên quân Anh, Đức, Pháp, Nhật, Ý và  Nga tiến vào thành phố  Bắc Kinh, đàn áp phong trào Nghĩa Hoà Đoàn của  nhân dân Trung Quốc là một minh chứng tiếp theo cho ý đồ xâm lược này của   Mỹ.  Như  vậy, qua việc thực hiện chính sách “Mở  cửa”, ta còn thấy được  Mỹ được các nước khác coi như một nhân tố quan trọng trong những vấn đề  thế giới. Đồng thời, việc thực hiện chính sách này cũng tạo cầu nối giữa việc  11
  14. thực thi chính sách đối ngoại Mỹ thế kỷ XIX với việc đáp ứng nhu cầu bành  trướng của nền công nghiệp Mỹ đầu thế kỷ XX6. Còn đối với các nước cường quốc như Anh, Pháp, Nga, Italia, khi nhận  được một văn bản ngoại giao từ Mỹ yêu cầu các nước này đồng ý với chính   sách “Mở cửa” các quốc gia đều không đồng tình với chính sách mà có lợi cho   Mỹ  này nhưng không từ  chối ngay lập tức. Những nước này lợi dụng chính   sách “Mở  cửa” để  tạm thời hòa hoãn những mâu thuẫn, thừa nhận phạm vi   ảnh hưởng của nhau, biến chính sách này thành một hiệp định chia cắt Trung   Quốc. 3. Chính sách cây gậy lớn 3.1 Hoàn cảnh ra đời Thời điểm cuối thế kỷ XIX, Mỹ đã thành công trong việc bành trướng  về  phía Tây, tăng cường  ảnh hưởng của mình  ở  nhiều nước Mỹ  Latinh. Do  đó, khi tổng thống Theodore Roosevelt (1901 – 1909) lên nắm quyền, dựa trên  những thành công của chính quyền trước, T.Roosevelt tiếp tục mục tiêu bành  trướng ra bên ngoài – mục tiêu mà xuyên suốt trong chính sách đối ngoại của   Mỹ.  Tại Mỹ Latinh, Mỹ tiếp tục cố gắng làm cho khẩu hiệu lý thuyết “châu  Mỹ  là của người châu Mỹ” mà thực chất là “Châu Mỹ  là của người Mỹ”  thành hiện thực. Do đó, năm 1904, Mỹ  tuyên bố  về  chính sách ngoại giao   “Cây gậy lớn” với ý nghĩa bảo đảm lợi ích của Mỹ ở Tây Bán Cầu thông qua   chủ trương can thiệp quân sự. 3.2 Nội dung 6  Trần Thiện Thanh – Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ giai đoạn 1865 – 1904 – Tạp chí Châu Mỹ ngày nay ­   Số 4/2007 – trang 46 12
  15. Chính sách ngoại giao “Cây gậy lớn” dưới thời tổng thống T.Rossevelt   có nội dung là khẳng định Mỹ  sẵn sàng can thiệp trực tiếp vào bất cứ  quốc   gia nào của Mỹ  Latinh nhằm mục đích duy trì sự   ổn định của khu vực. Tuy  nhiên, Mỹ  cũng nói rằng Mỹ  chỉ  “can thiệp trong trường hợp đó là phương   sách cuối cùng nếu lợi ích của Mỹ  bị  xâm phạm và các nước này không có   khả năng hoặc cố tình không hành động theo công lý, bất kể trong công việc  đối nội hay đối ngoại và việc đó thực sự vi phạm các quyền lợi của Hoa Kỳ  hoặc gây ra sự  thù địch từ  bên ngoài”. Đồng thời, các nước Châu Âu cũng   được cảnh báo rằng rằng Mỹ  sẽ  sử  dụng sức mạnh dám sát quốc tế   ở  bán   cầu Tây, sẽ không ngồi yên khi Châu Âu can thiệp vào khu vực này. 3.3 Ý nghĩa Về  cơ  bản, chính sách ngoại giao “Cây gậy lớn” của Mỹ  vẫn là một   chính sách nhằm thực hiện chủ  nghĩa bành trướng của quốc gia này  ở  khu  vực Mỹ Latinh, ngăn chặn các quốc gia phương Tây thực hiện sự ảnh hưởng   ở khu vực mà Mỹ cho là “sân sau” hay “cái ao nhà của mình”.  Minh chứng cho việc thực hiện chính sách “cây gậy lớn” là việc Mỹ xây  dựng kênh đào Panama – ở eo biển Trung Mỹ, trên tuyến đường nối liền Đại   Tây Dương với Thái Bình Dương thuộc địa phận của Colombia. Lúc đầu  chính phủ Colombia gây nhiều khó dễ trong việc cho phép Mỹ xây dựng kênh  đào này. Do đó, Mỹ đã ủng hộ những người nổi loạn lật đổ chính quyền với   điều kiện Mỹ có quyền xây dựng và kiểm soát kênh đào này. Việc xây dựng   kênh đào Panama cùng với sử  dụng sức mạnh quân sự  can thiệp vào nội bộ  Colombia chỉ là bước đầu tiên trong chính sách ngoại giao “Cây gậy lớn” của  Mỹ. Những hành  động tiếp theo của chính quyền tổng thống T.Rossevelt   được thúc đẩy khi khi Venezuala và Cộng hòa Dominica không trả  được nợ  cho một số  quốc gia Châu Âu và các nước này đã đưa cả  tàu chiến sang để  thu nợ. Mỹ  e ngại rằng các quốc gia Châu Âu này sẽ  sử  dụng việc đòi món  13
  16. nợ  chưa trả  như  một phương tiện, cơ  hội để  tái thiết lập  ảnh hưởng của  mình ở những nước Mỹ Latinh này. Do đó, năm 1904, tổng thống T.Rossevelt   đã tuyên bố chính sách của mình, còn được gọi là hệ luận Rossevelt rằng Mỹ  sẽ  tập hợp và góp phần vào việc trả  nợ  của các quốc gia này và chỉ  có Mỹ  mới có quyền can thiệp vào công việc nội bộ  của Mỹ  Latinh. Theo đó, tổng  thống Rossevelt đã đưa quân đội sang cộng hòa Dominica để đôn thúc việc trả  nợ  và đưa quân tới Cuba để  đàn áp phong trào cách mạng năm 1906  ở  nước   này. Như vậy, với việc thực hiện chính sách “Cây gậy lớn” Mỹ đã tiến thêm  một bước mới trong việc củng cố và tăng cường  ảnh hưởng của Mỹ   ở  Mỹ  Latinh. Đồng thời, bằng việc thể hiện sức mạnh, sự lãnh đạo của Mỹ  ở Tây  Bán Cầu, các quốc gia khác cũng e ngại trước những thách thức từ Mỹ. 4. Chính sách ngoại giao đô la 4.1 Hoàn cảnh ra đời Năm 1909, sau khi tổng thống Taft lên nắm chính quyền, nước Mỹ đã sự  phát triển vượt bậc cả  về  nông nghiệp và công nghiệp, trở  thành một quốc   gia công nghiệp hàng đầu thế giới. Việc sản xuất hàng hóa trong nước vượt  lên nhu cầu tiêu dùng của người dân dẫn đến khủng hoảng thừa trong nước.  Nhu cầu về  thị  trường tiêu thụ  hàng hóa đã khiến tổng thống Taft rất quan   tâm tới thương mại quốc tế. Chính quyền tổng Taft nhắm tới khu vực phát  triển của Mỹ  latinh và Châu Á, đặc biệt là Trung Quốc. Phát triển thương  mại sang những vùng này sẽ mang lại nhiều lợi ích cho Mỹ, tiến bộ kinh tế,   ổn định chính trị  và đảm bảo quyền lợi chiến lược của Mỹ   ở  khu vực kém  phát triển. Trong thông điệp liên bang đầu tiên của mình, Taft đã viết: “ngày  nay, hơn bao giờ hết, tư bản Mỹ đang theo đuổi việc đầu tư ở nước ngoài và   nhìn chung các sản phẩm của Mỹ đang tìm kiếm thị trường nước ngoài”. Vì  14
  17. lẽ   đó,   tổng   thống   Taft   ủng   hộ   ngoại   trưởng   Knox   theo   đuổi   chính   sách  “Ngoại giao đô la”, dùng sức mạnh quân sự  và  ảnh hưởng chính trị  để  mở  rộng các lợi ích thương mại của Mỹ ra bên ngoài.  4.2 Nội dung Chính sách “Ngoại giao đô la” dưới thời tổng thống Taft có nội dung  chính  là bảo vệ các quốc gia Trung Mỹ tránh nạn nợ nước ngoài, nạn khủng   hoảng tài chính quốc gia và nguy cơ rối loạn các mối quan hệ quốc tế do ảnh   hưởng của tình hình bất ổn định trong nước. Theo đó, tổng thống Taft ủng hộ  việc các ông chủ ngân hàng giúp đỡ các nước có tình hình tài chính khó khăn   trả nợ nước ngoài.  4.3 Ý nghĩa Nhìn chung, chính sách “Ngoại giao đô la” của Mỹ nhằm mục đích dùng  sức mạnh quân sự  và  ảnh hưởng chính trị  của Mỹ  để  mở  rộng các lợi ích   thương mại của Mỹ  ra bên ngoài. Minh chứng cụ  thể  cho việc thực hiện  chính sách này là tổng thống Taft vận động các chủ ngân hàng đầu tư đầu tư  cứu trợ  Honđurat về  mặt tài chính (bằng cách mua lại nợ  từ  các ngân hàng   Anh) và đồng thời thiết lập chỗ  đứng tài chính vững chắc của Mỹ   ở  Haiti.   Năm 1912, phái đến Nicaragua một lực lượng hải quân làm nhiệm vụ  đàn áp   cuộc nổi dậy của dân bản xứ chống lại chính phủ Nicaragua – một chính phủ  có nhiều cộng tác với Mỹ  về  các lợi ích thương mại…Như  vậy, chính sách  “Ngoại giao đô la” có ý nghĩa quan trọng đối với nước Mỹ, có tác dụng làm  cho Mỹ  nhanh chóng trở  thành một cường quốc về  tài chính và thương mại.  Đồng thời, giúp Mỹ  gạt bỏ  được sự  gặt hái về  lợi ích của các cường quốc  khác.  Trong bức thông điệp thường niên cuối cùng gửi Quốc hội, tháng 12 năm  1912, tổng thống Taft khẳng định rằng chính sách “Ngoại giao đô la” chính là  15
  18. sự mở rộng của học thuyết Monroe. Điều này có nghĩa là chính sách này tiếp  tục phục vụ cho công cuộc bành trướng của Mỹ. “Ngoại giao đô la không chỉ  khiến Mỹ  đạt được lợi ích về  thương mại mà còn tăng cường được sự  ảnh  hưởng chính trị ở Mỹ Latinh, khi mà các quốc gia phụ thuộc vào thương mại   Mỹ, ắt hẳn dễ bị phụ thuộc vào chính trị. Có thể nói rằng, chính sách “Ngoại  giao đô la” là một bước tiến mới nhằm tăng cường và củng cố   ảnh hưởng   của Mỹ ở Mỹ Latinh và gạt bỏ  sự  ảnh hưởng của các cường quốc Châu Âu  ra khỏi lục địa này. 16
  19. LỜI KẾT Như vậy, qua việc tìm hiểu những học thuyết, chính sách đối ngoại của  Mỹ  cuối thế  kỷ  XIX, đầu thế  kỷ  XX, ta có thể  thấy được các chính quyền   Mỹ  kế  tiếp nhau đã triển khai được một bước quan trọng trong chiến lược   toàn cầu của mình, đó là khẳng định châu Mỹ là khu vực ảnh hưởng riêng, là   "chợ  sau" của Mỹ  mà các cường quốc khác trên thế  giới không có quyền  nhòm ngó. Phạm vi  ảnh hưởng của Mỹ   ở  những nước này không chỉ  trong  lĩnh vực chính trị, quân sự mà còn cả về kinh tế. Mỹ thực sự đã trở thành một  đế  quốc  ở  khu vực Châu Mỹ. Đồng thời, trên cơ  sở  củng cố  và tăng cường   sức mạnh của mình, Mỹ  đã bắt đầu vươn vòi "bạch tuộc" tới Châu Á ­ Thái  Bình Dương, xác lập quyền tự do thương mại ở khu vực quan trọng này.  Trong các giai đoạn về sau, để phù hợp với xư hướng của thời đại, tình  hình trong và ngoài nước, mặc dù chính sách của Mỹ  có thay đổi nhưng tư  tưởng cốt lõi, xuyên suốt trong chính sách đối ngoại của Mỹ vẫn là tư tưởng  bành trướng, tăng cường ảnh hưởng của Mỹ, khẳng định vị thế bá chủ không   chỉ trong lục địa châu Mỹ mà trên toàn thế giới. Ngoài   ý   nghĩa   thực   hiện   chiến   lược   toàn   cầu   của   Mỹ,   học   thuyết  Monroe, chính sách mở cửa, chính sách cây gậy lớn và ngoại giao đô la chính   là nền tảng cho việc hoạch định chính sách đối ngoại của Mỹ  trong các giai  đoạn về sau và cho tới tận ngày nay. Theo nhận định của nhiều nhà phân tích   chính sách đối ngoại thì chiến lược toàn diện để đối phó với tình trạng khẩn  cấp và nghiêm trọng ở Sudan được tổng thống Mỹ Obama (tổng thống đương  nhiệm của Hoa Kỳ) thông qua chính là một sự  học tập, có nguồn gốc từ  những chính sách cuối thế  kỷ  XIX, đầu thế  kỷ  XX của lịch sử  ngoại giao   nước Mỹ, đó là chính sách “ngoại giao đô la” và chính sách “ cây gậy lớn”.  Theo đó, tổng thống Mỹ  thông qua kế  hoạch dùng cây “gậy tài chính” – kéo  dài thời gian áp đặt biện pháp trừng phạt về kinh tế đối với Sudan do “những   17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2