intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận kết thúc môn Giáo dục học mầm non: Thực trạng kết hợp giữa nhà trường và gia đình trong giáo dục kỹ tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé ở Trường Mầm non 8/3 Thành phố Lạng Sơn

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:42

17
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm tìm hiểu thực trạng kỹ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo bé ở trường Mầm non 8/3 TP Lạng Sơn. Từ đó đề xuất biện pháp kết hợp nhà trường - gia đình để giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục mầm non.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận kết thúc môn Giáo dục học mầm non: Thực trạng kết hợp giữa nhà trường và gia đình trong giáo dục kỹ tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé ở Trường Mầm non 8/3 Thành phố Lạng Sơn

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LẠNG SƠN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM THỰC TRẠNG KẾT HỢP NHÀ TRƯỜNG VÀ GIA ĐÌNH TRONG RÈN KỸ NĂNG TỰ PHỤC VỤ CHO TRẺ MẪU GIÁO BÉ Ở TRƯỜNG MẦM NON 8/3 THÀNH PHỐ LẠNG SƠN TIỂU LUẬN KẾT THÚC MÔN HỌC GIÁO DỤC HỌC MẦM NON Giảng viên hướng dẫn: ThS.Tạ Thị Thu Hằng Sinh viên: Liễu Thị Hồng Thu Lớp: K18MN Khoa: Đào tạo Giáo viên Chuyên ngành: Giáo dục mầm non Lạng Sơn, tháng 11 năm 2022
  2. MỤC LỤC MỞ ĐẦU Trang 1. Lý do chọn đề tài …………………………………………………………. 1 2. Mục đích nghiên cứu ……………………………………………………… 2 3. Nhiệm vụ nghiên cứu . …………………………………………………….. 3 4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu ……………………………………….. 3 5. Phạm vi nghiên cứu ….………………………………………………..…... 3 6. Các phương pháp nghiên cứu ……………………………………………… 3 6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận ………………………..…..... 3 6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn ………………………….... 4 6.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học ………………………...…. 4 NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1. Một số khái niệm cơ bản ………………………………………………..…. 5 1.1. Kỹ năng tự phục vụ …………………………………………………..…. 5 1.2. Giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non ………………..……. 5 1.3. Nội dung giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non ………...... 5 2. Đặc điểm phát triển của trẻ mẫu giáo bé …………………………………... 6 3. Vai trò của việc kết hợp nhà trường và gia đình trong giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non …………………………………………………………... 8 CHƯƠNG II: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 2.1. Vài nét về khách thể nghiên cứu ………………………………………... 11 2.2. Nhận thức về tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non ............................................................... ............. 12 2.3. Thực trạng mức độ thường xuyên phối hợp giáo dục dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ ………………………………………………………………………... 13 2.4. Thực trạng nội dung kết hợp giữa nhà trường và gia đình trong giáo dục dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé ở Trường Mầm non 8/3 TP Lạng Sơn .… 15 2.5. Thực trạng kỹ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo bé Trường Mầm non 8/3 TP Lạng Sơn ………………………………………………………………………. 17
  3. 2.6. Nguyên nhân ảnh hưởng đến công tác phối hợp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé ở Trường Mầm non 8/3 TP Lạng Sơn ……….………….. 19 2.7. Biện pháp kết hợp giữa nhà trường và gia đình trong giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé ở Trường Mầm non 8/3 TP Lạng Sơn ………………. 24 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận ........................................................................................................... 32 2. Kiến nghị ......................................................................................................... 32 TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………… 35
  4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trẻ em hôm nay - Thế giới ngày mai, trẻ em là nguồn hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp của cha ông, gánh vác mọi công việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc - xã hội chủ nghĩa. Mọi trẻ em sinh ra đều có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, tồn tại và phát triển. Khi xã hội ngày càng phát triển thì giá trị con người ngày càng được nhận thức đúng đắn và được đánh giá toàn diện. Vì một tương lai tươi sáng, trẻ em sẽ trở thành chủ nhân hữu ích của tương lai, thì ngay từ tuổi ấu thơ trẻ phải được hưởng một nền giáo dục phù hợp, hiện đại và toàn diện về mọi mặt; Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên đặt nền móng cho sự phát triển nhân cách con người mới, con người Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Việc chăm sóc giáo dục trẻ em ngay từ những tháng năm đầu tiên của cuộc sống là một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Mục tiêu Giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách. Hình thành và phát triển ở trẻ em những chức năng tâm sinh lý, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng, những kĩ năng cần thiết của lứa tuổi này khơi dậy và phát triển tối đa khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho việc học tập ở các cấp học tiếp theo. Muốn đạt được những mục tiêu giáo dục đó người làm nhiệm vụ cần chú trọng đến vấn đề giáo dục tính tự lập cho trẻ; Tuy nhiên ở lứa tuổi này nếu như không biết uốn nắn trẻ không đến nơi thì sẽ gây khó khăn cho các bậc học sau này. Chính vì vậy người lớn chúng ta cần phải rèn luyện cho trẻ những thói quen tốt ngay từ nhỏ. Như ông bà nói “Dạy trẻ từ thủa còn thơ”. Thật vậy, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế rất nhiều bậc phụ huynh có ít thời gian để quan tâm và hướng dẫn con cái chính vì vậy trẻ thường hay ỷ lại và không tự lo cho bản thân. Trẻ em ngày nay đã thông minh hơn, hoạt bát, lém lỉnh hơn nhiều so với trẻ ngày xưa. Tuy nhiên các con lại rất thiếu kĩ năng sống, thiếu khả năng tự lập thường hay dựa dẫm vào người lớn. Khi gặp khó khăn chúng tìm ngay đến người lớn mà không tìm cách giải quyết. Điều này ảnh hưởng đến sự phát triển nhận thức, tình cảm của trẻ; 1
  5. Hiện nay đối với gia đình, chủ yếu là cha mẹ còn có nhiều sai lầm về giáo dục nói chung và giáo dục tính tự lập cho trẻ nói riêng. Thứ nhất là nuông chiều con quá mức dẫn đến việc chỉ biết hưởng thụ sau này trở thành người có tính ích kỉ, vụng về, thiếu tự tin trong cuộc sống. Thứ hai là không tin vào khả năng của trẻ, trẻ muốn làm nhưng thấy trẻ làm lóng ngóng, chậm chạp thì tỏ ra khó chịu, nên người lớn thường sốt ruột và làm thay trẻ dẫn đến trẻ có thái độ bướng bỉnh dần dần tạo ra sự ỷ lại dần dần mất tự tin ở trẻ; Về mặt lý luận và thực tế cho thấy nếu trẻ biết tự phục vụ, trẻ thấy quý trọng bản thân nuôi dưỡng những giá trị sống và hình thành kĩ năng sống tích cực trong trẻ, giúp trẻ cân bằng cuộc sống trên bốn lĩnh vực nền tảng: Thể trạng, tâm hồn, trí tuệ, tinh thần từ đó xây dựng cho trẻ những kỹ năng tự phục vụ hòa nhập với môi trường xung quanh.Việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ em rất cần sự phối hợp của nhiều lực lượng (gia đình, nhà trường, xã hội). Với tư cách là giáo viên mầm non tương lai, hiện đang được học tập và nghiên cứu về đặc điểm tâm, sinh lý trẻ em, quá trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non và thực tế quan sát, chứng kiến sự bất cập trong cách nuôi, dạy trẻ ở gia đình và nhà trường … Do đó, chúng tôi chọn đề tài: Thực trạng kết hợp giữa nhà trường và gia đình trong giáo dục kỹ tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé ở Trường Mầm non 8/3 Thành phố Lạng Sơn. 2. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu thực trạng kỹ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo bé ở trường Mầm non 8/3 TP Lạng Sơn. Từ đó đề xuất biện pháp kết hợp nhà trường - gia đình để giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục mầm non. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Tìm hiểu nội dung chương trình và phương pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non và những vấn đề lý luận có liên quan đến giáo dục kỹ năng tự phục vụ; 3.2. Tìm hiểu thực trạng kỹ năng tự phục vụ, hoạt động giáo dục kỹ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo bé lớp 3A1 - Trường Mầm non 8/3 TP Lạng Sơn; 2
  6. 3.3. Đề xuất biện pháp kết hợp nhà trường - gia đình trong công tác giáo dục tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé lớp 3A1. 4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp kết hợp gia đình - nhà trường trong giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé; 4.2. Khách thể nghiên cứu: Kỹ năng tự phục vụ bản thân và hoạt động giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé lớp 3A1 - Trường Mầm non 8/3 TP Lạng Sơn; Cụ thể chúng tôi tiến hành nghiên cứu 27 trẻ mẫu giáo bé lớp 3A1 - Trường Mầm non 8/3 TP Lạng Sơn. 5. Phạm vi nghiên cứu Do điều kiện thời gian, trình độ và khả năng có hạn tôi chỉ tập trung nghiên cứu biện pháp kết hợp giữa nhà trường và gia đình để giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé lớp 3A1 - Trường Mầm non 8/3 TP Lạng Sơn. 6. Các phương pháp nghiên cứu Để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau: 6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận bao gồm các phương pháp như: Nghiên cứu giáo trình, tài liệu nhằm thu thập thông tin phục vụ cho việc xây dựng cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu và định hướng cho việc nghiên cứu thực tiễn. Phương pháp đọc sách: Chúng tôi đã đọc các tài liệu có liên quan tới vấn đề kỹ năng tự phục vụ, giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non, việc phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong giáo dục trẻ; Việc nghiên cứu và đọc những tài liệu giúp chúng tôi giải quyết nhiệm vụ 1 của đề tài (làm sáng tỏ một số vấn đề giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non). 6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp điều tra; Phương pháp quan sát các biểu hiện, hành vi; Phương pháp nghiên cứu sản phẩm của hoạt động thông qua hoạt động hàng ngày; Phương pháp trò chuyện với cô, trẻ, phụ huynh ... 3
  7. 6.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học: Xử lý thông tin bằng phương pháp thống kê toán học. 4
  8. NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1. Một số khái niệm cơ bản 1.1. Kỹ năng tự phục vụ Kỹ năng tự phục vụ được hiểu là kỹ năng tự chăm sóc bản thân và làm quen với những sinh hoạt thường ngày trong ứng xử và trong giao tiếp của trẻ đối với mọi người xung quanh. 1.2. Giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non Bản chất của giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non là dạy trẻ mầm non biết cách thực hiện những việc cần thiết tự phục vụ cho bản thân để thích nghi với cuộc sống. Trẻ biết biết tự xúc ăn, tự ngồi bô, tự mặc, cởi bớt áo, xúc miệng, rửa tay ... 1.3. Nội dung giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non Gia đình và nhà trường (cô giáo) cần rèn luyện cho trẻ những thói quen, kỹ năng tự phục vụ như: - Trẻ tự rửa mặt, rửa tay: trước khi ăn, sau khi đi đại tiện, chải đầu, đánh răng; 5
  9. - Có ý thức giữ vệ sinh nơi công cộng, tôn trọng người khác như: không khạc nhổ bậy, không vứt rác ra lớp học, nơi công cộng, biết sử dụng nước sạch …; - Trẻ tự mặc quần áo, biết đòi hỏi người lớn phải cho mình ăn mặc gọn gàng sạch sẽ; - Biết lấy, cất gối; - Biết giữ, cất, đồ dùng đồ chơi gọn gàng sạch sẽ. Biết giúp cô lau bàn ghế, rửa đồ chơi, xếp lại giá đồ chơi gọn gàng ngăn nắp; - Khi ra nắng biết đội mũ nón và biết mặc áo mưa khi trời mưa; - Biết dùng tay - khăn che miệng khi hắt hơi, ho, ngáp, gỉ mũi … 2. Đặc điểm phát triển của trẻ mẫu giáo bé Trẻ mẫu giáo có độ tuổi trải từ 3 đến 6 tuổi (bé, nhỡ, lớn), khoảng thời gian không dài so với cuộc đời con người nhưng lại có tốc độ phát triển mạnh mẽ và ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển nhân cách trẻ sau này; Trẻ có sự phát triển vận động, sự phát triển hiểu biết về cơ thể bản thân, sự phân hóa thuận nghịch phải - trái, cấu trúc hóa không gian, cấu trúc hóa thời gian, viết vẽ ...; Về vận động, trẻ đã có khả năng vận động hài hòa, di chuyển nhanh nhẹn, đi vững và có khả năng cân bằng tốt. Sự phối hợp tay, chân đã phát triển nhịp nhàng, khéo léo.VD: Trẻ tự mặc quần áo, chải răng, tự bê ghế ... 6
  10. - Đặc trưng chủ yếu trong động tác, cử chỉ của trẻ đầu tuổi mẫu giáo là tính tự phát và tính tự nhiên. Tính tự nhiên của vận động thể hiện: những động tác, cử chỉ, điệu bộ của trẻ được thể hiện một cách tự nhiên,thoải mái. Tính tự phát của vận động thể hiện trong các hoạt động khám phá môi trường của trẻ: Tháo, lắp ghép ... Về sự hiểu biết về cơ thể bản thân được thể hiện bằng việc trẻ nhận ra mình trong gương, khám phá, nhận biết cơ thể của bản thân. Cụ thể: - Từ 3 tuổi trở đi, chức năng nội tâm hóa, trí tưởng tượng ... phát triển, làm cho sự hiểu biết về cơ thể của trẻ có những thay đổi. Sự hợp nhất giữa hình ảnh cơ thể mà trẻ nhìn thấy qua soi gương với các cảm giác, xúc giác, vận động giúp trẻ hiểu rõ hơn và làm phong phú thêm hình ảnh mà trẻ nhìn thấy về cơ thể bản thân. Sự hiểu biết về cơ thể bản thân chính là ý thức về cơ thể, về khả năng vận động và hành động của cơ thể đó. Hiểu biết về cơ thể bản thân là 1 yếu tố cơ bản, cần thiết cho sự hình thành nhân cách, trẻ nhận ra mình, người khác dựa theo chính con người trẻ. Càng hiểu rõ về cơ thể bản thân, trẻ càng dễ dàng nhận ra, chấp nhận, chịu trách nhiệm về mình và ngược lại. Giai đoạn này, não trẻ đã gần nặng bằng não người lớn (1200g ở tuổi thứ 3). Tư thế đứng thẳng. Và những bước đi đã vững chãi hơn. Trẻ tiếp thu mạnh mẽ những thao tác với công cụ – đối tượng. Tri thức thực tiễn dần được hình thành trong não trẻ. Hành động của trẻ với các đối tượng được coi là thành tựu rõ rệt 7
  11. đầu tiên trong lứa tuổi này. Thông qua những hành động với các đối tượng xung quanh mình mà trẻ dần hình thành được những nhận thức cơ bản về chúng. Trí nhớ vận động của trẻ rất phát triển, đặc biệt là những thao tác với đồ vật. Trẻ hướng tới những đồ vật do con người tạo ra để tìm hiểu.Trẻ khám phá chúng theo hướng đây là cái gì? Có thể làm gì với cái này? Làm thế nào?… Nhờ đó trẻ thiết lập được mối tương quan giữa các đồ vật với nhau. Cha mẹ nên đồng hành cùng trẻ trong quá trình khám phá thế giới xung quanh. Tránh tình trạng áp đặt, độc đoán theo chủ quan người của lớn.Tính cách trẻ đang trên bước đường hình thành. Do đó, cách ứng xử của người lớn góp phần quan trọng trong việc định hình tính cách trẻ. 3. Vai trò của việc kết hợp nhà trường và gia đình trong giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non Việc giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện các phẩm chất và năng lực nhằm giúp trẻ phát triển nhân cách một cách toàn diện là một quá trình lâu dài liên tục, diễn ra ở nhiều môi trường khác nhau, liên quan rất nhiều đến các mối quan hệ xã hội phức tạp. Vì thế, giáo dục trẻ luôn đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ, đúng cách của nhà trường, gia đình và mọi người trong xã hội; Thực tế môi trường xã hội trẻ sống bên cạnh các tác động tốt, các ảnh hưởng tiêu cực luôn tồn tại, chứa các yếu tố có thể gây nguy hại đến sự phát triển nhân cách của trẻ. Với đặc điểm hiếu động và ít vốn sống, trẻ dễ bắt chước theo, dần dần trở thành thói quen xấu, tác động tiêu cực đến sự phát triển nhân cách của trẻ. Khi thiếu sự phối hợp đúng đắn, thiếu sự thống nhất các tác động giáo dục giữa nhà trường, gia đình thì hậu quả xấu trong giáo dục dễ xuất hiện, hậu quả tai hại. * Đặc điểm của nhà trường trong công tác giáo dục - Là những người được đào tạo chuyên biệt về công tác giáo dục trong các trường sư phạm do nhà nước quản lý (các thầy cô giáo); - Việc đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ khoa học, bằng PHƯƠNG PHÁP NHÀ TRƯỜNG (Mục đích, Nội dung, Phương pháp, Hình thức, Nội quy, Quy chế theo kiểu nhà trường) với hiệu quả cao; 8
  12. - Tuy nhiên có một số điều kiện nhà trường cũng không thể bằng gia đình và xã hội trong việc giáo dục thế hệ trẻ như: Điều kiện về thời gian, điều kiện về vật chất và tinh thần … * Đặc điểm của gia đình trong công tác giáo dục Giáo dục gia đình là một phần vô cùng quan trọng đối với sự hình thành nhân cách trẻ. Cha mẹ trẻ là người thầy đầu tiên của con cái họ, là những người xây dựng nền tảng của nhân cách đứa trẻ. Quan hệ trong gia đình là quan hệ tình thương. Cha mẹ trẻ là người gần gũi nhất, hiểu rõ nhất những đặc điểm tâm lý của trẻ. Nhân cách của cha mẹ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của trẻ. Gia đình là trường học đầu tiên của lòng nhân ái; Tuy nhiên trong công tác giáo dục trẻ, cha mẹ trẻ có trình độ văn hoá, trình độ giáo dục không đồng đều, sự yêu thương và chiều chuộng con cái không đúng mức sẽ ảnh hưởng không tốt đến sự hình thành nhân cách của các em. * Đặc điểm của các tổ chức xã hội trong công tác giáo dục - Có điều kiện về cơ sở vật chất, về tiềm lực kinh tế, về điều kiện tinh thần có thể hỗ trợ cho nhà trường trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục khác nhau; - Là nơi trẻ có thể thâm nhập thực tế, gắn liền giữa học với hành kết hợp giữa giáo dục với lao động sản xuất; - Tuy nhiên điều kiện gần gũi và hiểu biết trẻ của các tổ chức xã hội còn hạn chế, trình độ về giáo dục của các tổ chức xã hội đối với thế hệ trẻ cũng rất khác nhau. Vì thế cần sự tư vấn về giáo dục từ phía nhà trường. Mối quan hệ giữa giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình và xã hội * Nếu giáo dục trẻ chỉ trong nhà trường mà thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì sẽ: - Có thể làm cho các tác động giáo dục diễn ra lệch hướng và không thống nhất với nhau; - Không phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng giáo dục; 9
  13. - Bỏ lỡ cơ hội để các bậc cha mẹ, các lực lượng xã hội có điều kiện thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong việc nuôi dạy con cái và đào tạo thế hệ trẻ, góp phần thực hiện xã hội hoá giáo dục; Vì vậy “Giáo dục trong nhà trường dù tốt đến mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”. Ngược lại giáo dục trong gia đình, giáo dục ngoài xã hội mà thiếu giáo dục của nhà trường thì việc tổ chức quá trình giáo dục sẽ gặp khó khăn không chỉ về mặt truyền thụ tri thức mà còn ở mặt sử dụng các phương pháp và hình thứctổ chức giáo dục, mất đi tính chuyên nghiệp, tính khoa học của giáo dục và do vậy tính hiệu quả không cao, thậm chí không thể thực hiện được. Do đó, mối quan hệ giữa giáo dục nhà trường với giáo dục gia đình và xã hội là mối quan hệ biện chứng; Sự thống nhất tác động giáo dục từ nhà trường, gia đình và xã hội là vấn đề có tính nguyên tắc đảm bảo cho mọi hoạt động giáo dục có điều kiện đạt hiệu quả tốt; được xác định trong nhiều văn bản pháp luật ở nước ta hiện nay vì mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ thành những công dân hữu ích cho đất nước. 10
  14. CHƯƠNG II: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 2.1. Vài nét về khách thể nghiên cứu Trường Mầm non 8/3 đặt tại số 8 - Đường Trần Hưng Đạo – Phường Chi Lăng - Thành phố Lạng Sơn là trường đạt Chuẩn quốc gia, với cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học khang trang, hiện đại đáp ứng tốt yêu cầu Giáo dục mầm non. Hoạt động giáo dục của Nhà trường đạt chất lượng, đảm bảo đủ điều kiện tốt cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho trẻ mầm non; Cán bộ quản lý và giáo viên của trường đã có nhiều năm công tác, giàu kinh nghiệm hướng dẫn sinh viên khoa Giáo dục mầm non đến thực tế, thực tập. Năm học 2022 - 2023 nhà trường có nhiều phòng học được xây dựng mới nên các lớp 2 tuổi năm trước năm nay được chia thành 4 lớp 3 tuổi; mỗi lớp 27 trẻ/ 2 cô, rất thuận lợi hơn cho việc chăm sóc giáo dục trẻ đầu cấp; Trẻ trường mầm non 8/3 năm học 2022 - 2023 đa số sống ở các Khối trên địa bàn phường Chi Lăng, là phường đông dân cư sinh sống, đặc điểm hoàn cảnh sống, trình độ, nghề nghiệp của cha mẹ cũng rất phong phú, CBCNV Nhà nước, lao động tự do, kinh doanh thương mại, dịch vụ, làm nghề nông, làm ở các công ty, xí nghiệp … Nhiều điều kiện, hoàn cảnh, trình độ nhận thức khác nhau nên thời gian, cách thức quan tâm đến việc chăm sóc giáo dục cho con em mình cũng khá khác nhau. Có trẻ sáng được đưa vội đến trường, chưa kịp ăn sáng, có trẻ đến ăn xôi, uống sữa ở sân trường. Có trẻ được gia đình chuẩn bị cẩn thận, đi học đúng giờ; trẻ đi muộn, trẻ được đón sớm; trẻ được đón muộn vội vàng lúc cuối giờ. Trẻ hôm nay được bố mẹ nhờ người bác, mai nhờ chú, cậu, bà đón. Có những trẻ nhiều lần cô phải nhắc trên nhóm là chưa có ai đón. Đa số phụ huynh cho rằng nhờ giáo viên chăm sóc và giáo dục cho con em mình ở trường trẻ mới có thói quen, nề nếp tốt chứ trẻ ở nhà 2 ngày cuối tuần phụ huynh đã rất khó để xoay sở ở cả mọi mặt. Việc chăm sóc giáo dục trẻ ở nhà không phải gia đình nào cũng quan tâm và biết tổ chức thực hiện khoa học, biết giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Do đó, trẻ nhà trẻ thường gặp khó khăn trong tự phục vụ và hòa nhập môi trường mới. 11
  15. 2.2. Nhận thức về tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non Để tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi đã sử dụng câu hỏi 1 (xem phụ lục) đối với 25 phụ huynh của lớp và 8 giáo viên lớp 3 tuổi của trường mầm non 8/3 TP Lạng Sơn. Kết quả thu được như sau: Bảng 1: Nhận thức về tầm quan trọng của công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non Mức độ Quan trọng Không quan trọng Bình thường Thành phần SL % SL % SL % Giáo viên 8 100 0 0 0 0 Phụ huynh 25 100 0 0 0 0 Số liệu bảng 1 cho thấy giáo viên và phụ huynh trường mầm non đều nhận thức được tầm quan trọng của công tác giáo dục kỹ năng tự phục vụ. 100% giáo viên nhà trẻ coi công tác giáo dục kỹ năng tự phục vụ là quan trọng, không có giáo viên nào cho rằng việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ là bình thường hoặc không quan trọng. Điều này cho thấy rằng, giáo viên trường Mầm non 8/3 nhận thức đúng đắn và đánh giá rất cao vai trò, tầm quan trọng của công tác giáo dục kỹ năng tự phục vụ đối với sự hình thành và phát triển nhân cách, chất lượng cuộc sống của trẻ. Đây là thông tin rất đáng mừng, là cơ sở để giáo viên luôn ý thức, tích cực thực hiện các hoạt động giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ; Đối với phụ huynh, 100% phụ huynh đã nhận thức được vai trò cũng như tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng tự phục vụ đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nhân cách và đảm bảo chất lượng sống tốt cho trẻ; không có phụ huynh cho rằng vai trò của giáo dục kỹ năng tự phục vụ là bình thường hoặc không quan trọng. Như vậy, phụ huynh lớp mẫu giáo bé 3A1 được hỏi nhận thức đúng tầm quan trọng của công tác giáo dục kỹ năng tự phục vụ với trẻ, hình thành hành vi thói quen cần thiết để thích nghi với cuộc sống mà trẻ mới và đang làm quen. 12
  16. 2.3. Thực trạng mức độ thường xuyên phối hợp giáo dục dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ Việc thường xuyên hay không thường xuyên thực hiện hoạt động giáo dục kỹ năng kỹ năng tự phục vụ cho trẻ cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng giáo dục cũng như việc hình thành khả năng thích ứng cho trẻ. Để tìm hiểu vấn đề này chúng tôi sử dụng câu hỏi 2 (xem phụ lục) và thu được kết quả như sau: Bảng 2: Mức độ thường xuyên phối hợp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ Thường xuyên Đôi khi Không bao giờ Mức độ SL % SL % SL % Giáo viên (8) 8 100 0 0 0 0 Phụ huynh (25) 17 68 8 32 0 0 100% giáo viên được hỏi cho biết họ thường xuyên phối hợp với phụ huynh để giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Điều này có nghĩa, 100% giáo viên nhận thức đúng và đánh giá cao vai trò của việc phối hợp giữa nhà trường, gia đình để giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. GV nhận thức đúng vai trò, tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng kỹ năng tự phục vụ cho trẻ, trách nhiệm nghề nghiệp của mình và ý thức thực hiện thường xuyên đây là điều rất đáng mừng và cần được nhân rộng ở mọi nơi, với mọi người lớn trong thực hiện trách nhiệm với trẻ, với sự nghiệp trồng người; Tuy nhiên, giáo viên cũng cho biết không phải khi nào, phụ huynh nào cũng chủ động, sẵn sàng hợp tác hay chú tâm vào để kết hợp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho con em. Nhiều gia đình giáo viên nhắc nhở nhiều lần nhưng phụ huynh vẫn quên hoặc bộc lộ cách giáo dục con không phù hợp ngay trước GV và trẻ …; Đa số phụ huynh được hỏi cho rằng thường xuyên phối hợp với cô giáo để giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ (68%) nhưng thực tế họ chưa thực sự quan tâm phối hợp với giáo viên mầm non để giáo dục cho con em mình hoặc phối hợp giáo dục đúng cách, quan tâm theo kiểu: “Trăm sự nhờ cô, chứ chúng tôi không bảo được, trẻ bướng hoặc lè nhè lắm!”; “trẻ tiến bộ là nhờ cô giáo dạy”. Có tới 13
  17. 32% phụ huynh nhận định rằng họ đôi khi cũng giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho con em, thẳng thắn thừa nhận họ chưa chú ý phối hợp với cô để giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ vì bận và cô dạy là tốt rồi, tôi hiểu về kỹ năng tự phục vụ còn rất mơ hồ. Điều này cho thấy việc kết hợp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé chưa được phụ huynh quan tâm thực hiện đúng mứchoặc có thực hiện nhưng chưa thường xuyên, triệt để, chưa có hiệu quả. Trẻ lớp mới lần đầu đến trường, chính phụ huynh còn rất bịn rịn khi đưa con vào lớp, làm ảnh hưởng đến tâm lý, kỹ năng tự phục vụ của trẻ, GV nhắc nhở nhiều lần vẫn chưa thay đổi chứ chưa nói là biết cách phối hợp. Kết quả này cũng khớp với ý kiến giáo viên nhận định trẻ khi mới đi học thiếu và yếu về kỹ năng tự phục vụ, đặc biệt kỹ năng tự lập, kỹ năng giao tiếp ... Chẳng hạn, ngay từ khi đón trẻ cô đã nhắc trẻ cất đồ, chào mẹ, chào cô để vào lớp nhưng nhiều phụ huynh vẫn tháo dép, cởi giầy, cởi mũ cất cho trẻ và cũng không chú ý nhắc trẻ chào mình để vào lớp, làm hạn chế việc hình thành thói quen, kỹ năng tự lập, kỹ năng giao tiếp của trẻ; GVMN khẳng định: Để làm tốt công tác chăm sóc, giáo dục đối với trẻ mẫu giáo bé theo mục tiêu nhiệm vụ bao giờ cũng khó khăn, vất vả hơn so với lớp lớn, chưa kể lý do sức khỏe của các con lớp bé hạn chế hơn, các con hay ốm, đang rèn nề nếp một chút lại có dịch bệnh lây nhau, các con phải nghỉ học ở nhà một thời gian đi học lại lại gặp khó khăn; Ý kiến của phụ huynh và giáo viên cho thấy chúng ta cần có biện pháp để tăng cường kết hợp giữa nhà trường và gia đình trong giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non. Cần tích cực, chủ động tận dụng, khai thác các nội dung, hình thức để giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé giúp các em hình thành và phát triển nhân cách đúng đắn. Mặt khác, chúng ta cũng cần khẳng định rằng hoạt động giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé không phải quá cao siêu, xa vời. Nó chỉ đơn giản là tất cả những việc làm của nhà giáo dục (giáo viên, cha mẹ học sinh, cộng đồng xã hội) hướng dẫn trẻ, làm mẫu, làm gương để trẻ mầm non hiểu biết cụ thể rèn luyện những thói quen, thực hành, tự tin trong các tình huống của cuộc sống xung quanh trẻ. 14
  18. 2.4. Thực trạng nội dung kết hợp giữa nhà trường và gia đình trong giáo dục dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé ở Trường Mầm non 8/3 TP Lạng Sơn Để tìm hiểu thực trạng nội dung kết hợp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ của GVMN, phụ huynh và kiểm tra tính chính xác của các thông tin trên, chúng tôi sử dụng câu hỏi mở: Quý vị hãy kể tên một số kỹ năng tự phục vụ mà gia đình/thầy cô thường phối hợp với giáo viên mầm non/gia đình để giáo dục cho trẻ? Kết quả thu được như sau: Bảng 3: Thực trạng nội dung kết hợp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ TT Nội dung kỹ năng tự phục vụ giáo dục cho trẻ GV PH 1 Tự chào hỏi, không cần nhắc 8 80 22 88 2 Tự xúc ăn, ngồi bô 8 80 19 76 3 Tự cởi, cất giày, dép 8 80 18 72 4 Tự cởi, cất túi đồ 8 80 18 72 5 Tự rửa tay, mặt 8 80 22 88 6 Tự bảo vệ (chơi an toàn) 8 80 20 80 7 Kỹ năng khác ... 6 80 0 0 Số liệu bảng 3 cho thấy: Thực trạng nội dung kết hợp giữa GV và PH đểgiáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ chủ yếu được giáo viên nhận thức đồng đều và thực hiện phong phú hơn. Phụ huynh nhận thức về nội dung giáo dục kỹ năng tự phục vụ rất khác nhau và chưa đầy đủ, chính xác nên chưa chú ý kết hợp giáo dục cũng là dễ hiểu. Thể hiện 100% giáo viên kể tên các kỹ năng tự phục vụ, các nhóm kỹ năng tự phục vụ một cách hệ thống, chi tiết, giống nhau và mang tính chuyên môn, chuyên nghiệp cao như chúng tôi thống kê ở trên trong khi phụ huynh không kể được hoặc chỉ số ít kể được các kỹ năng rất vụn vặt rất khó thống kê như: Dạy trẻ chào hỏi, ngoan, lễ phép, tự xúc ăn, đánh răng; buộc tóc, cởi dép, ngồi bô, đi ngủ và thức dậy sớm …; 15
  19. Một số phụ huynh có khẳng định quan trọng là dạy trẻ mạnh dạn, không nhút nhát, biết tự xúc ăn. Những kỹ năng như kỹ năng hợp tác, chia sẻ, kỹ năng tự bảo vệ chưa thực sự được phụ huynh quan tâm đúng mức: Rất ít phụ huynh cho biết dạy con họ tên mình, tên bố mẹ. Thực tế chúng tôi tiếp xúc, trò chuyện với trẻ hỏi các con về tên con, tên bố mẹ chúng tôi nhận thấy đa số các con rất ngơ ngác; Kết quả nghiên cứu chỉ ra một thực tế là: GVMN và phụ huynh trẻ mầm non có nhận thức rất khác nhau về nội dung giáo dục kỹ năng tự phục vụ cũng như việc thường xuyên kết hợp giáo dục cho trẻ. GVMN nhận thức đầy đủ, đánh giá cao và thường xuyên thực hiện giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nhưng phụ huynh học sinh chưa nhận thức được đầy đủ, chưa hiểu sâu sắc ý nghĩa, tầm quan trọng, cách thức giáo dục cũng như chưa thường xuyên giáo dục và kết hợp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ là điều bất lợi cho công tác chăm sóc giáo dục trẻ mẫu giáo bé. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc thích nghi, thích ứng của trẻ ở nhà trường, gia đình, xã hội cũng như sự hình thành hành vi, thói quen cũng như việc đặt nền móng cho những phẩm chất nhân cách. Gia đình là trường học đầu tiên, cha mẹ là người thầy đầu tiên của con cái họ, trẻ càng nhỏ, ảnh hưởng của gia đình càng lớn … mà gia đình lại thiếu sự am hiểu về nội dung, phương pháp giáo dục kỹ năng tự phục vụ cũng như nhận thức chưa đầy đủ, đúng đắn vầ tầm quan trọng và thường xuyên tận dụng mọi tình huống, tạo tình huống để giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ thì đó không phải chỉ là một sự lãng phí mà còn là sự thiếu sót lớn về trách nhiệm do thiếu hiểu biết tạo ra. Trẻ càng nhỏ khả năng bỏ ngỏ càng lớn, chúng ta dạy trẻ được điều gì trẻ sẽ tiếp thu, ghi nhớ và thực hành làm ngay và có thói quen bền vững khác hẳn với khi đã lớn tuổi hơn con người có thể đối phó, giữ kẽ, che giấu hạn chế … nên khó giáo dục hơn. Chính vì lẽ đó mà việc giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ cần được phụ huynh đặc biệt quan tâm. 2.5. Thực trạng kỹ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo bé Trường Mầm non 8/3 TP Lạng Sơn 16
  20. Với câu hỏi cho GV: Theo cô, kỹ năng tự phục vụ của trẻ lớp cô đa số đạt được ở mức độ nào và tỷ lệ đạt? Và cho phụ huynh: Theo quý vị phụ huynh, kỹ năng tự phục vụ của con (cháu) quý vị đã đạt được ở mức độ nào? Chúng tôi thu được kết quả nhận xét như sau: Bảng 4: Thực trạng kỹ năng tự phục vụ của trẻ lớp 3A1 Trường Mầm non 8/3 Mức độ Tốt Khá Trung bình Yếu Thành phần SL % SL % SL % SL % Giáo viên (8) 2 25 3 37.5 2 25 1 12.5 Phụ huynh (25) 5 20 13 52 6 24 1 4 Số liệu cho thấy thực trạng kỹ năng tự phục vụ của trẻ lớp 3A1 trường Mầm non 8/3 TP Lạng Sơn có sự khác nhau. Phụ huynh và GVMN đánh giá có sự khác nhau về kỹ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo bé và khác nhau ở các mức độ. Giáo viên và phụ huynh đánh giá kỹ năng tự phục vụ của trẻ mẫu giáo bé chủ yếu ở mức khá. Có sự đánh giá khác nhau giữa giáo viên mầm non và phụ huynh trẻ ở từng mức độ. Không có Giáo viên mầm non nào đánh giá trẻ mẫu giáo bé có kỹ năng tự phục vụ ở mức tốt. Phụ huynh lớp đánh giá số trẻ có kỹ năng tự phục vụ ở mức tốt rất khiêm tốn 20% ý kiến. Điều này cho thấy: Số trẻ có kỹ năng tự phục vụ tốt, trẻ biết chào hỏi, ngoan, lễ phép, tự xúc ăn, đánh răng; buộc tóc, cởi dép, ngồi bô, đi ngủ và thức dậy sớm … còn rất khiêm tốn. Tìm hiểu cụ thể vào lớp 3A1 chúng tôi được biết số này tập trung chủ yếu vào các con nổi trội hơn, sinh đầu năm, đi nhóm trẻ sớm … Nghiên cứu một cách ngẫu nhiên ½ số trẻ đầu danh sách lớp chúng tôi thu được kết quả đánh giá chủ yếu là trung bình. Số trẻ có kỹ năng yếu cũng chiếm 12.5% theo đánh giá của GV. Tuy nhiên ý kiến của phụ huynh về mức này rất thấp. Trong các mức độ có sự đánh giá khác nhau giữa GV và phụ huynh. Phụ huynh đánh giá kỹ năng tự phục vụ của trẻ ở mức khá cao hơn phụ huynh đánh giá kỹ năng tự phục vụ của trẻ cao hơn ở mức trung bình; thấp hơn đánh giá của GV ở mức Yếu. Sự chênh lệch này có thể do với phụ huynh con 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2